• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Phân tích điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân

nang moi

New member
Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật. Đọc “Vợ nhặt” – Kim Lân, ta thấy tác giả đã vận dụng khéo léo, lựa chọn thích hợp yếu tố điểm nhìn trong tác phẩm của mình để tạo nên sự hấp dẫn, sinh động, thành công, giá trị.

Điểm nhìn tác giả - từ ngôi kể: cái nhìn khách quan, toàn tri

Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã lựa chọn hình thức kể chuyện truyền thống –kể theo ngôi thứ 3. Đây là hình thức người kể chuyện giấu mặt, coi như đứng ở một vị trí nào đó trong không gian và thời gian, bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra trọn vẹn và thuật lại với người đọc. Câu chuyện đời sống được diễn ra tự nhiên qua lời kể của người kể chuyện vô hình. Sự lựa chọn hình thức kể này giúp nhà văn mở rộng tối đa chân trời sáng tạo của mình. Cái được kể không bị bó hẹp.

Sự độc đáo trong điểm nhìn trần thuật của “Vợ nhặt” trước hết tạo nên bởi điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện. Điểm nhìn bên ngoài đã tạo ra tính khách quan tối đa cho trần thuật. Các sự kiện diễn ra tự nhiên như cuộc đời vốn thế, nó giúp nhà văn bao quát nhiều phương diện và góc độ của hiện thực cuộc sống. Người kể chuyện ẩn mình để câu chuyện được kể đạt mức độ khách quan cao nhất: cho phép người kể chuyện đứng từ bên ngoài quan sát truyện thuật lại sự việc bằng một cái nhìn khách quan, thâu tóm các sự kiện tình tiết, thúc đẩy diễn biến các tình tiết của truyện phát triển. Điểm trung tâm trong sơ đồ cốt truyện là sự kiện anh Tràng nhặt được vợ giữa bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang ở giai đoạn kinh hoàng nhất. Từ sự kiện quan trọng này, các nhân vật khác lần lượt bước vào tác phẩm để tạo thành một bức tranh đời sống trước mặt người đọc.

Mở đầu truyện, nhà văn Kim Lân miêu tả ngay vào cái không khí ảm đạm với màu sắc xanh xám của xác chết, bóng ma. Cái đói đã tràn về khắp các ngõ ngách. Không khí vẩn lên mùi xác chết. Trong hoàn cảnh ấy lại hiện lên một sự bất thường, đó là việc anh cu Tràng dẫn theo một người đàn bà lạ mặt về với nụ cười trên môi. Tràng được miêu tả với những đường nét thô kệch, với một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa “hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Đã thế Tràng lại là một dân ngụ cư trôi dạt từ nơi đói khát, khổ sở nào đó để về cái vẻo đất dưới bến này tìm kế mưu sinh nuôi mẹ già đã ở độ tuổi gần đất xa trời. Trong quan niệm, trước đây ngụ cư là một lí lịch không được chấp nhận để người có mặt trong sinh hoạt nơi cộng đồng làng xã. Vậy mà Tràng lấy được vợ mà thậm chí là cho không chỉ sau hai lần gặp và bốn bát bánh đúc, một câu hò nữa đùa nữa thật “ muốn ăn cơm trắng với giò này, thì đẩy xe bò với anh, nì” . Đọc “Vợ nhăt” một tác giả đã viết:

“Biến bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi
Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt”
Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc
Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”


Chữ “nhặt” trong “Vợ nhặt” không phải là “nhặt” như chúng ta đã nhầm tưởng. Nếu chỉ đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết hợp từ rất đặc biệt. Nói như Kim Lân “nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ”. Như vậy ‘nhặt” trong “Vợ nhặt” là một vật vì cái đói nó đã đẩy con người đến những tình huống bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúm, có thể nhặt được như người ta nhặt bất cứ thứ gì. Phải đặt vào truyền thống của nhân vật “coi người ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự, người đọc mới thấy đươc “vợ nhặt” theo kiểu bi đát như thế nào? Song người ta dắt nhau về không phải chỉ vì đói khổ, cần có một chốn nương thân, thẳm sâu trong câu chuyện là khao khát về một mái ấm gia đình, tình yêu thương đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người dân lao động. Cái đói là ghê ghớm nhưng đằng sau cái đói Kim Lân muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người. Đó chính là chiều sâu nhân bản của con người.

