Tài liệu ôn thi đại học môn Sử

Câu 2: Nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam – Bắc sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương? Vị trí, mối quan hệ giữa cách mạng hai miền

a. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới
- Do đất nước bị tạm thời chia cắt bởi bọn đế quốc Mỹ và tay sai nên Đảng và Chính phủ đã đề ra cho cách mạng mỗi miền những nhiệm vụ chiến lược phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu của cách mạng từng miền.

- ở Miền Bắc:
- Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cơ bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước khi tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải trải qua giai đoạn hoàn thành cải cách ruộng đất, đấu tranh để tiếp quản miền Bắc, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc còn phải đánh trả 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa còn nhằm xây dựng miền Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng cả nước và hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.

- Miền Nam:
- Do vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, Đảng chủ trương tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mở đầu là thời kỳ đòi Mỹ - Diệm thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ về Việt Nam. Trong quá trình diễn biến, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu của 2 nước bạn Lào và Cămpuchia.

b. Mối quan hệ giữa cách mạng hai miền Nam – Bắc.
- Hai miền Nam, Bắc đều hướng tới thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước là đánh Mỹ và tay sai của chúng giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng của cả nước - nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước. Cách mạng cả nước còn góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.

c. Vị trí, vai trò của cách mạng hai miền Nam – Bắc
- Trong việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước thì cách mạng mỗi miền có vị trí vai trò khác nhau. Cách mạng miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của Mĩ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Hậu phương và tiền tuyến, cách mạng hai miền Nam Bắc do đó có quan hệ gắn bó với nhau, phối hợp với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi của cách mạng mỗi miền đồng thời là thắng lợi chung của cả hai miền, của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của dân tộc.

Sưu tầm
 
CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975


Câu 1: Phong trào đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, củng cố hoà bình, giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng (1954 - 1959) diễn ra như thế nào?

* Chủ trương của Đảng
Ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ chưa ký kết, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 6 khoá II (7/1954) chỉ rõ “đế quốc Mỹ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương” và chúng “hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương”. Từ đó Trung ương Đảng đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang trước đó sang đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 để củng cố hoà bình, giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng.

* Diễn biến:
+ Tháng 8/1954, bùng nổ “Phong trào hoà bình” của trí thức và các tầng lớp nhân dân ở Sài Gòn - Chợ Lớn sau đó đã lan rộng ra các thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng và các vùng nông thôn. Nhân dân và học sinh, sinh viên đã tổ chức mít tinh, biểu tình đòi Mỹ - Diệm thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống trò hề “trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc hội”...của Diệm, chống lại địch khủng bố đàn áp, chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” của chúng, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ. Đấu tranh giữ gìn kết hợp với xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng.

* Kết quả - ý nghĩa:
+ Nhân dân miền Nam đã làm thất bại hoàn toàn chính sách "tố cộng", "diệt cộng" của địch.
+ Cách mạng miền Nam tuy bị tổn thất không nhỏ nhưng tinh thần của quần chúng vẫn được giữ vững, cơ sở cách mạng căn bản vẫn được bảo toàn.

Sưu tầm
 
Câu 2: Phong trào “Đồng khởi” (1959 - 1960) diển ra trong bối cảnh lịch sử nào? Diến biến chính, kết quả ý nghĩa của phong trào?

* Hoàn cảnh lịch sử
- Trong những năm 1957 - 1959, Mỹ - Diệm đã mở rộng chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng”, tăng cường khủng bố đàn áp, ra đạo luật 10 - 59 (5/1959) lê máy chém đi khắp miền Nam giết hại những người vô tội...càng làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam (công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, các tầng lớp và các cá nhân yêu nước) với đế quốc Mĩ và tay sai trở nên gay gắt.

- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 15 (đầu 1959) đã họp và phân tích tình hình và xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân.

* Diễn biến:
- Được nghị quyết 15 của Trung ương Đảng soi sáng, phong trào nổi dậy của quần chúng từ chỗ lẻ tẻ ở từng địa phương, như cuộc nổi dậy ở Vĩnh Thạnh, Bắc ái (2/1959) đã lan ra khắp miền Nam, thành cao trào đồng khởi tiêu biểu là khởi nghĩa ở Trà Bồng (8/1959) và Bến Tre.

- Ngày 17/1/1960, dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Bến Tre, nhân dân các xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày, với gậy gộc, giáo mác, súng ống các loại, đồng loạt nổi dậy đánh đồn bốt, diệt ác ôn, giành lấy chính quyền làm chủ thôn xã. Cuộc nổi dậy đã lan ra toàn huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre. Quần chúng nổi dậy đã phá vỡ từng mảng lớn bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của địch ở thôn xã. ở những nơi đó uỷ ban nhân dân tự quản được thành lập, lực lượng vũ trang nhân dân được hình thành và phát triển, ruộng đất của địa chủ cường hào bị tịch thu đem chia cho dân cày nghèo.

- Từ Bến Tre, phong trào “Đồng khởi” như nước vỡ bờ lan khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi thuộc trung Trung Bộ.

* Kết quả:
- Hệ thống kìm kẹp của địch ở thôn xã bị phá vỡ từng mảng lớn. Tính đến cuối 1960, tại các tỉnh Nam Bộ, cách mạng đã làm chủ hơn 600 trong tổng số 1298 xã trong đó 116 xã hoàn toàn giải phóng. ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ có 906 xã và Tây Nguyên có 3200 xã đã về tay cách mạng.

- Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Mặt trận chủ trương đoàn kết nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống Mĩ xâm lược và tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất tổ quốc. Đây là một mốc phát triển mới của cách mạng miền Nam.

* ý nghĩa:
- Phong trào “Đồng khởi” đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chính sách thực dân kiểu mới của Mĩ ở miền Nam, đã tác động mạnh mẽ làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.

- “Đồng khởi” thắng lợi dánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Sưu tầm
 
Câu 3: Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ – Nguỵ trong chiến lược chiến tranh đặc biêt? Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam chống chiến tranh đặc biệt diễn ra và giành thắng lợi như thế nào?

a. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam
- Trước sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam sau phong trào Đồng khởi cùng với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ngày càng mạnh mẽ đã đe doạ tới hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Để đối phó lại, Kinnơđi vừa mới lên làm tổng thống nước Mĩ đã đề ra chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. Miền Nam được chọn làm nơi thí điểm của chiến lược này, mang tên chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

- Bản chất của “chiến tranh đặc biệt”: “Chiến tranh đặc biệt” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội tay sai, đặt dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mĩ và dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mĩ nhằm chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Thực chất âm mưu của “chiến tranh đặc biệt” là “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam”.

- Để thực hiện “chiến tranh đặc biệt”, Mĩ - nguỵ đã triển khai các biện pháp sau:
+ Mỹ tăng cường viện trợ quân sự cho Diệm, đưa vào miền Nam số lượng ngày càng lớn “cố vấn” quân sự và lực lượng hỗ trợ chiến đấu. Cuối 1960 số cố vấn là 1.100 thì đến 1964 là 26.000 tên. Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mĩ (MACV) ngày 8/2/1962 thay cho đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) thành lập 1950.

+ Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, nguỵ ra sức bắt lính nâng số quân từ 17 vạn (giữa 1961) lên 56 vạn (cuối 1964). Quân nguỵ được trang bị hiện đại, sử dụng nhiều chiến thuật như “trực thăng vận”, “thiết xa vận”.

+ Dựa vào sự hỗ trợ và chỉ huy của cố vấn Mĩ, quân nguỵ đã mở các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, hoạt động kiểm soát, phong toả biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản vào miền Nam.

+ Mỹ - nguỵ ráo riết càn quét, dồn dân lập “ấp chiến lược”. Chúng dự định lập 16.000 ấp trong tổng số 17.000 ấp trên toàn miền Nam với khoảng 10 triệu nông dân bằng những thủ đoạn cưỡng bức trắng trợn. Lập ấp chiến lược đến đâu, chúng cho giăng đồn bốt bảo an, dân vệ, chính quyền đến đó để kìm kẹp. Mĩ - nguỵ coi việc lập "ấp chiến lược” là một “quốc sách”nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các ấp xã để nắm dân, thực hiện bình định miền Nam.

+ Mục tiêu của “chiến tranh đặc biệt” mà trọng tâm là “bình định” miền Nam trong vòng 18 tháng được thực hiện qua kế hoạch Stalây - Taylo bắt đầu từ giữa 1961. Nhưng đến đầu 1964 khi kế hoạch bình định miền Nam không thực hiện được, Mĩ lại bổ xung kế hoạch Giônxơn - Macnamara mà mục tiêu là bình định miền Nam có trọng điểm trong 2 năm. Điều này thể hiện tình hình ngày càng khó khăn của Mĩ - nguỵ.

b. Miền Nam chiến đấu chống "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ
* Chủ trương của ta:
- Để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về sự lãnh đạo và lực lượng của cách mạng của miền Nam, tháng 1/1961, Trung ương cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ uỷ Nam Bộ cũ, các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (15/2/1961), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (thành lập 20/12/1960) ngày càng được mở rộng.

- Quân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ và tay sai, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tấn công địch ở cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị), đánh địch bằng 3 mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận).

* Những thắng lợi của quân và dân ta:
- Quân và dân miền Nam đập tan kế hoạch Xtalây - Taylơ của Mỹ (1961 - 1963)
+ Về quân sự: Năm 1962, quân giải phóng và nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của quân nguỵ vào chiến khu D, căn cứ U Minh, Tây Ninh...vào phía bắc và tây bắc Sài Gòn.

Ngày 2/1/1963, quân và dân ta đã giành chiến thắng vang dội ở ấp Bắc (Mỹ Tho). Lần đầu tiên với số quân ít hơn địch 10 lần, các chiến sĩ quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại cuộc hành quân càn quét của trên 2.000 lính nguỵ có cố vấn Mĩ chỉ huy, có pháo binh, máy bay lên thẳng, xe tăng, xe bọc thép yểm trợ. Kết quả đã tiêu diệt 450 địch, bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 3 xe bọc thép M.113.


