Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Hide Nguyễn

Du mục số


Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.

Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì “, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

tnd.jpg


Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội : tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…

Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.

Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.

Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).

Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.

Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.

Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.


Tác giả : (website Quê Hương)

 
Vài nét phong tục ngày tết

Tết là dịp để người ta biểu tỏ tình thương nhân loại, xum họp gia đình, thăm viếng thân nhân, và thờ phượng tổ tiên. Tết cũng là dịp nghỉ ngơi, chơi đùa để chuẩn bị làm việc hăng say hơn trong năm mới.


1262659395.nv.jpg


Như lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh của Tây phương, Tết là lúc gia đình góp mặt đông đủ. Con cái, cháu chắt đi làm, đi học ở xa đều được nghỉ phép về thăm nhà khoảng 23 tháng Chạp âm lịch. Tuy vậy, gia đình Việt Nam trung bình dành ra nửa tháng Chạp để chuẩn bị đón Tết cho chu đáo. Có rất nhiều việc để làm: nào thăm mồ mả tổ tiên, nào mua hoa, pháo, nhang, đèn, nào sắm sửa quần áo mới, nào gói bánh chưng, bánh dầy, nào quét dọn nhà cửa. Đến đêm 30 tháng Chạp, mọi việc mua sắm phải hoàn tất, bàn thờ tổ tiên phải được sắp đặt tươm tất, các món ăn phải làm xong, pháo phải sẵn sàng.

1. Đi thăm mộ tổ tiên

Từ ngày 23 cho đến chiều 30 tháng Chạp, con cháu trong gia tộc tề tựu đông đủ và cùng đi thăm và quét dọn mồ mã tổ tiên. Mỗi gia đình đều đem theo hương đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Khi chưa có nghĩa trang ở nông thôn Việt Nam, ít nhà có ruộng đất lớn để làm mộ phần tổ tiên, nên những điền chủ có nhiều ruộng đất trong làng cho mượn đất chôn nhờ. Vì thế, cuối năm, mỗi gia đình đi thăm mộ đều mang theo quà Tết để biếu điền chủ đã cho mình mượn đất hay người coi sóc nghĩa trang (nếu mộ phần đặt trong nghĩa trang).


2. Đưa Táo quân về trời

Sự tích Táo quân (gồm ba vị thần coi quản bếp núc, nhà cửa của mỗi gia đình) đại khái như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo nhưng ăn ở với nhau rất đằm thắm. Nhưng làm hoài mà vẫn chỉ đủ ăn, anh chồng quyết định đi xa một chuyến thử thời vận, mong làm giàu để chị vợ đỡ lam lũ. Không may, anh ra đi được ba năm vẫn chưa quay lại. Chị vợ chờ mãi, chắc là anh đã chết nên tái giá với một anh nhà giàu. Dù vậy, lòng chị vẫn vương vấn tình cảm cũ. Một hôm, gần ngày Tết (có lẽ nhằm ngày 23 tháng Chạp?), gia đình làm cỗ cúng tổ tiên rất lớn nên có mấy người đến ăn xin trước cửa. Khi chị vợ đưa thức ăn cho họ, chị bất chợt nhận ra một trong những người ăn xin là anh chồng cũ của chị. Anh chồng sau thấy vậy, vội cho là vợ mình không chung thủy, nên nặng lời với chị. Uất ức vì bị hiểu lầm, chị liền nhảy vào đống lửa đốt vàng mã cao ngun ngút ngoài sân, tự vẫn. Anh chồng cũ thương vợ, cũng nhảy theo vào đống lửa. Anh chồng mới ăn năn thì sự đã rồi, nên anh nhảy luôn vào đống lửa. Hồn ba người lên thượng giới chầu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng cảm thương tình cảnh của ba người, bèn phái cả ba về hạ giới để coi sóc bếp lửa của mỗi gia đình và cuối năm về thượng giới tâu lại những chuyện tốt xấu xảy ra trong từng gia đình trong năm.

Trên đây chỉ là một trong những sự tích về Táo quân. Nói chung, câu chuyện được kể lại nhằm giải thích nguồn gốc tục đưa Táo quân về trời và răn dạy con người tự giữ gìn hạnh kiểm vì mọi việc làm của con người đều được trình báo với Ngọc Hoàng. Ngày 23 tháng Chạp, mỗi nhà đều làm cơm, cúng tiễn Táo quân về trời. Ngoài mâm cơm với các món ăn tươm tất (tùy gia đình giàu, nghèo), còn có mũ và áo mã (bằng giấy) để Táo quân mặc và một hoặc ba con cá chép thả trong chậu nước để Táo quân cưỡi về thiên đình.

3. Lễ rước vong linh ông bà

Chiều 30 tháng Chạp, các thức ăn và trái cây được xếp thành cỗ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên. Đây là dịp cả gia đình quây quần trước vong linh cửu huyền thất tổ, ôn lại những sự việc đã xảy ra trong năm để rút tỉa kinh nghiệm cho năm mới. Gia trưởng (người đứng đầu gia tộc, thường là người cao tuổi nhất) trịnh trọng thắp nén hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau gia trưởng, mọi người trong nhà đều nghiêm trang chắp tay cung thỉnh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.

