Tài liệu ôn thi đại học môn Sử

Câu 4: Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (5/1941) được triệu tập trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào? Nội dung Hội nghị?

* Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941):
- Thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai đã bước sang năm thứ 3. Sau khi đánh bại Pháp, các nước Tây Âu và Nam Âu, phát xít Đức đã chuẩn bị tiến công Liên xô. Trên thế giới đã hình thành hai trận tuyến: một bên là các lực lượng dân chủ do Liên xô đứng đầu và một bên là phe phát xít Đức - Italia - Nhật. Đảng ta luôn xác định cuộc đấu tranh của nhân dân ta là một bộ phận của các lực lượng dân chủ thế giới. Lúc này cần sát cánh với lực lượng dân chủ thế giới do Liên xô làm trụ cột chống phát xít. Và cuộc chiến tranh chống phát xít thắng lợi sẽ tạo điều kiện cho nhiều nước giải phóng dân tộc.

- Trong nước:
+ Sau khi Nhật nhẩy vào Đông Dương (9/1940), Pháp đã nhanh chóng đầu hàng. Nhật đã lấn dần từng bước bắt Pháp phải ký những hiệp ước bất bình đẳng biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng. Nhật - Pháp đã cấu kết chặt chẽ thống trị, áp bức nhân dân Đông Dương. Trong hoàn cảnh bị hai tầng áp bức đế quốc phát xít, mâu thuẫn dân tộc càng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.

+ Hơn nữa nhân dân Đông Dương lúc này thì ngày càng cách mạng hoá. Có nhiều cuộc đấu tranh vũ trang đã nổ ra như khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam kỳ, binh biến Đô Lương đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

+ Sau gần 30 năm tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, 28/1/1941, Nguyễn ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, Người đã đứng ra triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng) từ 10 - 19/5/1941.


* Nội dung Hội nghị:
+ Hội nghị nêu rõ ở Việt Nam lúc này mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp – Nhật. Từ đó Hội nghị chủ trương trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách Pháp – Nhật. “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

+ Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công tiến tới thực hiện “người cày có ruộng”.

+ Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm “liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.

* ý nghĩa của Hội nghị :
Hội nghị Trung ương 8 có tầm quan trọng đặc biệt. Nó hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (11/1939). Nó đã có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân ta tích cực chuẩn bị tiến tới cách mạng tháng Tám.


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Câu 5: Hoạt động của Mặt trận Việt Minh và vai trò của nó đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945?

a. Hoạt động của Mặt trận Việt Minh
Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập ngày 19/5/1941 theo chủ trương của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8. Chỉ sau một thời gian ngắn, Mặt trận Việt Minh đã có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Công tác xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến được đặc biệt coi trọng. Điều này được thể hiện:

* Xây dựng lực lượng chính trị:
- Cao Bằng là nơi thí điểm của cuộc vận động xây dựng các hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp 9 châu của Cao Bằng đều có hội cứu quốc, trong đó có 3 châu “hoàn toàn” nghĩa là mọi người đều gia nhập Mặt trận Việt Minh, xã nào cũng có Uỷ ban Việt Minh. Rồi Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập. Sang năm 1943, Uỷ ban liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.

- Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cơ bản ở nông thôn và thành thị, Đảng cũng không xem nhẹ việc tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân khác như sinh viên, học sinh, trí thức, tư sản dân tộc vào mặt trận. Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, vận động thành lập Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam (cuối 1944) và Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh (6/1944). Dn cũng chủ trương tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp và tranh thủ cả những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít chủ yếu là người Pháp thuộc phái kháng chiến và Hoa kiều chống Nhật.

- Báo chí của Đảng và của Mặt trận Việt Minh phát triển rất phong phú, đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, đấu tranh chống mọi thủ đoạn chính trị, văn hoá của địch, thu hút đông đảo quần chúng vào hàng ngũ cách mạng.

Như vậy, với tinh thần chuẩn bị tích cực trong thời kỳ 1939-1945, Đảng đã xây dựng được đội quân chính trị hùng hậu, đã góp phần quyết định đến thắng lợi của cách mạng tháng 8 sau này.

* Xây dựng lực lượng vũ trang
- Bên cạnh lực lượng chính trị của quần chúng thì lực lượng vũ trang nhân dân ra đời là một trong hai lực lượng cách mạng không thể thiếu trong khởi nghĩa giành chính quyền và đã được Đảng ta đứng đầu là Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng.

- Ngay từ cuối năm 1940, sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của Đảng một bộ phận lực lượng vũ trang chuyển sang xây dựng thành các đội du kích hoạt động ở căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, sau thống nhất lại thành Cứu quốc quân (1941). Để đối phó với sự vây quét của địch, Cứu quốc quân đã phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng ( 7/1941 đến 2/1942) Sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.

- Vào cuối năm 1941, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một Đội tự vệ chiến đấu ở Cao Bằng làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ lãnh đạo, huấn luyện quân sự, chính trị cho các đội tự vệ, du kích ở địa phương, liên lạc giữa các căn cứ.

- Để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 7/5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân "sắm sửa vũ khí đuổi thù chung". Vì vậy, khắp nơi nhân dân hăng hái góp tiền mua vũ khí ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ. ở Vũ Nhai (Thái Nguyên), một cuộc khởi nghĩa đã nổ ra quá sớm (11/1944) làm cho lực lượng cách mạng gặp nhiều tổn thất. Sau đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị chuyển thành chiến tranh du kích để bảo toàn lực lượng vì điều kiện chưa chín muồi. Trong thời gian trên, ở Cao - Bắc - Lạng một cuộc khởi nghĩa sắp được phát động thì lãnh tụ Nguyễn ái Quốc từ Trung Quốc về Cao Bằng đã kịp thời hoãn kế hoạch khởi nghĩa vì chưa đúng thời cơ. Cũng theo chỉ thị của Người, ngày 22/12/1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập nhằm phát động một phong trào đấu tranh kết hợp cả chính trị và quân sự để thúc đẩy cách mạng phát triển. Ba ngày sau khi thành lập, đội đã hạ liền 2 đồn giặc là Phay Khắt (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944) (Cao Bằng ) gây được thanh thế lớn.

Phát huy thắng lợi đầu tiên, Đội đã đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quận sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ và thúc đẩy phong trào cách mạng quần chúng trong cả nước.

- Đồng thời ở Thái Nguyên, đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích, hạ đồn chợ Chu, tiến đánh Chiêm Hoá (Tuyên Quang) và tràn về các vùng Tam Đảo, Vĩnh Yên, Phú Thọ. Chính quyền nhân dân được thành lập suốt một vùng rộng lớn.

- Đến đầu 5/1945, hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân gặp nhau và tiến tới việc hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân (15/5/1945) theo quyết định của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (15/4/1945).
Như vậy, bên cạnh lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng đang phát triển mạnh, lực lượng vũ trang cũng ra đời và đang trưởng thành nhanh chóng trong chiến đấu để làm chỗ dựa cho cách mạng.

* Xây dựng căn cứ địa cách mạng

- Căn cứ địa có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng vì nó là chỗ đứng chân của cách mạng, là nơi cung cấp người và của cho cách mạng, là nơi xuất phát để đánh địch và rút lui để bảo vệ mình. Căn cứ địa là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cách mạng. Nhận thức rõ như vậy nên việc xây dựng căn cứ địa đã được Đảng và Bác Hồ hết sức quan tâm.

- Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, Trung ương Đảng đã quyết định duy trì lực lượng vũ trang xây dựng thành đội du kích Bắc Sơn hoạt động ở địa bàn Bắc Sơn - Vũ Nhai. Vì vậy Bắc Sơn - Vũ Nhai đã trở thành căn cứ địa đầu tiên của cách mạng.

- Đầu năm 1941, Nguyễn ái Quốc trở về nước, Người đã cùng Trung ương Đảng quyết định chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa Trung ương. Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã cử 19 ban xung phong xuống phía xuôi để mở rộng căn cứ địa cách mạng. Các căn cứ địa thuộc các tỉnh phía Bắc đã liên hệ được với nhau thành một thể liên đoàn thống nhất.

- Đến 1945, trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhân dân ta lại khởi nghĩa vũ trang ở nhiều nơi xây dựng căn cứ địa kháng Nhật, tiêu biểu là căn cứ Đông Triều, căn cứ Yên Thế (Bắc Giang), Hoà Bình, Ninh Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đồng Tháp Mười...Ba tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp thì tháng 6/1945 Đảng ta đã thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng -Thái - Tuyên - Hà. Trong khu giải phóng, 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh được thực hiện. Việt Bắc như là hình ảnh thu nhỏ của cả nước, đã có tác dụng động viên cổ vũ nhân dân đứng lên lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật.

Căn cứ địa cách mạng có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng 8. Vì vậy căn cứ địa là một trong những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng tháng 8.

b. Vai trò của Mặt trận Việt Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng Tám
- Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được đông đảo quần chúng hình thành nên lực lượng chính trị đông đảo cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, động viên sức mạnh của cả dân tộc, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù.

- Trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng hình thành và phát triển, cùng với lực lượng quần chúng đông đảo tạo nên sức mạnh tổng hợp nổi dậy giành chính quyền.

Mặt trận Việt Minh là sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một điển hình trong công tác Mặt trận của Đảng.



Sưu tầm
 
Câu 6: Hoàn cảnh lịch sử và diễn biến của cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 đến tháng 8/1945)?

a. Hoàn cảnh lịch sử

- Đầu 1945, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Trên chiến trường Châu Âu, phát xít Đức bị bị quét sạch khỏi Liên xô, nhiều nước Đông Âu được giải phóng. Quân Anh – Mĩ mở mặt trận thứ hai, nước Pháp dược giải phóng.

- ở Mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật bị quân Anh – Mĩ tấn công dồn dập. Thực dân Pháp ở Đông Dương nhân cơ hội cũng ngóc đầu dậy. Chúng ráo riot hoạt động, đợi khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ nổi dậy hưởng ứng để giành lại dịa vị thống trị cũ. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp càng trở nên gay gắt.

- Tình thế thất bại gần kề của phát xít Nhật buộc chúng phải làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ nguy cơ bị quân Pháp đánh vào sau lưng khi quân Đồng Minh đổ bộ lên Đông Dương.
Với những lý do trên, đêm 9/3/1945, Nhật bất ngờ đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Cuộc đảo chính diễn ra rất nhanh chóng, chỉ trong vài tiếng đồng hồ người Pháp ở Đông Dương bị Nhật đánh đổ hoàn toàn.

* Chủ trương của Đảng sau khi Nhật đảo chính Pháp
- Ngay sau khi Nhật nổ súng lật Pháp (đêm 9/3/1945), Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn- Bắc Ninh) do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì và ngày 12/3/1945, Hội nghị ra chỉ thị “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” với nội dung:
+ Chỉ thị đã xác định kẻ thù chính, cụ thể trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật.
+ Vì vậy phải thay đổi khẩu hiệu “ đánh đuổi phát xít Nhật- Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” và đưa ra khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng” để chống lại chính phủ bù nhìn thân Nhật - Trần Trọng Kim.
+ Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
- Tiếp đó, Mặt trận Việt Minh ra "hịch" kêu gọi đồng bào toàn quốc đẩy mạnh cao trào kháng Nhật, cứu nước.

b. Cao trào kháng Nhật cứu nước.
Ngày 15/3/1945 Mặt trận Việt minh ra đời kêu gọi đồng bào cả nước và cũng dưới sự lãnh đạo của Việt Minh thì cao trào kháng Nhật cứu nước đã bùng lên mạnh mẽ.