  • Chiến thắng này chứng minh khả năng quân dân miền Nam có thể đánh bại hoàn toàn “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - nguỵ. Sau thắng lợi này, khắp miền Nam dấy lên phong trào “Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công”.
+ Trên mặt trận chống “bình định”, cuộc đấu tranh giữa địch và ta diễn ra dai dẳng, giằng co nhau quyết liệt giữa lập và phá “ấp chiến lược”. Đến cuối 1962, mặc dù đã rất cố gắng, chúng cũng chỉ thực hiện được một phần của kế hoạch bình định. Trên nửa tổng số ấp (8.000) với gần 70% nông dân (6,5 triệu) toàn miền Nam vẫn còn do cách mạng kiểm soát.

+ Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân ở đô thị cũng diễn ra mạnh mẽ. Ngày 8/5/1963, 2 vạn tăng ni phật tử Huế biểu tình phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ phật. Diệm cho đàn áp làm hàng chục phật tử chết và bị thương. Làn sóng ủng hộ phật tử Huế lan ra cả nước. Tại Sài Gòn, ngày 11/6/1963 Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm. Ngày 16/6/1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm lung lay chính quyền Nguỵ. Mỹ đã ép Diệm phải dàn xếp nhưng chính quyền Diệm vẫn tiếp tục đàn áp phong trào. Ngày 1/11/1963, Mỹ đã giật dây cho bọn tướng lĩnh Dương Văn Minh tiến hành đảo chính giết anh em Diệm, Nhu. Điều này thể hiện sự khủng hoảng trầm trọng của hệ thống nguỵ quyền miền Nam.


  • Kết quả, đến cuối 1963, thời hạn cho kế hoạch Xtalay - Tay lơ đã hết nhưng Mỹ vẫn không bình định được Miền Nam điều đó khẳng định sự phá sản của kế hoạch này.

- Quân và dân miền Nam đập tan kế hoạch Giônxơn - Mácnamara (1964- 1965)
+ Đầu 1964, tổng thống Mĩ Giônxơn (mới lên thay Kennơđi bị ám sát ngày 22/11/1963) đã chuẩn y kế hoạch Giônxơn - Macnamara thay thế cho kế hoạc Xtalây - Taylơ. Kế hoạch này nhằm đẩy mạnh hơn nữa “chiến tranh đặc biệt”, tăng cường hơn nữa vai trò của Mĩ trên chiến trường nhằm bình định miền Nam có trọng điểm (chủ yếu xung quanh Sài Gòn - Gia Định) trong thời hạn 2 năm.

+ Thắng lợi của ta:
• Thắng lợi về quân sự: quân và dân miền Đông Nam Bộ mở chiến dịch Đông xuân 1964 - 1965 với trận mở màn vào ấp Bình Giã (Bà Rịa) ngày 2/12/1964. Kết quả ta diệt 1700 địch thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh. Thừa thắng, quân dân Miền Nam đẩy mạnh đánh địch vào xuân hè 1965 và đã giành thắng lợi ở An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hoà).

• Trên mặt trận chống bình định, trong năm 1964 và đầu 1965, từng mảng lớn “ấp chiến lược” đã bị phá. Nếu giữa 1963, chúng đã lập được 7.512 “ấp chiến lược” với 9 triệu dân thì đến cuối 1964 chỉ còn 3300 ấp và đến 6/1965 chỉ còn 2200 ấp với 5,5 triệu dân. Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng.

• Phong trào đấu tranh chính trị trong các đô thị lên cao, đặc biệt là sau sự kiện chính quyền Nguyễn Khánh xử bắn Nguyễn Văn Trỗi (15/10/1964). Tính từ cuối 1963, khi Diệm đổ đến giữa 1965 khi Nguyễn Văn Thiệu lên cầm quyền, Sài Gòn có tới trên 10 cuộc đảo chính quân sự để thay thế người đứng đầu chính quyền tay sai Mỹ.

Như vậy, về cơ bản đến đầu 1965 “chiến tranh đặc biệt”của Mỹ - nguỵ bị phá sản.

* ý nghĩa của chiến thắng "chiến tranh đặc biệt"
- Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ bị phá sản làm thất bại âm mưu định “dùng người Việt đánh người Việt” của Mỹ.
- Thắng lợi của quân dân miền Nam đã dẫn đến sự suy yếu và khủng hoảng của chế độ Mỹ - nguỵ, làm cho Mĩ bị động phải chuyển sang một chiến lược chiến tranh mới.
- Thắng lợi này đã mở rộng và phát triển toàn diện thế chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam, là cơ sở để nhân dân ta ở miền Nam tiến lên đập tan những kế hoạch chiến tranh mới của đế quốc Mĩ, giành thắng lợi hoàn toàn.

Sưu tầm
 
Câu 4: Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược chiến tranh cục bộ? Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam chống chiến tranh cục bộ?

a. Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam (âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ?)
* Hoàn cảnh ra đời:
- Để cứu vãn sự phá sản của "Chiến tranh đặc biệt", nhằm đàn áp cách mạng miền Nam, ngăm chặn sự chi viện của miền Bắc, từ 3/1965, Mĩ đã chính thức thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ" và gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc.

- Bản chất của “chiến tranh cục bộ”: "Chiến tanh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu của Mĩ và quân nguỵ tay sai. Trong đó, quân Mĩ đóng vai trò quan trọng nhằm chống lại các lực lượng cách mạng miền Nam.

- Để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ đã triển khai các biện pháp sau:
+ Mĩ đã đưa ồ ạt quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam. Cuối 1964, lính Mĩ có mặt ở miền Nam là 26.000 vạn tên, đến cuối 1965 tăng lên 200.000, đến cuối 1967 lên tới 537.000 tên. Ngoài ra còn có 70.000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ ở Guam, Philíppin, Thái Lan và Hạm đội 7 sẵn sàng tham chiến ở miền Nam.

+ Dựa vào quân số động, vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, cơ động nhanh, Mĩ mở cuộc hành quân “tìm diệt” mang tên “ánh sáng sao” vào căn cứ quân giải phóng ở Vạn Tường. Tiếp đó, Mĩ mở 2 cuộc phản công chiến lược trong 2 mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng tự do và căn cứ kháng chiến của ta.

+ Tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân lần thứ nhất (từ 5/8/1964 đến 1/11/1968)

b. Miền Nam chiến đấu chống "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ (1965 - 1968)
- Với ý chí “quyết chiến, quyết thắng” giặc Mĩ xâm lược, được sự phối hợp chiến đấu và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu và liên tiếp giành nhiều thắng lợi to lớn.

* Thắng lợi về quân sự:
- Chiến thắng Vạn Tường
+ Sáng ngày 18/8/1965, Mĩ huy động 9.000 quân với các phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường (Quảng Ngãi) nhằm tìm kiếm một thắng lợi quân sự để gây thanh thế cho lính thuỷ đánh bộ Mĩ.

+ Sau 1 ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với dân quân du kích, nhân dân địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của địch, tiêu diệt hơn 900 tên, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.

+ ý nghĩa: Vạn Tường được coi là "ấp Bắc" đối với quân Mĩ, mở ra cao trào “tìm Mĩ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt” trên khắp miền Nam và cũng chứng minh khả năng thắng Mĩ trong “Chiến tranh cục bộ” của quân dân ta.

- Chiến thắng mùa khô 1965 - 1966:
+ Mùa khô 1965 - 1966, Mĩ huy động 720.000 quân gồm Mĩ, chư hầu và nguỵ (quân Viễn chinh và quân chư hầu là 220.000) mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (từ 1/1966 đến 4/1966) với tổng số 450 cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm vào đồng bằng khu V và Đông Nam Bộ với mục tiêu là đánh bại quân giải phóng và giành thế chủ động trên chiến trường.

+ Quân dân ta đã chặn đánh địch trên mọi hướng, tiến công khắp mọi nơi. Kết quả ta đã tiêu diệt 67.000 tên địch (trong đó có 3,5 vạn quân Mĩ và chư hầu), bắn rơi và phá huỷ 940 máy bay, phá huỷ 600 xe tăng và xe bọc thép, 1.310 ôtô.

- Chiến thắng mùa khô 1966 - 1967:
+ Mùa khô 1966 - 1967, Mĩ đã mở cuộc hành quân chiến lược lần 2 với 980.000 quân (Mĩ và chư hầu là 440.000) với 895 cuộc hành quân lớn nhỏ trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt nhằm vào hướng chiến lược chính là miền Đông Nam Bộ như: Cuộc hành quân Attơn borơ đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (Thuộc Tây Ninh, 11/1966); cuộc hành quân Xêđa phôn đánh vào “tam giác sắt” (Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi) vào 1/1967; cuộc hành quân Gianxơn Xity đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (2 - 4/1967) nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bước ngoặt trong chiến tranh.

+ Với thế chủ động tiến công và phối hợp với các chiến trường khác, quân ta mở hàng loạt trận phản công đánh bại các cuộc hành quân của địch. Ba cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định” của Mĩ đều bị đánh tan. Kết quả quân ta đã diệt 175.000 tên địch (trong đó có 76.000 Mĩ và chư hầu), bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay, 1.627 xe tăng và xe bọc thép, 2.107 ôtô.

* Thắng lợi về chính trị:
- Trong các đô thị ở miền Nam, giai cấp công nhân, các tầng lớp lao động khác, học sinh, sinh viên, phật tử, các binh sĩ nguỵ đều nổi dậy đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ.

- Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đến cuối năm 1967, Mặt trận có cơ quan thường trực ở hầu hết các nước XHCN và một số nước thuộc thế giới thứ 3. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức có tính chất khu vực lên tiếng ủng hộ.

- Ngoài ra ở các vùng nông thôn, quần chúng nông dân được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, trừng trị bọn ác ôn, phá từng mảng lớn “ấp chiến lược”.

* Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân (1968)

- Hoàn cảnh và chủ trương của ta (nguyên nhân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ?)
- Xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau 2 mùa khô và lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968), ta đã chủ trương mở một cuộc “tổng công kích, tổng khởi nghĩa” trên toàn miền Nam chủ yếu là các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân viễn chinh Mĩ, đánh sập nguỵ quân, nguỵ quyền, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán và rút hết quân về nước.

- Diễn biến: Quân ta đã mở cuộc tập kích chiến lược vào giao thừa tết Mậu Thân (đêm 30 rạng 31/1/1968). Cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trong 3 đợt: 30/1 - 25/2/1968; 4/5 - 18/6/1968; 17/8 - 23/9/1968. Ta đã tiến công và nổi dậy ở 37/44 thị xã, 5/6 thành phố, hàng trăm thị trấn, quận lị và nhiều vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, ta tiến công toà Đại sứ Mĩ , Dinh Độc lập, Bộ tổng tham mưu nguỵ, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất...

- Kết quả: Trong đợt 1 quân ta đã tiêu diệt 150.000 tên địch (trong đó có 43.000 lính Mĩ), phá huỷ một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh.
Nhưng do lực lượng địch còn đông, cơ sở ở thành thị mạnh, chúng nhanh chóng phản công lại quân ta ở cả thành thị lẫn nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3, lực lượng ta gặp nhiều khó khăn và tổn thất, bị đẩy khỏi thành phố. Những người có cảm tình và ủng hộ cách mạng trước đó bị bắt, bị giết hại, nhiều vùng nông thôn bị địch chiếm. Mục tiêu của cuộc tổng tiến công và nổi dậy không đạt được.

- Nguyên nhân của hạn chế: Do ta chủ quan trong việc đánh giá tình hình của ta và địch; do tư tưởng chủ quan nóng vội muốn giành thắng lợi lớn, kết thúc chiến tranh nhanh; do chỉ đạo không chủ động, kịp thời điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố về vùng nông thôn.



  • Mở ra một bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mĩ, buộc chúng phải “phi Mĩ hoá” chiến tranh xâm lược, chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chịu đến Hội nghị Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh xâm lược.


Sưu tầm
 
Câu 5: Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh? Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống Việt Nam hoá chiến tranh diễn ra như thế nào?

a. Chiến lược "Việt Nam hoá" và "Đông Dương hoá" chiến tranh của Mĩ (Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược"Việt Nam hoá" và "Đông Dương hoá" chiến tranh ?)
- Hoàn cảnh ra đời: Đầu năm 1969, Ních xơn đưa ra chiến lược toàn cầu mang tên “ngăn đe thực tế” được áp dụng thí điểm ở miền Nam Việt Nam và Đông Dương với tên gọi “Việt Nam hoá chiến tranh”, “Lào hoá chiến tranh”, “Khơ me hoá chiến tranh”, “Đông Dương hoá chiến tranh”.

- Bản chất của “Việt Nam hoá chiến tranh” là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp của một bộ phận đáng kể lực lượng chiến đấu Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự, cung cấp đôla, vũ khí kỹ thuật, phương tiện chiến tranh, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta.

- Để thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mĩ đã đưa ra các biên pháp sau:
+ Rút dần quân viễn chinh và chư hầu ra khỏi miền Nam;
+ Tăng cường viện trợ quân sự, tăng cường lực lượng quân nguỵ với trang bị hiện đại để có thể "tự đứng vững", "tự gánh vác lấy chiến tranh";
+ Tăng viện trợ kinh tế, giúp quân nguỵ đẩy mạnh thực hiện quốc sách "bình định" nhằm chiếm đất, giành dân với cách mạng;
+ Tăng đầu tư vốn, kỹ thuật để phát triển kinh tế miền Nam vừa để lừa bịp vừa để bóc lột và giảm gánh nặng cho Mĩ;
+ Mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, mở rộng chiến tranh xâm lược Lào, Campuchia;
+ Bắt tay với các nước xã hội chủ nghĩa nhằm cô lập ta.

b. Nhân dân miền Nam chiến đấu chống "Việt Nam hoá chiến tranh", phối hợp với nhân Lào, Campuchia chống "Đông Dương hoá chiến tranh”
- Miền Nam chiến đấu chống “Việt Nam hoá" chiến tranh của Mĩ là chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường. Trong những năm đầu, do ta chủ quan trong việc đánh giá âm mưu mới của địch, chậm trễ trong việc đề ra chủ trương, biện pháp đối phó. Nhưng sau đó đã được khắc phục và đã thu được kết quả.

* Thắng lợi về chính trị:
- Sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (6/6/1969). Đó là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam. Vừa mới ra đời đã được 23 nước công nhận và trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Điều đó khẳng định uy tín của Chính phủ cộng hoà miền Nam Việt Nam là rất cao.

- 18/3/1970, Mĩ đã giật dây bọn tay sai làm cuộc đảo chính quân sự xoá bỏ nền trung lập Xihanúc ở Cămpuchia chuẩn bị cho bước phưu lưu quân sự mới. Để đối phó với tình hình trên, 24 - 25/4/1970, Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương đã họp và khẳng định quyết tâm đoàn kết kẻ thù chung là đế quốc Mĩ.

- Nhân dân ở khắp các đô thị miền Nam cũng nổi đạy đấu tranh rầm rộ. Đi đầu trong phong trào đấu tranh là tầng lớp học sinh, sinh viên, thanh niên. Họ xuống đường nêu cao các khẩu hiệu “chống Mĩ - Thiệu”.

- Nhân dân ở các vùng nông thôn, rừng núi, ven đô thị đều nổi dậy phá “ấp chiến lược”, chống chương trình “bình định nông thôn” của địch. Đến đầu năm 1971, cách mạng giành được quyền kiểm soát thêm 3.600 ấp với 3 triệu dân. Chính quyền cách mạng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu ha ruông đất. Các hoạt động sản xuất kinh tế, văn hoá, giáo dục, ytế ở vùng giải phóng cũng đạt được những kết quả quan trọng.

* Thắng lợi về quân sự
- Từ 30/4 đến 30/6/1970, quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với quân dân Cămpuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Cămpuchia của 10 vạn Mĩ - nguỵ Sài Gòn, giải phóng 5 tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, với 4,5 triệu dân.

- Nửa đầu năm 1970, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào đã đập tan cuộc hành quân lấn chiếm cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng, giải phóng thị xã Atôpơ, Saravan (4/6/1970), giải phóng vùng rộng lớn ở Nam Lào.

- Từ 12/2 đến 21/3/1971, quân dân ta đã phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân chiếm giữ đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn Mĩ - nguỵ Sài Gòn mang tên “Lam Sơn 719” nhằm cắt đôi chiến trường Đông Dương, cắt đứt tuyến đường chi viện chiến lược của ta. Ta đã tiêu diệt 22.000 địch, giữ vững hiành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.

- Cuộc tiến công chiến lược 1972
+ Sau những thắng lợi trong hai năm 1970 - 1971, 5/1971, Bộ Chính trị chỉ thị mở cuộc tiến công chiến lược đầu 1972.
+ Ngày 30/3/1972, ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược bằng việc đánh vào Quảng Trị rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam kéo dài trong năm 1972. Ta đã chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Kết quả sau gần 3 tháng (cuối 6/1972), ta tiêu diệt hơn 20 vạn nguỵ, giải phóng hơn 1 triệu dân.
Sau đòn mở đầu bất ngờ, choáng váng của quân ta, quân nguỵ có sự yểm trợ của hoả lực, không quân và hải quân Mĩ, đã phản công mạnh quân ta, gây cho ta nhiều thiệt hại. Phối hợp với nguỵ, Mĩ gây trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc.



  • Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, giáng đòn mạnh mẽ vào quân nguỵ (công cụ chủ yếu) và quốc sách "bình định" (xương sống) của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, buộc Mĩ phải “Mĩ hoá” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược, tức đã thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.


Sưu tầm
 
Câu 7: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 diễn ra như thế nào? Kết quả ý nghĩa?

a. Chiến dịch Tây Nguyên
- Chủ trương của ta:
-+Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, cả ta và địch đều chú ý và cố gắng nắm giữ. Nhưng hiện tại, do nhận định sai hướng tiến công của ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974, quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.

- Diễn biến:
+ Thực hiện chủ trương trên, ta tập trung lực lượng chủ lực mạnh với binh khí kỹ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên với trận then chốt mở màn đánh vào Buôn Ma Thuột.

+ Đầu tháng 3/1975, quân ta tiến công địch nhiều nơi ở Tây Nguyên, và ngày 4/3/1975 ta đánh nghi binh ở Plâycu, Kontum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó. Ngày 10/3/1975, với lực lượng mạnh hơn địch, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh các cơ quan đầu não của địch. Sau 2 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây và làm chủ thị xã.

+ Ngày 12/3/1975, quân địch tập trung lực lượng mở cuộc phản công nhằm chiếm lại Buôn Ma Thuột. Nhưng tất cả các cuộc phản công của chúng đều bị đánh tan.

+ Sau 2 đòn đau (ngày 10/3 và 12/3) ở Buôn Ma Thuột, toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ chúng rối loạn, từ đó làm nảy sinh những sai lầm lớn về chiến lược. Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kontum và toàn bộ Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải Nam Trung Bộ, rồi tập trung lực lượng tái chiếm lại Buôn Ma Thuột. Ngày 16/3/1975, quân ta được lệnh đánh chặn và truy kích địch trên đường chúng rút khỏi Tây Nguyên. Đến ngày 24/3/1975, toàn bộ quân địch rút chạy bị quân ta tiêu diệt. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc.

- Kết quả:
+ Ta đã diệt toàn bộ quân đoàn 2 trấn giữ ở đây, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân.

- Ý nghĩa:
+Chiến dịch Tây nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới: từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

b. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng:
- Chủ trương của ta:
+ Thấy được thời cơ chiến lược đến nhanh, hết sức thuận lợi, Bộ Chính trị đã họp vào 18/3/1975 và có quyết định kịp thời về kế hoạch giải phóng miền Nam trong năm 1975. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ chiến lược trước mắt là tiến hành chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.