4. Đốt pháo

Đúng giao thừa (tức là thời điểm giao hòa giữa 12 giờ đêm 30 tháng Chạp của năm cũ với rạng sáng mùng Một của năm mới), nhà nhà nhất loạt châm ngòi đốt pháo. Pháo tiểu, pháo trung, pháo đại đồng thanh nổ đùng đùng, dòn dã, và mùi khói nồng khét của thuốc pháo quyện vào mùi nhang thoang thoảng trên bàn thờ thành một thứ mùi rất đặc biệt, rất Tết.

Ngày xưa, dưới thôn quê, người ta tin rằng tiếng pháo trừ khử được ma quỷ và mang lại hạnh phúc cho dân làng. Lâu rồi thành tục. Ngày nay, tuy chỉ còn một số người tin vào việc trừ khử tà ma kiểu này, nhà nào cũng đốt pháo từ đêm giao thừa sang sáng mùng Một, mùng Hai, mùng Ba để đón vong hồn tổ tiên về ăn Tết, đón khách tới chơi, và đón khí xuân vào nhà. Đôi khi, đến mùng Mười vẫn nghe tiếng pháo lách tách ở xóm trên xóm dưới. Tiếng nổ đì đùng, vui tai của pháo phản ảnh sự tưng bừng nhộn nhịp của ngày Tết, và người ta tin rằng màu hồng thắm của xác pháo tượng trưng cho những điều may mắn.

5. Xuất hành

Khi tiếng pháo đã ngớt đêm 30, mỗi gia đình thường cử một người xuất hành (tức là bước ra khỏi nhà) trong những giây phút mới mẻ ngày đầu năm. Xuất hành phải xem lịch (xin xem bài viết về Âm Lịch) để chọn hướng tốt, hạp với tuổi của mình (xin xem bài viết về Các Con Giáp), ngụ ý để mang đến điều may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà trong năm mới. Sau khi xuất hành xong, người ta có thể tự xông nhà.

6. Xông nhà (hay "xông đất")

Đầu năm, nhiều người Việt cho rằng người đầu tiên bước vào nhà mình sẽ đem đến vận hên, xui cho gia đình suốt cả năm. Vì thế, cứ mỗi đầu năm là chủ nhà nhờ người có vận may xông nhà dùm. Người may mắn là người làm ăn phát đạt trong năm, gia đình sung túc, hạnh phúc. Nếu không tìm ra người, đôi khi chủ nhà đi xông nhà cho chính họ. Khách đi xông nhà thường ăn mặc chỉnh tề, bước vào cửa chính gian nhà, rồi rảo một lượt quanh nhà, xuống tận bếp, cốt để mang vận may vào từng xó nhà.

7. Chúc thọ

Trong gia đình Việt Nam, người cao tuổi được kính trọng hơn hết vì có nhiều kinh nghiệm. Sáng sớm mùng Một Tết là lúc con cháu trong gia tộc tỏ lòng hiếu thảo qua việc chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Người Việt quan niệm rằng cứ mỗi độ xuân về là mọi người đều thêm một tuổi, bất kể sanh nhằm ngày nào trong năm.

8. Lì xì

Chữ "lì xì" được phiên âm từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ "lợi thị" (tiền bạc, lợi lộc) trong Hán tự. Để mừng tuổi các em, những người lớn trong gia đình, họ hàng, bạn bè của cha mẹ tặng các em những món tiền nho nhỏ (lì xì) và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ đạt, v. v. Những món tiền này được cho vào phong bao màu đỏ trơn hoặc có hoa văn vàng. Cũng như màu hồng thắm, màu đỏ hoặc các màu có sắc đỏ được tin là tượng trưng cho sự may mắn. Thưở trước, sau khi nhận những lời chúc thọ, các vị cao niên trong gia đình lì xì tất cả con cháu bất kể tuổi tác với những món tiền nho nhỏ, vừa bạc lẻ vừa tiền chẵn, ngụ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi nảy nở trong năm mới.

9. Thăm viếng

Sau khi xông nhà xong, chủ nhà bắt đầu tiếp đón bạn bè, thân quyến đến thăm, và cũng đi thăm trả lễ. Thông thường, mùng một được dành để chúc thọ các bậc trưởng thượng trong gia tộc, thăm hỏi họ hàng. Mùng Hai được dành để các trò đến viếng và tạ ơn thầy cô giáo đã tận tình dạy dỗ mình trong năm qua, nêu cao truyền thống "tôn sư trọng đạo" của học sinh Việt Nam. Mùng Ba là ngày thăm hỏi, vui chơi với bè bạn.

10. Kiêng cữ

Vì cho là các hành vi trong những ngày đầu năm có thể đem lại vận hên, xui trong năm, nên người Việt hết sức thận trọng với lời ăn tiếng nói và các hành động vào ba ngày đầu năm. Có một số việc nên tránh, chẳng hạn: quét rác, đặc biệt là xác pháo, ra khỏi nhà vì bị xem là quét tiền ra cửa; biếu tặng các vật "cấm" như thuốc men hay dao nhọn vì bị xem là mang dấu hiệu của bệnh hoạn và xung khắc; nói các lời nặng nề, thô tục; khóc lóc, than thở; đập vỡ chén dĩa hay gương soi vì bị xem là dấu hiệu của sự đổ vỡ trong gia đình; mặc quần áo trắng hay đen vì bị xem là màu tang tóc, v. v. Vài việc kiêng cữ nêu trên đã đơn giản hóa theo thời gian, nhưng phần lớn vẫn được người Việt tin tưởng đến ngày nay.


