Chia Sẻ Phân tích cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi

ButNghien

Học tập suốt đời!
Thành viên BQT
Xu
46
Tiếng thơ hào sảng về đất nước .Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948,1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước !

Đất nước nguyễn thi.jpg

Phân tích cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" - Nguyễn Đình Thi

Phân tích đề:

- Nội dung: cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ Đất nước.

- Thể loại: Phân tích một tác phẩm trọn vẹn theo một chủ đề đã được định hướng. Tác phẩm ở đây là thơ trữ tình, vì thế khi phân tích cần hiểu rõ đặc trưng thể loại, chú trọng làm nổi bật cảm xúc, tình cảm, tư tưởng của tác giả.

- Phạm vi: Tuy chỉ yêu cầu phân tích bài thơ của Nguyễn Đình Thi, nhưng cần so sánh liên hệ với các bài thơ khác, nhất là những bài thơ cùng viết về đề tài đất nước trước và sau nó (ví dụ: Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm…) để thấy vẻ đẹp riêng của tác phẩm.

Gợi ý phân tích:

1. Hiểu rõ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để phân tích

- Đất nước là bài thơ ngắn (49 dòng ) nhưng lại được sáng tác trong thời gian dài (1948- 1955)

- Tiền thân là bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (đăng báo Văn nghệ số 6, tháng 10 và 11/1948) và bài Đêm mít tinh (Văn nghệ Xuân 1949). Cả hai bài thơ đều được viết tại Việt Bắc, trong tâm trạng nhớ về Hà Nội của tác giả.

- Phần đầu từ Sáng mát trong… Trong biếc nói cười thiết tha được lấy từ bài thơ thứ nhất. Kế đến nối vào đoạn cuối bài thơ thứ hai và cả ý của bài đầu cho đến : Những buổi ngày xưa vọng nói về. Đoạn từ Ôi cánh đồng quê… cho đến hết bài được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1955

Như vậy, bài thơ hình thành từ ba mảnh khác nhau, trong thời gian dài, nhưng vẫn là tác phẩm hoàn chình, liền mạch, nhất quán nhờ kết nối bởi mạnh cảm xúc về đất nước.

2. Lưu ý về kết cấu

Đất nước là bài thơ có kết cấu độc đáo

- Nhà thơ đưa người đọc vào thế giới cảm xúc của mình theo lối hứng của ca dao, dân ca. Khởi đầu là cảm xúc về một sáng mùa thu, mùa thu thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Rồi từ mùa thu thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu của đất nước, mùa thu của cách mạng với niềm xúc động đầy tự hào được làm chủ đất nước. Và, từ đó lại nghĩ về đất nước trong chiến tranh, giải phóng, về những con người từ trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu - những anh hùng quần chúng. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh mang tính biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.

- Sự vận động của tư tưởng - cảm xúc của bài thơ phát triển theo hướng cảm nhận và suy ngẫm của tác giả về đất nước. Bởi vậy:

+ Phần sau của bài thơ có nhiều hình ảnh khái quát, hình ảnh mang tính biểu tượng hoặc hình ảnh hiện thực nhưng đã được mở rộng ý nghĩa theo hướng khái quát.

+ Sự chuyển biến của nhịp điệu, âm hưởng theo dòng cảm xúc : Từ nhịp chậm với những âm cao và trong => trầm xuống khi lắng nghe mạch sống bất diệt của đất nước => dồn dập, cuộn sôi, tuôn chảy => hào sảng, bừng sáng.

3. Những nội dung chính cần phân tích

- Cảm hứng của bài thơ:

Như tựa đề, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng về giang sơn, gấm vóc, cảm hứng về đất nước, Tổ quốc. Cảm hứng đó xuyên suốt bài thơ, là mạch ngầm kết nối từng mảng tưởng như rời rạc trong tác phẩm, tạo thành hình tượng thơ thống nhất. Do đó, khi phân tích phải luôn tập trung vào chủ đề này.

