Trang Dimple

New member
Xu
38
Trung Quốc là một nước do một dân tộc chủ thể là dân tộc Hoa (sau gọi là dân tộc Hán) lập nên và tồn tại liên tục lâu dài trong lịch sử. Kể từ khi dựng nước về sau, nhân dân Trung Quốc đã sáng tạo ra một nền văn hóa vô cùng rực rỡ so với thế giới đương thời mà sau đây là những thành tựu chủ yếu.

1. Chữ viết

Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ viết. Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Quốc mới ra đời. Loại chữ viết đầu tiên này khắc trên mai rùa và xương thú, được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1899 và được gọi là chữ giáp cốt.

Sở dĩ chữ đời Thương được khắc trên mai rùa hoặc xương thú (chủ yếu là xương quạt của bò) vì đó là những quẻ bói. Số là, người Trung Quốc lúc bấy giờ mỗi khi muốn bói việc gì thì khắc những điều muốn bói lên mai rùa hoặc xương thú, đục lỗ ở giữa rồi nung, sau đó theo những đường rạn nứt để đoán ý của trời đất quỷ thần. Ví dụ: “Quẻ bói ngày Quý Mão: Hôm nay Mưa, Mưa từ phía Tây tới? Mưa từ phía Nam tới?”.

Phương pháp cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. Ví dụ:

Chữ “nhật” (mặt trời) thì vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm.

Chữ “sơn” (núi) thì vẽ 3 đỉnh núi.

Chữ “thủy” (nước) thì vẽ 3 làn sóng.

Dần dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng, trên cơ sở phương pháp tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh.

Cho đến nay đã phát hiện được hơn 100.000 mảnh mai rùa và xương thú có khắc chữ giáp cốt. Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện được có khoảng 4.500 chữ, trong đó đã đọc được 1.700 chữ. Chữ giáp cốt đã ghép được những đoạn văn tương đối dài, có đoạn dài tới trên 100 chữ.
Đến thời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kỳ này là kim văn, cũng gọi là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Kim văn từ đời Thương đã có nhưng còn ít. Đến Tây Chu, nhà vua thường đem ruộng đất và người lao động ban thưởng cho các quý tộc. Mỗi lần như vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi sự việc ấy lên đỉnh để làm kỷ niệm, do đó kim văn đến thời kỳ này rất phát triển. Ngoài đồ đồng, chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên trống đá, thẻ tre.


Các loại chữ viết đầu tiên này được gọi chung là chữ đại triện, cũng gọi là cô văn. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất. Đến thời Tần, Lý Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất gọi là chữ tiểu triện.

Từ cuối thời Tần Thủy Hoàng (221-206 TCN) đến thời Hán Tuyên đế (73-49 TCN), lại xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ. Chữ lệ khác chữ triện ở chỗ chữ triện còn giữ lại nhiều yếu tố tượng hình, do đó có nhiều nét cong nét tròn, còn chữ lệ thì biến những nét đó thành ngang bằng sổ thẳng vuông vức ngay ngắn. Thời gian sử dụng chữ lệ tuy không lâu nhưng chữ lệ có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ chân tức là chữ Hán ngày nay.

2. Văn học

Thời cổ trung đại, Trung Quốc có một nền văn học rất phong phú. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán tư tưởng Nho gia được đề cao. Nho gia là trường phái rất coi trọng việc học tập, vì vậy từ Hán về sau những người có thể cầm bút viết văn trong xã hội Trung Quốc rất nhiều. Đến thời Tùy Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có những thành tựu lớn lao. Văn học Trung Quốc thời kỳ này có nhiều thể loại như thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết..., trong đó tiêu biểu nhất là Kinh Thi, thơ Đường và tiểu thuyết Minh - Thanh.

a) Kinh Thi

Kinh Thi là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc, được sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Thời đó, thơ cũng là lời của bài hát. Vì vậy, vua Chu và vua các nước chư hầu thường sai các viên quan phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca của các địa phương để phổ nhạc. Những bài thơ sưu tầm, phần lớn được tập hợp lại thành một tác phẩm gọi là Thi. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã chỉnh lý lại một lần nữa. Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi.

Kinh Thi có 305 bài chia làm 3 phần là Phong, Nhã, Tụng. Phong là dân ca của các nước tên gọi là Quốc Phong. Nhã gồm có hai phần gọi là Tiểu Nhã và Đại Nhã. Nhiều người cho rằng Tiểu Nhã là những bài thơ do tầng lớp quý tộc nhỏ sáng tác, Đại Nhã là những bài thơ do tầng lớp quý tộc lớn sáng tác. Còn Tụng bao gồm Chu Tụng, Lỗ Tụng và Thuông Tụng là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác dùng để hát khi cúng tế ở miếu đường.


Trong các phần đó, Quốc Phong có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao nhất. Bằng lời thơ gọn gàng thanh thoát mộc mạc nhưng đầy hình tượng, những bài dân ca này đã mỉa mai hoặc lên án sự áp bức bóc lột và cảnh giàu sang của giai cấp thống trị, nói lên nỗi khổ cực của nhân dân. Ví dụ, trong bài Chặt gỗ đàn có đoạn viết:

Không cấy không gặt,

Lúa có ba trăm.

Không bắn không săn,

Sân treo đầy thú.

Này ngài quân tử

Chớ ngồi ăn không.