Lý Lam (Theo Laodong)​
 
Những phong tục đẹp ngày tết

Tết là ngày bắt đầu của một năm mới. Mỗi quốc gia dân tộc có phong tục tập quán của riêng mình được gìn giữ qua bao thế hệ. Có phong tục vẫn tồn tại theo thời gian thì cũng có phong tục bị lụi tàn theo đà tiến hoá của nhân loại. Phong tục của dân ta thoạt nghe như chuyện thần tiên nhưng vẫn tồn tại vì trong cái huyền bí có những ý nghĩa thực tế.




1262236395.nv.jpg


Chúng ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển cùng với thế giới. Bạn và tôi hãy quan tâm tới những phong tục đẹp trong ngày Tết của dân tộc nói riêng và các phong tục khác nói chung để chúng ta mãi hòa nhập chứ không hòa tan.


Tục đưa ông táo

Có lẽ ngày nay ông Táo không còn bị hun khói bếp vì hầu như đa số các gia đình ngày nay dùng bếp gaz, cho nên chúng ta tự hỏi không biết phải đưa ông Táo về trời bằng phương tiện gì cho thức thời. Thế mà đến ngày 23 tháng chạp âm lịch thì lại nghe tiếng rao “Cò bay ngựa chạy đưa ông Táo về trời” khắp các chợ lớn, nhỏ. Ông Táo về trời để dâng sớ tâu về cuộc sống của mỗi gia đình trong năm qua. Tốt hay xấu gì thì ông cũng tâu hết. Qua phong tục này tổ tiên chúng ta muốn đề cao tình cảm và lý trí của mỗi gia đình đối với công việc bếp núc: cái nơi gìn giữ sinh mạng con người (sức khoẻ mọi người tùy thuộc vào “tổng hành dinh” này đấy).
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày bếp lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.
Theo tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa ông Táo . Cứ phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm ngựa (chuyện cá chép hoá rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông... Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.


Tục dựng cây nêu

Có thể dân thành phố ít có điều kiện thấy và làm công việc này. Đi xa một chút về vùng ngoại ô bạn sẽ được tận mắt thấy và tận tai nghe nói về cổ tục này. Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 2,5 – 3 mét (theo wikiped cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét), được dựng trước sân nhà vào buổi tối trước giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ (tùy từng địa phương) như cái túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ. Khi có giỏ thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai. Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống. Một vài năm trở lại đây thường thấy mọi người bán mía để tượng trưng thay cho cây nêu. Thấy cũng hay hay vì tết xong có thể hạ nêu xuống chén .


Tục xông đất ngày Tết

Với ngày đầu tiên trong năm còn gọi là Nguyên Đán, Tết đã có một ý nghĩa đặc biệt trang nghiêm. Vì ngày đó bắt đầu một năm nên mọi công việc làm trong khoảng 24 tiếng đồng hồ đều có ảnh hưởng trọn năm. Sự xông đất, xuất hành những cử chỉ đầu tiên, những lời nói đầu năm là điều mà ai cũng phải cẩn ngôn cẩn trọng. Trong tất cả mọi việc có tục xông đất được coi là quan trọng hơn hết.
Ngay từ nửa đêm sau lễ giao thừa đánh dấu một năm đã qua, nhường cho một năm mới tốt đẹp đến, nhà ở được coi như hoàn toàn đổi mới, người bước chân tới xông đất sẽ là sứ giả do sự may mắn đưa đến! Do đó, mọi người đã cân nhắc kỹ về nhân phẩm, chức phận, sự giàu sang, cũng như về tính tình, hạn vận khi mong cầu người đến xông nhà ngày đầu năm là hệ trọng hơn cả. Chính vì nghĩ đến ảnh hưởng của việc xông đất đên việc làm ăn cho cả năm, nên các bậc cao niên rất thận trọng đối với người đến đầu tiên trong ngày Nguyên Đán để long trọng mang lại giúp họ sự tốt lành suốt năm mới. Mặc dù đã tính toán như vậy, vẫn có người khách bất ngờ độc xuất đến xông đất trước sự ngạc nhiên của cả gia đình và làm xáo trộn những toan tính không thể thực hiện được một cách chính xác như ý mong muốn. Tuy nhiên để đề phòng những sự kiện này xảy đến, trong buổi sáng tinh mơ các cửa ngõ đều đóng chặt và chỉ mở khi nào người được chọn tới xông đất mà thôi.
Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều. Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hoà thuận...


Tục chưng mâm ngũ quả

Ngày Tết, ngoài các loại thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại phụ thuộc thì tuỳ loại quả có ở mỗi vùng mỗi khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người. Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày tết là một ý nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.


