Chia Sẻ Quyền lực là gì?

Trang Dimple

New member
Xu
38
Quyền lực là phương tiện để bảo đảm sự an ninh và tồn tại, thực hiện lợi ích và là mục tiêu mà mọi quốc gia tìm kiếm. Quyền lực theo đó thể hiện qua khả năng của một quốc gia trong việc thực hiện một hành động nào đó. Mặc dù đối với chủ nghĩa hiện thực, quyền lực là khái niệm cốt lõi, nhưng những học giả theo trường phái này vẫn không thống nhất được với nhau cách hiểu về quyền lực. Điều này còn tuỳ thuộc vào việc nhìn nhận khái niệm quyền lực là một khái niệm mang tính tĩnh hay động.

Đối với những người cho rằng quyền lực mang tính tĩnh, họ hiểu quyền lực là sự tổng hoà của tất cả các nguồn lực về kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ cùng nhiều yếu tố tĩnh khác của một quốc gia như tài nguyên, lãnh thổ…, từ đó cho phép một quốc gia có khả năng thực hiện một hành động nào đó. Quan niệm này dẫn đến cách hiểu về quyền lực tuyệt đối của một quốc gia. Đối với những người quan niệm quyền lực có tính động, họ đặt quyền lực của một quốc gia trong tương quan với các quốc gia khác. Qua đó, quyền lực của một chủ thể được đánh giá bằng cách đặt khả năng của chủ thể đó trong quan hệ với các khả năng của các chủ thể khác, và quyền lực từ đó có tính tương đối.

Trong quan hệ quốc tế, khi chủ thể chính là các quốc gia thì quyền lực đương nhiên được hiểu là quyền lực của quốc gia. Chính vì vậy quyền lực là khả năng của quốc gia đó trong việc gây ảnh hưởng lên hành vi của quốc gia khác phù hợp với mục đích của mình.Quan điểm này đã kết hợp được tính chất động và tĩnh của quyền lực. Đồng thời, quan điểm này cũng cho thấy việc đo lường quyền lực góp phần quan trọng vào việc giải thích và dự đoán hành vi của một quốc gia trong quan hệ với các quốc gia khác.

Các thành tố quyền lực của một quốc gia

Nhiều học giả cho rằng quyền lực của một quốc gia được nhìn nhận phụ thuộc vào các yếu tố: địa lý, dân số, kinh tế, khoa học công nghệ, quân sự và các yếu tố tinh thần. Đây cũng là những thành tố cơ bản nhất quyết định sức mạnh của một quốc gia, đồng thời cũng là thước đo hiệu quả khả năng ảnh hưởng của quốc gia đó.

Đầu tiên phải kể đến yếu tố địa lý. Đây là một thành tố lâu đời và tồn tại gắn bó nhất của quyền lực, bao gồm vị trí địa lý, diện tích đất đai, địa hình và khí hậu. Đây là những yếu tố cấu thành có ảnh hưởng tương hỗ đến quyền lực của quốc gia. Một quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi như gần cảng biển, nằm trên những con đường thương mại sầm uất, có diện tích vừa phải, địa hình đồng bằng và khí hậu ôn hoà chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện để phát triển, tăng cường quyền lực; nhưng đồng thời sẽ trở thành mục tiêu thâu tóm của nhiều quốc gia khác, như Trung Quốc là một điển hình. Trái lại, một vùng đất có vị trí xa xôi, diện tích rộng nhưng địa hình đồi núi gập ghềnh, khí hậu khắc nghiệt như xứ Gaul ở Châu Âu thời kỳ cổ đại sẽ gặp khó khăn trong việc hình thành một nhà nước có nền kinh tế phát triển, nhưng lại có lợi thế về việc phòng thủ chống quân thù.

Thứ hai là yếu tố dân số. Dân số mang tính chi phối đối với nhiều khả năng của một quốc gia như khả năng sản xuất, xây dựng, quốc phòng… Trong thời chiến, dân số cần thiết cho việc xây dựng lực lượng quân đội của quốc gia. Nước Pháp năm 1815 nhờ có dân số đông đảo nên đã quy tụ được một đội quân khổng lồ gần 2 triệu người, nhờ vậy đã nhanh chóng đáp trả lại sức tấn công mạnh mẽ của liên minh chống Pháp trên khắp Châu Âu. Trong thời bình, dân số cần thiết cho mọi ngành nghề từ công nông nghiệp, đến thương nghiệp. Tuy nhiên, một quốc gia đông dân không hẳn là một quốc gia hùng mạnh, mà điều này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hà Lan là một quốc gia có số dân trung bình ở Châu Âu, nhưng nhờ tài đi biển và khả năng kinh doanh, người dân Hà Lan đã biến quốc gia này trở thành một cường quốc hàng hải của khu vực trong thế kỷ 16.