- Diễn biến:
+ Phối hợp với Tây Nguyên, quân ta ở Quảng Trị đẩy mạnh tiến công và ngày 19/3/1975 giải phóng toàn tỉnh. Địch lo sợ bỏ chạy về giữ Huế và Đà Nẵng. Phát hiện địch co cụm ở Huế, ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ địch, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố.

+ Trưa ngày 25/3/1975, quân ta giải phóng cố đô Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên. Trong cùng thời gian trên, quân ta giải phóng thị xã Tam Kì (24/3), Quảng Ngãi (25/3), Chu lai (26/3) tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía sau.

+ Ngày 25/3/1975, Bộ Chính Trị họp và đề ra chủ trương giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Thực hiện kế hoạch trên, quân ta tiếp tục tiến đánh Đà Nẵng.

+ Đà nẵng là một thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, là một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ - nguỵ, hiện tại đang rơi vào thế bị cô lập. Quân ta từ 3 phía Bắc, Tây, Nam tiến nhanh áp sát thành phố. Hơn 10 vạn quân địch bị dồn ứ về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Chúng phải dùng máy bay di tản cố vấn Mĩ và một phần lực lượng nguỵ. Sáng 29/3/1975, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào thành phố, đến 3 giờ chiều thì chiếm được thành phố.

+Trong thời gian từ cuối tháng 3 đến đầu 4/1975, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ đã nổi dậy đánh địch giành chính quyền. Các đảo biển miền Trung và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa được giải phóng.
+Từ 14 đến 29/4/1975, các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do quân nguỵ Sài Gòn chiếm giữ được giải phóng.

- Ý nghĩa:
+ Chiến dịch Huế - Đà Nẵng thắng lợi càng tạo ra thế và lực của ta ngày càng mạnh còn địch thì ngày càng lún sâu vào thế bị động lúng túng, tạo điều kiện cho ta giải phóng hoàn toàn miền Nam bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

c. Chiến dịch Hồ Chí Minh

- Hoàn cảnh và chủ trương của ta:
+ Sau chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, giải phóng hơn nửa đất đai và nửa số dân toàn miền Nam, chiếm giữ một khối lượng lớn vật chất, trang bị, phương tiện chiến tranh. Các lực lượng vũ trang của ta đã trưởng thành nhanh chóng.

+ Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của địch giảm sút nghiêm trọng, chúng phải lùi về phòng thủ từ Phan Rang trở vào. Mĩ cũng đã hết sức giúp ngụy kéo dài cơn hấp hối bằng cách lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chúng.

+ Chủ trương của Bộ Chính Trị nêu rõ “thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam ... phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5/1975)”. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn cũng được Bộ Chính trị mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh” (14/4/1975).

- Diễn biến:
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta đã ra quân trong mùa xuân lịch sử với tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và với khí thế “thần tốc, bất ngờ, táo bạo, chắc thắng”.

+ Ngày 9/4/1975, ta tiến công Xuân Lộc, một căn cứ phòng thủ trọng yếu ở phía đông. Ngày 16/4/1975, ta phá vỡ tuyến phòng thủ ở Phan Rang của địch. Ngày 21/4, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Trước tình thế như vậy, 18/4 tổng thống Mĩ cho di tản người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4/1975, Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống.

17 giờ ngày 26/4/1975, ta nổ súng mở đầu chiến dịch. Tất cả 5 cánh quân từ các hướng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào Sài Gòn theo 5 mục tiêu: Bộ tổng tham mưu nguỵ, Biệt khu thủ đô, Dinh độc lập, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất.

+ Ngày 28/4/1975, các trận địa pháo của ta đồng loạt nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất và chiều hôm đó phi công ta dùng 5 máy bay chiến đấu phản lực A37 thu được của địch mở đợt tập kích vào khu vực chứa máy bay của chúng.

+ Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4, tất cả các cánh quân của ta được lệnh đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố, đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của địch.

9 giờ 30 phút, ngày 30/4, Dương Văn Minh (mới làm tổng thống từ 28/4) kêu gọi “ngừng bắn để điều đình giao chính quyền” nhằm cứu quân nguỵ sụp đổ. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng của ta tiến thẳng vào Dinh “Độc lập” nguỵ, bắt sống toàn bộ nguỵ quyền trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Phủ tổng thống nguỵ, đánh dấu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

+ Thừa thắng, sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở Nam Bộ đứng lên tiến công và nổi dậy theo phương thức xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Đến 2/5/1975, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.


  • Ý nghĩa:
+ Thắng lợi này chẳng những đã mở ra bước ngoặt của lịch sử dân tộc, mà còn tạo thời cơ lớn cho nhân dân Lào, Campuchia hoàn thành giải phóng đất nước.


Sưu tầm
 
CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC TỪ 1954 ĐẾN NĂM 1975


Câu 1: Những thành tựu của miền Bắc trong cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, phát triển kinh tế, văn hoá,y tế, giáo dục (1954 – 1975)?

* Hoàn thành cải cách ruộng đất
- Đảng ta coi cải cách ruộng đất là nhiệm vụ trung tâm bởi vì có cải cách ruộng đất thắng lợi thì mới tạo điều kiện khôi phục tốt, nhanh chóng nâng cao đời sống của nhân dân, tạo điều kiện đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội .

- Trong 2 năm (1954 - 1956) ta đã tiến hành tiếp 4 đợt cải cách ruộng đất trên toàn miền Bắc và thu được kết quả to lớn:
+Về mặt kinh tế: tính chung trong cả 5 đợt cải cách ruộng đất (một đợt trong kháng chiến), ta đã thu được 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ từ tay giai cấp địa chủ chia cho nông dân nghèo, thực hiện triệt để khẩu hiệu “Người cày có ruộng” .
+ Về mặt chính trị: cải cách ruộng đất đã đánh đổ được giai cấp địa chủ phong kiến, giải phóng hoàn toàn giai cấp nông dân khỏi ách áp bức bóc lột, đưa nông dân lên địa vị làm chủ ở nông thôn.

- Tuy nhiên trong quá trình cải cách ruộng đất, chúng ta đã mắc một số sai lầm như: đấu tố cả những địa chủ kháng chiến, những người có công với cách mạng thuộc tầng lớp trên, quy nhầm thành địa chủ một số nông dân, bộ đội, cán bộ, đảng viên ...phương pháp đấu tố thì tràn lan, thô bạo, thiếu phân biệt đối xử. Những sai lầm mang tính “tả khuynh” đó đã nhanh chóng được Đảng và Chính phủ phát hiện và tiến hành sửa sai vào 1957.

- Mặc dù có những khuyết điểm nhưng kết quả ý nghĩa mà cải cách ruộng đất mang lại là rất to lớn đó là: khối công nông liên minh được tăng cường, bộ mặt miền Bắc sau cải cách và sửa sai đã thay đổi hẳn. Thắng lợi trên góp phần tích cực vào việc khôi phục kinh tế.

* Công cuộc khôi phục kinh tế

- Công cuộc khôi phục kinh tế được toàn dân tích cực tham gia và triển khai trong tất cả các ngành:
- Về nông nghiệp: Nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, tăng thêm đàn trâu bò, nông cụ sản xuất. Hệ thống đê điều, kênh mương, đập nước bị địch phá hoại trong kháng chiến đã được sửa chữa. Nhờ những cố gắng đó, tính đến 1957, sản lượng nông nghiệp tăng vượt mức trước chiến tranh. Nạn đói ở miền Bắc căn bản được giải quyết.

- Về công nghiệp: Giai cấp công nhân đã phát huy vai trò tiên phong của mình, kết hợp với sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước anh em đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp quan trọng (than Hòn Gai, dệt Nam Định, xi măng Hải Phòng, điện Hà Nội...), xây dựng thêm 50 nhà máy mới trong đó có: nhà máy gỗ cầu Đuống, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải Phòng, chè Phú Thọ...Đến cuối 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý.

- Giao thông vận tải: Khôi phục gần 700 km đường sắt, trong đó có tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn; sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ôtô; xây dựng lại và mở rộng nhiều bến cảng như: Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thuỷ...Đường hàng không dân dụng được khai thông.

- Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng từng bước được phục hồi.

- Ngoài ra cũng trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta còn đề ra nhiều chủ trương biện pháp để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, mở rộng quan hệ ngoại giao.
Tóm lại, kinh tế của miền Bắc sau 3 năm tiến hành khôi phục đã đạt ngang mức trước chiến tranh. Chế độ người bóc lột người ở nông thôn không còn nữa. Thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố và từng bước lớn mạnh. Thắng lợi của kế hoạch này đã tạo tiền đề cho việc thực hiện những kế hoạch tiếp theo.

* Cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá (1958 - 1960)

- Sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế, tuy đã đạt được một số thắng lợi nhưng nhìn chung kinh tế miền Bắc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp phân tán, lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, tồn tại nhiều thành phần. Vì vậy, Đảng và Chính phủ đã đề ra kế hoạch 3 năm tiếp theo (1958 – 1960) là cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hoá nông nghiệp. Đi đôi với cải tạo, Đảng và Chính phủ cũng chủ trương phát triển kinh tế quốc doanh làm lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân; phát triển văn hoá, giáo dục và ytế nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.

- Kết quả của kế hoạch 3 năm thực hiện cải tạo, phát triển kinh tế, văn hoá là hết sức to lớn. Điều đó được thể hiện :

* Về cải tạo XHCN:
- Kết quả:
+ Trong nông nghiệp: Khắp nơi đều sôi nổi phong trào thi đua xây dựng hợp tác xã. Đến cuối 1960, có hơn 85% số hộ nông dân với 68% ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp.

+ Trong thủ công nghiệp và thương nghiệp: Đến cuối 1960, có 87,9% số thợ thủ công và 45% số người buôn bán nhỏ vào hợp tác xã. Một bộ phận thương nhân được chuyển sang sản xuất hoặc chuyển thành mậu dịch viên.