Tục chúc Tết

Tết Nguyên Đán là một dịp để cho mọi thành viên trong gia đình vui vầy sum họp. Đó là thời gian bày tỏ sự thương yêu thấm thiết và mong muốn cho mọi người được như ý. “Mồng một là Tết nhà cha”: sáng mùng một sau khi lễ gia tiên thì cha mẹ được mời ngồi vào ghế để cho con cháu lần lượt mừng tuổi chúc Tết. Ngày xưa họ còn được con cháu tế sống với hai lạy hai vái. Để mừng tuổi con cháu là những bao lì xì đỏ tươi làm rạng ngời ánh mắt bọn trẻ. “Mồng hai nhà mẹ”: cha mẹ và con cháu phải sang nhà ngoại để mừng tuổi chúc Tết. Cũng tuần tự những nghi thức như bên nội vậy. Sau đó thì nán lại để ăn cỗ đầu xuân nhằm thắt chặt tình cảm giữa hai gia đình.
“Mồng ba Tết thầy”: sau công ơn đấng sinh thành dưỡng dục là ơn dạy dỗ của thầy cô. Đến mừng tuổi chúc Tết thầy cô là một phong tục nói lên tư cách đạo đức của một con người. Tóm lại, tục chúc Tết là một nét văn hoá thể hiện tình cảm sâu sắc và sự quan tâm, lòng hiếu thảo trong một thứ tự phải có của sự tồn tại và phát triển của một dân tộc.


Lý Lam (Theo Hoichovietnam)​
 
Ý nghĩa ngày Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau và là ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc. Từ những thế kỷ trước, từ đời Lý - Trần – Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, nó mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ.
Chữ Nguyên có nghĩa là bắt đầu, chữ đán có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ, tri ân ông bà tổ tiên.


Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, Tết là do xuất xứ từ “tiết” (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, điều đó có ý nghĩa rất đặc biệt đối với một nước thuần nông như nước ta.
Theo tín ngưỡng dân gian, bắt đầu từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì” người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan đến nông nghiệp như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước… Người nông dân cũng không quên ơn các loài vật đã cùng họ sớm hôm vất vả như trâu, bò, gia súc, gia cầm và các loại cây lương thực, thực phẩm đã nuôi sống họ.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có phong tục hằng năm, mỗi khi năm hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả người xa xứ cách hàng ngàn ki-lô-mét vẫn mong được về sum họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được khấn vái dưới bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà, ngôi mộ, nhìn lại nơi mà một thời bàn chân bé dại đã tung tăng và mong được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Mấy tiếng “Về quê ăn Tết” không chỉ là khái niệm đi về, mà đằng sau nó là cả một quá trình hành hương về với cội nguồn, về nơi chôn nhau cắt rốn. Không thế thì làm sao huỳnh Văn Nghệ có cảm hứng để lưu truyền cho hậu thế hai câu thơ bất hủ “Từ thuở mang gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”.


MungTuoi.jpg


Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, ngày Tết xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho xã hội; tình thầy trò, bè bạn cố tri, ông mai bà mối đã tác thành cho đôi lứa.. Tết cũng là dịp đúc kết mọi hoạt động liên quan đến một năm qua, chào đón một năm mới với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng.


Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống mang tính toàn dân. Vì vậy vào những ngày cuối năm, mọi hoạt động đều hướng vào Tết, chuẩn bị cho Tết. Các ngành, các cấp đều có kế hoạch cho ngày hội đặc biệt này. Từ thương nghiệp đến giao thông vận tải, văn hóa đến an ninh công cộng, nhất là các ngành dịch vụ thì cứ là “bận như Tết”. Các công sở, xí nghiệp, trường học cũng đều có kế hoạch tham gia Tết, đồng thời giải quyết những nhu cầu đặt ra trong nội bộ đơn vị.
Rõ nét nhất là không khí chuẩn bị nhộn nhịp khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về…
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng Chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về Trời tâu việc trần gian thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa, dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghỉ lễ từ ngày 23 tháng Chạp đến ngày khai hạ (từ 7 tháng Giêng).
Ngày nay, trong thời kỳ hiện địa, việc tổ chức nghỉ Tết, vui Tết được quy định hợp lý, khoa học hơn – Vừa văn minh, lịch sự, không lãng phí thời gian, phù hợp nếp sống công nghiệp vừa bảo lưu được bản sắc văn hóa dân tộc và ý nghĩa nhân sinh của ngày Tết thì không có gì thay đổi. Đó cũng là nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian cần được giữ gìn và phát huy.

Nguồn:
Phụ nữ Việt Nam
 
Tết

TẾT


1. Việt Nam có nhiều tết, lớn nhất và thiêng liêng nhất là Tết năm mới âm lịch. Vậy nên, nói đến các tết khác trong năm phải gọi đầy đủ họ tên (Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu, Tết Tây…), thì với Tết năm mới âm lịch, vốn là cái Tết có nhiều tên gọi (Tết Cả, Tết Cổ truyền, Tết Dân tộc, Tết Nguyên đán, Tết Ta…), đối với người Việt chỉ cần nói “Tết” là đủ.

Về mặt từ nguyên, hầu hết các nhà nghiên cứu nước ta đều cho “tết” là âm đọc trệch theo lối dân gian chữ “tiết” Hán - Việt. Theo Trần Quốc Vượng, “Trên dòng thời gian liên tục của một năm theo lịch cổ truyền, người ta phân lập ra nhiều “tiết” - những sinh hoạt lễ lạt – văn hoá đan xen sinh hoạt đời thường thế tục, chẳng hạn “Đoan Ngọ tiết” - được gọi là tết Đoan Ngọ, “Trung thu tiết” được gọi là tết Trung thu v.v…” và “Tết Cả hay Tết Nguyên đán là nương theo cái tiết Lập Xuân.”