* Phong trào khởi nghĩa từng phần và đấu tranh du kích cục bộ:
- Từ tháng 3/1945, cách mạng chuyển sang cao trào, phong trào đấu tranh vũ trang và những cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương:
+ ở khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức huấn luyện quân sự và chính trị cho nhân dân.
+ ở Quảng Ngãi, anh em tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy đánh chiếm đồn giặc, thành lập chính quyền cách mạng, thành lập đội du kích Ba Tơ. Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị giam trong nhà tù ở các nơi nhân cơ hội Nhật - Pháp bắn nhau đã vượt ngục ra ngoài hoạt động.
+ ở Nam Kỳ, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất ở Mỹ Tho và Hậu Giang.

- Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang lên cao, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ họp vào 15/4/1945 đã thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị; đẩy mạnh chiến tranh du kích; xây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.

- Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ được thành lập, có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự.

- Thắng lợi của khởi nghĩa từng phần đã đưa tới chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi mà tiêu biểu là sự ra đời của Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) và một số vùng lân cận thuộc vùng trung du (Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên). Uỷ ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và thực hiện 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân, đã có tác dụng cổ vũ to lớn nhân dân ta tiến lên giành chính quyền. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

* Phong trào phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói
- Phong trào cách mạng đang lên cao ở cả nông thôn và thành thị vào giữa lúc nạn đói diễn ra nghiệm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do chính sách bóc lột tàn tệ của Pháp - Nhật. Khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói" được kịp thời đưa ra đã dấy lên cả một phong trào đánh chiếm kho thóc của Nhật để chia cho dân, qua đó lôi cuốn được đông đảo quần chúng đi theo cách mạng.


  • ý nghĩa:
- Qua cao trào kháng Nhật cứu nước, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang được củng cố, phát triển vượt bậc, kẻ thù hoang mang suy yếu.
- Cao trào kháng Nhật cứu nước đã tập dượt cho quần chúng đấu tranh, sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.


Sưu tầm
 
Câu 7: Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra trong hoàn cảnh lịch sử như thế nào? Tại sao nói cách mạng tháng Tám ở Việt Nam nổ ra trong thời cơ ngàn năm có một?

  1. Hoàn cảnh lịch sử

  • Thế giới
+ Chiến tranh thế giới II đã bước sang những ngày cuối. ở Châu Âu, phát xít Đức lại bị tiêu diệt hoàn toàn và buộc phải đầu hàng không điều kiện. ở Châu á, quân phiệt Nhật cũng đầu hàng Đồng minh không điều kiện (8/1945). Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.

+ Quân đội Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương giải giáp phát xít Nhật. Vì vậy, đây là cơ hội ngàn năm có một cho nhân dân ta đứng lên giành chính quyền.

- Trong nước
Được tập hợp và rèn luyện qua quá trình chuẩn bị lực lượng, đặc biệt là qua “Cao trào kháng Nhật cứu nước”, quần chúng cách mạng đã sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền. Chiến tranh du kích ở các chiến khu và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị lan rộng tạo nên một không khí cách mạng sôi sục.

Đảng Cộng sản Đông Dương đã được chuẩn bị đầy đủ (về đường lối, tư tưởng, lực lượng...) và có quyết tâm cao, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng giành chính quyền.

Như vậy, điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi, thời cơ ngàn năm có một đã đến.

b. Nói đây là thời cơ ngàn năm có một vì:
Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (13/8/1945), bọn phát xít Nhật ở Đông Dương và bọn bù nhìn tay sai hoang mang rệu rã. Đây là cơ hội ngàn năm có một, nếu ta không nhanh chóng cướp chính quyền từ tay Nhật để đến khi bọn đế quốc Anh, Pháp, Tưởng (với danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp phát xít Nhật ) vào Đông Dương thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn do âm mưu phá hoại của chúng, thời cơ cách mạng không còn. Vì vậy Đảng và nhân dân ta phải giành lấy chính quyền và đứng ở địa vị người chủ nước nhà mà đón tiếp quân Đồng Minh.

Tóm lại, khoảng thời gian từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh đến trước khi quân Anh, Pháp, Tưởng (đứng đằng sau là Mỹ) kéo vào Đông Dương là cơ hội ngàn năm có một cho cách mạng.


Sưu tầm
 
Câu 8: Sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng cộng sản Đông Dương được thể hiện như thế nào trong cách mạng tháng Tám năm 1945?

a. Đảng kịp thời chớp thời cơ phát động khởi nghĩa giành chính quyền
- Trước biến chuyển mau lẹ của tình hình, từ ngày 13 - 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) đã nhận định những điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Từ đó Hội nghị quyết định:
+ Phát động tổng khởi nghĩa trong toàn quốc và giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh tiến vào Đông Dương, Pháp chưa kịp tập hợp tàn quân và điều quân viễn chinh xâm lược trở lại nước ta.
+ Hội nghị đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và ra quân lệnh số một hạ lệnh tổng khởi nghĩa.

- Ngay sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Tổng bộ Việt Minh cũng triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào vào ngày 16/8/1945. Tham dự Đại hội có 60 đại biểu các giới, các đoàn thể, các dân tộc, các tôn giáo tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đại hội quốc dân đã quyết định:
+ Đại hội đã nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng.
+ Đại hội đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua quốc kỳ, quốc ca của nước Việt Nam mới.
+ Đại hội đã bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức chính phủ lâm thờ sau này) do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

- Sau đó Hồ Chí Minh đã gửi thư đến đồng bào trong cả nước kêu gọi nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
NX: Quốc dân Đại hội Tân Trào thể hiện sự đoàn kết nhất trí cao của toàn dân đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng.

b. Diễn biến của cách mạng tháng Tám:
Thực hiện lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, Mặt trận Việt Minh và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước triệu người như một nhất tề đứng lên với tinh thần dù phải hi sinh lớn lao cũng phải giành cho được độc lập.

- Chiều 16/8/1945, một đơn vị quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng Thái Nguyên mở đầu cho tổng khởi nghĩa.

- Từ ngày 14 - 18/8/1945, nhiều xã, huyện thuộc phần lớn các tỉnh trong toàn quốc đã nối tiếp nhau chớp thời cơ đứng lên giành chính quyền. Ngày 18/8 lực lượng khởi nghĩa của Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành được chính quyền ở tỉnh lị.

- ở Hà Nội, lệnh tổng khởi nghĩa đã về tới thủ đô chiều ngày 15/8/1945. Đêm 15/8/1945, Việt Minh đã tổ chức diễn thuyết ở 3 rạp hát lớn, hô hào đồng bào chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16/8/1945, không khí khởi nghĩa ở thủ đô lên cao. Ngày 17/8/1945, Việt Minh Hà Nội đã biến cuộc mít tinh của Tổng hội công chức thân Nhật ở Nhà hát Lớn thành cuộc mít tinh của Việt Minh sau đó chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành qua các phố phường Hà Nội hô hào chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 18/8/1945, khâm sai Phan Kế Toại xin từ chức. Ngày 19/8/1945, từ sáng sớm hàng vạn đồng bào nội ngoại thành đã dự cuộc mít tinh lớn ở quảng trường nhà hát Lớn. Sau khi làm lễ chào cờ, đại biểu Việt Minh Hà Nội đã đọc 10 chính sách lớn của mặt trận Việt Minh, sau đó ra lệnh khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội. Cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình thị uy đánh chiếm các cơ quan quan trọng của địch ở Hà Nôị như: phủ khâm sai, toà thị chính, sở cảnh sát, trại bảo an binh. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thành công đã có tác dụng cổ vũ to lớn đối với phong trào khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

- Huế, ngày 23/8/1945, nhân dân Thừa Thiên Huế nổi dậy đánh đổ dinh luỹ cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Vua Bảo Đại đã làm lễ thoái vị, trao lại ấn kiếm cho đại diện của chính quyền cách mạng.

- Ngày 25/8/1945, tại Sài Gòn, dinh luỹ cuối cùng của chế độ thực dân đế quốc lọt vào tay quân cách mạng.

- Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác dụng lớn và có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 - 28/8/1945) cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước.

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ chủ Tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đánh dấu một mốc son trong lịch sử của dân tộc ta.

NX: Qua diễn biến của lịch sử nói trên ta có nhận xét rằng: tổng khởi nghĩa tháng Tám đã diễn ra và thành công một cách nhanh chóng, ít đổ máu, thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Tổng khởi nghĩa tháng Tám mang tính chất nhân dân sâu sắc. Đây là một cuộc vùng dậy của toàn thể nhân dân ta để phá xiềng xích nô lệ tự giải phóng mình. Trong cuộc vùng dậy này nhân dân ta đã sử dụng lực lượng chính trị, có lực lượng vũ trang hỗ trợ để giành chính quyền. Vì vậy tổng khởi nghĩa tháng Tám là một nét độc đáo cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta.

c. ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám

* ý nghĩa lịch sử:
- Cách mạng tháng Tám đã phá tan hai xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm và phát xít Nhật, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại gần nghìn năm. Thắng lợi này đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà.

- Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước tiến nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

- Đây là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân. Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới, đặc biệt là nhân dân châu á, châu Phi.

* Nguyên nhân thắng lợi:
- Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu xa. Dưới chế độ áp bức bóc lột tàn bạo của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, nhân dân ta thấy chỉ có con đường là vùng dậy đấu tranh đập tan xiềng xích nô lệ thì mới có độc lập, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi người hăng hái hưởng ứng.

- Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng tháng Tám, trải qua hai cuộc diễn tập 1930 – 1931 và 1936 – 1939, đã động viên giác ngộ, tổ chức được các tầng lớp nhân dân, phát động được lực lượng to lớn của công nông, thực hiện được khối liên minh công nông vững chắc, trên cơ sở đó đã tập hợp được mọi lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lại bết kết hợp tài tình đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh du kích với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên phát động tổng khởi nghĩa cả ở nông thôn và thành thị, đánh đổ toàn bộ bộ máy của đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.

- Cách mạng tháng thành công một phần là do hoàn cảnh khách quan thuận lợi. Hồng quân Liên xô và các lực lượng Đồng Minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít, trực tiếp là phát xít Nhật đã góp phần tạo nên thời cơ vô cùng thuận lợi để nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền.

* Bài học kinh nghiệm:
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu, nhằm tập trung lực lượng để thực hiện cho kỳ được yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc giành độc lập tự do cho tổ quốc.

- Đánh giá đúng và biết tập hợp , tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó công - nông là đội quân chủ lực. Trên cơ sở khối liên minh công - nông, biết khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù tiến lên đánh bại chúng.

- Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị; kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần ở nông thôn với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa ở đô thị để khi có thời cơ thì phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền.


Sưu tầm
 
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


Câu 1: Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 có những thuận lợi, khó khăn gì?
a. Bối cảnh quốc tế
- Sau chiến tranh thế giới II thì hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản. Đó là những nhân tố quan trọng, có tác dụng cổ vũ động viên nhân dân ta tiếp tục sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn khó khăn mới.

