Thơ Nguyễn Khuyến

TRỐNG ẾCH

Nghe nói các nơi đâu cũng cấm trống kèn,

Ao nhà ta thì trống ếch khua suốt đêm.
Quát mắng thì im, một lúc lâu rồi lại đâu hoàn đấy,
Có lệnh cấm mà "các ngươi" không sợ à?
Hay là ái ngại chỗ ở u tịch này, nhạt nhẽo quá,
Nên để cho một đội âm nhạc, làm nhộn nhịp lên.
Không biết có người cứng cổ nào đó,
Qua đây cũng phải kính cẩn trước con ếch giận dữ.

Dịch Thơ:

Nghe nói nơi nơi cấm trống kèn,
Ao ta trống ếch suốt đêm rền.
Quát im, chốc lại hoàn như cũ,
Lệnh cấm bay sao chẳng sợ trên?
Hay thấy nơi này hiu quạnh quá,
Mà khua nhạc nọ rộn ràng lên?
Dù ai cứng cổ đi qua đó,
Thấy ếch đương hăng cũng phải kiềng.

Dương Xuân Đàm Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
THỦY TIÊN

Không biết gã này từ đâu đến đây?

Trong như băng, trắng như ngọc, thiên nhiên đúc chuốt ra như thế.
Đặt vào trong chiếc bể đá để trên chỗ ngồi,
Sáng hôm sau thấy nở ra vài bông hoa.
Đem dồn cho bọn con buôn lớn thì còn kén chọn gì?
Thơm hay thối, dù nghìn năm sau cũng vẫn rõ ràng,
Đào, mận ở bên tường đừng có ghen tức nhau chi!

Dịch Thơ:

Biết rằng gốc tích tự đâu ra?
Cốt cách thiên nhiên, vẻ ngọc ngà.
Trước án đặt vào trong bể đá,
Sáng mai bỗng nở mấy chồi hoa.
Chuyên tay còn kén chi phường lái,
Ngán nỗi riêng vui với lão già.
Thơm thối nghìn năm sau vẫn thấy,
Mận, đào bên xóm chớ chua ngoa.


Nguyễn Văn Tú Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
VỊNH CÂY MAI

Không biết gã này từ đâu đến đây?

Ngẫu nhiên năm trước được trồng vào mảnh vườn của ta.
Khi lá còn chưa mọc, hoa đua nhau nở,
Khi hoa không nở nữa, lá mới bắt đầu nẩy ra.
Rườm rà tươi tốt, mọi cây đã không thể sánh kịp,
Mùi hương mát dịu, đáng đứng đầu trăm hoa.
Chỉ có ông say sớm tối thường an ủi ngươi,
Còn người đời không ai biết ngươi, thực là đáng buồn.

Dịch Thơ:

Chẳng hay gốc tích nơi nào?
Ngẫu nhiên năm trước, trồng vào vườn ta.
Lá chưa mọc, đã đầy hoa,
Hoa tàn lá mới rườm rà đua tươi.
Xanh tươi hơn mọi cây rồi,
Mà hương thanh lại khác vời trăm hoa.
Ông say hôm sớm mặn mà,
Người đời hờ hững thật là đáng thương.

Đỗ Ngọc Toại Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
NÚI DỤC THÚY

Non xanh có từ muôn thuở xưa,

Tên Dục Thúy năm nào mới đặt?
Tòa thành đứng trên cao chơ vơ ngàn thước,
Một ngôi chùa đứng chìa ra giữa dòng sông.
Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu?
Am của ông Thăng Phủ vẫn còn tấm bia.
Biết bao nhiêu ý hoài cổ gợi lên lúc xế chiều,
Đôi ba tiếng chim chiều thánh thót.

Dịch Thơ:

Non xanh muôn thuở xanh cao,
Mà tên Dục Thúy năm nào đặt ra?
Thành côi ngàn bậc trên xa,
Ngôi chùa trên núi nhô ra giữa dòng.
Tìm đâu Tuệ Viễn sư ông,
Bia am Thăng Phủ rêu phong vẫn còn.
Chim chiều đôi tiếng véo von,
Tình xưa gửi với nước non bóng tà!