+ Trong công, thương nghiệp tư bản tư doanh: Đảng và Chính phủ chủ trương cải tạo giai cấp tư sản dân tộc bằng phương pháp hoà bình nhằm sử dụng mặt tích cực của họ vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà dưới hình thức công tư hợp doanh. Đến cuối 1960, có trên 97% số hộ tư sản vào công tư hợp doanh.

- Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cải tạo XHCN, chúng ta đã phạm một số sai lầm như:
+ Đồng nhất cải tạo với xoá bỏ tư hữu các thành phần kinh tế cá thể do không nắm vững quy luật kinh tế cuả thời kỳ quá độ.
+ Thể hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn xoá bỏ nhanh chóng nên đã vi phạm nguyên tắc tự nguyện, không phát huy được tính chủ động tích cực của quần chúng, không tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

- ý nghĩa của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa :
+ Xoá bỏ về cơ bản chế độ người bóc lột người, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

+ Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, hợp tác xã sản xuất đã đảm bảo những điều kiện vật chất, tinh thần, chính trị cho đại bộ phận tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

* Thành tựu về phát triển kinh tế, văn hoá
- Đồng thời với việc cải tạo xã hội chủ nghĩa là xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá. Trong quá trình phát triển kinh tế, Đảng ta đặt vấn đề trọng tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đến 1960, có 172 xí nghiệp do Trung ương quản lý và trên 500 cơ sở do địa phương quản lý (1957 chỉ có 97 xí nghiệp quốc doanh), sản lượng công nghiệp quốc doanh chiếm 89,9% (1955 chiếm 10,8%).

- Về sự phát triển văn hoá, giáo dục, ytế cũng thu được những kết quả lớn. Đến 1960, chúng ta đã xoá được nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người dưới 50 tuổi. Hệ thông giáo dục phổ thông được hoàn chỉnh và mở rộng với số học sinh tăng 80% so với năm 1957. Toàn miền Bắc có 9 trường Đại học với 11.000 sinh viên (gấp 2 lần năm 1957). Cơ sở ytế từ tuyến Trung ương đến cơ sở, đến năm 1960 tăng hơn 11 lần so với năm 1955. Đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên.


  • Với những kết quả đạt được trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) là cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá. Chúng ta có đủ điều kiện để tiến lên thực hiện những kế hoạch kinh tế dài hạn hơn.

Sưu tầm
 
Câu 2: Thành tựu của miền Bắc trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)?

- Phương hướng, nhiệm vụ cơ bản cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động, củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh xã hội.

- Để đạt được mục tiêu đặt ra, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, biện pháp sau:
+ Phát động phong trào thi đua đạt và vượt các lá cờ đầu. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua “Đại Phong”; Công nghiệp có “Duyên Hải”; thủ công nghiệp có “Thành Công”; quân đội có “Ba nhất”; giáo dục có “Hai tốt”. Chung cho các ngành, các giới có phong trào thi đua đạt danh hiệu tổ, đội “lao động XHCN”.

+ Nhà nước đã tăng cường đầu tư vốn cho xây dựng kinh tế gấp 3 lần so với thời kỳ khôi phục kinh tế, chiếm 61,2% trong tổng chi ngân sách nhà nước.

- Nhờ có những biện pháp tích cực và tinh thần quyết tâm lao động sản xuấtcủa toàn Đảng, toàn dân, Miền Bắc đã đạt được những thành tựu rực rỡ:
+ Trong nông nghiệp: Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng và phát triển nông trường, lâm trường quốc doanh, trại thí nghiệm nghiên cứu cây trồng và chăn nuôi...Tỉ lệ sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng lên. Diện tích nước tưới mở rộng nhờ hệ thống thuỷ nông vừa và nhỏ phát triển. Năng suất lúa ở nhiều hợp tác xã đã đạt trên 5 tấn/ha. Trên 90% số hộ đã vào hợp tác xã (trong đó 50% là bậc cao).

+ Trong công nghiệp: Nhà nước ưu tiên vốn đầu tư để phát triển. Miền Bắc đã đẩy mạnh xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp và đưa vào sử dụng như: gang thép Thái Nguyên, nhiệt điện Uông Bí, Thuỷ điện Thác Bà, phân đạm Bắc Giang, Supe phốt phát Lâm Thao, khu công nghiệp Việt Trì, Dệt 8/3, Sứ Hải Dương...Công nghiệp quốc doanh đã chiếm 93,1% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hàng trăm xí nghiệp công nghiệp ở địa phương cũng được xây dựng.

+ Thương nghiệp: Thương nghiệp quốc doanh được Nhà nước ưu tiên phát triển đã chiếm lĩnh thị trường góp phần vào phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân.

+ Giao thông vận tải: Mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông được củng cố, xây dựng hoàn chỉnh, phục vụ đắc lực cho giao lưu hàng hoá và củng cố quốc phòng.

+ Các ngành văn hoă - giáo dục - ytế đã có bước phát triển đáng kể. Đồng thời với việc nâng cao đời sống vật chất, từng bước nâng cao đời sống tinh thần, văn hoá của nhân dân. góp phần vào việc đào tạo ra con người mới XHCN và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Về giáo dục, năm học 1964 - 1965 so với năm học 1960 - 1961, số học sinh phổ thông tăng từ 1.899.000 lên 2.676.000, sinh viên đại học tăng từ 16.700 lên 27.000. Ngành ytế mở rộng mạng lưới đến tận huyện, xã. Ngành vừa phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, vừa bảo đảm yêu cầu đào tạo cán bộ ytế cho chiến trường và sẵn sàng chuyển mạng lưới ytế phù hợp với điều kiện thời chiến.

+ Về quốc phòng: quân đội được xây dựng một bước theo hướng chính quy và bước đầu được trang bị hiện đại, đủ sức bảo vệ vững chắc miền Bắc và đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.

+ Ngoài ra miền Bắc còn ra sức làm tròn nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho miền Nam. Trong 5 năm (1961 - 1965), miền Bắc đã chuyển vào chiến trường một khối lượng lớn vật chất bao gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, thuốc men...Ngày càng có nhiều đơn vị vũ trang, nhiều cán bộ quân sự, chính trị, văn hoá, giáo dục, ytế lần lượt vào miền Nam làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng vùng giải phóng.

- Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm, chúng ta đã phạm một số sai lầm do tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội gây ra:
+ Sai lầm về tư tưởng thể hiện trong việc đề ra phương châm tiến lên chủ nghĩa xã hội nhanh, mạnh, vững chắc;
+ Đề ra nhiệm vụ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, hiện đại hoá nền kinh tế vốn nhỏ bé, lạc hậu của ta, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, chưa có những tiền đề cần thiết;
+ Đề ra mục tiêu, chỉ tiêu quá lớn và cao so với điều kiện hiện tại và với khả năng thực tế của ta. Sai lầm đó chậm được khắc phục sửa chữa.


  • Tuy còn có những mặt hạn chế nhưng những thành tựu đạt được trên đã có tác dụng củng cố miền Bắc về mọi mặt để đủ sức đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ và chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta trong những năm tới.

Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Câu 3: Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ 1 của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ hậu phương lớn (1965 - 1968)

a. Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 1 (Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ?)
- Âm mưu của Mĩ:
+ Ngày 5/8/1964, Mĩ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ", đến 7/2/1965, lấy cớ trả đũa quân giải phóng miền Nam tấn công doanh trại Mĩ ở Plâycu, Mĩ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc lần thứ nhất.

+ Mục đích của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm: phá tan tiềm lực kinh tế quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mĩ của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước.

- Để đạt được mục đích trên, Mĩ đã dùng những thủ đoạn thâm độc như:
- Mỹ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau, kể cả F 111, B52 và các loại vũ khí hiện đại. Chúng tập trung vào các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi, khu đông dân. Thậm chí cả cơ sở hạ tầng xã hội như: nhà trẻ, trường học, bệnh viện, khu an dưỡng, nhà thờ, đền, chùa...Đế quốc Mĩ bắn phá với cường độ ngày càng tăng, trung bình mỗi ngày có 300 lượt máy bay với 1.600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá, cơ sở kinh tế. Chúng đã giết hại nhiều người, phá hoại nhiều cơ sở kinh tế, công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã xây dựng hơn 10 năm trước.

b. Miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ 1 và làm tròn nghĩa vụ hậu phương
* Chủ trương của ta:
- Ngay khi Mĩ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang điều kiện có chiến tranh phá hoại như: thực hiện quân sự hoá toàn dân; Đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh, sơ tán người và của ra khỏi vùng trọng điểm, nơi đông dân.

- Lực lượng chống chiến tranh phá hoại là lực lượng phòng không, không quân, hi quân với vũ khí hiện đại và của cả lực lượng tự vệ, dân quân, của toàn dân.

- Trong sản xuất, xây dựng kinh tế, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp nhằm hạn chế sự tàn phá của chiến tranh phá hoại.

- Các mặt văn hoá, giáo dục, ytế, khoa học, văn học nghệ thuật vẫn tiếp tục được chú trọng phát triển.

* Những kết quả đạt được:
- Miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ cứu nước sôi nổi. Lực lượng vũ trang nhân dân nêu cao khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Giai cấp công nhân nêu cao quyết tâm “chắc tay súng, vững tay búa” phấn đấu đạt 3 điểm cao (năng xuất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều). Nông dân tập thể nêu quyết tâm “Chắc tay súng, vững tay cày”. Thanh niên có phong trào “3 sẵn sàng” (Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần). Phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang” (đảm đang sản xuất, công tác; đảm đang phục vụ chiến đấu và chiến đấu). Trong giáo dục có phong trào “Hai tốt” (dạy tốt, học tốt). Thiếu niên nhi đồng có phong trào “làm nghìn việc tốt”. Nhờ những hoạt động thi đua như vậy mà quân dân miền Bắc đã giành được thắng lợi trên tất cả các mặt:

- Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại: Kết quả, trong hơn 4 năm (5/8/1964 - 1/11/1968), quân dân miền Bắc đã bắn rơi, phá huỷ 3.243 máy bay trong đó 6 máy bay B52, 3 F111, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái, bắn cháy và bị thương 143 tàu chiến, tàu biệt kích. Do thất bại nặng nề ở cả hai miền, 1/11/1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc.