- Nhưng với bản chất phản động thì bọn đế quốc ra sức chống phá phong trào cách mạng, tìm mọi cách để chiếm lại những thuộc địa đã mất và tranh giành thuộc địa lẫn nhau. Việt Nam cũng là một trong những đối tượng tranh giành của chúng.

b. Bối cảnh trong nước

- Khó khăn do đế quốc can thiệp và nội phản:
- Chỉ 10 ngày sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, quân đội của các nước Đồng Minh đã lần lượt kéo vào nước ta.

+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt vào Hà Nội và hầu khắp các tỉnh. Núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng lập ra chính quyền phản động làm tay sai cho chúng. Vì vậy, khi kéo vào nước ta chúng kéo theo bọn tay sai thuộc các tổ chức: Việt Nam quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Dựa vào Tưởng, bon tay sai đã dựng chính quyền phản động ở một số nơi như: Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái. Hàng ngày chúng gây ra những vụ cướp bóc, giết người, kích động quần chúng chống lại chính quyền cách mạng.

+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, cũng dưới danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội của đế quốc Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương.

- Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng phản động ở Miền Nam như Đại Việt, Tơrốtxkít, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp, ra sức chống phá cách mạng.
+ Trên đất nước ta lúc đó còn 6 vạn quân Nhật. Trong khi chờ giải giáp, một bộ phận đã thực hiện lệnh của đế quốc Anh cầm súng chống lại lực lượng ta, tạo điều kiện cho Pháp mở rộng chiếm đóng.

- Khó khăn về kinh tế – tài chính

+ Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Chính sách cướp bóc, vơ vét của Pháp, Nhật đã dẫn tới nạn đói cuối 1944 đầu 1945 vẫn chưa được khắc phục. Tiếp đó, nạn lụt tháng 8/1945 làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, sau đó lại hạn hán kéo dài, làm cho 50% diện tích đất không cày cấy được. Sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt. Nạn đói mới đang đe doạ nghiêm trọng đến đời sống nhân dân.

+ Ngân sách của Trung ương chỉ còn 1.230.000đ, trong đó một nửa là rách không lưu hành được. Nhà nước lại chưa kiểm soát được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó bọn Tưởng tung tiền “quan kim”, “quốc tệ” đã mất giá ra thị trường càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn.

- Về văn hoá - giáo dục
Các di sản văn hoá lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề: trên 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút...còn rất phổ biến.


  • Khó khăn của ta lúc này là rất lớn nó trực tiếp đe doạ sự tồn vong của chính quyền cách mạng, chưa bao giờ đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn như vậy, vận mệnh đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc”
* Thuận lợi:
- Nhân dân lao động đã giành được quyền làm chủ và bước đầu được hưởng những quyền lợi do chính quyền cách mạng đem lại nên vô cùng phấn khởi và gắn bó với chế độ mới.

- Đảng ta đã nắm được chính quyền trong cả nước, trở thành một đảng lãnh đạo hợp pháp. Có lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn vững tay lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thác ghềnh.



Sưu tầm
 
Câu 2: Chủ trương và biện pháp của Đảng nhằm giải quyết những khó khăn đặt ra sau cách mạng tháng Tám?

a. Xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân
+ Việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại, khắc phục những khó khăn là một việc hết sức cần thiết. Chỉ 1 tuần sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước và 20/9/1945, ra sắc lệnh thành lập Uỷ ban dự thảo hiến pháp.

+ Ngày 6/1/1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri trong cả nước đã đi bầu cử, bầu ra cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là Quốc hội. Trên phạm vi cả nước đã bầu được 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

+ Ngày 2/3/1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội đã thông qua danh sách Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo hiến pháp. Cuối 1946, hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua.

+ Tiếp đó, ở khắp các địa phương từ tỉnh đến xã ở Trung Bộ và Bắc Bộ đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Uỷ ban hành chính các cấp cũng được thành lập. Bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân bước đầu được củng cố và kiện toàn.

ý nghĩa:
- Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp là một đòn giáng mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và tay sai.

- Nâng cao uy tín của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường quốc tế.

- Khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ và nghĩa vụ của mỗi người công dân đối với nhà nước cách mạng.

- Tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc của một nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kỳ mới đầy trông gai thử thách.

- Biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân, khẳng định sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân ta đối với Mặt trận Việt Minh và Hồ Chí Minh.

b. Giải quyết những khó khăn về kinh tế :
- Thanh toán nạn đói: bằng 2 cách trước mắt và lâu dài.
+ Trước mắt: Dựa vào dân ( tiết kiệm và quyên góp) thực hiện nhường cơm xẻ áo. Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người: “ Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”, đồng bào cả nước đều lập các hũ gạo tiết kiệm và không dùng gạo, ngô để nấu rượu. Truyền thống đồng cam, cộng khổ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của đồng bào được khơi dậy mạnh mẽ. Nhiều nơi đồng bào còn tổ chức “ngày đồng tâm” để có thêm gạo cứu đói. Chính phủ tích cực điều hoà thóc gạo giữa các địa phương và ra sắc lệnh nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ thóc gạo.

+ Về lâu dài: Phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, lấy ngắn nuôi dài. Hồ Chí Minh đã kêu gọi “ Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! tăng gia sản xuất nữa !”, thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng!”. Hưởng ứng phong trào này từ thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng ra sức sản xuất. Diện tích đất hoang được đưa vào sử dụng, đê bị vỡ đã được khôi phục. Chính phủ còn tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho nhân dân nghèo, chia lại ruộng công, ra thông tư giảm tô 25%, bãi bỏ các thứ thuế vô lý. Nhờ có biện pháp khắc phục trên, sản xuất nông nghiệp được nhanh chóng khôi phục. Nạn đói bị đẩy lùi.

c. Khắc phục khó khăn về tài chính:
+ Trước mắt: Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng xây dựng "Quỹ độc lập" và phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động, đồng bào cả nước hăng hái đóng góp tiền, vàng ủng hộ chính quyền cách mạng. Chỉ trong thời gian ngắn, đồng bào cả nước đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng và 20 triệu bạc.

+ Lâu dài: Nhà nước chủ trương ổn định nền tài chính, phát hành tiền mới và tổ chức thu thuế. Ngày 31/1/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23/11/1946, Quốc Hội đã quyết định lưu hành tiền Việt Nam và tẩy chay tiền Ngân hàng Đông Dương phát hành.

d. Giải quyết những vấn đề về văn hoá:
+ Ngày 8/9/1945 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xoá nạn mù chữ. Đến đầu 3/1946, riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên.

+ Các trường tiểu học và trung học được xây dựng ở nhiều nơi. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo hướng dân tộc và dân chủ.


  • Với những kết quả đạt được đã bước đầu khắc phục những khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng Tám, tạo cơ sở tiền đề để nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài trong những năm tiếp theo.


Sưu tầm
 
Câu 3: Chủ trương của Đảng và Chính Phủ đối với quân Trung Hoa Dân Quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc như thế nào từ ngày 2/9/1945 đến trước ngày 6/3/1946 như thế nào?

- Kẻ thù của cách mạng nước ta lúc này là đế quốc và tay sai. Chúng chia làm hai khối, phía Bắc có Mỹ - Tưởng và tay sai, phía Nam có Anh - Pháp và tay sai. Giữa hai khối có mâu thuẫn về mặt quyền lợi nhưng nó thống nhất với nhau trong âm mưu chống phá cách mạng. Lực lượng của kẻ thù lúc này đông và mạnh, trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu. Do đó trên cơ sở nắm vững nguyên tắc chiến lược, Đảng đã mềm dẻo trong sách lược, biết phân hóa kẻ thù để đánh đuổi chúng.

-Từ 2/9/1945 đến 6/3/1946, ta tạm thời hoà hoãn tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân Quốc.

- Để tập trung lực lượng đánh Pháp đang xâm lược Miền Nam, chủ trương thực hiện chủ trương hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc, nhà nước ta thực hiện sách lược hoà hoãn, tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị với Tưởng một cách khôn khéo.

- Thực hiện chủ trương trên, các cuộc mít tinh, biểu tình được tổ chức, tập hợp hàng nghìn người mang theo băng cờ, khẩu hiệu: "nước Việt Nam của người Việt Nam", "ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", "ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh"...

- Để hạn chế đến mức thấp nhất sự phá hoại của Tưởng và tay sai, Đảng và Chính phủ ta đã nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị như: Nhận tiêu tiền “ quan kim” và “quốc tế”, cung cấp một phần lương thực cho chúng và để cho tay sai của Tưởng nắm một số chức vụ trong chính phủ: Phó chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần, 4 ghế bộ trưởng( ngoại giao, kinh tế, canh nông và xã hội) và chấp nhận bổ sung thêm 70 ghế vào Quốc hội cho chúng.

- Bên cạnh chủ trương nhân nhượng với Tưởng và tay sai, đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của Tưởng (Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng đều bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng như 5/9/1945 ra sắc lệnh giải tán "Đại Việt quốc gia xã hội đảng" và "Đại Việt quốc dân đảng" là những đảng phản động, tay sai của Nhật; sắc lệnh ngày 12/9/1945 cho an trí những người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hoà Việt Nam; sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản cách mạng...

  • Vì sao phải nhân nhượng với Tưởng và tay sai ?
Chủ trương nhân nhượng với Tưởng và tay sai của chúng là cần thiết trong lúc này vì chúng là kẻ thù cách mạng nhưng lại mang danh nghĩa Đồng Minh. Hơn nữa lực lượng cách mạng lúc này còn non trẻ, chính quyền cách mạng còn trứng nước, lực lượng vũ trang đang trong quá trình hình thành phải tập trung để đánh kẻ thù chủ yếu. Đặc biệt lúc này chính phủ ta đang đứng trước tình thế hiểm nghèo là đương đầu với nhiều khó khăn, nhiều kẻ thù cho nên nhân nhượng với Tưởng là đúng đắn. Việc thực hiện sách lược trên đây đã hạn chế và vô hiệu hoá đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Tưởng và tay sai làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng càng tăng thêm uy tín trong đấu tranh.


Sưu tầm
 
Câu 4: Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra như thế nào?

- Kháng chiến chống thực dân Pháp ở Miền Nam:
+ Ngay khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, thực dân Pháp đã lập kế hoạch quay lại xâm lược Việt Nam. Ngày 2/9/1945, khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh, thực dân Pháp đã lấp trong nhà thờ bắn vào đoàn biểu tình làm cho 47 người chết và nhiều người bị thương. Đêm ngày 22 rạng ngày 23/9/1945, được sự giúp đỡ của Anh, thực dân Pháp đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2.

+ Từ 23/ 9/1945 Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam bộ đã họp và quyết định phát động nhân dân Nam Bộ đứng dậy kháng chiến. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn anh dũng đánh trả bọn xâm lược bằng mọi hình thức và mọi thứ vũ khí như triệt nguồn tiếp tế của địch ở trong thành phố, tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá, dựng chướng ngại vật và chiến luỹ trên khắp đường phố. Các cơ sở kinh tế, kho tàng bị phá huỷ, điện, nước bị cắt. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, phá khám lớn...Quân Pháp sống trong một thành phố bị bao vây, không điện nước, không nguồn tiếp tế và luôn bị quân dân ta tập kích, tiêu hao, tiêu diệt.