- Khổ thơ đầu:

Hoài niệm tươi sáng về mùa thu nay. Đây cũng là cảm hứng về một đất nước đổi mới, cảm hứng đầy chất tự hào của người làm chủ. Phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Thi ở đây là mối quan hệ về đất nước trong truyền thống – đất nước ở hiện tại

- Phần còn lại của bài thơ:

Tác giả tập trung thể hiện những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước từ đau thương trong chiến tranh đã trỗi dậy mạnh mẽ, ngời sáng.

- Đánh giá chung:

Đất nước là bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của nền thơ Việt Nam kháng chiến. Thành công lớn nhất của tác giả là đã thể hiện những tình cảm chân thực, xúc động của mình về đất nước

Bài tham khảo

Tiếng thơ hào sảng về đất nước
Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948,1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước !


Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới


Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian và quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.
Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội:


Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ… là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ.
(Hà Nội băm sáu phố phường)


Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành:

Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu / … Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội / mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm sữa vỉa hè / thơm bước chân qua…

Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội thấm thía xao xác khi ở xa trông về

Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng may bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước” (Nguyến Đình Thi – Bài thơ Đất nước)

Dòng thơ thứ ba: Tôi nhớ những ngày thu đã xa là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra:
Tôi còn nhớ những ngày thu đã xa


Ở đây, còn có một lý do nữa: Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ.

Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy


Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài ). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.

Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ.

Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng là rơi đầy


Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “ người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đo khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại ) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ : Hình ảnh ấy gần với người ra đi của Thâm Tâm:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
-Ly khách!Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
(Tống biệt hành)


Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể - người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc,ngày 14.12.1983).

Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991).

Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phất phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha


Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới ). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng.

Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn.
Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:


Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về


Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý : Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực,lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ, trước năm 1945, Nguyến Đình Thi từng viết :

Trời xanh ơi hỡi xanh không nói
` Hồn tam muốn hiểu chẳng cùng cho


Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và sự hiểu biết của con người.

Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyến Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất


Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dân cho đất nước.

Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về


Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về mối quan hệ ấy. Từ Huy Cận:

Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tười vạn dặm đường xuân
(Các vị La Hán chùa Tây Phương)


đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn… rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm tháng đánh Mỹ:

Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em, đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời...
(Mặt đường khát vọng)


Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn: đất nước từ trong đau thương căm hờn đứng lên ngời sáng

Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều


Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở - gây một tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết : chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự huỷ hoại, với cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy :

Có làng trung đoàn ta đi qua
Máu đông in dấu giày đinh giặc
Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai
Chiếc tả đầu giường đang cháy dở
(Quang Dũng- Những làng đi qua,1947)
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau
(Vũ Cao – Núi đôi, 1956)


Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu


Được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu: ngoài/trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối xứng khác:

những / bỗng
nung nấu/bồn chồn


Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sĩ: tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dâu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời kỳ ấy: tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng.

5 khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh như những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc, bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa… Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng, mảng nọ đặt cạnh mảng kia để bộc lộ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những hình ảnh rời làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc, suy nghĩ của tác giả.

Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những hình ảnh, những ý mới:

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh


Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ:

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta

Đứa đề cổ đứa lột da…


Các câu thơ với hình ảnh tương phản (xiềng xích / trời, súng đạn / lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước . Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạp âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc... Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ”.

Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn hơn. Đó cũng là bài thơ hay của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố : hình ảnh chân thực và chất suy tưởng, khái quát, cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước. Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam.
Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Phân tích 4 câu thơ sau

"Ôi những cánh đồng quê chảy máu,

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bốn chồn nhớ mắt người yêu".

("Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)


Có những vần thơ xao xuyến bồi hồi. Có những vần thơ ngọt ngào say đắm. Lại có những vần thơ đĩnh đạc, hào hùng. Còn có lúc, ta bị ám ảnh khôn nguôi trước những vần thơ yêu thương và căm giận:

"Ôi những cánh đồng quê chảy máu,

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bốn chồn nhớ mắt người yêu".

("Đất nước" - Nguyễn Đình Thi)

"Đất nước" là bài thơ sáng giá nhất của Nguyễn Đình Thi viết trong kháng chiến chống Pháp, cũng là bài thơ kiệt tác viết về đề tài quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Nó đã được tác giả thai nghén và hình thành trong một quá trình lịch sử khá dài (1948-1955). Các áng thơ "Đêm mít tinh", "Sáng mát trong như sáng năm xưa" - đã khơi nguồn cảm hứng để Nguyễn Đình Thi khám phá và thể hiện tuyệt đẹp tình yêu nước một cách nồng nàn, say đắm.