- Trên mặt trận sản xuất: mọi mặt vẫn tiếp tục được đẩy mạnh
+ Trong công nghiệp: công nghiệp Trung ương có giảm sút do sự đánh phá ác liệt của địch. Tuy nhiên công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển nhanh chóng.
+ Trong nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất không ngừng tăng lên. Ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt 3 mục tiêu: 5 tấn thóc, hai đầu lợn, 1 lao động trên 1 ha diện tích gieo trồng trong một năm

- Về văn hoá, giáo dục, ytế, khoa học, văn học, nghệ thuật cũng được phát triển mạnh, đã phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị và cho đời sống nhân dân.

- Về giao thông vận tải, là một trong những trọng điểm bắn phá của địch, ta bảo đảm thường xuyên thông suốt.

  • Trong điều kiện có chiến tranh, những thành tựu đạt được của miền Bắc là hết sức to lớn. Do những nỗ lực phi thường trong sản xuất, chiến đấu và sự giúp đỡ ủng hộ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhân dân Miền Bắc đã giải quyết được yêu cầu vừa chiến đấu tại chỗ vừa ổn định đời sống, chi viện ngày càng lớn cho miền Nam và đặt cơ sở lâu dài cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này.


* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương lớn
- Mặc dù bị chiến tranh phá hoại nhưng miền Bắc vẫn hoàn thành nghĩa vụ hậu phương đối với miền Nam một cách xuất sắc vơí tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, phấn đấu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.

- Qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển được khai thông từ 5/1959, trong 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chụ tấn vật chất gồm vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực, xăn dầu...Tính chung số sức người, sức của trong 4 năm tăng gấp 10 lần so với trước.


  • Nguồn chi viện trên cùng với sự thắng lợi của quân dân miền Bắc giành được trong chiến đấu và sản xuất đã có tác dụng to lớn góp phần vào thắng lợi của quân dân miền Nam trong chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” của Mỹ - nguỵ


Sưu tầm
 
Câu 4: Những thành tựu của miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ hậu phương (1969 - 1973)?

a. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và tiếp tục phát triển kinh tế
- Ngày 1/11/1968, do thất bại nặng nề ở cả 2 miền Nam Bắc, Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng hẳn ném bom bắn phá miền Bắc, miền Bắc đã hoà bình. Đảng và Chính phủ ta chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, ra sức chi viện cho tiền tuyến.

- Thực hiện chủ trương trên, cuối 1969 ba cuộc vận động lớn được mở ra là: tích cực lao động sản xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ của xã viên ở nông thôn; nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh.
Nhân dân miền Bắc đã tích cực đẩy mạnh thi đua học tập, lao động sản xuất, nghiên cứu nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Thành tựu đạt được thể hiện:
+ Trong khôi phục và phát triển kinh tế: Ta chủ trương khôi phục và phát triển trước hết trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.

+ Trong nông nghiệp, ta chủ trương khôi phục sản xuất và chăn nuôi. Chăn nuôi được đưa thành ngành chính. Đẩy mạnh việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhờ đó nhiều hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha (có hợp tác xã đạt 6 -7 tấn). Năm 1970, sản lượng lương thực tăng hơn 1968 là 60 vạn tấn. Việc cải tiến quản lý hợp tác xã có bước tiến đáng kể.

+ Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp được khôi phục nhanh chóng. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng đều có bước phát triển. Sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.

+Hệ thống giao thông được khôi phục, nhất là các tuyến giao thông chiến lược.

+ Về văn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân được ổn định.

+ Quốc phòng được củng cố nhằm sẵn sàng đối phó với âm mưu mới của địch.


  • Với nhiều thành tựu đạt được trong công cuộc khôi phục và phát triển về mọi mặt đã tạo ra tiềm lực mới cho miền Bắc tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ và làm tốt vai trò hậu phương cũng như nghĩa vụ quốc tế.

b. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ (Từ 16/4/1972 đến 22/10/1972 và 18/12/1972 đến 15/1/1973)
- Để cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” đang trên đà phá sản đồng thời tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Hội nghị Pari, tập đoàn Níchxơn đã quyết định dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc lần thứ 2.

- Từ 6/4/1972, một tuần sau khi quân dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược (30/3/1972), Mĩ đã cho không quân, hải quân bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972, Níchxơn chính thức tuyên bố cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2. Đến ngày 9/5/1972, Ních xơn tuyên bố tăng cường, mở rộng quy mô đánh phá và phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.

So với lần 1, cuộc chiến tranh phá hoại lần này lớn hơn hẳn về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, chúng tập trung sử dụng những loại máy bay hiện đại nhất là B52, F111.

+ Miền Bắc đã có sự chuẩn bị từ trước nên luôn sẵn sàng chiến đấu, đánh trả địch ngay từ trận đầu. Với cách đánh mưu trí, dũng cảm vận dụng những kinh nghiệm có được, các lực lượng phòng không, không quân và phòng thủ biển đã giành nhiều chiến thắng. Tính trong thời gian đầu (4 đến 10/1972), quân ta bắn rơi 651 máy bay, bắn cháy và bị thương 80 tàu chiến, bắt sống hàng trăm giặc lái. Buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra vào ngày 22/10/1972.

- Tiếp theo, ngày 14/12/1972, để hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao, ép ta phải chấp nhận những điều khoản do Mĩ đưa ra, Níchxơn (8/11/1972 trúng lại chức tổng thống) đã quyết định cho tập kích bằng không quân chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng. Từ 18/12/1972 đến 29/12/1972, Mĩ sử dụng700 lần máy bay B52, gần 4.000 lần chiếc máy bay chiến thuật rải xuống các mục tiêu từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc 10 vạn tấn bom đạn (Hà Nội là 4 vạn tấn), với sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử mà Mĩ ném xuống Nhật Bản năm 1945.

+ Nhân dân miền Bắc do có tinh thần cảnh giác, tích cực chuẩn bị đã đánh bại chiến tranh phá hoại lần 2 lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Miền Bắc bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 B52, 5 F111), 44 giặc lái bị bắt (riêng Hà Nội bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 máy bay B52, 2 F111).

Tính chung trên cả miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay (61 B52 và 10 F111), bắn cháy và bị thương 125 tàu chiến, bắt hàng trăm giặc lái.

Trước những thất bại thảm hại, 30/12/1972 chính phủ Mĩ tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và 15/1/1973 thì tuyên bố ngừng hoàn toàn hoạt động chống phá miền Bắc để đi đến ký hiệp định Pari với ta.


* Trên mặt trận sản xuất:
Trong điều kiện của cuộc chiến đấu ác liệt lại có kinh nghiệm kết hợp chiến đấu và sản xuất của lần trước, kinh tế miền Bắc một lần nữa chuyển hướng, các hoạt động sản xuất và xây dựng không bị ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội như văn hoá, giáo dục, ytế vẫn được duy trì và phát triển. Nhân dân sơ tán nhưng đời sống vẫn bảo đảm để tiếp tục sản xuất và chiến đấu thắng lợi.

* ý nghĩa: Thắng lợi của quân dân miền Bắc góp phần quan trọng buộc Mĩ phải xuống thang chiến tranh chấp nhận ký hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước tạo điều kiện cho ta giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho miền Nam, chiến trường Lào, cămpuchia
- Mặc dù phải khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, miền Bắc trong 3 năm (1969 - 1971) đã động viên được hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ trong đó 60% được bổ sung cho chiến trường miền Nam, Lào, Cămpuchia. Khối lượng vật chất trong 3 năm tăng 1,6 lần so với 3 năm trước.

- Bước sang năm 1972, mặc dù Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại với mức cao hơn về quy mô, tốc độ, cường độ bắn phá, phong toả các hải cảng, bờ biển, cửa sông nhưng vẫn không ngăn cản được miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương. Kết quả, khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 tăng 1,7 lần so với năm 1971. Năm 1972, miền Bắc động viên 22 vạn thanh niên bổ sung cho miền Nam, Lào, Căm puchia.


  • Với sự chi viện thường xuyên, đầy đủ của miền Bắc góp một phần quan trọng vào việc đập tan âm mưu của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh và “Đông Dương hoá” chiến tranh.


Sưu tầm
 
Câu 5: Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, ra sức chi viện cho tiền tuyến (1973 - 1975)?

- Sau 2 lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, miền Bắc bị tàn phá nặng nề. Sau hiệp định Pari 1973, hoà bình trở lại, miền Bắc có điều kiện khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, ra sức chi viện cho tiền tuyến, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.

- Trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế, đến 6/1973 miền Bắc đã cơ bản tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn trên biển, sông, bảo đảm cho việc đi lại. Sau 2 năm (1973 - 1974), về cơ bản ta khôi phục xong các cơ sở kinh tế, hệ thống thuỷ nông, các mạng lưới giao thông, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển. Đến 1974 sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đạt và vượt mức năm 1964 và 1971 (là 2 năm cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc). Đời sống nhân dân được ổn định.

- Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với chiến trường bạn Lào, Cămpuchia. Để đảm bảo việc vận chuyển vật chất, người vào chiến trường và vùng giải phóng miền Nam, Lào, Căm puchia, trong 2 năm 1973 - 1974, ta đã mở rộng, nâng cấp tuyến đường vận chuyển Bắc - Nam. Đến 1975, tuyến đường được nâng cấp và mở rộng dài 16.000 km. Ta đã xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu 5.000 km vươn tới Lộc Ninh (Bình Phước) và một hệ thống đường thông tin liên lạc hữu tuyến đến tận các chiến trường...Kết quả trong 2 năm (1973 - 1974), miền Bắc đưa vào chiến trường miền Nam, Lào, Cămpuchia gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kỹ thuật. Miền Bắc đưa vào chiến trường hàng chục vạn tấn vật chất, gồm vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm...