Thứ ba là yếu tố kinh tế. Kinh tế là một trong những thành tố cơ bản của quyền lực, là công cụ để thực hiện quyền lực trong quan hệ quốc tế. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển sẽ có khả năng chi phối các quốc gia khác bằng đồng tiền của mình. Đây là điều mà nước Anh thời cận đại đã thực hiện để xây dựng ở Châu Âu những đồng minh có thể bảo vệ quyền lợi trên lục địa của quốc gia này. Yếu tố kinh tế vì thế càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, khi các quốc gia tăng cường cạnh tranh bằng sức mạnh kinh tế thay vì thông qua chiến tranh. Những quốc gia có sự phát triển về công thương nghiệp ngày càng nắm giữ nhiều quyền lực trong tay. Thời kỳ cận đại ở Châu Âu với những phát triển về thương mại hàng hải đã lần lượt xuất hiện các cường quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Thụy Điển và Anh. Những cường quốc lục địa như Pháp, Phổ, Áo với sự thua kém về phát triển kinh tế thương nghiệp đã không thể cạnh tranh với sự lớn mạnh của các cường quốc hàng hải.

Thứ tư là khoa học công nghệ. Đây cũng là một trong những yếu tố cơ bản của quyền lực, giúp tạo ra sự vượt trội một cách nhanh chóng trong tương quan về quyền lực giữa các quốc gia. Việc tận dụng được những yếu tố tiến bộ về khoa học công nghệ sẽ khiến cho một quốc gia chiến thắng sự cạnh tranh của các quốc gia khác. Chiến thắng của Hà Lan đối với Tây Ban Nha, và sau này là chiến thắng của Anh đối với Hà Lan là bằng chứng điển hình của ưu thế từ việc tận dụng được các yếu tố khoa học công nghệ. Các quốc gia như Nga và Áo, do kiềm hãm sự phát triển của khoa học công nghệ, nên phải chịu sự suy yếu trong một thời gian dài. Nhật Bản và các nước Tây Âu cũng đã tận dụng rất tốt những thành quả của việc phát triển khoa học công nghệ để vượt lên trở thành hai trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới, ngang hàng với Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Thứ năm là yếu tố về sức mạnh quân sự. Một đội quân hùng mạnh cũng chính là thành tố cơ bản tạo nên và tăng cường quyền lực của một quốc gia. Đây không chỉ là đòn bẩy để cấu thành quyền lực, mà còn là phương tiện để duy trì và đạt đến một quyền lực cao hơn. Một quốc gia có sự phát triển về kinh tế, nhưng không có một quân đội hùng mạnh, sớm muộn sẽ trở thành mục tiêu thôn tính của các đội quân xâm lược hùng hậu. Trường hợp của Saxony ở Châu Âu cận đại là minh chứng cho điều đó, khi những vùng này có tiềm năng phát triển công nghiệp, nhưng với một đội quân yếu kém đã sớm đưa Saxony trở thành vùng đất bị các nước lớn xâu xé. Trong khi với trường hợp của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì ngược lại. Với một lãnh thổ rộng lớn và mật độ dân cư thưa thớt, nếu không nhờ vào sự tinh nhuệ và tinh thần chiến đấu quả cảm của lực lượng Hồng quân thì Liên Xô sẽ đã nhanh chóng trở thành vùng chiếm đóng của quân đội Đức.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng chính là các yếu tố tinh thần, ở đây bao gồm các yếu tố tư tưởng, uy tín, văn hoá, truyền thống, khả năng lãnh đạo và công luận. Đây là những yếu tố trừu tượng, không có khả năng đo lường, nhưng có tác động mạnh mẽ đến quyền lực của một quốc gia. Đối với các quốc gia Châu Âu thế kỷ 18, yếu tố về khả năng lãnh đạo đóng vai trò tối quan trọng đối với việc vận hành một quốc gia. Đây là thế kỷ mà chính sách đối nội lẫn đối ngoại của các nước đều in đậm dấu ấn của những nhân vật lãnh đạo. Một nước Nga trong thế kỷ 18 suy yếu, lạc hậu, nhưng nhờ sự dẫn dắt của Peter Đại Đế đã tiến hành cải cách, chuyển mình thành một cường quốc hùng mạnh. Một nước Phổ chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh, với sự lãnh đạo của Hoàng đế Frederick đệ Nhị, cũng nhanh chóng phục hồi và trở nên giàu có.

