Câu 2: Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hậu phương của cuộc kháng chiến được xây dựng như thế nào? Vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến?
- Để tiến hành cuộc chiến tranh, mỗi bên tham chiến đều phải đặt cho mình hai vấn đề cần giải quyết là hậu phương và tiền tuyến. Hậu phương là vùng, khu vực, miền, quốc gia hoặc liên quốc gia phía sau tiền tuyến. Hậu phương là nơi cung cấp thường xuyên sức người, sức của, động viên tinh thần cho tiền tuyến. Hậu phương là nền tảng kinh tế, cơ sở vật chất của tiền tuyến. Hậu phương là địa bàn đứng chân của tiền tuyến. Vì vậy, tiền tuyến không thể thắng giặc nếu không có hậu phương vững mạnh. Đúng như Lênin nói “Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh” (Học sinh có thể dùng ý này để trả lời câu hỏi: Vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến nói chung và chống Pháp nói riêng ?).
- Nhận rõ tầm quan trọng này nên trong quá trình tiến hành kháng chiến, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn chú trọng xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt.
a. Về chính trị :
- Trong kháng chiến, Đảng và Chính phủ đặc biệt chú trọng tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến cơ sở, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Tại Nam Bộ, năm 1948, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh. ở Bắc Bộ và Trung Bộ, Hội đồng nhân dân ở một số địa phương được chấn chỉnh và đi vào hoạt động có nề nếp. Chính quyền kháng chiến trong các vùng địch tạm chiếm vẫn được củng cố và phát triển.
Từ năm 1950, Đảng và Chính phủ tiếp tục kiện toàn nhà nước dân chủ nhân dân. ở nhiều nơi, Hội đồng nhân dân và uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn, thu hút được nhiều thành phần cơ bản trong nhân dân.
- Cùng với mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được Đảng ta thành lập (5/1946). Đến 1948, cả hai mặt trận đều thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Tuy nhiên hiện tượng chồng chéo, dẫm chân lên nhau giữa hai tổ chức mặt trận đã xẩy ra ở một số địa phương. Để khắc phục tình trạng ấy, Đảng và Chính phủ đã chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Đầu năm 1950, các địa phương từ xã đến huyện, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc thống nhất hai hình thức mặt trận trên. Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, 3/3/1951, đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được tổ chức để thành lập một mặt trận duy nhất lấy tên là Mặt trận Liên Việt. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường rõ rệt.
Công tác vận động đồng bào miền núi, đồng bào công giáo, đồng bào Hoa kiều, binh lính...nhằm mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất được Đảng coi trọng. Nhiều tổ chức, đoàn thể quần chúng (như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, thanh niên, phụ nữ...) được kiện toàn, làm tăng thêm sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Đồng bào Việt kiều ngoài nước cũng tích cực ủng hộ kháng chiến dưới nhiều hình thức.
Mặt trận dân tộc thống nhất đã thật sự là một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, alf sức mạnh của cuộc kháng chiến và kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng, góp phần dập tan âm mưu chính trị thâm độc của thực dân Pháp.
b. Kinh tế:
Đi đôi với xây dựng và củng cố cơ sở chính trị thì Đảng ta cũng đẩy mạnh đấu tranh kinh tế với địch và xây dựng kinh tế.
- Đấu tranh kinh tế: Sau chiến dịch Việt Bắc, địch quay sang đánh lâu dài, chúng thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Ta ra sức chống địch cướp phá, bảo vệ mùa màng, lúa gạo, kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Cuộc đấu tranh này càng về sau càng quyết liệt. ở những vùng giáp ranh, địch ra sức cướp bóc, đốt phá bắn giết trâu bò, bắn giết nhân dân trong lúc đang sản xuất nhằm thực hiện âm mưu triệt nguồn tiếp tế cho bộ đội.
Để chống lại, ta chuyển sang sản xuất ban đêm, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Bộ đội giúp dân gặt lúa, thu hoạch mùa màng và đem cất giấu ngay. Ta kiểm soát chặt chẽ việc giao lưu kinh tế để thu hút kinh tế vùng địch ra vùng tự do và ngăn chặt việc phá hoại, lũng đoạn kinh tế ta của địch.
- Phát triển kinh tế: Từ 3/1948, với phong trào thi đua ái quốc, việc đẩy mạnh sản xuất, thực hiện khẩu hiệu kinh tế tự cấp, tự túc trở thành phong traog sôi nổi trong cả nước.