Cùng với phương diện từ nguyên, và nhiều biểu hiện khác trong những ngày Tết, việc chọn tháng Dần (tháng Giêng âm lịch) trong hệ lịch Can Chi 12 con giáp làm tháng đầu năm và buổi sáng đầu tiên (Nguyên đán) của tháng này làm buổi khởi đầu một năm mới đầy thiêng liêng cũng dễ khiến người ta cho rằng Tết Việt vốn có cội nguồn từ Trung Hoa.
Ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa trong đời sống văn hoá Việt Nam, trong đó có văn hoá Tết, là một thực tế lịch sử và cũng là điều bình thường, có tính quy luật trong giao lưu, tiếp biến văn hoá. Nhưng cần nhìn sâu hơn về cội nguồn của Tết Việt. Văn hoá Việt Nam vốn định hình trên cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, một trong những nơi phát sinh ra nền văn minh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại, chắc chắn những lễ nghi, hội tiết gắn với sản xuất nông nghiệp và tâm thức cộng đồng của người Việt (cổ), trong đó có lễ tết đón sự khởi đầu chu kỳ của một năm mới, phải có từ rất sớm, trước khi có tiếp xúc hoặc chịu ảnh hưởng của văn hoá Tết Trung Hoa. Theo Trần Ngọc Thêm, “Thời cổ, năm mới của phương Nam bắt đầu từ tháng Tý, tức tháng Một (=11) bây giờ, về sau ta chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, mới lấy tháng Dần (tháng Giêng) làm tháng đầu năm”. Như vậy, trước khi chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, người Việt đã có nền tảng lễ Tết của mình và sự chọn ăn Tết vào đầu năm Dần là sản phẩm của giao thoa văn hoá, trong đó chiều sâu lễ Tết vẫn là tâm thức Việt. Thực ra, xa xưa người Trung Hoa chọn lễ Tết đầu năm vào đầu tháng Sửu (đời Thương – Ân), rồi đầu tháng Tý (đời Chu), đầu tháng Hợi (đời Tần và đầu đời Hán), đến thời Hán Vũ đế (140 TCN) mới chọn tháng Dần làm tháng đầu năm và kéo dài mãi đến sau này. Theo Trần Quốc Vượng, việc Hán Vũ đế chọn tháng Dần làm tháng đầu năm là “sự tham khảo ‘Kinh Sở tuế thời kỳ’ của miền Kinh Sở ở Hoa Nam trong bối cảnh của nền văn minh lúa nước.” Phải chăng trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và giao lưu văn hoá Nam – Bắc, Việt - Hoa, người xưa nhận ra chọn tháng Dần làm tháng đầu năm (gọi là lịch “kiến Dần”) - khoảng trước sau tiết Lập Xuân – là hợp lý hơn cả. Nhà khảo cứu phong tục Toan Ánh cũng nhận định: “Thực ra Tết Nguyên Đán bắt đầu vào tháng Dần là rất phải, vì lúc đó mùa đông vừa qua, tiết lạnh vừa hết, ngày xuân ấm áp tới, hoa cỏ đua mới, khiến cho con người cũng hầu như biến đổi cả tâm hồn sau một năm làm ăn vất vả.”

2. Thời điểm khởi đầu của một năm bao giờ cũng gợi nên những những bâng khuâng, những nôn nao khó tả trong lòng người, nhất là thời điểm gắn với truyền thống của cả một dân tộc, của chiều sâu tâm thức cộng đồng, cụ thể hoá trong bao nghi thức, lễ tiết, phong tục. Có lẽ ý nghĩa văn hoá đầu tiên của bước giao thừa năm cũ đi năm mới đến là sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người, là cảm thức của con người trước nhịp đi của thời gian, trước chuyển vận của đất trời. Mùa xuân đến, đất trời nhuận thấm, hồi sinh và mở ra bao sức sinh sôi mới (xuân sinh); năm mới đến mở ra trong lòng người bao hy vọng, nhìn lại để đi tới. Có thể nói mùa xuân và sự mở đầu một chu kỳ mới đã làm thanh lọc hoá tâm hồn con người, con người cảm thấy thanh nhẹ hơn, có sức sống hơn. Nếu khoảng cuối năm lo toan dày lên gấp bội thì đó cũng là sự dồn nén để có sự giải phóng thần kỳ trong lòng người trong thời điểm khởi đầu năm mới. Trong những ngày lễ Tết, con người vị tha hơn, hướng về nhau hơn. Nói một cách khác, mỗi đầu chu kỳ mới của đất trời, con người như tự gội rửa tâm hồn mình để lớn lên, để nhân văn hơn. Chính vì vậy, chờ đợi Tết, cảm nhận Tết đến bao giờ cũng mang màu sắc đặc biệt. Người Việt có cách nói dân dã rất hay về cảm nhận bước đi của Tết: Tết đã đến bến sông; Tết đã đến đầu thôn; Tết đã thập thò trước cửa… và kéo theo đó là bao tâm trạng, khác nhau tuỳ lứa tuổi, tuỳ hoàn cảnh, nhưng bao giờ cũng thiêng liêng, cũng quan trọng. Có thể nói chẳng lúc nào người dân của một nước nông nghiệp vốn tĩnh tại lại cảm nhận sâu sắc và rõ ràng về nhịp bước của thời gian, về sự gấp gáp của thời gian như những ngày sắp kết thúc chu kỳ của một năm.