  • Sự chi viện về sức người, sức của của miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này đã góp phần đáp ứng yêu cầu phục vụ chiến đấu với trọng tâm là tiến tới cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ngoài ra còn phục vụ cho yêu cầu xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: quốc phòng, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, giao thông vận tải và chuẩn bị cho tiếp quản vùng giải phóng sau khi kết thúc chiến tranh.


  • Tóm lại, với thành tựu đạt được trong khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở miền Bắc trong giai đoạn này góp phần đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đồng thời có thêm tiềm lực để chi viện cho miền Nam, Lào, Cămpuchia, thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Sưu tầm
 
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1954) VÀ ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC(1954-1975)


Câu 1: Phân tích nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)?

a. Nguyên nhân chủ quan

- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là do có một đường lối chính trị, quân sự đúng đắn. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. với đường lối đúng đắn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lực lượng của toàn dân, của cả nước đã được động viên đến mức cao nhất vào cuộc chiến đấu; đồng thời thống nhất được cuộc chiến đấu của nhân dân ta với thế tiến công của phong trào cách mạng thế giới.

- Nắm vững quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, ngay từ đầu đường lối kháng chiến được xác định đúng đắn. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh, trong đó nội dung cốt yếu nhất, cơ bản nhất là chiến lược toàn dân kháng chiến. Với chiến lược này, Đảng ta đã tổ chức thành một mặt trận, tạo nên thế trận "cả nước đánh giặc", "mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài".

- Kháng chiến chống Pháp thắng lợi là do toàn Đảng, toàn dân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, theo tinh thần: "thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Với tinh thần đó, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua mội khó khăn, gian khổ, nêu cao truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

- Kháng chiến thắng lợi vì ta có hậu phương vững chắc. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi hậu phương là một trong những nhân tố thắng lợi thường xuyên của chiến tranh, Đảng và chính phủ dã ra sức xây dựng hậu phương về mọi mặt, củng cố chế độ dân chủ nhân dân. Nhờ đó đã cho phép động viên cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.

b. Nguyên nhân khách quan
- Do có sự đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, của sự giúp đỡ to lớn của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, cũng nhơ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.


Sưu tầm
 
Câu 2: Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực Pháp xâm lược?

a. Đối với dân tộc
+ Cuộc kháng chiến của nhân dân ta thắng lợi đã buộc thực dân Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương của đế quốc Pháp - Mỹ bị thất bại hoàn toàn.

+ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng tháng Tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ; đồng thời tạo điều kiện để hoàn thành triệt để cách mạng ruộng đất, xoá bỏ vĩnh viễn chế độ người bóc lột người.

b. Đối với thế giới
+ Tiếp theo cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là một đòn giáng mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ;

+ Đồng thời đập tan âm mưu của đế quốc Mĩ muốn thay chân Pháp nô dịch nhân dân các nước trên bán đảo Đông Dương, nhăn chặn sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Nam á.

+ Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trước hết là các nước Châu á, Châu Phi, góp phần thu hẹp trận địa của chủ nghĩa đế quốc.

+ Thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp làm sáng tỏ một chân lý: trong điều kiện thế giới hiện nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ của quốc tế, thì hoàn toàn có khả năng đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo.

Sưu tầm
 
Câu 3: Phân tích nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975)?

a. Nguyên nhân chủ quan
- Thắng lợi này bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, có đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn sáng tạo. Đó là đường lối tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc. Cách mạng nước ta từ đó có thể kết hợp được sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, kết hợp được cuộc chiến đấu cứu nước của nhân dân ta với cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng, dân chủ, hoà bình trên thế giới.

- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước do Đảng lãnh đạo, nó được phát huy cao độ, sức mạnh của dân tộc được tạo ra bởi truyền thống đó được nhân lên gấp bội. Tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng là sức mạnh tinh thần to lớn của quân dân ta ở hai mĩền đất nước trong cuộc đấu tranh gian lao đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang.

- Miền Bắc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, được xây dựng củng cố và tăng lên không ngừng tiềm lực kinh tế, quốc phòng, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn, đáp ứng nhu cầu chi viện ngày càng cao về sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

b. Nguyên nhân khách quan

- Tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa 3 dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia trong một chiến lược chung và trên chiến trường Đông Dương thông nhất tạo ra sức mạnh to lớn cho lực lượng cách mạng 3 nước Đông Dương.

- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên xô - Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đồng thời nhận được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng cách mạng dân chủ, hoà bình và loài người tiến bộ trong đó có nhân dân Mĩ.

Trong những nguyên nhân trên thì nguyên nhân có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là nhân tố bao trùm chủ yếu tạo nên thắng lợi.

* Kết quả:
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta kéo dài hơn hai thập kỷ từ 1954 đến 1975, dài hơn bất cứ một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử vì phải chống lại 1 đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mĩ. Cuối cùng thì nhân dân ta đã giành được chiến thắng, thực hiện chọn vẹn mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thống nhất đất nước.

Sưu tầm
 
Câu 4: Phân tích ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của nhân dân ta?


- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta, một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc" (Báo cáo Chính trị tại Đại hội IV của Đảng).

- Đối với Việt Nam:
+ Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ tổ quốc từ sau cách mạng tháng 8 - 1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, rửa sạch cái nhục và nỗi đau mất nước hơn một thế kỷ trên cơ sở đó hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xoá bỏ những trướng ngại trên con đường thực hiện thống nhất đất nước.

+ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã mở ra kỷ nguyên mới của cách mạng Việt Nam: kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

- Đối với đế quốc Mĩ, đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử 200 năm của nước Mĩ; thắng lợi của Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống lại một cường quốc lớn mạnh đã có tác động mạnh đến nội tình nước Mĩ và cục diện thế giới.

- Đối với thế giới:
+ Thắng lợi của nhân dân ta đã dập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng cách mạng sau chiến tranh thế giới thứ II của tên đế quốc đầu sỏ, phá vỡ phòng tuyến quan trọng ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam á của đế quốc Mĩ, góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy chúng vào tình thế khó khăn, thu hẹp và làm yếu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

+ Tăng cường liên minh chiến đấu giữa 3 dân tộc Đông Dương, tăng cường các lực lượng cách mạng, dân chủ và hoà bình thế giới.

+ Thắng lợi của ta là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các phong trào cách mạng trên thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.


Sưu tầm
 
ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC (1946-1975)


Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa của Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương?

a. Hoàn cảnh lịch sử
- Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường trước sau như một của nhân dân ta là sẵn sàng thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam trên cơ sở độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng thực dân Pháp vẫn ngoan cố tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược. Cho đến cuối năm 1953 đầu năm 1954, do bị thất bại nặng nề và gặp nhều khó khăn, chúng mới chịu thay đổi thái độ, chấp nhận cuộc đàm phán với ta.

b. Diễn biến hội nghị
Tháng 1/1954, Hội nghị ngoại trưởng 4 nước (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp) tại Béclin đã thoả thuận triệu tập hội nghị quốc tế tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương .

- Ngày 26/4/1954, giữa lúc quân ta chuẩn bị mở đợt tấn công thứ 3 để quyết định số phận quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương thì Hội nghị Giơnevơ khai mạc.

- Ngày 8/5/1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, phái đoàn Chính phủ ta do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn bước vào bàn Hội nghị với tư thế của người chiến thắng bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương.

- Cuộc đấu tranh ngoại giao ở Giơnevơ diễn ra gay go phức tạp, ta kiên trì đấu tranh chống âm mưu phá hoại của đế quốc Pháp, Mỹ và các thế lực phản động quốc tế, đến ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

c. Nội dung của Hiệp định:
- Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Lào, Căm pu chia, không can thiệp vào công việc nội bộ của 3 nước đó.

- Để chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam, 2 bên cùng thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân, và chuyển giao khu vực; lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở 2 bên giới tuyến. “Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là ranh giới về chính trị và lãnh thổ”.

- Hiệp định cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào 3 nước Đông Dương. Các nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được gia nhập những khối liên minh quân sự và không được để các nước khác dùng lãnh thổ của mình để gây lại chiến tranh hoặc để phục vụ mục đích xâm lược .

- Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước. Cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956 dưới sự kiểm soát của một Uỷ ban quốc tế (gồm ấn Độ, Ba Lan, Canađa, do ấn Độ làm chủ tịch).

- Trách nhiệm thi hành hiệp định Giơnevơ thuộc về những người ký hiệp định và những người kế tiếp nhiệm vụ của họ.

Hạn chế: Việt Nam mới giải phóng được một nửa nước từ vĩ tuyến 17 ra bắc; Lào chỉ có 2 tỉnh Sầm Nưa va Phongxalì được giải phóng; Campuchia, lực lượng kháng chiến không giành được vùng tập kết nên phải giải ngũ.

d. ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ
- Hiệp định Giơnevơ cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp có Mỹ giúp sức ở Đông Dương. Pháp phải rút quân viễn chinh về nước. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân Lào và Campuchia bước vào thời kỳ gay go, phức tạp và quyết liệt mới.


Sưu tầm
 
Câu 2: Hội nghị Pari và Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam được triệu tập trong hoàn cảnh lịch sử nào? Nội dung và ý nghĩa của Hiệp định Pari?

a. Hội nghị Pari
* Hoàn cảnh dẫn đến Hội nghị Pari
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đấu tranh ngoại giao là một trong ba mặt trận đấu tranh của nhân dân ta bên cạnh đấu tranh quân sự và chính trị, trong đó đấu tranh quân sự và chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Quan điểm của Đảng ta là “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn Hội nghị cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”(Nghị quyết Hội nghị TƯ lần thứ 13 vào 1/1967).