+ Nông nghiệp: Để tạo điều kiện cho nông dân phấn khởi sản xuất, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất. Năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%, sắc lênh quy định việc chia lại đất công, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian và ruộng đất "vắng chủ" cho nông dân. Năm 1950, Chính phủ ra sắc lênh giảm tức, xoá nợ và hoãn nợ của nông dân vay địa chủ, ban hành quy chế lĩnh canh.
Nhờ có những biện pháp tích cực của nhà nước, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, diện tích và sản lượng nông nghiệp đều tăng. Năm 1950, tính từ Liên khu IV trở ra, sản lượng lúa ở vùng tự do và căn cứ du kích là 2.414.830 tấn.
Năm 1952, cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm đã lôi cuốn mọi ngành mọi giới tham gia. Các phong trào tổ đổi công trong nhân dân phát triển khắp vùng tự do. Cũng như vùng căn cứ du kích, nông dân có phong trào thâm canh tăng vụ, khai hoang, phát triển trồng lúa và hoa màu...ở các vùng tự do thì phong trào tăng gia sản xuất trong các cơ quan trường học, đơn vị bộ đội, bệnh viện cũng diễn ra sôi nổi.
Năm 1953 Đảng và Chính phủ đã đề ra chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và cải cách ruộng đất (đợt 1). Cho đến năm 1953, tính từ Liên khu IV trở ra, nhà nước đã tạm cấp cho nông dân 184.434 ha ruông đất của thực dân Pháp và địa chủ, ruộng "vắng chủ", ruộng hoang...Hơn 50% diện tích ruộng đất do địa chủ chiếm hữu đã được chia cho nông dân thiếu ruộng. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện chủ trương này ở một số địa phương càng làm cho nông dân phấn khởi sản xuất, dẩy mạnh kháng chiến. Năm 1953, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra, sản xuất lương thực ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích đạt được 2.757.700 tấn thóc và 650.850 tấn hoa màu.
+ Công nghiệp: các cơ sở công nghiệp quốc phòng mọc lên ở nhiều nơi trong vùng tự do và chiến khu của ta với quy mô vừa và nhỏ. Đến năm 1949, cả nước có 130 xưởng sản xuất vũ khí, 21 cơ sở quân dược, 20 cơ sở sản xuất quân nhu cung cấp một phần nhu cầu về đạn dược, thuốc men, quần áo cho bộ đội. Ta đã tự sản xuất được một số loại vũ khí lớn như: SKZ, ống phóng bom, súng cối 60 li và 120 li...Các ngành tiểu thủ công nghiệp như dệt vải, nấu xà phòng, làm giấy, thuộc Đông âu, bào chế thuốc...cũng phát triển, đáp ứng một phần nhu cầu của nhân dân.
Năm 1953, ta đã sản xuất được 3552 tấn vũ khí, đạn dược. Kế hoạch sản xuất thuốc men, quân trang, quân dụng vẫn được bảo đảm.
+ Tài chính, thương nghiệp: Giữa năm 1951, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập mậu dịch quốc doanh với nhiệm vụ đảm bảo cung cấp những hàng hoá thiết yếu cho kháng chiến và đời sống của nhân dân, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước, góp phần đấu tranh có hiệu quả với địch trên lĩnh vực mậu dịch.
Tài chính, ngân hàng đã có cố gắng nhằm đáp ứng được nhu cầu của cuộc kháng chiến. Năm 1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp nhằm tập trung một khối lượng lương thực cần thiết cho tiền tuyến và thực hiện sự đóng góp công bằng trong các tầng lớp nhân dân. Tháng 6/1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và phát hành đồng tiền Việt Nam mới. Nhờ vậy, từ năm 1951 trở đi, tình hình tài chính của ta đã tiến bộ rõ rệt. Nhà nước căn bản cân bằng được thu - chi.
c. Văn hoá - giáo dục - y tế:
- Đi đôi với việc củng cố phát triển về kinh tế - chính trị, sự nghiệp văn hoá giáo dục - y tế cũng được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm.
- Về văn hoá: cùng với việc xoá bỏ nền văn hoá nô dịch, ngu dân của thực dân Pháp, nền văn hoá mới được xây dựng theo phương châm: dân tộc - khoa học - đại chúng. Năm 1948, Hội nghị văn hoá toàn quốc được triệu tập và thông qua báo cáo của đồng chí Trường Chinh “Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam”. Báo cáo đã giúp cho những người làm công tác văn hoá văn nghệ xác định được quan điểm, lập trường của mình, bám sát cuộc sống của nhân dân, thực tiễn kháng chiến để phản ánh phục vụ đối tượng chính là công - nông - binh, đấu tranh chống quan điểm tư sản. Nếp sống mới vui tươi, lành mạnh, có văn hoá đã được xây dựng trong nhân dân, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
- Về giáo dục: phong trào bình dân học vụ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh góp phần vào việc thanh toán nạn mù chữ. Đến 1950, đã có 7.500 thôn của 1.500 xã ở 84 huyện thuộc 10 tỉnh đã hoàn thành việc xoá nạn mù chữ.