Hoàng Tạo Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
SÔNG THẠCH HÃN

Trên dòng sông Thạch Hãn một mái chèo khua ngang,

Ráng chiều lấp loáng soi sáng rặng núi xa.
Gió Tây từ đâu xua cát bụi đến,
Làm cho dòng sông không còn trong suốt đáy như ngày xưa nữa.

Dịch Thơ:

Khua ngang dòng Hãn một con chèo,
Lấp loáng non xa nhuộm nắng chiều.
Trách trận gió tây tung cát bụi,
Chẳng còn như trước nước trong veo.

Hoàng Tạo Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
MÙA THI TRỜI NÓNG

Đã qua tiết trùng dương mà khí trời vẫn nóng,

Suốt ngày chỉ ngồi tựa cửa sài uống rượu.
Dòng nước biếc vây quanh tưởng như cái đai thắt lại,
Da trời xanh ngắt như chiếc áo không thấy vết khâu.
Nắng gió vẫn như ngày tháng năm tháng sáu,
Tuy có mưa sấm, nhưng ở tận mấy làng xa.
Về nghĩ là được thỏa cái thú điền viên của ta,
Còn mọi chuyện trên đời, nghe thấy cũng chỉ mỉm cười không nói.

Dịch Thơ:

Qua tiết trùng dương vẫn thấy oi,
Suốt ngày nâng chén tựa hiên ngồi.
Biếc vây làn nước như đai quấn,
Xanh nhuộm da trời một sắc tươi.
Nắng gió vẫn như ngày cuối hạ,
Sấm mưa đâu tận nẻo chân trời.
Về nơi vườn ruộng lòng ta thỏa,
Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười.

Đỗ Ngọc Toại Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
NÓI CHUYỆN VỚI SƯ

Khi còn trẻ ta học ở gần nhà ngươi,

Ta chưa làm quan, ngươi cũng chưa làm sư.
Từ khi ngươi vân du, ta cũng đi làm quan,
Trong thời gian đó tin tức hai bên đều mù mịt.
Không biết đêm nay là đêm gì mà kẻ xe người nón gặp nhau?
Thấm thoát đã trải qua gió bụi hai mươi năm rồi.
Nay ta đã từ quan trở về lại gặp ngươi,
Xem ra chúng ta đều chưa rũ sạch bụi trần duyên cả.

Dịch Thơ:

Nhớ xưa tôi bác gần nhà,
Tôi còn đi học bác chưa đi chùa.
Từ ngày gần phật, gần vua,
Hai bên tin tức mịt mờ cả hai.
Nón xe nào biết có rày?
Phong trần thoát đã hai mươi năm trường.
Nay về gặp mặt tỏ tường,
Hai ta duyên nợ còn vương với đời.

Nguyễn Văn Tú Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
MỐI CẢM ĐÊM THU

Non sông bốn mặt lạnh ngắt như tờ,

Một mình ngồi nơi nhà học ngắm trăng sáng.
Gió thu thổi đâu một chiếc lá đến,
Khêu gợi nên biết bao mối tình nhớ nhà.

Dịch Thơ:

Bốn mặt non sông vắng lặng tờ,
Phòng văn tựa ghế ngắm gương nga.
Lá thu một chiếc bay trong gió,
Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ nhà.

Hoàng Tạo Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
THƯƠNG CON NHỆN CHẾT

Ngủ dậy mở cửa sổ, cất chén uống nửa vời,

Nhặng xanh sao cứ đến mà vo vo thế?
Mày chỉ cần lẫy một hạt là đủ no bụng,
Thì việc gì phải réo rắt mà kêu như ống sáo?
Thương cho số phận mày chỉ đáng đậu bờ bụi thôi,
Chỉ vì coi thường người nên đến nỗi ngã vào canh rau lê.
Thợ trời sinh hóa ra muôn loài thật là lắm chuyện,
Làm cho người muốn tránh nắng, xua nồng, chưa được hài lòng.