Nhìn từ bên ngoài, người kể chuyện lặng lẽ đứng vào một góc để quan sát và kể lại chuyện với sự kiện và con người như vốn có. Nhưng đằng sau những câu văn khách quan ấy lại ẩn chứa nỗi lòng đau đáu của Kim Lân như muốn chia sẻ với nhân vật của mình, thương cảm cho những số phận và đặc biệt càng thêm trân trọng những con người đó.

Điểm nhìn nhân vật: chuyển dịch điểm nhìn từ ngoài vào trong, từ tác giả sang nhân vật.

Nhưng có lẽ, điểm thú vị hơn là có sự di chuyển điểm nhìn trong tác phẩm: Từ người kể chuyện vào nhân vật , từ điểm nhìn bên ngoài sang điểm nhìn bên trong

Điểm nhìn bà cụ Tứ

Điểm nhìn tác giả đã hòa trộn vào điểm nhìn nhân vật, dịch chuyển từ bên ngoài vào bên trong để dễ dàng phát hiện ra những tâm tư ẩn kín trong tâm hồn nhân vật. Đọc tác phẩm “Vợ nhặt” người đọc nhận ra được tình mẹ lớn lao qua cái nhìn của tác giả. Lần đầu tiên Kim Lân để người đọc tiếp xúc với bà cụ Tứ qua dáng vẻ “lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.”. Bà cụ trở về nhà, đến giữa sân thấy một người phụ nữ đang ngồi ở đầu giường con mình, bà ngạc nhiên đến sững sờ, bao nhiêu câu hỏi dồn về đầy băn khoăn “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào”. Làm sao bà có thể ngờ được giữa cái cảnh đói quay, đói quắt nhà đã nghèo con mình lại còn xấu trai, ế vợ, tự dưng dẫn một người đàn bà xa lạ về làm vợ? “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.” Mừng là từ nay con bà đã có vợ nhưng đằng sau sự vui mừng ấy là một nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn của một người mẹ đã không tự lo liệu được chuyện lấy vợ cho con. Đó còn là cái tủi của một người mẹ đã để cho con mình lấy vợ theo cách: không cưới xin, không dặm hỏi. Đó là cái tủi của một người mẹ nghèo.

Càng xót xa tủi phận bà cụ Tứ càng thương con trai: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt...” Dường như đây là những giọt nước mắt từ trái tim người mẹ đang run lên những nỗi đau đớn, xót xa , ai oán, tủi cực, thương cảm. Việc trọng đại nhất của đời con lẽ ra phải “ làm được dăm ba mâm cơm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo” nên điều đó cũng chỉ nằm trong mo ước của cụ mà thôi. Từ chỗ tủi phận mình, thương con trai, bà cụ lại càng thương con dâu. Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót, bà nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.” Hai chữ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”, “bằng lòng”, thể hiện sự đón nhận người con dâu mới với tất cả sự chủ động, tự nguyện trong bối cảnh nhà sắp chết đói. Nó ẩn chứa biết bao sự thân thương, trìu mến, vị tha và nhân ái. Chỉ một câu nói ấy thôi đã trút đi gánh nặng thấp thỏm, lo âu của con trai bà. Câu nói ấy đã làm cho cuộc hôn nhân giữa Tràng và vợ nhặt không còn là chuyện nhặt nhau giữa đường, giữa chợ. Nó cũng bình đẳng đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy xưa nay. Cách nói giản dị chan chứa tình người của bà cụ quê mùa ấy đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp.