3. Chính vì ý nghĩa quan trọng của Tết và nao nao của lòng người mà tháng Chạp cũng mang một màu sắc tâm trạng đặc biệt. Người Việt chuẩn bị cho Tết từ trước đó ít nhất một tuần, đánh dấu bằng lễ đưa ông Táo về trời. Thực ra đấy không thuần tuý là sự chuẩn bị. Lễ đưa ông Táo về trời (23 tháng Chạp) chính là nằm trong một “tổ hợp” của Tết Cả, Tết lớn. Không phải ngẫu nhiên người Việt gọi lễ thức đưa ông Táo về trời cũng là Tết - Tết Ông Công Ông Táo về trời. Đây gần như là thời điểm đánh dấu sự ngưng hoạt động đời thường của một năm, con người chính thức bước vào không gian thiêng, không gian lễ tiết, lễ hội (Hội Xuân), con người hướng đến đến giá trị thiêng liêng, hướng đến tổ tiên và cảm thấy gần hơn bao giờ hết với hồn dân tộc. Cùng với lễ cúng Ông Công Ông Táo bao giờ cũng là lễ cúng tổ tiên, ông bà. Trước đó các nhà đều đi “chạp mả”, thắp hương trên các mộ phần, khấn khứa mời tổ tiên về cùng sum họp với cháu con. Trong những ngày cuối tháng Chạp, trong và sau Tết Ông Táo Ông Công, cũng là dịp người Việt thể hiện đạo lý truyền thống của mình qua việc “gửi Tết” - con cháu gần xa “gửi Tết” về nhà chính thờ cúng tổ tiên -, và “biếu Tết” - thể hiện lòng trân trọng, biết ơn đối với những người có ân nghĩa với mình. Cùng với những sinh hoạt có tính lễ nghi là hội. Những ngày này, đâu đâu người Việt cũng tổ chức những bữa tiệc tất niên, là lễ mà cũng là hội, người thân, bạn bè gặp gỡ vui chúc nhau những điều tốt đẹp trong năm tới chứ không đợi đến những ngày đầu năm mới chúc nhau. Tổ chức tất niên thể hiện tính linh hoạt của người Việt, thường thì những người thân, bạn thân “lên kế hoạch” để tổ chức tất niên không trùng ngày, để thay nhau đến với nhau, để “hội hè” có thể kéo dài triền miên đến tận phút trước giao thừa. Ở một không gian rộng hơn, đó là chợ Tết, là hội Hoa Xuân. Khắp thành thị nông thôn đều có những hội xuân, những sinh hoạt ngày xuân và đón tết. Đâu đâu trên đất nước cũng tươi tắn sắc xuân, cũng thể hiện tính hoà nhập cộng đồng, nối kết với truyền thống thiêng liêng của dân tộc…

4. Cùng với sự hoà nhập giữa con người và tự nhiên, nói đến Tết Cả/ Tết Nguyên Đán... trong sự so sánh với các lễ tết, lễ hội khác trước hết là nói đến tính chất đoàn viên của Tết. Tết gần như là dịp duy nhất trong năm gợi nên tâm thức về sự đoàn viên, sự sum họp gia đình, không những thế, còn là dịp “sum họp” giữa con cháu và tổ tiên, giữa người sống và người đã khuất. Một học giả nước ngoài, từ đầu thế kỷ XX, đã có nhận xét thú vị và rất đúng về một trong những đặc điểm của gia đình Việt Nam. Đó là sự hiện diện của người đã chết trong thế giới người sống, nhất là trong phạm vi gia đình: “Sự trường tồn của Tổ Tiên, sự hiện diện của các ngài ở giữa gia đình, không phải là một sáo ngữ, một lối nói, một cách bóng gió thi vị, mà là một thực tại sâu xa, ai ai cũng thừa nhận.” Ai đi xa cũng cố gắng về sum họp gia đình, đúng hơn là về quê cha đất tổ, để lễ bái tổ tiên, để có được cảm giác gắn bó với cội nguồn, và hơn nữa, để thực thi trách nhiệm đạo lý - tâm linh của mình. Quả thật, không gian gia đình ngày Tết là không gian rất thiêng. Ông bà đã được “rước” về từ 23 tháng Chạp, sáng đầu năm và trong suốt những ngày Tết ông bà tổ tiên “cùng ăn Tết” với cháu con, bàn thờ bao giờ cũng có hương đèn, hoa quả, thức ăn. Những ai không về được cũng không tránh được cảm giác có lỗi, cảm giác “tha hương”. Dali, một người Scotland, bày tỏ cảm nhận của mình về tầm quan trọng của cái Tết đoàn viên của người Việt: “Tết năm ngoái, tôi phải ra khỏi thành phố và không thể ăn tết với gia đình bạn gái người Việt. Tôi đã nhận ra được một điều rằng, Tết là thời gian sum họp, ấm cúng nhất đối với tất cả người Việt Nam, và tôi đã làm họ thất vọng khi đã không bên cạnh bạn gái và gia đình cô ấy trong ngày này… Khi quay trở lại Hà Nội, tôi đã nhận thấy sự lạnh nhạt của cô ấy. Cô ấy chưa bao giờ giận tôi đến vậy.” Tết Việt, do vậy, là sự nối kết gia đình, tộc họ, nối kết xưa và nay, là sự chan hoà cộng đồng, cộng cảm. Chính vì vậy, Tết còn có ý nghĩa giáo dục sâu xa và từ bao đời Tết thể hiện rõ truyền thống ứng xử đạo lý của người Việt:

Mồng Một thì ở nhà Cha
Mồng Hai Nhà Mẹ, mồng Ba nhà Thầy

5. Không chỉ là chuyện đạo lý, lễ nghi. Tết còn là ngày hội có tính biểu trưng cho sự khởi đầu của một chu kỳ sống mới và của cả sự tái sinh. Ý nghĩa quan trọng này của ngày Tết dẫn đến những thủ tục, những kiêng kỵ và những biểu tượng của sự sinh sôi, phát triển. Biểu tượng của Tết trước hết là sắc màu của hoa, sắc màu của cái đẹp, của tinh hoa, của hạnh phúc. Gam màu chủ đạo trong trang trí Tết là màu đỏ, theo quan niệm của phương Đông là màu của sự sống, của hạnh phúc, của sự tươi sáng. Phong bì mừng tuổi người già, phong bì lì xì cho trẻ em đều tươi sắc đỏ. Gần đây, không chỉ ở ngoài Bắc mà còn ở trong Nam, người Việt thường chọn tranh Đông Hồ treo Tết, lịch tranh Đông Hồ cũng xuất hiện ngày càng nhiều, bởi sắc màu tươi trong và ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong đó. Tranh Đông Hồ thường hướng đến ý niệm về sự sinh sôi nảy nở, về hạnh phúc đoàn viên. Trong bộ tranh Đông Hồ có bức “Nghi Xuân” (hoà hợp với mùa xuân) với sắc đỏ tươi tắn hướng con người về ánh sáng, về tương lai. Bức tranh hiện được lưu giữ tại Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, rất tiếc là không thấy lưu hành trên thị trường.

6. Tết, lễ Tết như đúng tên gọi của nó, trước hết là sự thiêng liêng, nhưng nói như Trần Ngọc Thêm, “Tết gồm hai phần: cúng ông bà tổ tiên (lễ) và ăn uống bù cho những ngày làm lụng đầu tắt mặt tối (tết). Tết là phải ăn, ta vẫn nói “ăn tết”. Quả vậy, Tết là sự trình diễn các món ăn dân tộc. Có thể nói, văn hoá ẩm thực, triết lý ẩm thực của người Việt thể hiện rõ hơn đâu hết trong những ngày Tết. Người nghèo khổ mấy đi nữa cũng cố gắng chuẩn bị đủ cái ăn “rất Tết” trong những ngày Tết, vẫn có đủ thức tối thiểu của ba ngày Tết để dâng ông bà, để con cháu “ăn Tết” bù vào những thiếu đói thường nhật. Món ăn dân tộc thể hiện trong ba ngày Tết có thể khác nhau theo đặc trưng vùng miền, nhưng khắp Việt Nam hầu như không nhà nào thiếu bánh tét, bánh chưng, thịt muối, dưa hành trong ba ngày Tết. Đây cũng là những món ăn đi kèm nhau, vừa ngon, vừa tiện lợi. Bánh tét, bánh chưng giản dị là vậy nhưng không kém công phu và mỹ thuật. Người ta phải chuẩn bị từ trước gạo nếp, đậu xanh vào hàng tốt nhất, và nhất là lá, lá dong (thường dành cho bánh chưng) hoặc là chuối (cho bánh tét) phải được xử lý làm sao cho vừa dễ gói, vừa để cho da bánh có được màu xanh dịu dàng khi bóc lá. Nấu bánh phải canh lửa thật mạnh, thật đều để bánh chín tới, mềm mại, không bị “sống lại” ít nhất trong khoảng một tuần đến mươi ngày… Bánh chưng, bánh tét không thể thiếu trong “ba ngày Tết” vì còn ở ý nghĩa sâu xa của nó, vì cái triết lý nhận thức “Trời tròn, Đất vuông”, vì cái ý nghĩa Lang Liêu đã gói ghém vào đó bao nghìn năm trước về đạo lý, nghĩa tình (truyện Bánh chưng, bánh dày). Theo Trần Quốc Vượng, “ngày trước bánh chưng làm theo kiểu “bánh tét” với ý nghĩa tượng trưng cặp đôi – linga (chưng)/iôni (dày).” Nếu quả vậy, bánh chưng, bánh tét còn là biểu tượng của tư duy cặp đôi, của ý niệm phồn thực có từ ngàn xưa của cư dân nông nghiệp lúa nước Việt. Ngày nay, món ăn đã phong phú lên rất nhiều, Tây Tàu đủ cả, kỹ thuật nấu ăn phần nào đã có phần “tuyệt kỹ”, nhưng đa số gia đình người Việt trong những ngày Tết vẫn hướng về món ăn dân tộc. Ngay trong lòng những thành phố lớn, không ít gia đình vẫn muốn tự mình làm thịt muối, dưa hành, vẫn muốn có một nồi bánh tét/bánh chưng nổi lửa đêm cuối năm gợi nên cả hồn dân tộc và cảm nhận hương vị Tết lãng đãng như đến từ xa xưa quyện hoà trong hiện tại.