"Đất nước" như một phức điệu đa thanh nói về cảm xúc mùa thu quê hương xưa và nay. Là tiếng nói say mê về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, là niềm tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc anh hùng. Nó là tiếng nói xót xa, căm giận quân xâm lược đang giày xéo đất nước thân yêu. Phần cuối bài thơ biểu lộ niềm kiêu hãnh của người chiến sĩ trước tư thế chiến đấu và chiến thắng lẫm liệt hiên ngang "rũ bùn đứng dậy sáng lòa !" của đất nước. Đoạn thơ 4 câu trên đây trích trong phần thứ ba của bài "Đất nước".

Nhà thơ - người chiến sĩ - như đang nắm chắc tay súng "lắng hồn núi sông ngàn năm", lắng nghe những âm vang của lịch sử, giống nòi "rì rầm trong tiếng đất" tự nghìn xưa "vọng nói về": những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... bất tử ! Từ quá khưa nghìn xưa trở về hiện tại, câu thơ vút lên nghẹn ngào, đau đớn:

"Ôi những cánh đồng quê chảy máu".

Cảnh tượng đau thương mà nhà thơ nói đến là mùa thu 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt ! Nhiều đô thị, nhiều vùng nông thôn rộng lớn của đất nước ta đang bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo "Đương làng bao xương máu tơi bời - Vườn không nhà trống tàn hoang" ("Làng tôi" - Văn Cao). "Những cánh đồng quê chảy máu" - hình ảnh hóan dụ tượng trưng cho đất nước thân yêu, những làng xóm thân thuộc đang bị quân thù càn quét, bắt giết dã man. Máu những người nông dân hiền lành đã chảy ngập đường thôn, luống cày... dưới làn bom đạn của lũ cướp nước. Xưa kia thuở thanh bình, đất nước là "những cánh đồng thơm mát...", "xanh xanh bãi mía bờ dâu...", thì kể từ khi "súng giặc đất rền", đã trở nên tang thương, điêu tàn với "những cánh đồng quê chảy máu". Nhân dân ta bị giặc Pháp tàn sát dã man. Hai chữ "chảy máu" lên án tội ác và chính sách tam quang của quân cướp nước: giết sạch, cướp sạch, đốt phá sạch ! Từ "Ôi" cảm thán diễn tả nỗi lòng đau đớn, xót xa không thể nào kể xiết!

Từ cái nhìn toàn cảnh về không gian đau thương, về "những cánh đồng quê chảy máu", nhà thơ đứng lặng nhìn về các phía chân trời. Một nét vẽ thậm xưng, độc đáo, rất sáng tạo:

"Dây thép gai đâm nát trời chiều".

Quân giặc tàn bạo ra sức bắn giết, càn quét, chiếm đất, dồn dân. Đồn giặc như nấm độc mọc lên khắp mọi nơi. "Dây thép gai" cũng là một hình ảnh hóan dụ nói về bốt đồn giặc, sự chiếm đóng dã man của quân cướp nước. Những núi thép gai, những hàng rào dây thép gai tua tủa nhọn hoắt bao bọc xung quanh đồn giặc không chỉ nhằm chống đỡ những trận tấn công vũ bão của quân đội ta, mà còn "đâm nát trời chiều". Một cách nói thậm xưng đầy ấn tượng về tội ác và âm mưu cướp nước của giặc Pháp. "Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" là những chiều thôn trang êm đềm có "cánh cò trắng vẫy mênh mông", có "tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn", có tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về thôn... Nhưng nay còn đâu nữa ? Cảnh trời chiều quê hương đã và đang bị dây thép gai đồn giặc "đâm nát". Nỗi đau từ đất trời như đang cứu nát, đâm nát lòng người!