Hệ thống giáo dục phổ thông không ngừng được mở rộng. Chương trình giáo dục phổ thông bước đầu cải tiến theo nội dung dân tộc, dân chủ nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Đội ngũ giáo viên và học sinh không ngừng tăng lên. Tính đến 1952, chỉ riêng ở Liên khu Việt Bắc, Khu III, IV, V, có trên 1 triệu học sinh phổ thông. Một số trường trung học chuyên nghiệp và đại học cũng được xây dựng ở vùng tự do và chiến khu Việt Bắc như trường Đại học sư phạm, Đại học Y - Dược.
- Về công tác y tế: Chính quyền các cấp và ngành chuyên môn có nhiều cố gắng trong công tác phát triển y tế, thực hiện vệ sinh phòng bệnh và chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Cuộc vân động 3 sạch (ăn sạch, ở sạch, uống sạch) được đẩy mạnh và trở thành phong trào rộng rãi ở các địa phương, ở các liên khu, hệ thống cơ sở y tế từ tỉnh đến xã được xây dựng, đáp ứng một phần nhu cầu chữa bệnh của nhân dân.
Tóm lại: Với kết quả đạt được thể hiện trên tất cả các mặt trên đã góp phần to lớn vào việc chi viện thường xuyên cũng như làm thất bại trong âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp. Có thể nói hậu phương vững mạnh là một trong những nguyên nhân dẫn tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ.
Chú ý: phần 9 có thể sử dụng để trả lời câu hỏi “Tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến chống Pháp thể hiện như thế nào?”. Nhưng cần thêm phần trình bày về ngoại giao, quân sự (Trả lời câu hỏi về xây dựng hậu phương chỉ cần trình bày về chính trị, kinh tế, văn hoá - giáo dục - ytế)
d. Ngoại giao:
- Đảng ta đã không ngừng tăng cường đoàn kết quốc tế. Trước hết đó là đoàn kết giữa nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Căm pu chia, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Ngày 11/1/1950, chủ tich Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố với chính phủ của các nước trên thế giới: chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với tất cả chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.
- Kết quả của sự nỗ lực ngoại giao là 18/1/1950 chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định công nhận và đặt quan hệ ngoại giao vơí ta. Tiếp đó ngày 31/1/1950 chính phủ Liên Xô cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Trong vòng một tháng sau tất cả các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Với kết quả này, uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế.
- 3/1951, khối liên minh Việt - Miên - Lào được thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Sự kiện này đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ của kẻ địch và mở ra một triển vọng mới cho nhân dân 3 nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Khối đoàn kết giữa 3 dân tộc Đông Dương được tăng lên.
- Với đường lối chính trị, ngoại giao đúng đắn của Đảng đứng đầu là Hồ Chủ Tịch, cuộc đấu tranh của ta ở Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã thu dược thắng lợi.
e. Quân sự:
- Với những thắng lợi trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hoá giáo dục, ngoại giao...đã góp phần tạo ra và thúc đẩy thắng lợi ngày càng to lớn của quân dân ta trên các chiến trường.
+ Mở đầu quân và dân ta đã chặn đứng âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, tiêu hao và vây hãm chúng trong các thành phố và thị xã, tạo điều kiện cho cả nước đi vào kháng chiến lâu dài.
+ Lực lượng vũ trang nhân dân với 3 thứ quân không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Cùng với tiến công đánh địch ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch, giải phóng đất đai, đẩy địch ngày càng xa vào thế bị động khốn đốn. Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đập tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, đưa kháng chiến tiến lên một bước mới. Chiến thắng Biên giới thu đông 1950 đã phá tan thế bao vây của kẻ thù, giành thế chủ động ở chiến trường chính Bắc bộ.
+ Phát huy thế tiến công đánh địch, ta đã mở một loạt các chiến dịch đánh xuống vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ như: Chiến dịch Trung du(12/1950), đường số 18 (3/1951), Hà Nam Ninh (5/1951), Hoà Bình (Đông xuân 1951-1952). Tiếp theo là chiến dịch Tây bắc (10/1952), Thượng Lào (4/1953) đã đẩy địch vào thế lúng túng.
+ Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại đã đập tan hoàn toàn kế hoạch quân sự Nava, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ, thừa nhận nền độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương và rút quân về nước.
Sưu tầm