Bà cụ Tứ khi biết con mình đã có vợ bà từ ngạc nhiên đến sững sờ, lo lắng cho tương lai hạnh phúc của các con song bà vẫn gieo vò các con lòng hi vọng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Sự biến đổi tâm trạng bà cụ Tứ thật phức tạp nhưng hợp với quy luật cuộc sống. Kim Lân đã nhập vào nội tâm nhân vật, sống với những vui buồn, thương cảm, lo âu của nhân vật bằng một trái tim nhân ái. Chính sự yêu thương, sự hiểu biêt sâu sắc, sự trân trọng phẩm chất người nông dân lao động không nghệ thuật “biện chứng” với tâm hồn của một nhà văn “một lòng đi về với đất, với người, với cuộc sống thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” đã giúp Kim Lân xây dựng được một cuộc sống chân thật, cảm động về người mẹ nông dân Việt Nam nghèo khổ, cân cù, chịu thương, chịu khó, hi sinh tất cả vì con và lúc nào cũng hướng tới cái thiện, hướng tới tương lai.

Điểm nhìn của Tràng

Tràng tình cờ nói đùa thành thật, bỗng nhiên hắn có vợ . Lúc đầu Tràng thấy sợ vì thóc cao, gạo kém đến thế này, đến cái thân mình chưa chắc nuôi nổi không lại còn đèo bồng, sau hắn lại tặc lưỡi kệ. Có lẽ thẳm sâu trong tâm hồn nhân vật chính là niềm khao khát hạnh phúc về một mái ấm gia đình vị vậy mà Tràng đã dũng cảm vượt lên cái đói, cái chết mà “đèo bồng”. Hắn cười nụ, cười tủm tỉm một mình, ánh mắt long lanh khác thường. Gần 20 lần trong tác phẩm nhà văn đã miêu tả gương mặt Tràng vui vẻ khi có vợ “Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tối tăm hàng ngày, quên cả cái đói khát đe dọa chỉ còn tình người giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh”. Lần đầu tiên có vợ, Kim Lân đã để cho nhân vật mình tự bộc lộ ra trạng thái của kẻ mới có vợ “hắn chợt thấy sờ sợ” “chính hắn cũng không hiểu vì sao hắn sợ”, hắn đi ra đi vào ngóng mẹ về, rồi hắn lại lén nhìn thị “Quái, sao nó buồn thế nhỉ?”. Sáng hôm sau Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lờ”. Tràng thấy: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.” Niềm vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khi đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói.

Sự gia tăng điểm nhìn: lũ trẻ và dân làng trước sự kiện nhặt được vợ của Tràng trước hoàn cảnh cái đói hoành hành, cái chết ập đến bất cứ lúc nào cũng có những suy nghĩ khác nhau. Lũ trẻ vốn vì cái đói mà bấy lâu nay cũng chẳng buồn cười đùa, nay cũng xớn xác trêu đùa Tràng “Chông vợ hài”. Còn những người khác “cũng có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”, họ bàn tán về cô dâu mới, rồi họ lại lo lắng “biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không” rồi họ nín thinh. Tình huống truyện được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau.

Với sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngoài vào trong, từ nhân vật này sang nhân vật khác, người trần thuật một mặt cố gắng tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện, mặt khác khi cần thiết thì lại hòa mình vào những nhân vật để khai thác triệt để, phô bày toàn bộ thế giới nội tâm con người. Việc thay đổi điểm nhìn tự sự như vậy sẽ tạo cho câu chuyện có tính khách quan hơn, mạch truyện theo đó mà biến hoá hơn, mở rộng khả năng bao quát, đánh giá của trần thuật, dễ dàng cuốn hút người đọc vào câu chuyện...