Ở phần đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi nói về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ của đất nước với trời xanh, núi xanh, những cánh đồng quê thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa - và tất cả đều "của chúng ta". Nhưng từ khi giặc tràn tới, đồng quê thì "chảy máu", trời chiều thôn trang thì bị dây thép gai "đâm nát", biết bao đau đớn, căm hờn ! Tác giả "Đất nước" tạo nên sự đối lập, tương phản đầy ấn tượng: xưa và nay, thanh bình với chiến tranh, hữu tình nên thơ với điêu tàn, tang tóc - để lên án tội ác dã man của giặc Pháp mà trời không thể dung tha, người người đều căm giận ! Sự kết hợp tài tình các biện pháp tu từ hoán dụ, cảm thán, thậm xưng, và tương phản đã tạo nên vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Qua đó, ta cảm nhận được cốt cách thi sĩ của Nguyễn Đình Thi: hồn thơ đẹp, tài hoa, cảm xúc dồn nén, ngôn từ xác thực, hình tượng sáng tạo. Nhà thơ đã dẫn hồn người đọc sống và cảm với hiện thực đất nước một thời khói lửa, mở rộng cho ta một trường liên tưởng về không gian nghệ thuật để mọi người cùng suy ngẫm về dòng chảy lịch sử và hành trình bi tráng của dân tộc. Và đó cũng là cái giá của độc lập tự do để ta nhớ và tự hào!


Gần 150 năm về trước, trong bài thơ "Chạy giặc", Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận lên án quân xâm lược:

"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây...

(...) Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây...".

Có biết bao câu thơ xúc động làm sôi sục lòng người những năm tháng đất nước "ra trận":

"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang...".

("Bên kia sông Đuống" - Hoàng Cầm).

Đó là những vần thơ một thời tạc vào thời gian và lòng người để ta nhớ mãi.

Câu thơ thứ ba nói lên tâm trạng người chiến sĩ ra trận:

"Những đêm dài hành quân nung nấu".

Câu 1 nói về "những cánh đồng quê chảy máu", câu ba tứ thơ chỉ rõ "Những đêm dài hành quân nung nấu", từ không gian đau thương mở ra thời gian căm giận, không chỉ một đêm, năm mười đêm mà là "những đêm dài"... Cấu trúc song hành, điệp lại 2 lần chữ "những", chữ "nấu" vần với chữ "máu" (vần chân) đã tạo nên giai điệu, nhạc điều trầm hùng đang nung nấu tâm hồn người chiến sĩ xung kích trên đường hành quân ra trận. "Nung nấu" vì căm thù dữ dội. Lòng súng nóng bỏng, lưỡi lê nhọn hoắt căm thù ! Mối thù đối với giặc Pháp cướp nước nung nấu, ngùn ngụt bốc lửa, sôi sục trong lòng, không chỉ trong một thời gian hữu hạn mà kéo dài trong thời gian vô hạn "Những đêm dài hành quân nung nấu". Hai chữ "nung nấu" biểu hiện sâu sắc tình yêu nước của "những người áo vải - Đã đứng lên thành những anh hùng!".

Càng nung nấu quân xâm lược bao nhiêu thì càng yêu quê hương đất nước bấy nhiêu. Người lính ra trận nung nấu, sôi sục căm thù giặc khi nhìn thấy đất nước tang tóc, điêu tàn "những cánh đồng quê chảy máu...", nhìn thấy "những bóng thù hắc ám", những đồn giặc mọc lên với bao "dây thép gai đâm nát trời chiều". Câu thơ thứ tư tiếp theo là một nét vẽ, nét khắc chiều sâu tâm hồn người chiến sĩ ra trận; nhiều khám phá và sáng tạo:

"Bỗng bốn chồn nhớ mắt người yêu".

"Nung nấu" căm thù và "bồn chồn nhớ" là hai nét biểu hiện của một tâm trạng, làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của anh Vệ quốc quân thời kháng chiến 9 năm đánh Pháp. Anh ra trận với sức mạnh căm thù giặc, với tình yêu nước thương dân, với bao nỗi nhớ. Nhớ luống cày mái rạ, nhớ bãi mía nương dâu, nhớ giếng nước gốc đa, nhớ "người tình chung"... "nhớ mắt người yêu". "Mắt người yêu" cũng là một hình ảnh hóan dụ rất đắt diễn tả hình bóng quê hương, vẻ đẹp duyên dáng "người tình chung" sau lũy tre làng mà anh nhớ lắm:

"Vầng trán em mang trời quê hương

Mắt em như giếng nước thôn làng

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em đã bao ngày em nhớ thương ?..."