Các dạng quyền lực

Những thành tố trên cấu thành “quyền lực cứng” của một quốc gia. Ngày nay, người ta ngày càng nói nhiều về vai trò của quyền lực mềm, vốn được Joseph Nye, cha đẻ của khái niệm này, định nghĩa “là một loại năng lực, có thể giúp đạt được mục đích thông qua sức hấp dẫn chứ không phải ép bức hoặc dụ dỗ”. Theo Nye, sức hấp dẫn này đến từ quan điểm giá trị về văn hoá, chính trị và chính sách ngoại giao của một nước.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu như Susan Strange cũng phân quyền lực ra làm hai dạng: quyền lực quan hệ và quyền lực cấu trúc. Quyền lực quan hệ là khả năng của một chủ thể buộc chủ thể khác phải làm hoặc không được làm một điều gì đó. Trong khi đó, quyền lực cấu trúc là khả năng hình thành và quyết định cấu trúc của nền kinh tế chính trị toàn cầu cùng các quy tắc mà theo đó các quốc gia và các tổ chức quốc tế vận hành.

Quyền lực cấu trúc ít trực tiếp hơn quyền lực quan hệ, nhưng có hiệu lực hơn trong một vài tình huống. Nhiều học giả cho rằng dù Mỹ không có lợi thế nổi trội về quyền lực quan hệ trong thế giới ngày nay như trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhưng Mỹ vẫn là quốc gia lãnh đạo trong số các quốc gia dân chủ công nghiệp và nắm trong thay rất nhiều quyền lực cấu trúc. Ví dụ, trong tương quan quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc, mặc dù cả hai nước đều có quyền lực quan hệ khá lớn dưới dạng “cây gậy” để trừng phạt và “củ cà rốt” để khen thưởng, nhưng Mỹ có lợi thế hơn về quyền lực cấu trúc trong cuộc mặc cả với Trung Quốc. Cụ thể, Mỹ có ưu thế hơn trong việc gây ảnh hưởng tới vị thế của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế thông qua việc sử dụng ảnh hưởng của mình ở các tổ chức quốc tế quan trọng như WTO, WB, IMF. Chính vì vậy có thể nói quyền lực cấu trúc có thể bổ sung hoặc thay thế cho quyền lực quan hệ. Trong những cuộc mặc cả giữa hai siêu cường, quyền lực cấu trúc sẽ có hiệu lực hơn quyền lực quan hệ do quyền lực cấu trúc ít có khả năng gây đối đầu và dẫn tới sự trả đũa lẫn nhau hơn so với quyền lực quan hệ.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
 
Sửa lần cuối:
Cân bằng quyền lực (Balance of power)
Cân bằng quyền lực là một trong những thuật ngữ lâu đời nhất của trường phái hiện thực trong quan hệ quốc tế. Thuật ngữ này có ảnh hưởng quan trọng đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia, đồng thời cũng giải thích nguyên nhân dẫn đến sự thiết lập những trật tự thế giới mới.

Đối với nhiều học giả, cân bằng quyền lực là nguyên tắc chủ yếu được liên hệ đến nhiều nhất về mặt lý thuyết khi nghiên cứu chính trị quốc tế. Một trong những học giả nổi tiếng của trường phái hiện thực, Hans Morgenthau, ban đầu đã sử dụng thuật ngữ này với 4 nghĩa khác nhau. Nhà khoa học chính trị người Mỹ gốc Đức Ernest B.Haas đã đưa ra 8 định nghĩa khác nhau, trong khi đó học giả người Anh Martin Wight tìm được 9 định nghĩa trong các tác phẩm của mình. Tuy nhiên, ý nghĩa của thuật ngữ này vẫn chưa thực sự rõ ràng và luôn là đề tài tranh luận với nhiều cách diễn giải khác nhau.

Một số ý kiến cho rằng cân bằng quyền lực là một xu thế mang tính tất yếu và sẽ lặp đi lặp lại như một quy luật tự nhiên, trong khi các ý kiến khác lại không đồng tình. Một số người xem cân bằng quyền lực như một nguyên tắc định hướng chiến lược chủ yếu của các nhà chính trị, một số khác lại tìm ra những phân chia bất bình đẳng về quyền lợi giữa các nước lớn đối với các nước nhỏ dựa trên lớp vỏ bọc của nguyên tắc này. Nhiều quan điểm cho rằng cân bằng quyền lực là phương thức phổ biến để gìn giữ hoà bình, trong khi trên thực tế nó chỉ giúp duy trì một trạng thái quan hệ quốc tế và trong nhiều trường hợp đã gây thiệt hại cho nhiều quốc gia khi lôi kéo họ tham gia vào việc ngăn chặn sự thay đổi một trật tự thế giới nhất định.