Điểm nhìn không gian: không gian chủ yếu trong “Vợ nhặt” được Kim Lân miêu tả là không gian hẹp trong xóm ngụ cư, trong căn nhà nghèo bà cụ Tứ, quán nước cổng chợ tỉnh, nhà kho, dốc tỉnh (nơi gặp gỡ của Tràng và thị). Không gian làng xóm, lều chợ , con đường ngổn ngang xác chết. Có biết bao con đường, bao xác chết như vậy ở làng quê VN. Căn nhà của bà cụ Tứ ở là căn nhà nhỏ vắng teo, chỉ có tấm phên rách, mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại, bát niêu, quần áo vứt bừa bộn. Đây là căn nhà điển hình cũng giống như bao căn nhà khác, gia đình khác ở các làng quê nghèo-> từ đó suy rộng ra không gian làng quê Việt Nam, nơi mà những con người nghèo khổ đang ngày ngày đối mặt với cái đói, cái chết cận kề. Hiện thực về nạn đói 1945 được đề cập gián tiếp đến trong tác phẩm. 2 triệu người VN đã chết trong nạn đói năm ấy, nhưng trong mỗi con người VN nói chung và bà cụ Tứ, Tràng , Thị nói riêng vẫn chan chứa tình yêu thương, hi vọng, tìm đường sống trong sự chết.

Điểm nhìn thời gian

Thời gian trong tác phẩm là thời gian của quá khứ-hiện tại-tương lai theo trình tự tuyến tính
-Quá khứ: đẩy xe gạo lên tỉnh, mỗi lần qua nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy, hắn thường hò một câu cho đỡ nhọc, cũng chẳng chủ tâm chòng ghẹo cô nào, hắn quen Thị. Đến lần 2 , hắn đãi thị ăn 4 bát bánh đúc, lại tình cờ “nhặt” được thị về.
- Hiện tại: đưa nhau về nhà giữa cái cảnh cái đói tràn vào khắp nơi giống như bóng tối cuối ngày chuẩn bị che lấp khắp bầu trời, chẳng biết có thấy ánh sáng của ngày mai.
- Tương lai: đói khổ, khó khăn và hình ảnh lá cờ khởi nghĩa mang hi vọng cho người nông dân nghèo.

“Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm” , “nghe láng máng người ta nói họ là Việt Minh đấy”. Ánh sáng của cách mạng mặc dù chưa rõ ràng nhưng đã bắt đầu xuất hiện, đem đến viễn cảnh mới cho những con người may mắn còn sống sót qua cơn đói và đang đối mặt với cái chết từng ngày.

Tạo ra sự dịch chuyển điểm nhìn theo thời gian của nhà văn. Quá khứ, hiện tại xen lẫn nhau, điểm nhìn di chuyển, thay đổi theo từng thời điểm được kể. Vì vậy, điểm nhìn được gia tăng giúp người trần thuật tái hiện đây đủ các sự kiện được diễn ra trong cuộc đời nhân vật, giúp người đọc hiểu rõ gốc gác, ngọn ngành, xuất xứ của câu chuyện và hiểu sâu hơn về nhân vật.

Bằng sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn, người kể chuyện trong “Vợ nhặt” – Kim Lân đã chứng tỏ được cái nhìn đa chiều, nhiều góc độ về cuộc sống và con người nghèo vùng nông thôn trong nạn đói 1945. Lời văn qua đó mà trở nên khách quan, có sức hấp dẫn người đọc. Điều đó cũng góp phần làm cho tư tưởng, chủ đề tác phẩm sinh động, gợi nhiều liên tưởng ở người đọc.