("Mắt người Sơn Tây" - Quang Dũng)

"Nhớ mắt người yêu" với bao kỉ niệm đẹp một thời trai trẻ. "Xa em năm nhớ - gần em mười thương". Chàng trai cày ngày xưa nhớ quê nhà là nhớ hương vị đậm đà "bát canh rau muống, quả cà giòn tan", là "nhớ ai tát nước bên đường hôn nao". Anh bộ đội Cụ Hồ giã từ nơi chôn nhau cắt rốn, nơi "nước mặn đồng chua", nơi "đất cày lên sỏi đá", có người nhớ thầm: "Bầm ra ruộng cấy bầm run - Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non". Có người nhớ "người vợ trẻ - mòn chân bên cối gạo canh khuya". Chàng lính trẻ hào hoa trong đoàn binh Tây Tiến thì lại "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Có trăm nghìn nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân thương: "Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét - Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" (Chế Lan Viên), v.v...

Trở lại câu thơ "bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu", hai chữ "bồn chồn" nghĩa là nóng ruột, không yên tâm (Từ điển tiếng Việt); diễn tả nỗi nhớ xôn xao, rung động, dâng lên như những đợt sóng vỗ mãi trong lòng. Đã có nỗi nhớ "bổi hồi bồi hồi". Đã có sự vấn vương "không yên một bề". Đã có tâm tình khao khát "nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai...". Câu thơ "Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu" là một nét vẽ rất đẹp thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Đình Thi. "Nhớ" là cảm hứng nhiều màu sắc và dáng vẻ đã làm nên những câu thơ hay, những vần thơ đẹp của Nguyễn Đình Thi trong tập thơ "Người chiến sĩ":

... "Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước

Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn"...

(Nhớ)

Trong cái chung nhớ nước, nhớ "nguồn thiêng ông cha" (Hữu Loan), lại có cái riêng "bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu". Có nỗi hờn "nung nấu", có nỗi nhớ "bồn chồn" nên mới có sức mạnh chiến đấu và niềm tin thắng trận: "Anh lại tìm em - Em mặt yếm thắm - Em thắt lụa hồng - Em đi trẩy hội non sông - Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh" (Hoàng Cầm).

Tình cảm là cái gốc của thơ ca, là ngọn nguồn sáng tạo của thơ ca. Thơ chỉ đẹp khi thơ ca hút màu mỡ, phù sa trong lòng đất - hiện thực cuộc sống - mà nảy mầm xanh tươi, đơm hoa kết trái dâng hương thơm, vị ngọt cho đời. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi như một bông hoa đẹp trong cành hoa đẹp đã mang hơi thở nóng hổi của thời đại, mang tình yêu mãnh liệt của đất nước và con người Việt Nam trong ba ngàn ngày khói lửa.

Đọc đoạn thơ trên, ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, một hồn thơ giàu cá tính sáng tạo. Hiện thực chiến tranh: đất nước điêu tàn, dân tộc đau thương trong bom đạn quân thù đã được diễn tả một cách tuyệt vời qua những vần thơ hàm súc, biểu cảm và giàu hình tượng.

"Cánh đồng quê chảy máu", "Giây thép gai đâm nát trời chiều" là những hình ảnh thơ mới mẻ, độc đáo và hay. "Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu" là một hình ảnh mang tính kế thừa sáng tạo, thể hiện một hồn thơ chiến sĩ cho ta nhiều rung cảm thấm thía.

Đọc "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi, tâm hồn ta được bồi đắp bao tình cảm đẹp trở nên trong sáng và phong phú, để ta yêu, để ta nhớ, ta sống lại và tự hào về những năm tháng hào hùng và oanh liệt với ngọn lửa Điện Biên thần kì của đất nước và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.

sưu tầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top