Đầu tháng10/1945, quân Pháp được tăng viện đã đánh phá vòng vây xung quanh Sài Gòn đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Nam Trung Bộ. Cuộc kháng chiến của ta gặp rất nhiều khó khăn. Cuối 10/1945, Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ mở rộng cũng đã họp rút kinh nghiệm, chấn chỉnh tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng cơ sở bí mật trong vùng địch tạm chiếm, khôi phục chính quyền ở những nơi bị tan vỡ.

+ Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chí Minh cũng phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đồng thời chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước. Hàng vạn thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ. Cả nước chi viện về mọi mặt cho Miền Nam, tổ chức nam tiến. Các đơn vị nam tiến từ Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc...đã tấp nập vào Nam đánh giặc cứu nước.


  • Cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Miền Nam đã ngăn chặn từng bước tiến công của địch, hạn chế âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, phát triển chiến tranh du kích, giữ vững và mở rộng lực lượng, tích luỹ được những kinh nghiệm chiến đấu góp phần bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng. Tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc về sau.


Sưu tầm
 
Câu 5: Chủ trương sách lược của Đảng và Chính Phủ đối với thực dân Pháp từ ngày 6/3/1946 đến trước ngày 19/12/1946 như thế nào?

* Từ 6/3/1946 đến 19/12/1946: Đảng và Chính Phủ là tạm hoà hoãn với thực dân Pháp để đẩy Tưởng và tay sai ra khỏi đất nước, tranh thủ thời gian hoà bình chuản bị lực lượng kháng chiến.

- Hiệp ước Hoa - Pháp (28/2/1946) (Hoàn cảnh dẫn đến việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946)

+ Hoàn cảnh:
Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và cực nam Trung Bộ, thực dân Pháp chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc. Nhưng với lực lượng hiện có (3,5 vạn), trong khi chưa bình định xong Nam bộ, nếu đưa quân ra Bắc không những phải đương đầu với lực lượng kháng chiến của nhân dân miền Bắc Việt Nam mà còn vấp phải trở ngại là quân Tưởng. Tình hình đó buộc Pháp phải dùng thủ đoạn chính trị là điều đình với Tưởng để thay thế Tưởng chiếm đóng miền Bắc Việt Nam.

Tưởng giới Thạch lúc này đang cần tập trung lực lượng đối phó với phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo.

Vì những lý do trên, Pháp và Tưởng đã ký với nhau Hiệp ước Hoa – Pháp vào ngày 28/2/1946.

+ Nội dung:
Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế - chính trị như: Trả lại tô giới của Pháp trên đất Trung Quốc cho Tưởng, cho Tưởng được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế, Pháp bán cho Tưởng đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến Côn Minh ( thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam)
Tưởng nhường cho quân đội Pháp quyền thay thế chiếm đóng miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật.

Như vậy, Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trước hai giải pháp là cầm vũ khí chống thực dân Pháp ngay khi chúng đưa quân ra miền Bắc hoặc là chủ động đàm phán ngay với Pháp, tạm hoà hoãn với chúng để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc chiến tranh với Pháp sau này.
Đứng trước tình hình đó Đảng và Chính phủ ta đã quyết định chọn giải pháp hoà hoãn với Pháp.

- Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
+ Chiều 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ ta ký với đại diện của chính phủ Pháp là Xanhtơni bản Hiệp định sơ bộ đặt cơ sở cho một cuộc đàm phán để đi đến một hiệp ước chính thức.
+ Nội dung:
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
Chính phủ Việt Nam thoả thuận cho 15.000 quân Pháp được vào miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.
Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chính thức ở Pari.

- Tạm ước 14/9/1946:
+ Sau Hiệp định sơ bộ, ta đã thực hiện nghiêm chỉnh mọi quy định đã được ký kết. Nhưng về phía Pháp, cúng vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, thành lập chính phủ Nam Kỳ tự trị nhằm tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên do sự đấu tranh kiên quyết của ta, cuộc đàm phán chính thức giữa ta và Pháp vẫn được tổ chức tại Phôngtennơblô (Pháp). Cuộc đàm phán kéo dài hơn hai tháng, cuối cùng thất bại. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh.

+ Trước tình hình trên, nhằm kéo dài thêm thời gian hoà hoãn để củng cố, xây dựng lực lượng và tỏ rõ thiện chí của ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó đang là thượng khách của nước Pháp đã ký với chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14/9/1946 tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hoá ở Việt Nam.


  • Bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946, chúng ta đã đập tan âm mưu của đế quốc Pháp trong việc câu kết với Tưởng để chống lại ta. Không còn lý do ở lại Việt Nam, 20 vạn quân Tưởng phải rút về nước. Bọn tay sai mất hết chỗ dựa cũng phải chạy theo quân Tưởng.
  • Tranh thủ thời gian hoà bình để xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.
  • Có được những thắng lợi trên là do toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ chiến đấu dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.

e. Tranh thủ thời gian hoà hoãn, ra sức củng cố, xây dựng lực lượng về mọi mặt

- Tranh thủ thời gian hoà hoãn với thực dân Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân bắt tay vào việc chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc kháng chiến sau này, cụ thể:
+ Về chính trị: Để đoàn kết rộng rãi các tổ chức, các đảng phái và cá nhân chưa tham gia Mặt trận Việt Minh, tháng 5/1946, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập. Ngoài ra, cũng trong thời gian này, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đảng xã hội Việt Nam ...cũng ra đời.
+ Về văn hoá: Với ngọn cờ dân tộc và dân chủ, lực lượng văn hoá yêu nước được thống nhất thành một khối thống nhất chặt chẽ, đập tan mọi hành động và luận điệu phản cách mạng của bọn Tơrôtkit.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang: Từ những đoàn thể cứu quốc, nhà nước tổ chức các đơn vị tự vệ và tự vệ chiến đấu ở tất cả các khu phố, thôn, xã. trên cơ sở đó, nhà nước tuyển lựa những chiến sĩ có giác ngộ chính trị, có tinh thần chiến đấu vào trong các đơn vị tập trung. Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc quân chính thức trở thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.


Sưu tầm
 
CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC BÙNG NỔ VÀ ĐƯỜNG LỐI CHỐNG PHÁP CỦA ĐẢNG TA


Câu 1: Tại sao Đảng ta và Hồ Chủ Tịch lại phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào ngày 19/12/1946?

- Chúng ta muốn hoà bình để xây dựng đất nước nên phải nhân nhượng ký các hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 với thực dân Pháp. Một mặt nhân dân ta kiên trì đấu tranh chính trị hoà bình yêu cầu Pháp thực hiện hiệp định, đồng thời tích cực chuẩn bị lực lượng, đề phòng tình thế bất trắc do thực dân Pháp gây ra.

- Song thực dân Pháp đã bội ước, từng bước lấn tới xâm lược. Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp giành quyền thu thuế với ta ở cảng Hải Phòng, rồi xung đột với lực lượng vũ trang của ta. Ngày 24/11/1946, chúng bắn đại bác vào các khu phố ở Hải Phòng. Tiếp đến là chiếm thành phố Hải Phòng (27/11/1946). Tại Hà Nội, ngày 17/12/1946 Pháp cho quân bắn đại bác và súng cối vào phố Hàng Bún, chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính, gây ra các vụ xung đột ở cầu Long Biên, khu Cửa Đông, phố Yên Ninh...Ngày 18/12/1946 chúng đã gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm sát thủ đô cho chúng.

- Trước hành động xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con đường là cầm vũ khí đứng lên kháng chiến để bảo vệ độc lập, tự do. Vì vậy, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp vào 18 và 19/12/1946 quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm ngày 19/12/1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến và được truyền đi trong cả nước ngày 20/12/1946.


Sưu tầm
 
Câu 2 : Những văn kiện nào nêu lên đường lối kháng chiến? Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp?

* Những văn kiện thể hiện đường lối kháng chiến của Đảng

- Để đưa kháng chiến đến thắng lợi, ngay từ đầu Đảng và Hồ Chủ Tịch đã kịp thời vạch ra đường lối kháng chiến để lãnh đạo cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đường lối kháng chiến được hình thành dần dần từng bước thể hiện qua các văn kiện lich sử và tác phẩm sau:
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946) nêu lên tư tưởng cơ bản của chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân. Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là mệnh lệnh cách mạng tiến công, giục giã và soi đường, chỉ lối cho mọi người dân Việt Nam đứng dậy cứu nước.

+ Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ Trung Ương Đảng ra bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến, nêu lên một cách khái quát những nội dung cơ bản về đường lối của cuộc kháng chiến như: mục đích, tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình kháng chiến…

- Trường Chinh với cương vị Tổng bí thư đã viết nhiều bài đăng trên báo Sự thật để giải thích và phát triển đường lối kháng chiến của Đảng về các vấn đề: Chúng ta đánh ai? đánh để làm gì? Tính chất của cuộc kháng chiến...Kháng chiến về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá…Các bài viết đã được tập hợp và in thành tác phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” phát hành vào 9/1947.


  • Cả 3 văn kiện quan trọng trên đã nêu lên đường lối kháng chiến của Đảng và Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh và nhất định thắng lợi.
  • Đường lối kháng chiến trên của Đảng là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt quân và dân ta tiến lên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ.
* Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến
- Kháng chiến toàn dân:
+ Có nghĩa là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc và theo khẩu hiệu “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài”. Trong đó lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Đường lối này xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, từ mục đích của cuộc kháng chiến và xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác- Lênin, từ tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chủ Tịch và từ chủ trương kháng chiến toàn diện trường kỳ, tự lực cánh sinh.

- Kháng chiến toàn diện:
+ Bao gồm tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá...Sở dĩ phải kháng chiến toàn diện vì địch đánh ta toàn diện. Hơn nữa ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc nên phải xây dựng toàn diện. Mặt khác ta chủ trương kháng chiến toàn dân nên phải kháng chiến toàn diện là để tạo điều kiện cho mọi người dân đều có thể tham gia kháng chiến tuỳ theo khả năng của mình.

- Kháng chiến trường kỳ:
+ Xuất phát từ chỗ so sánh lực lượng lúc đầu giữa ta và địch chênh lệnh, địch mạnh hơn ta cả về quân sự, kinh tế. Ta chỉ hơn địch về mặt tinh thần và có chính nghĩa do đó ta phải có thời gian để chuyển hoá lực lượng làm cho địch yếu dần. Ta càng đánh càng mạnh, đến một lúc nào đó ta mạnh hơn địch sẽ tiến lên đánh bại địch.

- Tự lực cánh sinh:
+Vì ta hiểu rõ mối quan hệ giữa yếu tố chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất. Vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta phải do nhân dân ta thực hiện là chính. Mặc dầu vậy ta vẫn coi trọng sự hỗ trợ từ bên ngoài. Mặt khác lúc đầu ta bị bao vây cô lập nếu không tự lực cánh sinh cũng không dựa vào ai được.


  • Đường lối kháng chiến trên nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện của dân tộc, khắc phục những nhược điểm của ta về mặt vật chất, về kỹ thuật để vừa đánh địch vừa bồi dưỡng sức ta khiến ta càng đánh càng mạnh để làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.