Việc tìm hiểu điểm nhìn của người kể chuyện trong “Vợ nhặt” góp phần không nhỏ vào việc khẳng định sự độc đáo, hấp dẫn trong nghệ thuật tự sự của tác phẩm: Khi thì là điểm nhìn bên ngoài, lúc lại là điểm nhìn bên trong có khi lại là phối hợp, di chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong. Với cách tổ chức điểm nhìn của người trần thuật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài năng của mình trong việc kể chuyện, dẫn chuyện, và đặc biệt là khả năng thâm nhập sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật để phản ánh được cả những góc khuất của nó. Đọc truyện của ông, người đọc như được sống lại những năm gian khổ của đất nước nhưng không phải là những tang thương, xám xịt mà là trong những tình cảm yêu thương đáng quý, những hi vọng vào tương lai con người.
 

1. Giá trị nội dung của tác phẩm Vợ nhặt​

  • Giá trị hiện thực:
    • Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
    • Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
  • Giá trị nhân đạo
    • Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
    • Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
    • Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
    • Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.

2. Giá trị nghệ thuật​

  • Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
  • Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
  • Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
  • Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân
Xem thêm:
 
Tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân: cách kể chuyện hấp dẫn, các dựng cảnh gây ấn tưởng với nhiều chi tiết đặc sắc, đối thoại sinh động, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sử dụng ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị, tự nhiên.

  • Tác phẩm vợ nhặt đã bộc lộ cái tài và cái duyên viết truyện ngắn của Kim Lân. Điều đó được thể hiện ở những phương diện sau:
  • Trước hết là cách kể chuyện hấp dẫn, cách dựng cảnh với nhiều chi tiết đặc sắc. Cụ thể Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện độc đáo anh cu Tràng người đàn ông tưởng chừng đã ế vợ ấy vậy mà lại có vợ, vợ ở đây lại là nhặt được, vợ theo không Tràng chẳng tốn một chút công sức nào. Và lấy vợ khi cái đói đang đeo bám bản thân Tràng không biết có nuôi nổi mình không mà còn dám đèo bòng. Tác gải kể bằng ngôn từ hài hước, chân thực vừa gây cười lại khiến người đọc xúc động. Kim Lân cũng không quên việc diễn tả cái cảnh thê lương của xóm ngụ cư ''hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. Tát cả những chi tiết ấy đã vẽ lên ột bức tranh xóm nghèo, thê thiết, u ám giữa nạn đói. Bên cạnh đó nhà văn còn tài tình khi xây dựng được nhiều chi tiết đặc sắc nào là nồi cháo cám của bà cụ Tứ, chi tiết Tràng nhớ lại hình ảnh mình đi phá kho thóc Nhật lá cờ đỏ bay phấp phới.
  • Kim Lân cũng thể hiện sự tài tình của mình khi miêu tả diễn biễn tâm trạng của nhân vật một cách tự nhiên chân thực (tâm trạng của Tràng khi quyết định lấy vợ, lúc dẫn vợ về qua xóm ngụ cư, lúc tỉnh dậy trong buổi sáng sau khi đã có vợ để làm rõ được khao khát hạnh phúc gia đình của Tràng; hay tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ vừa xót thương kiếp con trai vừa vui vì con trai có vợ, lo lắng cho một tương lai làm sao để sống qua ngày tháng đói rét này)
 
Cảm nhận về chi tiết bát bánh đúc trong truyện ngắn“Vợ nhặt” của Kim Lân.

Mở bài

Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện Vợ nhặt
Giới thiệu chi tiết bát bánh đúc

Thân bài

Khái quát về tác giả, tác phẩm.

–Tác giả Kim Lân: Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ của đồng ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Kim Lân có những trang viết chân thực về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.

– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).

-Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.

Dẫn dắt để dẫn đến chi tiết (hoàn cảnh, tình huống xuất hiện chi tiết)

(Tràng là một anh nông dân nghèo sống ở xóm ngự cư. Trong nạn đói, anh làm thuê, kéo xe bò thóc cho liên đoàn lên tỉnh.Tràng gặp thị ở chợ tỉnh, cũng đang trong nạn đói. Lần thứ hai gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sau những câu nói tầm phơ tầm phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào Túi: Rích bố cu. Thế là thị sà xuống ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng…”).