- Xuất phát từ quan điểm như vậy, đầu 1967 sau những thắng lợi quân sự trong 2 mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, ta chủ trương đồng thời tiến công địch về quân sự, chính trị cần mở thêm mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mĩ, vạch trần luận điệu hoà bình lừa bịp của chúng rêu rao từ 1965, đồng thời nêu lên tính chất chính nghĩa, lập trường đúng đắn của ta, tranh thủ rộng rãi sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế.

* Quá trình diễn biến của Hội nghị:
- Mục tiêu đấu tranh ngoại trước mắt của ta là yêu cầu Mĩ chấm dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống Việt Nam dân chủ cộng hoà, coi đó là điều kiện để đi đến thương lượng.
- Ngày 31/3/1968, sau đòn đánh bất ngờ, mạnh mẽ của cuộc tập kích chiến lược tết Mậu Thân (1968), cùng với việc ra lệnh ngừng các cuộc ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, Giôn xơn bắt đầu nói đến thương lượng với Việt Nam.
Cuộc đàm phán tại Hội nghị Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam diễn ra trong gần 4 năm 9 tháng (Từ 13/5/1968 với phiên họp đầu tiên giữa hai bên đến 27/1/1973 là phiên họp cuối cùng ký kết Hiệp định Pari), với tất cả 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng. Cuộc đàm phán ở Pari trải qua 2 giai đoạn:

- Giai đoạn 13/5/1968 đến 25/1/1969: Cuộc thương lượng chính thức giữa hai bên là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và đại diện Chính phủ Hoa kì họp phiên đầu tiên. Nội dung đấu tranh của phái đoàn ta trong giai đoạn này là yêu cầu Mĩ trước tiên phải chấm dứt các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác một cách không điều kiện và trên toàn bộ miền Bắc, rồi mới bàn đến các vấn đề có liên quan đến hai bên. Kết quả đến 1/11/1968, Giôn xơn tuyên bố ngừng tất cả các cuộc ném bom bắn phá trên toàn miền Bắc.

Sau sự kiện này, cuộc thương lượng giữa ta và Mĩ xoay quanh vấn đề chủ yếu về hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất về hình thức hội nghị 4 bên giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ), Hoa Kì và Việt Nam cộng hoà (chính quyền nguỵ Sài Gòn).

- Giai đoạn 25/1/1969 đến 27/1/1973: Hội nghị bốn bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên ngày 25/1/1969 tại Pari. Trong quá trình thương lượng, lập trường của 4 bên mà thực chất là 2 bên Việt Nam và Mĩ rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt đến mức nhiều lúc phải gián đoạn. Trong các cuộc họp chung công khai cũng như trong các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt là đòi Mĩ rút hết quân viễn chinh cùng quân các nước thân Mĩ khỏi miền Nam, và đòi họ tôn trong các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mĩ trước sau đều nêu ra quan điểm “có đi có lại”, đòi 2 bên (cả quân miền Bắc có mặt ở miền Nam) “cùng rút quân”. Họ đặt ngang hàng kẻ đi xâm lược và người chống xâm lược.

Do thất bại nặng ở cả hai miền nước ta, lại muốn giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống vào đầu 11/1972, Ních xơn dùng thủ đoạn lùi bước trong thương lượng và xuống thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đầu 10/1972, phái đoàn Mĩ đến Pari nối lại cuộc đàm phán đã bị gián đoạn 3/1972. Trong cuộc tiếp xúc riêng với đại diện Mĩ ngày 8/10/1972 tại Pari, ta đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến kí kết. Ngày 17/10/1972, văn kiện Hiệp định được hoàn tất và hai bên đã thoả thuận đến 31/10/1972 sẽ kí chính thức. Trước khi kí, 22/10/1972, Ních xơn tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Nhưng sau khi trúng cử lại tổng thống (8/11/1972), tập đoàn Ních xơn trở mặt, dây dưa, trì hoãn việc kí kết. Chúng đòi ta thảo luận thêm, đòi xét lại văn bản Hiệp định đã thoả thuận đòi ta nhân nhượng. Để ép ta nhân nhượng, Ních xơn cho mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 (18/12/1972 đến 29/12/1972) nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Thất bại của Mĩ trên chiến trường đã quyết định thất bại của chúng trên bàn thương lượng. Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký vào ngày 27/1/1973.

b. Nội dung cơ bản của Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam
- Mĩ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Mĩ phải rút hết quân Mĩ và quân của các nước thân Mĩ, phá hết các căn cứ quân sự, cam kết không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

- Các bên để cho nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai của mình thông qua tổng tuyển cử tự do.

- Các bên công nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả tù binh và dân thường bị bắt.

c. ý nghĩa:
- Hiệp định Pari đã ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Mĩ và các nước khác không được dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của Việt Nam.

- Hiệp định Pari mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Quân Mĩ và quân đội nước ngoài phải rút toàn bộ ra khỏi miền Nam, tạo điều kiện để tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Sưu tầm
 
ĐẤT NƯỚC TRÊN ĐƯỜNG ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1986-2000)

Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung Đường lối đổi mới được Đảng ta đề ra như thế nào trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (12/1986)?

* Hoàn cảnh:
- Trải qua hơn một thập kỷ, Đảng và nhân dân ta vừa làm vừa tìm tòi thử nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa đạt được những thành tựu và tiến bộ đáng kể trong những lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng cách mạng cũng gặp không ít những khó khăn, có không ít yếu kém do sai lầm khuyết điểm gây ra. Khó khăn của ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn làm cho đất nước từ giữa những năm 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội.

- Để khắc phục sai lầm khuyết điểm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới vì vậy Đảng ta đã triệu tập Đại hội từ 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội, Đây được coi là mốc đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới.

* Nội dung:
- Quan điểm của Đảng về đổi mới:
+ Đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu cn mà làm cho mục tiêu ấy thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội với nhiều hình thức bước đi, biện pháp thích hợp.

+ Đổi mới toàn diện đồng bộ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đổi mới về kinh tế phải đi đôi với đổi mới về chính trị. Đổi mới chính trị phải tích cực, vững chắc, mang lại kết quả thực tế, không gây mất ổn định về chính trị, không làm phương hại đến toàn bộ công cuộc đổi mới.

- Nội dung đổi mới:
+ Về kinh tế:
• Trên cơ sở nâng cao nhận thức về đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là cả một quá trình lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng đường, Đại hội VI đề ra “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát” của chặng đường đầu tiên là “ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá cho chặng đường tiếp theo”.

• Trước mắt trong 5 năm 1986 - 1990, tập trung sức người, sức của thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu của 3 chương trình kinh tế là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nội dung 3 chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.

• Nền kinh tế quốc dân của ta phải bao gồm nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ, và gồm hai bộ phận chủ yếu công - nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Trong nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; trước hết bảo đảm lương thực và thực phẩm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.

• Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự phát triển; cải tạo đi đôi với sử dụng phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Cải tạo nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thành phần kinh tế tập thể ở nông thôn phải được củng cố bằng việc không ngừng hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động.

• Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể làm nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế, mọi người lao động được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, và đều hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

• Xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường, kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh. Quản lý kinh tế không bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng biện pháp kinh tế lấy khuyến khích lợi ích vật chất làm động lực chủ yếu để phát triển sản xuất, lấy kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc cao nhất để phân phối sản phẩm xã hội cho người lao động.

• Mở rộng quan hệ đối ngoại, sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế.

- Về chính trị:
- Đại hội nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ hoá xã hội, đến quan điểm “lấy dân làm gốc”, đến việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, coi đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý lấy nhà nước của mình.


Sưu tầm
 
MỘT SỐ ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC TỪ KHI ĐẢNG TA THÀNH LẬP CHO ĐẾN NAY


Câu 1: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951)?
a. Hoàn cảnh:
Sau chiến thắng Biên Giới, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ giữ vững và phát huy quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Nhưng đồng thời trong thời gian này, thực dân Pháp đang có những cố gắng để giành lại quyền chủ động. Trong tình hình đó, để tăng cường sự lãnh đạo, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Đảng ta đã tiến hành đại hội.

b. Nội dung Đại hội:
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II được họp tại Chiêm Hoá (Tuyên Quang) từ ngày 11 đến 19/2/1951. Đại hội thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng do Hồ chủ Tịch trình bày, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh trình bày và thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ mới của Đảng.

- Báo cáo chính trị đã nêu lên những thành tựu quan trọng của cách mạng thế giới trong nưả đầu thế kỷ XX, đồng thời tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh của Đảng từ khi ra đời. Báo cáo vạch rõ những khuyết điểm nảy nở trong quá trình kháng chiến như bi quan, hoặc chủ quan nóng vội. Báo cáo nêu rõ những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới". Để hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu đó, phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, thực hiện chính sách ruộng đất, thành lập mặt trận thống nhất Việt Nam - Lào - Campuchia, tăng cường đoàn kết quốc tế...

- Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam trỳnh bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xuất phát từ sự phân tích tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam, Báo cáo xác định:

+ Đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp và can thiệp Mĩ) và bọn bù nhìn Việt gian phản nước, đại biểu cho quyền lợi của đại địa chủ và tư sản mại bản.

+ Lực lượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gồm: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có nhân sĩ dân chủ và những thân sĩ yêu nước. Đông lực của cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân và tiểu tư sản. Lãnh đạo là giai cấp công nhân.

- Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam; hai nước Lào và Campuchia sẽ tiến tới thành lập đảng riêng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng chiến của từng nước.

- Đại hội quyết định một số chính sách cơ bản về công tác xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, mặt trận thống nhất dân tộc, công tác tài chính...nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt.

- Đại hội bầu ra ban chấp hành Trung ương mới do Hồ Chí Minh làm chủ tịch Đảng và Trường Chinh làm Tổng bí thư.

c. ý nghĩa của Đại hội:
- Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Việc Đảng ra hoạt động công khai với cương lĩnh chính trị đúng đắn đã tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, tăng cường niềm tin của quần chúng đối với Đảng, có tác dụng thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi ngày một to lớn hơn.


Sưu tầm
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top