Dịch Thơ:

Ngủ dậy bên song rượu nửa bình,
Vo vo nhặng đã xán vòng quanh.
Chỉ cần một hạt vừa no bụng,
Chỉ phải luôn mồm nhộn tiếng sinh.
Biết phận chỉ nên quanh bờ bụi,
Khinh người chẳng bõ ngã vào canh.
Hóa công bày đặt sao nhiều chuyện?
Muốn rảnh chưa yên nỗi bực mình.

Nguyễn Văn Tú Dịch
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
KHUYÊN NGƯỜI LÀM RUỘNG

Đám ruộng lớn gần đây cỏ mọc cao vót,

Nhờ có người nông dân ra sức cào cuốc.
Lại thêm có trận mưa ngày mồng chín tháng chín chan chứa,
Nương cao ruộng thấp mong được mười phần thu hoạch dồi dào.
Hoa tuyết đã có ý cứu nạn đói cho dân,
Chuột lớn có thù gì mà cắn lúa của ta?
Ở trần đời, có thân thì phải có việc,
Mong rằng dù có vất vả các anh cũng chớ nên ngại.

Dịch Thơ:

Gần đây ruộng cỏ bời bời,
Cuốc cào nhờ có sức người nông dân.
Trùng dương được trận mưa nhuần,
Đồng điền mới chắc mười phần phong doanh.
Cứu dân tuyết xuống điềm lành,
Thù gì, chuột lớn lúa mình cứu cắn ra?
Có thân, có việc mới là,
Ai ơi xin chớ nề hà khó khăn.

Hoàng Mậu Lâm, Nguyễn Văn Tú Dịch
 
TIẾNG CHUÔNG MAI CHÙA GÁC

Khói dày, móc nặng, làn cây lặng như tờ,

Chùa Giác đâu đây, đưa hồi chuông sớm đến.
Xa xa nghe tiếng vọng từ bên kia đỉnh nóc sát mây,
Lạnh lẽo từng hồi, một nửa đọng trong hoa tuyết.
Trên chòi canh, nửa đêm, tiếng điêu đẩu đã im bặt,
Nơi dặm tía không còn một hạt bụi bay.
Đến đây, lòng kính cẩn vẫn muốn hỏi ai là chủ,
Niềm tâm sự, khôn đem bày tỏ với ông sư.

Dịch Thơ:

Sương nặng cây im khói mịt mờ,
Chùa đâu đưa lại tiếng chuông mai.
Ngân nga vẳng tự lầu mây lại,
Lạnh lẽo chìm trong hoa tuyết rơi.
Dặm tía thênh thang đường tắt bụi,
Lầu canh khuya khoắt kiểng thưa hồi.
Tấc thành muốn hỏi ai là chủ,
Khôn lẽ cùng sư tỏ khúc nhôi.

Hoàng Tạo Dịch
 
NGÀY TRÙNG DƯƠNG KHÔNG MƯA

Than thở vì tiết trùng dương không mưa,

Gió tây hiu hắt biết làm thế nào!
Có khách đưa tới rượu hoàng cúc,
Không ai làm nở được hoa đỗ quyên.
Bóng ngả từ lưng núi, luôn luôn nhích đi trước bao lan,
Chim hồng bay mịt mờ muôn dặm, chưa biết đâu là nhà.
Mắt đã đau lại thêm nhiều bụi,
Đóng cửa không ra ngoài vẫn say và hát.

Dịch Thơ:

Tháng chín không mưa những xuýt xa,
Gió tây hiu hắt biết sao mà!
Cúc vàng có khách đem cho rượu,
Quyên đỏ không người giục nở hoa.
Bóng núi nửa chừng vươn tới cửa,
Chim hồng muôn dặm biết đâu nhà?
Mắt đau ngán nỗi thêm nhiều bụi,
Cửa đóng như bưng vẫn rượu thơ.

Nguyễn Văn Tú Dịch
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top