Phân tích chi tiết: Thể hiện số phận, phẩm chất của nhân vật.

-Thể hiện số phận thảm thương, khốn cùng của nhân vật trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945.

+Vì cái đói cái nghèo nên khi được Tràng mời ăn giầu, thị đã nói “Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Thị đã “gợi ý” để được ăn, Lúc này cái đói cái nghèo đang bám riết lấy thị nên cái điều đơn giản nhất và cũng lớn lao nhất với thị là có được miếng ăn.

+ Vì miếng ăn mà thị mất đi nữ tính của người con gái, thị đánh đổi cái sĩ diện, cái duyên của người con gái. Khi thị “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc” thì ta thấy thị thật đáng thương, tội nghiệp. Có người nói thị trở nên trơ trẽn vì miếng ăn, cái đói đã làm thị mất đi nhân phẩm, lòng tự trọng. Có sống trong hoàn cảnh ấy con người ta mới thấm thía và hiểu cho hoàn cảnh của thi. Nhà văn Nam Cao cũng hay viết về cái đói, về miếng ăn, về chuyện vì miếng ăn mà con người ta đánh mất đi nhân phẩm, lương tri. Trong truyện “Một bữa no”, Nam Cao cũng đã nói về người bà vì đói quá mà ăn cho đến no và chết vì “một bữa no”, hay trong “Trẻ con không được ăn thịt chó”, nhà văn cũng viết về hình ảnh của người cha vì miếng ăn mà trở nên độc ác với những đứa con.

+Thị theo không Tràng về làm vợ cũng chỉ vì cái đói, muốn chạy trốn cái đói.

-Hình ảnh bắt bánh đúc ấy cũng thể hiện niềm ham sống, khát khao cuộc sống của người nông dân: Vì sự sinh tồn nên thị “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì”, ăn để sống. Và thị bám theo câu nói của Tràng “rích bố cu” “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về, rồi thị đã theo không về làm vợ.

– Thể hiện vẻ đẹp của tình người hào hiệp ở người cho ăn- Tràng nghèo không dư dật gì nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, biết cưu mang đồng loại.

+ Trong buổi đói khát, miếng ăn là cả vấn đề sinh mệnh, Tràng cho thị ăn trong hoàn cảnh lúc bấy giờ một nghĩa cử rất cao đẹp.

+ Tràng đã cứu sống thị.

-Bánh đúc nên duyên vợ chồng. Trong văn học ta thường thấy những hình ảnh mang đậm chất thơ để nói về tín hiệu giao duyên nào là cái áo “yêu nhau cởi áo cho nhau”, nào là chiếc khăn “khăn thương nhớ ai” còn ở đây lại là một hình ảnh rất thực của cuộc sống đời thường.

+ Từ bát bát bánh đúc ấy mà thị thành vợ Tràng và sau này thị trở nên hiền thục, nữ tính sau khi làm vợ Tràng.

+ Từ đó Tràng cũng có được hạnh phúc bất ngờ, sung sướng khi có vợ. Sau này tâm tính Tràng thay đổi, thấy mình nên người gắn bó và có trách nhiệm với gia đình.

Đánh giá về ý nghĩa tư tưởng:

-Chi tiết bát bánh đúc trong tác phẩm đã phản ánh hiện thực về nạn đói trong đó con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị cả con người trở nên rẻ mạt.

-Thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: Cảm thông với nỗi khổ của con người qua đó cũng tố cáo, lên án những những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào thảm cảnh nạn đói thảm khốc. Đồng thời Kim Lân cũng ca ngợi vẻ đẹp của tình người ở người lao động trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn.
Đánh giá về chi tiết:

-Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy cốt truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách của nhân vật.

+ Thể hiện được nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Nhà văn thường viết về cuộc sống giản dị của người nông dân với tâm lí rất đời thường. Ông sử dụng ngôn ngữ nôm na, gần gũi trong cuộc sống đời thường.