7. Sẽ thật không đầy đủ và thiếu sót nếu nói đến “ăn Tết” mà không nói đến “mặc Tết”, đến nhu cầu “làm đẹp” trong ngày Tết. Thực ra, đây mới phần dễ nhận thấy nhất trong sắc màu và trong ý vị Tết. Chiếc áo mới, bộ quần áo mới, quần áo Tết, nói chung là trang phục mới, là phần không thể thiếu trong tâm thức đón Tết, trong ứng xử với chính mình và ứng xử cộng đồng những ngày đầu năm. Một trong những tâm trạng nao nao nhất của các em tuổi học trò là chờ bố mẹ sắm quần áo mới. Ngay cả những người lớn tuổi cũng đầy tâm trạng khi sắm sanh quần áo Tết. Có một nhà thơ tiền chiến, Chế Lan Viên, viết về Xuân đã từng ngậm ngùi: “Có một người nghèo không biết tết/ Mang lì chiếc áo độ thu tàn!”. Văn hoá trang phục Tết quả trở thành một trong những bộ phận không thể thiếu của Tết và bộc lộ nhiều đặc điểm văn hoá dân tộc, văn hoá Tết.

Nhưng nói đến văn hoá trang phục Tết, trước hết phải nói đến văn hoá trang phục của phái đẹp, nhất là đối với các cô gái mới lớn. Với đối tượng này, nhất là ở thành thị, nhu cầu đẹp, làm đẹp là nhu cầu hàng ngày, nhưng những ngày xuân mới chính là dịp để các cô chưng diện, điểm trang để tự ngắm mình và để được người ngắm. Những mốt mới nhất của các cô “trình diện” trong ngày xuân thường được trầm trồ, khen ngợi nhiều hơn là bị phê bình “chơi trội”, “chơi nổi” như khi được mặc hay điểm trang trong ngày thường. Tất nhiên, những mốt y phục, cách trang điểm đó không vượt quá lố cái gọi là “văn hoá trang phục”. Các cô gái ở nông thôn, tuy không có điều kiện bằng, quanh năm lao động vất vả nhưng bao giờ cũng có kế hoạch để “tậu” cho mình những “bộ cánh” mới nhất, đẹp nhất, cũng tìm cách trang điểm đẹp nhất, kiểu tóc mới nhất, đặc biệt nhất trong ba ngày Tết. Thực ra không chỉ với các cô gái đang tuổi lớn. Phụ nữ Việt Nam, dù là những người vất vả nhất, cực nhọc nhất, “đầu tắt mặt tối” nhất vì thường phải chịu trách nhiệm chính và gánh vác bao nhọc nhằn chuẩn bị Tết, vẫn không thiếu nhu cầu làm đẹp. Trang phục lễ Tết ngày xưa của phụ nữ Việt Nam chủ yếu là áo dài. Ngày nay áo dài vẫn được chuộng vì vừa là y phục truyền thống, vừa vì áo dài đã được hiện đại hoá với bao sắc màu, kiểu dáng, không quá thiên về âm tính như ngày xưa. Ngoài ra, còn bao nhiêu y phục khác vừa phù hợp với con người Việt Nam, vừa vẫn rất hiện đại.

Đi kèm với trang phục, phái đẹp Việt Nam hiện nay còn được hỗ trợ của rất nhiều kỹ thuật và dịch vụ làm đẹp khác, nhiều đến mức nhiều khi chỉ nhìn/nghe quảng cáo trên phương tiện truyền thông đã khiến các bà các cô bối rối. Ngày nay đi khắp nước, có thể thấy từ thành thị đến nông thôn không đâu là không có những cửa hàng, quày hàng mỹ phẩm, những dịch vụ làm đẹp từ bình dân đến quý tộc. Mới thấy nhu cầu làm đẹp của phái đẹp (tất nhiên) là rất lớn. Và chính họ mới là những nhân vật chính để làm cho mùa xuân thêm tươi sắc. Không chỉ muốn hiện diện đẹp nhất trong những ngày xuân, phái đẹp Việt Nam đặc biệt ưa thích lưu giữ những hình ảnh đẹp nhất và có ý nghĩa nhất của trang phục trong năm. Nicole, sinh viên người Salvador, kể lại một kỷ niệm “buồn cười” với một gia đình người Việt: “Họ đã chuẩn bị một bữa cơm tối đặc biệt, thuê một người thợ ảnh đến chụp và sắp xếp mọi thứ hết sức trang trọng… Bữa cơm thịnh soạn và ngon tuyệt vời. Tôi đã hơi bối rối khi đang ngồi ở bàn ăn, chủ nhà tới 3 lần xin lỗi và vào nhà trong thay những chiếc áo dài khác nhau”. Hoá ra “Người chủ nhà muốn trưng diện những chiếc áo đẹp để chụp ảnh.”

* *
*​

Không phải đây đó không có những đề xuất nên bỏ Tết Ta, chỉ ăn Tết Tây Dương lịch. Nghe ra không phải không có lý, vì vừa đỡ tốn kém, đỡ mang tiếng ảnh hưởng Trung Hoa, vừa thể hiện sự hoà nhập với thế giới… Nhưng dường như khi nảy ra những ý nghĩ tương tự, người Việt lại càng thấy gắn bó hơn với cái Tết cổ truyền, với cái Tết Cả của dân tộc. Khó thể nói hết về văn hoá Tết và Tết văn hoá của dân tộc. Đôi phác thảo sơ sài trên hy vọng góp phần cho thấy Tết Việt là phần hồn của dân tộc tính, là ngày hội thật sự sống động, thẳm sâu trong tâm thức của mỗi người Việt chúng ta.

TS. Nguyễn Văn Hiệu(BM. Văn hóa học ĐH KHXH-NV Tp.HCM )​
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top