Sưu tầm
 
NHỮNG THẮNG LỢI VỀ QUÂN SỰ CỦA NHÂN DÂN TA TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946-1954)


Câu 1: Cuộc kháng chiến trong các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16 diễn ra như thế nào?
* Â m mưu của địch
- Sau Tạm ước 14/9/1946, thực dân Pháp ngày càng tăng quân ở Đông Dương và quyết tâm xâm lược nước ta. Cho nên ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới và ngày 19/12/1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do bản chất của chiến tranh xâm lược, cũng như dựa vào ưu thế về quân số, về binh khí kỹ thuật nên Pháp thực hiện âm mưu đánh nhanh thắng nhanh. Chúng chủ trương bất ngờ xẻ bỏ các hiệp định đã ký với ta, nhanh chóng đánh chiếm các thành phố, thị xã nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta rồi từ đó lấn ra các vùng nông thôn mở rộng phạm vi chiếm đóng.

* Chủ trương của ta:
- Vì còn non yếu nên lúc này ta chủ trương kìm chân địch trong các thành phố, thị xã một thời gian, tiêu hao một bộ phận sinh lực của chúng, đập tan một bước kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp: Tạo điều kiện cho cơ quan đầu não kháng chiến, đại bộ phận quân chủ lực rút lui khỏi các đô thị, tiến hành tháo gỡ, vận chuyển máy móc, vật tư sản xuất về căn cứ an toàn chuẩn bị cho cuộc kháng lâu dài.

* Diễn biến:
- Chấp hành lệnh của Bộ tổng chỉ huy, quân và dân các thành phố, thị xã ở Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng.

- Tại Hải Dương, ta đã tấn công tiêu diệt địch ở trường nữ học và cầu Phú Lương. Nhưng sau đó quân địch tổ chức phản kích chiếm lại cầu kiểm soát việc đi lại.

- ở Hải Phòng, ngày 20/12/1946, quân Pháp bắt đầu mở cuộc tiến công chiếm đường 5 khai thông việc vận chuyển đường tiếp tế cho Hà Nội. Nhân dân hai bên đường đã phá cầu, dựng chướng ngại vật, chôn mìn chặn đánh địch. Ba ngày sau, quân Pháp mới tiến được đến Hải Dương. Bộ đội chủ lực phối hợp với tự vệ, du kích, dựa vào làng mạc ven đường, thường xuyên hoạt động quấy rối, phục kích địch trên toàn tuyến buộc chúng phải rải quân đóng chốt để bảo vệ đường.

- Tại Bắc Giang, Bắc Ninh trước sức tấn công mạnh mẽ của quân ta, địch phải rút chạy về Hà Nội.

- ở Nam Định, sáng 20/12/1946, bộ đội ta nổ súng tấn công 650 quân Pháp tại đây. Nông dân từ ngoại thành kéo vào, từ Hà Nam xuống, từ Ninh Bình ra tiếp sứca cho vệ quốc quân và tự vệ đánh địch. Quân ta bao vây liên tục tập kích địch, diệt hàng trăm tên. Đến đầu tháng 3/1947, địch giải vây được một số nơi và tăng viện. Theo kế hoạch đã định, lực lượng vũ trang của ta rút ra ngoài bảo toàn lực lượng.

- ở Huế, ta đã nổ súng vào 2 giờ 30 phút sáng ngày 20/12/1946 và tấn công vào các vị trí đóng quân của địch khiến địch phải co về cố thủ ở Trường Dòng, Viện dân biểu, khách sạn Morin...Quân ta vây chặt vừa đánh tỉa vừa tổ chức những trận đánh lớn. Sau 50 ngày chiến đấu anh dũng ta tiêu diệt 200 địch, hạ một máy bay và phá 3 xe bọc thép. Ngày 8/2/1947, ta rút ra ngoại ô Huế.

- Tại Đà Nẵng, đến giữa 12/1946 tổng số quân địch là 6.500 tên. Sáng 20/12/1946, địch tổ chức tấn công nhằm đánh bật lực lượng ta ra khỏi thành phố. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, vệ quốc quân và tự vệ lùi dần ra ngoài, phối hợp với quân dân các huyện Hoà Vang, Đại Lộc, Điện Bàn...dựa vào đồi núi lập thành vành đai bao vây Đà Nẵng.

- ở Hà Nội, khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946 nhà máy điện Yên Phụ vụt tắt báo hiệu cho quân, dân thủ đô đồng loạt nổ súng, mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Cuộc chiến đấu đã diễn ra suốt 60 ngày đêm vô cùng anh dũng nhằm bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng và nhà nước.

Tính đến 12/1946, Hà Nội có 6.500 sĩ quan và binh lính Pháp, ngoài ra còn 13.000 Pháp kiều, trong đó số đông được trang bị vũ khí. Lực lượng vũ trang của ta có 5 tiểu đoàn bộ binh, 8 trung đoàn công an xung phong, một lực lượng tự vệ nội, ngoại thành gồm 28.500 người và các tầng lớp nhân dân sẵn sàng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Các chiến sĩ vệ quốc quân và tự vệ chiến đấu nêu cao tinh thần “ Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, chiến đấu dũng cảm kiên cường, giành nhau với địch từng căn nhà, từng góc phố. Có nhiều trận đánh nổi tiếng như ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, nhà bưu điện, diệt hơn 500 tên địch, phá huỷ 30 xe cơ giới. Nhân dân quăng bàn ghế, cánh cửa, kiện hàng, bao cát... ra đường phố. Công nhân đẩy tao tàu chặn các ngã tư, ngã năm. Cây cối, cột điện được ngả xuống cản bước tiến của giặc.

Đến 17/2/1947, sau gần hai tháng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là tiêu hao sinh lực địch, giam chân địch trong thành phố, di chuyển kho tàng, công xưởng về chiến khu bảo vệ cho Trung ương Đảng, Chính phủ di chuyển về căn cứ địa an toàn, trung đoàn thủ đô đã thực hiện một cuộc rút quân khỏi thành phố trở về hậu phương an toàn.

Nhìn chung đến khoảng 2/1947, khi địch được tăng viện và đánh rộng ra, cuộc chiến đấu của ta ở các đô thị tạm thời kết thúc để chuyển sang một giai đoạn chiến đấu mới.

* Kết quả - ý nghĩa:

  • Lực lượng vũ trang của ta đã giam chân đối phương trong các đô thị đã tạo điều kiện cho các cơ quan Đảng, chính phủ và đại bộ phận quân chủ lực rút lui an toàn và chyển về các căn cứ kháng chiến. Ta đã tháo gỡ và vận chuyển hàng vạn tấn máy móc thiết bị, nguyên liệu về các vùng Việt Bắc, Tây Bắc, rừng núi khu 4, 5...chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến lâu dài. Cuộc chiến đấu của quân dân ta ở các đô thị đã bước đầu làm cho địch bị thất bại trong âm mưu đánh nhanh thắng nhanh.


Sưu tầm
 
Câu 2: Tại sao thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc? Diễn biến, kết quả, ý nghĩa lịch sử của chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947?

* Hoàn cảnh
- Về phía Pháp (âm mưu của địch)
+ Tư tưởng chiến lược trong chiến tranh xâm lược Đông Dương là đánh nhanh thắng nhanh. Nhưng sau gần một năm, thực dân Pháp tuy đã chiếm đóng được các đô thị và các đường giao thông chiến lược, phạm vi chiếm đóng được mở rộng nhưng không thể nào kết thúc được chiến tranh và gặp nhiều khó khăn do phải dàn mỏng lực lượng. Trong khi đó, nước Pháp đang gặp nhiều khó khăn về các mặt: kinh tế, tài chính, chính trị, xã hội....Vì vậy, Pháp muốn tìm kiếm một chiến thắng lớn về quân sự, mau chóng kết thúc chiến tranh.

+ 3/1947, Bôlaec được cử sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương đã quyết định tổ chức cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc nhằm:
• Phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn quân chủ lực của ta, phá hoại các cơ sở kinh tế, mùa màng, hòng làm giảm khả năng kháng chiến của ta.
• Dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc do Bảo Đại đứng đầu và kết thúc chiến tranh.
• Nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế.

- Về phía ta (chủ trương của ta)
Để đối phó với âm mưu của địch đồng thời xuất phát từ tư tưởng chiến lược là đánh lâu dài, quân dân ta đã tích cực tổ chức cuộc đấu tại chỗ chống lại cuộc tấn công của địch nhằm: Giữ vững căn cứ địa kháng chiến, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân và tiêu diệt sinh lực địch.

* Diễn biến:
- Ngày7/10/1947, Pháp đã huy động 12.000 quân mở cuộc tấn công lên Việt Bắc. Sáng 7/10/1947, địch đã cho một bộ phận quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới. Cùng ngày một binh đoàn bộ binh từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng, rồi một bộ phận theo đường số 3 xuông Bắc Cạn tạo thành một gọng kìm kẹp toàn bộ mặt sau Việt Bắc. Ngày 9/10/1947, binh đoàn bộ binh và lính thuỷ đánh bộ từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang, đến Chiêm Hoá để tạo thành gọng kìm kẹp toàn bộ Việt Bắc từ phía Tây. Chúng dự định 2 gọng kìm này sẽ khép lại ở Đài Thị ( đông bắc Chiêm Hoá)

- Ngày 15/10/1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”, phân tích chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, đồng thời vạch rõ phương hướng hành động cụ thể cho quân và dân ta. Trên tất cả các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, từng bước phá vỡ các gọng kìm của chúng.

ở Bắc Cạn, quân địch vừa nhảy dù xuống thị xã đã bị quân ta bao vây tập kích.

- Trên sông Lô, quân dân ta phục kích tại Khoan Bộ, Đoan Hùng, Khe Lau...bắn chìm nhiều tàu chiến và canô của địch.

- Mặt trận đường số 4 đã diễn ra nhiều trận phục kích, đặc biệt là trận đèo Bông Lau (30/10/1947) ta đã phá 27 xe, diệt và bắt 240 tên địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Đường 4 trở thành "con đường chết" của thực dân Pháp.

- Cùng với Việt Bắc, quân dân cả nước cũng chiến đấu anh dũng đập tan âm mưu của địch. ở Hà Nội, Sài Gòn những tên bù nhìn tay sai như Trương Đình Tri, Nguyễn Văn Sâm định lập chính phủ đã bị bắn chết ngay giữa thành phố. Quân và dân Nam Bộ cũng chiến đấu anh dũng phối hợp với chiến trường chính.

Tình hình trên buộc địch phải rút khỏi Việt Bắc ngày 19/12/1947. âm mưu của Pháp hoàn toàn bị đè bẹp.

* Kết quả và ý nghĩa:
- Kết quả: Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu ta đã biến Việt Bắc thành mồ chôn giặc Pháp. Ta đã tiêu diệt hơn 6000 quân địch, hạ 16 máy bay, 11 tàu chiến và ca nô, hơn 100 khẩu pháo và hàng chục tấn quân trang quân dụng.

Tuy Pháp vẫn kiểm soát được tuyến biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn và một số nơi nhưng mục tiêu chiến lược đề ra cho cuộc tấn công đã không đạt được. Cơ quan đầu não kháng chiến của ta vẫn được bảo vệ, bộ đội chủ lực không bị tiêu diệt mà còn trưởng thành trong chiến đấu và được trang bị thêm nhiều vũ khí.

- ý nghĩa:
+ Đây là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, làm nức lòng quân dân cả nước, uy tín của Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ Tịch càng được nâng cao.

+ Với chiến thắng Việt Bắc, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.


sưu tầm
 
Câu 3: Vì sao Đảng và Chính phủ chủ trương mở chiến dịch Biên Giới thu - đông năm 1950? Diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch?