Kết bài

-Khẳng định ý nghĩa của chi tiết.
-Khẳng định ý nghĩa của tác phẩm.

suu tam
 
Nghệ Thuật đặc Sắc Trong Truyện Ngắn “Vợ Nhặt” Của Kim Lân.

Kim Lân xuất hiện trên văn đàn Việt Nam với số lượng tác phẩm khiêm tốn nhưng lại dành trọn niềm tin yêu kính phục của mọi thế hệ độc giả. Ông được mệnh danh là nhà văn của nông thôn của đồng quê Bắc Bộ. Ngòi bút của Kim Lân thường đi vào khám phá những cảnh sinh hoạt đời sống của nông thôn để từ đó mà đề cao ca ngợi những mảnh sáng, những vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động. Truyện ngắn “Vợ nhặt” 1954 là tác phẩm thể hiện một sự hoàn hảo của bút pháp Kim Lân. Ở tác phẩm này, Kim Lân vừa thành công trong việc khám phá nội dung, vừa thành công trong việc phát minh xây dựng một hình tượng nghệ thuật. Ngoài đặc sắc độc đáo của nghệ thuật xây dựng tình huống, Kim Lân còn bộc lộ một tài năng đặc biệt trong việc xây dựng chân dung tâm lý nhân vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ điêu luyện giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường.



a. Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo

Kim Lân viết truyện ngắn này năm 1954 nhưng cảm quan nghệ thuật lại hướng về nạn đói khủng khiếp diễn ra ở đồng bằng Bắc Bộ tháng 3 năm 1954. Mặc dù bối cảnh của truyện là nạn đói khủng khiếp, là cái thời tao loạn nhưng truyện không đi sâu vào phản ánh cái đói, cái giành xé miếng ăn để sinh tồn mà lại đi sâu vào phản ánh cái tình người trong cơn xoáy lốc khủng khiếp đó. Để phản ánh điều này nhà văn đã tạo ra một tình huống truyện rất độc đáo đó là chuyện vợ nhặt của một anh nông dân có tên là Tràng.

Nhân vật Tràng là một chàng trai xấu xí thô ráp “mắt thì nhỏ tí gà gà, mặt thì đung đưa nhấp nhỉnh, thân hình thì vập vạp”. Tràng vừa nghèo vừa là dân ngụ cư, vừa lại trong cơn chống trụ để tồn tại giữa cái đói khủng khiếp. Tình cảnh như thế không ai nghĩ rằng Tràng có vợ thế mà bỗng nhiên lại có vợ, vợ theo hẳn hoi không cần cheo cưới. Tình huống đó đã làm cho mẹ Tràng ngạc nhiên, xóm ngụ cư ngạc nhiên và Tràng cũng ngạc nhiên. Từ tình huống truyện này nhà văn không nhằm tạo ra tiếng cười mà nhằm phản ánh những điều mang tính quy luật về bản chất con người, về tình người trong những thời điểm khắc nghiệt nhất.

b. Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật: Nói đến truyện là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến ngoại hình và nội tâm, tính cách tâm lý. Ở tác phẩm này có ba nhân vật xuất hiện là Tràng, vợ Tràng và mẹ Tràng. Họ là những con người khốn khổ lại sống trong tình cảnh “tối giời tối đất trong đồng lúa ngày xưa” nên khi phát thảo chân dung của họ nhà văn Kim Lân vừa chấm phá được nét tự nhiên, vừa phát họa được cái sự biến dạng chân dung do cuộc sống bên bờ vực thẳm. Để giới thiệu Tràng là một người nông dân thô ráp thì tác giả chỉ phát thảo vài nét mang tính đặc tả nét mặt đó là “mắt thì nhỏ tí gà gà, mặt thì đung đưa nhấp nhỉnh, thân hình thì vập vạp”. Với vài nét như thế Tràng hiện lên như một phát thảo vụng về của tạo hóa, sẽ rất khó khăn trong việc chiếm cảm tình của người khác giới để tìm hạnh phúc. Còn thị Tràng thì mặt lưỡi cày, ngực lép kẹp như một xác người biết nói, một con người đáng thương. Viết về bà cụ Tứ, Kim Lân chỉ dùng hình ảnh lọng khọng đã diễn tả được sự khắc khổ của một người mẹ nông thôn trong thời đói rét. Miêu tả chân dung, Kim Lân không đi sâu vào chi tiết, chỉ dừng lại như những nét bút ký họa đơn giản. Tuy thế hình ảnh những người nông dân hiện lên rất ấn tượng, khó gỡ ra trong tâm trí người đọc.

c. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật: Có lẽ quyết định thành công của tác phẩm là vấn đề tình người, bản chất con người nên Kim Lân tập trung bút lực của mình vào miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật. Tâm lý các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm không phải là tâm trạng rụi tàn mà tâm lý theo chiều phát triển.

Trước hết đó là tâm lý của nhân vật Tràng, chỉ trong một ngày một đêm mà Tràng đã có sự biến đổi rất đặc biệt, từ lạnh lùng vô cảm trước cuộc sống đã trở thành con người có chủ tâm ý chí trong việc tìm và giữ hạnh phúc. Trước khi gặp thị, Tràng rất vô tư như trẻ con nhưng khi gặp thị, từ một cái chập kệ Tràng đã chuyển sang tâm lý phớn phở. Sau đó là tâm lý muốn luôn cái gì đó để chứng tỏ mình là chủ nhân gia đình. Từ chỗ đi về lầm lũi thì sau khi có vợ, Tràng thấy yêu cái nhà mình hơn và Tràng mơ về ngọn cờ đỏ, mơ về sự đổi đời. Vợ Tràng cũng có một sự biến đổi tương tư, từ chỗ xưng xỉa cong cớn với Tràng ở phố huyện thì chỉ một thời gia ngắn, thị Tràng đã chuyển sang tâm lý khép nép hiền thảo như một đứa con dâu quê thiết thực. Tâm lý của bà cụ Tứ cũng được tác giả diễn tả theo chiều phát triển như thế. Từ ngạc nhiên khi có người đàn bà xuất hiện trong nhà mình, đến mừng lo xáo trộn, đến rạng rỡ nụ cười. Tất cả những biểu hiện tâm lý đó rất hợp với logic hoàn cảnh.

Qua những biến động về tâm lý của ba nhân vật cũng như tâm lý của người dân ngụ cư, nhà văn vừa thể hiện khả năng tinh tế của mình, vừa thể hiện cái trân trọng đối với nỗi lòng của những con người khi tiếp cận với hạnh phúc.

d. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ: Người đọc kính phục Kim Lân vì nhiều lẽ nhưng không ai có thể phủ nhận rằng nhà văn Kim Lân rất có biệt tài trong việc chọn lọc và vận dụng ngôn từ, tạo nên được sự hòa hợp tuyệt đối trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chân quê đồng quê.

Ngoài các ngôn ngữ văn chương thông thường, nhà văn đã đưa vào tác phẩm những ngôn ngữ đồng quê rất hợp lý và đích đáng. Chẳng hạn khi miêu tả chân dung nhân vật thì nhà văn dùng từ “gà gà”, “nhấp nhỉnh”,”vập vạp”. Khi diễn tả những trạng thái, những tình cảm thì tác giả lại viết rất hợp với nhân vật. Nhân vật Tràng khi gặp gỡ tỏ tình thì nói “làm đách gì có vợ”, khi nói về hạnh phúc thì “vợ mới vợ miết thì cũng phải có đèn trong nhà”, khi Tràng thưa với mẹ thì vẫn có ngôn từ tương tự “thì u thẳng ngồi lên giường lên ghế cho chỉnh chệ đã nào”.

tổng hợp
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top