Do đó, cân bằng quyền lực là một khái niệm rất phức tạp. Việc xác định mục tiêu của cân bằng quyền lực theo đó cũng không cụ thể, tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử từng giai đoạn và từng cách tiếp cận khác nhau. Khi tiếp cận theo nghĩa là một nguyên tắc, thì “cân bằng quyền lực” là trạng thái của hệ thống quốc tế mà ở đó không có một quốc gia nào có sức mạnh áp đảo so với các quốc gia khác. Trạng thái này có thể được thiết lập thông qua việc tạo ra một thế đối lập với quốc gia hoặc nhóm quốc gia mạnh nhất bằng việc hình thành một đối thủ hoặc một liên minh có sức mạnh tương đương.

Việc duy trì trạng thái cân bằng quyền lực đồng nghĩa với việc gia tăng quyền lợi của các cường quốc, và những quốc gia nhỏ bé lệ thuộc phải chịu sự chia cắt về quyền lợi để phục vụ những mưu đồ này. Quyền lợi của các nước nhỏ hay các cường quốc đang suy vong thường không được quan tâm. Ví dụ, việc ký kết Hòa ước Westphalia (1648), Hiệp ước Utrecht (1714) và Hiệp ước Nystad (1721) đã đánh dấu sự rút lui hoàn toàn của hàng loạt các cường quốc cũ ở Châu Âu, và tạo cơ hội cho những cường quốc mới là Anh, Pháp, Nga, Áo, Phổ. Việc nâng đỡ các quốc gia bại trận chỉ được quan tâm rõ ràng trong Hội nghị Viên (1815), khi Pháp được Áo và Anh giúp bảo toàn để tập hợp lực lượng kiềm giữ tham vọng của Nga và Phổ. Tuy nhiên, các nước nhỏ vẫn chưa hề có tiếng nói trong Hội nghị, và buộc phải tuân theo thế cân bằng chiến lược do các nước chủ trì vạch ra.

Nguyên tắc cân bằng này đồng thời cũng thể hiện được xu hướng cố hữu trong quan hệ quốc tế. Vì giữa các quốc gia luôn có những chênh lệch nhất định về mặt lợi ích, dẫn đến hành vi cạnh tranh giữa các quốc gia, cho đến khi sự cân bằng bị đảo lộn thì lập tức xuất hiện xu hướng nêu ra nguyên tắc cân bằng để thiết lập lại cán cân lực lượng đó. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai vẫn diễn ra sau hai thập kỷ các nước cùng xây dựng hoà bình với hệ thống Versailles – Washington.

Khi tiếp cận theo nghĩa là một chính sách thì “cân bằng quyền lực” là một loạt những biện pháp nhất quán của các nhà ngoại giao, các chính khách nhằm duy trì trạng thái cân bằng của cán cân quyền lực. Theo đó, các quốc gia có thể hình thành một liên minh chống lại quốc gia có tiềm năng trở thành bá quyền hoặc thực hiện những biện pháp khác nhằm nâng cao khả năng kiềm chế những quốc gia hiếu chiến xâm lược. Bên cạnh đó một quốc gia cũng có thể tự mình đóng vai trò cân bằng hệ thống bằng cách thay đổi liên minh khi cần thiết. Như vậy, chính sách “cân bằng quyền lực” là nhằm duy trì một trạng thái cân bằng có lợi cho quốc gia hoặc một nhóm quốc gia thông qua các đường lối và chính sách cụ thể.

Chính sách cân bằng quyền lực nổi tiếng của nước Anh là một điển hình khi cường quốc này khéo léo xoay chuyển thế mạnh của một quốc gia bá quyền trên biển thành yếu tố chi phối quan hệ quốc tế ở Châu Âu lục địa, hình thành một trật tự nhất siêu đa cường có lợi cho cả Đế quốc Anh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18. Sau này với Kế hoạch Marshall, nước Mỹ cũng đã đầu tư cho một chính sách tương tự nhưng trên quy mô rộng lớn hơn, nhằm tái thiết và chi phối Châu Âu theo chính sách của Mỹ, tạo đối trọng với khối xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Tuy nhiên, chính sách cân bằng về quyền lực không chỉ là công cụ đắc lực trong tay các nước lớn, mà còn là đối sách chiến lược rất thành công của một số nước nhỏ, dù cho không phải lúc nào cũng thành công. Ba lần phân chia Ba Lan giữa Nga, Áo và Phổ (1772, 1793 và 1795) là một điển hình cho một quốc gia có chính sách cân bằng bị động về đối ngoại. Nhưng trong một trường hợp gần như tương tự thì nước Áo lại bảo toàn được trọn vẹn lãnh thổ nhờ những nỗ lực hiệu quả khi tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm thực hiện chính sách cân bằng ảnh hưởng giữa các nước láng giềng hùng mạnh là Pháp, Nga và Phổ giai đoạn trước và sau Hội nghị Viên 1815. Vào thế kỷ 19, trong xu thế các nước đế quốc đang tiến hành bành trướng thuộc địa sang Châu Á thì Thái Lan là một trong những quốc gia đã khéo léo tránh được thiệt hại của các cuộc chiến tranh xâm lược nhờ vào chính sách cân bằng quyền lực đối với cả Anh, Mỹ và Pháp.