* Hoàn cảnh:
- Bước vào năm 1950, tình hình thế giới và Đông Dương diễn ra theo chiều hướng có lợi cho ta, không có lợi cho Pháp:

- Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nước ta quan hệ trực tiếp với các nước xã hội chủ nghĩa.

- Tháng 1/1950, Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Uy tín và địa vị của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế.

- Cuộc kháng chiến của nhân dân Cămpuchia và Lào phát triển và giành được thắng lợi. Tháng 6/1950, Uỷ ban dân tộc giải phóng Cămpuchia thành lập, 8/1950, Chính phủ kháng chiến Pa thét - Lào ra đời đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung của nhân dân Đông Dương phát triển.

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương lên cao.

* Âm mưu của Pháp
- Đứng trước những hoàn cảnh không có lợi đó, thực dân Pháp ngày càng dựa vào Mỹ. Và nhờ vào sự giúp đỡ lớn của Mỹ, thông qua kế hoạch Rơve, thực dân Pháp thực hiện âm mưu “khoá chặt biên giới Việt - Trung” bằng việc tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4 nhằm tách cuộc kháng chiến của ta với hậu phương xã hội chủ nghĩa; thiết lập “hành lang Đông - Tây”( Hải Phòng- Hà Nội - Hoà Bình - Sơn La) nhằm cắt đứt sự liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc với đồng bằng liên khu III, IV và chuẩn bị cho cuộc tấn công lên Việt Bắc lần thứ 2.

* Chủ trương của ta:
- Để tranh thủ những điều kiện thuận lợi, phá bỏ sự bao vây của địch, đẩy cuộc kháng chiến phát triển sang một giai đoạn mới, 6/1950, Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Biên Giới. Chiến dịch được mở hướng Cao Bằng - Lạng Sơn nhằm:
+ Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch
+ Khai thông biên giới Việt - Trung để mở rộng đường liên lạc quốc tế của ta với các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.

* Diễn biến:
- Ngày 16/9/1950, quân đội ta đã nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Đến sáng 18/9/1950 đã giành thắng lợi. Mất Đông Khê, Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, thế phòng thủ đường số 4 bị lung lay.
Sau khi mất Đông Khê, quân Pháp được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Kế hoạch rút được thực hiện bằng cuộc “hành quân kép” bao gồm:
+ Một cuộc hành quân đánh lên Thái Nguyên nhằm thu hút quân chủ lực của ta, đỡ đòn cho đồng bọn ở mặt trận biên giới.
+ Một cuộc tấn công khác từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về.

- Đoán trước được kế hoạch của địch, ta đã bố trí mai phục để chờ đánh quân tiếp viện. Từ 1/10/1950 trở đi, quân ta liên tiếp chặn đánh địch, khiến cho hai cánh quân từ Cao Bằng về và Thất Khê lên không liên lạc được với nhau.

-Sau 8 ngày chiến đấu ác liệt, từ 1/10 - 8/10/1950, ta đã tiêu diệt gọn 2 binh đoàn gồm 7 tiểu đoàn địch, đánh tan 1 tiểu đoàn khác, làm sụp đổ hoàn toàn kế hoạch rút quân của chúng. Từ 10 đến 20/10/1950, địch hoảng loạn rút khỏi Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu. Ta truy kích và làm tan rã thêm một số. Trong khi đó, cuộc tiến công lên Thái Nguyên của 6 tiểu đoàn địch cũng bị đập tan.

- Tại các chiến trường khác như: đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Liên Khu V, Nam Bộ quân và dân ta đều ra sức thi đua giết giặc lập công, kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện mặt trận Cao - Bắc - Lạng.

* Kết quả và ý nghĩa:
- Kết quả:
+ Ta đã hoàn toàn thắng lợi ở cả ba mục tiêu đặt ra. Quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, khai thông đường biên giới Việt - Trung trên đoạn dài 750 km (từ Cao Bằng - Đình Lập) mở rộng đường liên lạc quốc tế, giải phóng 35 vạn dân, căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng.

+Tính trong phạm vi cả nước, trong cuộc tấn công Thu - Đông 1950 ta đã diệt 12.000 địch, giải phóng 4.000 km2 đất cùng 40 vạn dân, trong đó có nhiều thị xã quan trọng như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Hoà Bình. “Hành lang Đông - Tây bị chọc thủng”


  • ý nghĩa:
+ Với chiến thắng Biên Giới, quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ đã thuộc về ta. Từ đó về sau, bộ đội ta liên tục mở những chiến dịch tiến công, đánh tiêu diệt với quy mô ngày càng lớn.

Sưu tầm
 
Câu 4: Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân (1953-1954) diễn ra như thế nào? Kết quả ý nghĩa của cuộc tiến công chiến lược?

a. Hoàn cảnh:
- Qua 8 năm kháng chiến lực lượng của ta đã lớn mạnh một cách toàn diện. Dư luận quốc tế ngày càng đồng tình ủng hộ cuộc kháng chiến của ta

- Sau 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược, lực lượng thực dân Pháp trên chiến trường Đông Dương bị suy yếu rõ rệt; vùng chiếm đóng bị thu hẹp; mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán ngày càng sâu sắc. Những khó khăn, bế tắc về kinh tế – xã hội ở nước Pháp cũng ngày càng tăng lên. Mặc dù vậy, thực dân Pháp chủ trương tranh thủ thêm viện trợ của Mĩ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm “lối thoát trong danh dự”.

- Sau chiến tranh Triều Tiên, đế quốc Mĩ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, thúc đẩy thực dân Pháp kéo dài và mở rộng chiến tranh.

b. Âm mưu mới của Pháp và Mỹ
- Ngày 7/5/1953, với sự thoả thuận của Mĩ, chính phủ Pháp đã cử tướng Na va sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7/1953, Chính phủ Pháp thông qua kế hoạch quân sự Na va gồm 2 bước:
+ Bước1 ( Thu - đông 1953 và xuân 1954): Giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tránh giao tranh với chủ lực của ta, thực hiện tiến công chiến lược ở chiến trường miền Nam; đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực xây dựng một lực lượng cơ động mạnh.

+ Bước2 ( từ thu 1954): Chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quyết định, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng.

- Để thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng cường thêm 12 tiểu đoàn bộ binh rút từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên đồng thời tăng thêm 10 vạn lính ngụy, đưa lực lượng cơ động chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương lên 84 tiểu đoàn; đồng thời chuyển quân từ các chiến trường khác về tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn cơ động

- Có thêm quân, suốt mùa hè và mùa thu 1953, địch mở hàng chục cuộc càn quét lớn, nhỏ ở Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Nam Bộ, ráo riết bình định và bắt lính. Chúng uy hiếp vùng tự do của ta, thả hàng ngàn thổ phỉ xuống vùng núi Lào Cai, Lai Châu, Sơn La. Tháng 7/1953 chúng cho quân nhảy dù tập kích Lạng Sơn...

c. Chủ trương chiến lược của ta trong Đông Xuân 1953- 1954

- Chủ trương chiến lược của ta trong Đông Xuân 1953 - 1954 là: Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc địch phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phân tán binh lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng.

- Phương châm tác chiến chung cho toàn bộ cuộc tiến công là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.


  1. Diễn biến:

+ Thực hiện chủ trương đã vạch ra, 11/1953 ta đã tập trung lực lượng tấn công lên Tây Bắc giải phóng Lai Châu buộc địch phải điều 6 tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ ở đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường Điện Biên Phủ. Như vậy, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung quân thứ 2 của địch sau đồng bằng Bắc Bộ.

+ Đầu tháng 12/1953, phối hợp với quân giải phóng Pa thét Lào ta tấn công địch ở Trung Lào giải phóng thị xã Thà Khẹt và toàn tỉnh Khăm Muộn, uy hiếp Sênô. Nava buộc phải điều thêm lực lượng từ Bắc Bộ sang Trung Lào để thành lập một tập đoàn cứ điểm ở Sênô. Sênô trở thành nơi tập trung quân thứ 3 của địch .

+ Đầu 1954, khi địch mở chiến dịch đánh vào vùng tự do của ta ở liên khu V, ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 5/2/1954, ta giải phóng thị xã Kon tum, quét sạch quân địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng 16.000 km2, với 20 vạn dân, Địch phải bỏ dở cuộc tấn công ở đồng bằng Liên Khu V, vội điều lực lượng từ Nam Bộ và Bình - Trị - Thiên lên Tây Nguyên, tổ chức thành hai tập đoàn cứ điểm An Khê, Plâycu và một số cứ điểm ở nam Tây Nguyên. Như vậy, đây đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ 4 của địch.

+ Cũng vào thời gian trên, bộ đội ta phối hợp với bộ đội Lào mở cuộc tấn công vào Thượng Lào giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, truy kích địch đến sát Luông Phabang. Thừa lúc địch hoang mang, một bộ phận quân ta tiến lên phía bắc giải phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lì. Khu giải phóng Sầm Nưa của bạn nối liền với khu Tây Bắc của ta. Địch phải gấp rút tăng cường lực lượng cho Luông Phabang và Mường Sài, biến đây trở thành nơi tập trung binh lực thứ 5 của địch.

- Phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính diện, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch, đánh phá giao thông, sân bay, kho tàng của địch nhằm cho địch phải phân tán thêm lực lượng.



  • Như vậy: địch đã phải phân tán thành 5 nơi để đối phó với ta. Điều đó chứng tỏ kế hoạch Nava bước đầu đã bị phá sản. Từ chỗ chỉ giữ thế chủ động chiến lược trên toàn bộ chiến trường chính Bắc bộ, giờ đây ta đã tiến lên giữ thế chủ động chiến lược trên toàn bộ chiến trường Đông Dương. Những thắng lợi đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiến lên mở trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ để giành thắng lợi quyết định.

Sưu tầm
 
Câu 5: Diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Điện Biên Phủ?

- Âm mưu của địch:
+ Phát hiện sự di chuyển lực lượng chủ lực của ta lên hướng Tây Bắc, từ 20/11/1953, Nava cho 6 tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào và để phá cuộc tiến công đông xuân của ta. Không đạt được âm mưu trên, ngày 3/12/1953, Nava quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, chấp nhận cuộc quyết chiến chiến lược tại đây, sẵn sàng “nghiền nát” bộ đội chủ lực của ta. Điện Biên Phủ trở thành trung tâm của kế hoạch Nava.

+ Thực hiện âm mưu trên, quân địch tập trung mọi cố gắng, tăng cường phòng thủ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cho đến đấu 3/1954, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ là 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân vào loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương. Lực lượng địch được bố trí thành một hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu, được trang bị những vũ khí hiện đại...Vì vậy, Pháp - Mỹ coi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là "pháo đài không thể công phá", nếu chủ lực Việt Minh tấn công thì sẽ không tránh khỏi thất bại.

- Chủ trương của ta:
- Muốn đập tan được kế hoach Nava tiến tới chấm dứt chiến tranh thì phải tiêu diệt Điện Biên Phủ. Ngày 6/12/1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp và nhận định:
+ Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng lại có cái yếu cơ bản đó là bị cô lập, xa Hà Nội chỉ tiếp tế và tiếp viện bằng đường hàng không.

+ Bộ đội ta đã trưởng thành, có thể đánh được một “tập đoàn cứ điểm”; Hậu phương của ta đang tiến hành cải cách ruộng đất, tinh thân nhân dân phấn khởi, ta có thể khắc phục được khó khăn về đường xá, vận tải tiếp tế.
Trên cơ sở nhận định trên, Đảng ta đã hạ quyết tâm mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

- Diễn biến: Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra làm 3 đợt
+ Đợt 1 (Từ 13 - 17/3/1954): quân ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc (gồm cứ điểm Độc Lập và Bản Kéo) diệt và bắt sống 2000 địch, phá huỷ 26 máy bay.

+ Đợt 2 (30/3 - 26/4): Quân ta đồng loạt tấn công các cứ điểm phía đông của phân khu trung tâm (gồm các cứ điểm E1, D1, C1, C2, A1...). Ngay trong đêm 30/3, ta chiếm các đồi E1, D1, Chu nghia xa hoi. Riêng đồi A1 hai bên giành nhau từng tấc đất. Cho đến 4/4/1954, ta và địch mỗi chiếm giữ một nửa quả đồi. Sáng 9/4/1954, địch phản kích chiếm lại đồi Chu nghia xa hoi. Sau 4 ngày chiến đấu, mỗi bên chiếm một nửa quả đồi. Trong khi đó quân ta khép chặt vòng vây xung quanh khu trung tâm bằng một hệ thống giao thông haò, tiến sát sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất bằng đường không của địch. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp gần 100 máy bay oanh tạc, chiến đấu và gần 50 máy bay vận tải.

+ Đợt 3 (từ 1/5 - 7/5/1954): Bộ đội ta đánh các điểm cao còn lại ở phía đông. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, địch định tổ chức thành 3 cánh quân, phá vòng vây tháo chạy sang Lào vào đêm 7/5/1954. Nhưng chúng chưa kịp thực hiện thì vào lúc 18h 45phút ngày 6/5, tiếng nổ của khối bộc phá nặng 1000 kg đặt trong lòng đồi A1 là hiệu lệnh tổng công kích của quân ta. 17h30 ngày 7/5/1954, tướng Đờ Cáxtơri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt. Gần một vạn quân địch ra hàng.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục, mãnh liệt của quân đội ta, chiến dịch Điện Biên Phủ đã hoàn toàn thắng lợi.

- Kết quả và ý nghĩa:
+ Kết quả: Chiến thắng Điện Biên Phủ ta đã diệt và bắt sống 16.200 tên, trong đó có 1 thiếu tướng; hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, cơ sở vật chất kỹ thuật.

+ ý nghĩa:
• Chiến thắng đã đập tan kế hoạch Nava, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương.
• Chiến thắng Điện Biên Phủ đã có ảnh hưởng lớn đến kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ. Thực dân Pháp và các nước tham dự đã cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của 3 nước Đông Dương.
• Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với Hiệp định Giơ nevơ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương.
• Chiến thắng Điện Biên Phủ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Sưu tầm
 
XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


Câu 1: Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đã làm gì để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài?

- Thực hiện đường lối của Đảng và Chính phủ, cùng với cuộc chiến đấu nhằm tiêu hao và giam chân địch trong các đô thị, quân và dân ta đã tranh thủ thời gian di chuyển các cơ quan Đảng, chính phủ, các đoàn thể quần chúng, cơ sở vật chất, tổ chức nhân dân tản cư, chuyển cả nước vào thời chiến và đồng thời xây dựng tiềm lực về mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài.

- Về công tác di chuyển, quân và dân ta đã khẩn trương vận chuyển hàng vạn tấn máy móc, nguyên liệu, gạo, muối, vải từ những vùng địch có thể đánh chiếm về các khu an toàn. Chỉ trong vòng 3 tháng đầu từ ngày toàn quốc kháng chiến, ta đã đưa được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu ra vùng căn cứ. Riêng ở Bắc Bộ, gần 2/3 số máy móc đã được chuyển lên căn cứ. Nhờ vậy, ta đã xây dựng được 57 cơ sở sản xuất đáp ứng nhu cầu kinh tế và quốc phòng. Các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận...đã di chuyển về căn cứ địa Việt Bắc an toàn vào đầu tháng 3 năm 1947.

- Cùng với việc di chuyển, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta đã phá hoại các cơ sở sản xuất, đường xá, cầu cống, nhà cửa và các cơ sở vật chất khác để không cho thực dân Pháp lợi dụng.

- Về mặt kinh tế, để đảm bảo tiềm lực kinh tế cho cuộc kháng chiến lâu dài, Chính phủ chủ trương bằng mọi cách không để cho sản xuất đình đốn đảm bảo nhu cầu ăn, mặc cho lực lượng vũ trang nhân dân. Chính phủ đã động viên, tổ chức toàn dân tăng gia sản xuất. Mọi giới, mọi ngành từ nông dân, công nhân, bộ đội, giáo viên, học sinh...Ai cũng có nghĩa vụ sản xuất lương thực theo khẩu hiệu “Thực túc binh cường”, “Ăn no đánh thắng”.

+ Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thông tư giảm tô 25% được Chính phủ ban hành tháng 11/1945 là cơ sở pháp lý để nông dân tiếp tục đấu tranh với địa chủ phong kiến đạt kết quả bước đầu. Ruộng đất của đế quốc và Việt gian được giao cho nông dân cày cấy. Các hình thức hợp tác giản đơn như tổ đổi công, hợp công, vần công ra đời góp phần khắc phục việc thiếu nhân công bảo đảm thời vụ.

+ Song song với việc đẩy mạnh sản xuất là việc bảo vệ sản xuất, chống lại các hoạt động phá hoại sản xuất của địch. Bộ đội và dân quân du kích nhiều nơi đã chiến đấu chống địch để nhân dân thu hoạch mùa màng cất giấu thóc gạo.

+ Các ngành sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp được chú ý phát triển nhằm cung cấp các mặt hàng tối cần thiết cho đời sống của nhân dân và phục vụ lực lượng vũ trang như vải, giấy, xà phòng, diêm....

- Về văn hoá - giáo dục, phong trào bình dân học vụ, thanh toán nạn mù chữ tiếp tục được duy trì và phát triển. Các trường tiểu học được xây dựng thu hút con em nhân dân lao động vào học. Việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, xây dựng đời sống mới cũng được chú trọng.

Sưu tầm
 
Câu 2: Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hậu phương của cuộc kháng chiến được xây dựng như thế nào? Vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến?


- Để tiến hành cuộc chiến tranh, mỗi bên tham chiến đều phải đặt cho mình hai vấn đề cần giải quyết là hậu phương và tiền tuyến. Hậu phương là vùng, khu vực, miền, quốc gia hoặc liên quốc gia phía sau tiền tuyến. Hậu phương là nơi cung cấp thường xuyên sức người, sức của, động viên tinh thần cho tiền tuyến. Hậu phương là nền tảng kinh tế, cơ sở vật chất của tiền tuyến. Hậu phương là địa bàn đứng chân của tiền tuyến. Vì vậy, tiền tuyến không thể thắng giặc nếu không có hậu phương vững mạnh. Đúng như Lênin nói “Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh” (Học sinh có thể dùng ý này để trả lời câu hỏi: Vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến nói chung và chống Pháp nói riêng ?).

- Nhận rõ tầm quan trọng này nên trong quá trình tiến hành kháng chiến, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn chú trọng xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt.

a. Về chính trị :
- Trong kháng chiến, Đảng và Chính phủ đặc biệt chú trọng tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến cơ sở, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Tại Nam Bộ, năm 1948, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh. ở Bắc Bộ và Trung Bộ, Hội đồng nhân dân ở một số địa phương được chấn chỉnh và đi vào hoạt động có nề nếp. Chính quyền kháng chiến trong các vùng địch tạm chiếm vẫn được củng cố và phát triển.

Từ năm 1950, Đảng và Chính phủ tiếp tục kiện toàn nhà nước dân chủ nhân dân. ở nhiều nơi, Hội đồng nhân dân và uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn, thu hút được nhiều thành phần cơ bản trong nhân dân.

- Cùng với mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được Đảng ta thành lập (5/1946). Đến 1948, cả hai mặt trận đều thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Tuy nhiên hiện tượng chồng chéo, dẫm chân lên nhau giữa hai tổ chức mặt trận đã xẩy ra ở một số địa phương. Để khắc phục tình trạng ấy, Đảng và Chính phủ đã chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Đầu năm 1950, các địa phương từ xã đến huyện, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc thống nhất hai hình thức mặt trận trên. Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, 3/3/1951, đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được tổ chức để thành lập một mặt trận duy nhất lấy tên là Mặt trận Liên Việt. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường rõ rệt.

Công tác vận động đồng bào miền núi, đồng bào công giáo, đồng bào Hoa kiều, binh lính...nhằm mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất được Đảng coi trọng. Nhiều tổ chức, đoàn thể quần chúng (như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, thanh niên, phụ nữ...) được kiện toàn, làm tăng thêm sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Đồng bào Việt kiều ngoài nước cũng tích cực ủng hộ kháng chiến dưới nhiều hình thức.

Mặt trận dân tộc thống nhất đã thật sự là một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, alf sức mạnh của cuộc kháng chiến và kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng, góp phần dập tan âm mưu chính trị thâm độc của thực dân Pháp.


b. Kinh tế:
Đi đôi với xây dựng và củng cố cơ sở chính trị thì Đảng ta cũng đẩy mạnh đấu tranh kinh tế với địch và xây dựng kinh tế.

- Đấu tranh kinh tế: Sau chiến dịch Việt Bắc, địch quay sang đánh lâu dài, chúng thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Ta ra sức chống địch cướp phá, bảo vệ mùa màng, lúa gạo, kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Cuộc đấu tranh này càng về sau càng quyết liệt. ở những vùng giáp ranh, địch ra sức cướp bóc, đốt phá bắn giết trâu bò, bắn giết nhân dân trong lúc đang sản xuất nhằm thực hiện âm mưu triệt nguồn tiếp tế cho bộ đội.

Để chống lại, ta chuyển sang sản xuất ban đêm, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Bộ đội giúp dân gặt lúa, thu hoạch mùa màng và đem cất giấu ngay. Ta kiểm soát chặt chẽ việc giao lưu kinh tế để thu hút kinh tế vùng địch ra vùng tự do và ngăn chặt việc phá hoại, lũng đoạn kinh tế ta của địch.

- Phát triển kinh tế: Từ 3/1948, với phong trào thi đua ái quốc, việc đẩy mạnh sản xuất, thực hiện khẩu hiệu kinh tế tự cấp, tự túc trở thành phong traog sôi nổi trong cả nước.

+ Nông nghiệp: Để tạo điều kiện cho nông dân phấn khởi sản xuất, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất. Năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%, sắc lênh quy định việc chia lại đất công, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian và ruộng đất "vắng chủ" cho nông dân. Năm 1950, Chính phủ ra sắc lênh giảm tức, xoá nợ và hoãn nợ của nông dân vay địa chủ, ban hành quy chế lĩnh canh.

Nhờ có những biện pháp tích cực của nhà nước, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, diện tích và sản lượng nông nghiệp đều tăng. Năm 1950, tính từ Liên khu IV trở ra, sản lượng lúa ở vùng tự do và căn cứ du kích là 2.414.830 tấn.
Năm 1952, cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm đã lôi cuốn mọi ngành mọi giới tham gia. Các phong trào tổ đổi công trong nhân dân phát triển khắp vùng tự do. Cũng như vùng căn cứ du kích, nông dân có phong trào thâm canh tăng vụ, khai hoang, phát triển trồng lúa và hoa màu...ở các vùng tự do thì phong trào tăng gia sản xuất trong các cơ quan trường học, đơn vị bộ đội, bệnh viện cũng diễn ra sôi nổi.