Nhìn chung mọi hệ thống cân bằng quyền lực trong lịch sử như đã kể trên đều có những điều kiện chung gắn liền với những giả định của lý thuyết chủ nghĩa hiện thực. Thứ nhất, các quốc gia có chủ quyền nhưng tồn tại trong một thế giới vô chính phủ, không có một chính phủ toàn cầu hợp pháp bao trùm giúp điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Thứ hai, các quốc gia liên tục cạnh tranh với nhau nhằm giành giật các nguồn tài nguyên khan hiếm, bảo vệ lợi ích quốc gia và khuếch tán các giá trị vốn thường mâu thuẫn nhau của mình. Thứ ba, giữa các quốc gia trong hệ thống có sự chênh lệch nhau về địa vị, mức độ giàu có và sức mạnh.

Từ những giả định trên, các quốc gia thường theo đuổi chính sách cân bằng quyền lực để duy trì trật tự của hệ thống quốc tế, vốn là một điều kiện quan trọng giúp các quốc gia bảo vệ chủ quyền của mình. Chính vì vậy cân bằng quyền lực cũng có thể coi là một sự thỏa hiệp giữa các quốc gia với nhau nhằm bảo vệ trật tự và tránh tình trạng hỗn loạn của hệ thống, cho dù trạng thái cân bằng quyền lực có thể có lợi cho những quốc gia mạnh và giàu có hơn là những quốc gia nhỏ yếu.

Mặc dù cân bằng quyền lực là một chính sách được nhiều nhà hoạch định chính sách yêu thích trong lịch sử, trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều tranh cãi liên quan đến mối liên hệ giữa cân bằng quyền lực và tính ổn định của hệ thống quốc tế. Bản thân khái niệm “ổn định” cũng thường gây tranh cãi. Ổn định có thể đồng nghĩa với hòa bình nhưng cũng có thể có nghĩa là sự duy trì một trật tự phân bổ quyền lực nhất định, như đơn cực, lưỡng cực hay đa cực, mà bất chấp bản chất của trật tự đó có hòa bình hay không.

Những học giả ủng hộ thuyết cân bằng quyền lực cho rằng trật tự đa cực, vốn là một trạng thái cân bằng quyền lực giữa các quốc gia, mang tính ổn định và hòa bình hơn các trật tự khác như đơn cực hay lưỡng cực. Ngược lại, các học giả khác lại cho rằng trật tự đơn cực hay lưỡng cực mang tính ổn định cao hơn, tiêu biểu như các lập luận của thuyết ổn định nhờ bá quyền.

Ngoài ra, lập luận của những người ủng hộ thuyết cân bằng quyền lực cũng bị thách thức bởi thuyết chuyển đổi quyền lực. Theo đó, trong khi thuyết cân bằng quyền lực cho rằng sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia là yếu tố then chốt giúp duy trì hòa bình và ổn định trong hệ thống quốc tế, thì thuyết chuyển đổi quyền lực lại cho rằng việc quyền lực của các quốc gia, đặc biệt là của các cường quốc trong hệ thống, xích lại gần nhau và trở nên cân bằng lại dẫn tới nguy cơ xảy ra chiến tranh bá quyền, làm mất ổn định hệ thống.
 
không chỉ quốc gia mà mỗi cá nhân đều muốn có quyền lực. Nước lớn ức hiếp nước bé... xã hội chủ nghĩa chắc chỉ có trong lý thuyết mà thôi.
 
Vì Quyền lực là phương tiện để bảo đảm sự an ninh và tồn tại, thực hiện lợi ích và là mục tiêu mà mọi quốc gia tìm kiếm. Quyền lực theo đó thể hiện qua khả năng của một quốc gia trong việc thực hiện một hành động nào đó mà bạn.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top