Năm 1953 Đảng và Chính phủ đã đề ra chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và cải cách ruộng đất (đợt 1). Cho đến năm 1953, tính từ Liên khu IV trở ra, nhà nước đã tạm cấp cho nông dân 184.434 ha ruông đất của thực dân Pháp và địa chủ, ruộng "vắng chủ", ruộng hoang...Hơn 50% diện tích ruộng đất do địa chủ chiếm hữu đã được chia cho nông dân thiếu ruộng. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện chủ trương này ở một số địa phương càng làm cho nông dân phấn khởi sản xuất, dẩy mạnh kháng chiến. Năm 1953, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra, sản xuất lương thực ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích đạt được 2.757.700 tấn thóc và 650.850 tấn hoa màu.

+ Công nghiệp: các cơ sở công nghiệp quốc phòng mọc lên ở nhiều nơi trong vùng tự do và chiến khu của ta với quy mô vừa và nhỏ. Đến năm 1949, cả nước có 130 xưởng sản xuất vũ khí, 21 cơ sở quân dược, 20 cơ sở sản xuất quân nhu cung cấp một phần nhu cầu về đạn dược, thuốc men, quần áo cho bộ đội. Ta đã tự sản xuất được một số loại vũ khí lớn như: SKZ, ống phóng bom, súng cối 60 li và 120 li...Các ngành tiểu thủ công nghiệp như dệt vải, nấu xà phòng, làm giấy, thuộc Đông âu, bào chế thuốc...cũng phát triển, đáp ứng một phần nhu cầu của nhân dân.

Năm 1953, ta đã sản xuất được 3552 tấn vũ khí, đạn dược. Kế hoạch sản xuất thuốc men, quân trang, quân dụng vẫn được bảo đảm.

+ Tài chính, thương nghiệp: Giữa năm 1951, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập mậu dịch quốc doanh với nhiệm vụ đảm bảo cung cấp những hàng hoá thiết yếu cho kháng chiến và đời sống của nhân dân, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước, góp phần đấu tranh có hiệu quả với địch trên lĩnh vực mậu dịch.

Tài chính, ngân hàng đã có cố gắng nhằm đáp ứng được nhu cầu của cuộc kháng chiến. Năm 1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp nhằm tập trung một khối lượng lương thực cần thiết cho tiền tuyến và thực hiện sự đóng góp công bằng trong các tầng lớp nhân dân. Tháng 6/1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và phát hành đồng tiền Việt Nam mới. Nhờ vậy, từ năm 1951 trở đi, tình hình tài chính của ta đã tiến bộ rõ rệt. Nhà nước căn bản cân bằng được thu - chi.

c. Văn hoá - giáo dục - y tế:
- Đi đôi với việc củng cố phát triển về kinh tế - chính trị, sự nghiệp văn hoá giáo dục - y tế cũng được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm.

- Về văn hoá: cùng với việc xoá bỏ nền văn hoá nô dịch, ngu dân của thực dân Pháp, nền văn hoá mới được xây dựng theo phương châm: dân tộc - khoa học - đại chúng. Năm 1948, Hội nghị văn hoá toàn quốc được triệu tập và thông qua báo cáo của đồng chí Trường Chinh “Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam”. Báo cáo đã giúp cho những người làm công tác văn hoá văn nghệ xác định được quan điểm, lập trường của mình, bám sát cuộc sống của nhân dân, thực tiễn kháng chiến để phản ánh phục vụ đối tượng chính là công - nông - binh, đấu tranh chống quan điểm tư sản. Nếp sống mới vui tươi, lành mạnh, có văn hoá đã được xây dựng trong nhân dân, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

- Về giáo dục: phong trào bình dân học vụ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh góp phần vào việc thanh toán nạn mù chữ. Đến 1950, đã có 7.500 thôn của 1.500 xã ở 84 huyện thuộc 10 tỉnh đã hoàn thành việc xoá nạn mù chữ.

Hệ thống giáo dục phổ thông không ngừng được mở rộng. Chương trình giáo dục phổ thông bước đầu cải tiến theo nội dung dân tộc, dân chủ nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Đội ngũ giáo viên và học sinh không ngừng tăng lên. Tính đến 1952, chỉ riêng ở Liên khu Việt Bắc, Khu III, IV, V, có trên 1 triệu học sinh phổ thông. Một số trường trung học chuyên nghiệp và đại học cũng được xây dựng ở vùng tự do và chiến khu Việt Bắc như trường Đại học sư phạm, Đại học Y - Dược.

- Về công tác y tế: Chính quyền các cấp và ngành chuyên môn có nhiều cố gắng trong công tác phát triển y tế, thực hiện vệ sinh phòng bệnh và chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Cuộc vân động 3 sạch (ăn sạch, ở sạch, uống sạch) được đẩy mạnh và trở thành phong trào rộng rãi ở các địa phương, ở các liên khu, hệ thống cơ sở y tế từ tỉnh đến xã được xây dựng, đáp ứng một phần nhu cầu chữa bệnh của nhân dân.

Tóm lại: Với kết quả đạt được thể hiện trên tất cả các mặt trên đã góp phần to lớn vào việc chi viện thường xuyên cũng như làm thất bại trong âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp. Có thể nói hậu phương vững mạnh là một trong những nguyên nhân dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ.

Chú ý: phần 9 có thể sử dụng để trả lời câu hỏi “Tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến chống Pháp thể hiện như thế nào?”. Nhưng cần thêm phần trình bày về ngoại giao, quân sự (Trả lời câu hỏi về xây dựng hậu phương chỉ cần trình bày về chính trị, kinh tế, văn hoá - giáo dục - ytế)

d. Ngoại giao:
- Đảng ta đã không ngừng tăng cường đoàn kết quốc tế. Trước hết đó là đoàn kết giữa nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Căm pu chia, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Ngày 11/1/1950, chủ tich Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố với chính phủ của các nước trên thế giới: chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với tất cả chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.

- Kết quả của sự nỗ lực ngoại giao là 18/1/1950 chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định công nhận và đặt quan hệ ngoại giao vơí ta. Tiếp đó ngày 31/1/1950 chính phủ Liên Xô cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Trong vòng một tháng sau tất cả các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Với kết quả này, uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế.

- 3/1951, khối liên minh Việt - Miên - Lào được thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Sự kiện này đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ của kẻ địch và mở ra một triển vọng mới cho nhân dân 3 nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Khối đoàn kết giữa 3 dân tộc Đông Dương được tăng lên.

- Với đường lối chính trị, ngoại giao đúng đắn của Đảng đứng đầu là Hồ Chủ Tịch, cuộc đấu tranh của ta ở Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã thu dược thắng lợi.

e. Quân sự:
- Với những thắng lợi trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hoá giáo dục, ngoại giao...đã góp phần tạo ra và thúc đẩy thắng lợi ngày càng to lớn của quân dân ta trên các chiến trường.

+ Mở đầu quân và dân ta đã chặn đứng âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, tiêu hao và vây hãm chúng trong các thành phố và thị xã, tạo điều kiện cho cả nước đi vào kháng chiến lâu dài.

+ Lực lượng vũ trang nhân dân với 3 thứ quân không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Cùng với tiến công đánh địch ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch, giải phóng đất đai, đẩy địch ngày càng xa vào thế bị động khốn đốn. Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đập tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, đưa kháng chiến tiến lên một bước mới. Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 đã phá tan thế bao vây của kẻ thù, giành thế chủ động ở chiến trường chính Bắc bộ.

+ Phát huy thế tiến công đánh địch, ta đã mở một loạt các chiến dịch đánh xuống vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ như: Chiến dịch Trung du(12/1950), đường số 18 (3/1951), Hà Nam Ninh (5/1951), Hoà Bình (Đông xuân 1951-1952). Tiếp theo là chiến dịch Tây bắc (10/1952), Thượng Lào (4/1953) đã đẩy địch vào thế lúng túng.

+ Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại đã đập tan hoàn toàn kế hoạch quân sự Nava, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ, thừa nhận nền độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương và rút quân về nước.


Sưu tầm
 
TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ 1954 ĐẾN 1975


Câu 1: Đặc điểm tình hình nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương?

a. Đặc điểm tình hình
- Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với 3 nước Lào, Việt Nam Cămpuchia. Theo Hiệp định, để thực hiện hoà bình 2 bên phải tuyệt đối thi hành những điều khoản đã được ký kết.

+ Về phía ta: Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định, tiến hành tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Đồng thời đấu tranh mạnh mẽ yêu cầu Pháp thực hiện hiệp định. Kết quả 10/10/1954 quân ta đã tiếp quản thủ đô an toàn, tháng 22/5/1955 thực dân Pháp đã rút khỏi Cát Bà (Hải Phòng), miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng.

+ Đối với Pháp: Trước khi rút thực dân Pháp đã tiến hành phá hoại các cơ sở kinh tế, máy móc, thiết bị, tài sản để gây khó khăn cho ta. Pháp cùng với Mỹ và Ngô Đình Diệm chỉ đạo bọn phản động tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo vào Nam thực hiện âm mưu chống phá cách mạng về sau. ở Miền Nam, giữa tháng 5/1956 Pháp đã rút hết quân viễn chinh về nước, khi còn nhiều điều khoản hiệp định có liên quan đến nhiệm vụ của họ chưa được thi hành, trong đó có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử ở 2 miền Nam, Bắc Việt Nam. Pháp đã trút bỏ trách nhiệm thi hành những điều khoản còn lại của hiệp định cho Mỹ - Diệm, kế tục chúng ở Miền Nam, là những lực lượng ngoan cố và trắng trợn trong âm mưu phá hoại hiệp định Giơnevơ.

+ Về phía Mỹ - Diệm: Mỹ đã từng bước gạt Pháp và tay sai của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam thay tay sai của mình là Ngô Đình Diệm thực hiện độc chiếm miền Nam sau đó là toàn Đông Dương. Mỹ muốn biến miền Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự nhằm ngăn chặn phong trào cộng sản ở Đông Nam á. Thực hiện âm mưu này, Mỹ đã lôi kéo một số nước như: Thái Lan, Philíppin, úc, Anh, Pháp ...để thành lập khối Liên minh quân sự Đông Nam á (SEATO) vào 9/1954 và đặt miền Nam dưới sự bảo trợ của khối này.

Đối với chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, để thực hiện âm mưu của quan thầy Mỹ đã ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất Việt Nam. Âm mưu của chính quyền Diệm là muốn chia cắt lâu dài Việt Nam, xây dựng Miền Nam thành quốc gia riêng biệt. Vì vậy, 10/1955, Ngô Đình Diệm bày ra trò “trưng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại và lên làm tổng thống; tổ chức bầu cử, lập Quốc hội lập hiến (3/1956), ban hành Hiến pháp “Việt Nam cộng hoà” (10/1956).

Với những việc làm trên của Mĩ – Diệm đã thể hiện âm mưu của chúng là chia cắt lâu dài miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự, một thuộc địa kiểu mới thậm chí trở thành một phần lãnh thổ của Mĩ.


Sưu tầm
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top