Tuy nhiên, chiếm tỉ lệ nhiều nhất và hay nhất là những bài thơ mô tả tình cảm yêu thương gắn bó hoặc buồn bã nhớ nhung hoặc bâng khuâng mong đợi giữa trai gái vợ chồng. Ví dụ:

Em đi cắt dây sắn mới một ngày,

Mà tưởng ba tháng này không được thấy mặt nhau,

Em đi cắt cỏ hương mới một ngày,

Mà tưởng ba thu này không được thấy mặt nhau,

Em đi hái ngải cứu mới một ngày,

Mà tưởng ba năm này không được thấy mặt nhau.

(Cắt cây sắn dây - Vương Phong)

Là một tập thơ được sáng tác trong 5 thế kỷ, Kinh Thi không những chỉ có giá trị về văn học mà còn là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc đương thời. Ngoài ra tác phẩm này còn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng của nó. Chính Khổng Tử đã nói:

“Các trò sao không học Thi? Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể giúp ta mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho mọi người đoàn kết với nhau, có thể làm cho ta biết oán giận. Gần thì có thể vận dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết được nhiều tên chim muông cây cỏ”. (Luận ngữ - Dương hóa).

b) Thơ Đường

Thời kỳ huy hoàng nhất của thơ ca Trung Quốc là thời Đường (618-907). Trong gần 300 năm tồn tại, thời Đường đã để lại tên tuổi của trên 2.000 nhà thơ với gần 50.000 tác phẩm.

Cùng với sự thăng trầm về chính trị, thời Đường được chia thành 4 thời kỳ là: Sơ Đường (618-713), Thịnh Đường (713766), Trung Đường (766-827) và Văn Đường (827-904). Thịnh Đường chủ yếu là thời kỳ trị vì của Đường Huyền Tông với hai niên hiệu Khai Nguyên (713-741) và Thiên Bảo (742-755). Đây là thời kỳ tương đối ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, đặc biệt đây là thời kỳ phát triển rất cao về văn hóa.

Thơ Đường không những có số lượng rất lớn mà còn có giá trị rất cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hơn nữa, đến thời Đường, thơ Trung Quốc cũng có một bước phát triển mới về luật thơ.

Các nhà thơ đời Đường sáng tác theo 3 thể: Từ, Cổ phong, Đường luật.

Từ là một loại thơ đặc biệt ra đời giữa đời Đường, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc. Vì viết theo những điệu có sẵn nên sáng tác từ thường gọi là điền từ.

Cổ phong là thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về số chữ trong một câu (nhưng thường là 5 và 7 chữ), số câu trong bài, về cách gieo vần (có thể gieo cả vần trắc lẫn vần bằng), về niêm, luật, đối (tuy vậy cũng có bài tiếp thu một số yếu tố của thơ luật để tạo nên các kiểu trung gian).

Đường luật gồm 3 dạng chính: bát cú (tám câu, có thể là “thất ngôn” hoặc “ngũ ngôn”), tuyệt cú(bốn câu) và bài luật (còn gọi là trường luật), có nghĩa là một bài thơ luật kéo dài. Có thể coi thất ngôn bát cú là dạng cơ bản vì từ nó có thể suy ra các dạng khác.

Trong số các thi nhân đời Đường còn lưu tên tuổi đến ngày nay, Lý Bạch, Đỗ Phủ thuộc thời Thịnh Đường và Bạch Cư Dị thuộc thời Trung Đường là ba nhà thơ tiêu biểu nhất.

Lý Bạch (701-762) là một người tính tình phóng khoáng, thích tự do, không chịu được cảnh ràng buộc luồn cúi. Do vậy, tuy học rộng tài cao nhưng ông không hề đi thi và chưa làm một chức quan gì chính thức cả. Ông lại là một người yêu quê hương đất nước và rất thông cảm với nỗi khổ cực của nhân dân lao động, do vậy thơ của ông phần lớn tập trung miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời có nhiều bài phản ánh đời sông của nhân dân. Đặc điểm nghệ thuật thơ Lý Bạch là lời thơ đẹp và hào hùng, ý thơ có màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” sau đây là một ví dụ:

Nắng rọi hương Lô khói tía bay,

Xa trông dòng thác trước sông này:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,

Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây.

Đỗ Phủ (712-770) xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Bản thân ông mặc dù học rất rộng nhưng thi không đỗ, mãi đến năm 40 tuổi mới làm mấy chức quan nhỏ trong 7 năm. Tuy vậy suốt đời ông phải sống trong cảnh nghèo nàn. Cuộc đời lận đận đó đã giúp ông hiểu thấu cuộc sống khổ cực của nhân dân, do đó phần lớn thơ của Đỗ Phủ đều tập trung miêu tả những cảnh bất công trong xã hội, miêu tả cảnh nghèo khổ và những nỗi oan khuất của nhân dân lao động, vạch trần sự áp bức bóc lột và xa xỉ của giai cấp thống trị. Ví dụ trong bài thơ “Từ kinh đô về huyện Phụng Tiên” ông đã mô tả tỉ mỉ với dụng ý tố cáo cảnh xa hoa phè phỡn của Đường Huyền Tông, Dương Quý Phi và cả tập đoàn quý tộc ở Ly Sơn với những câu:

Bóng đèn ngọc chập chờn sáng rực

Quan Vũ lâm chầu chực đông sao!

Vua tôi sung sướng xiết bao

Kẻ ra bàn tắm người vào bàn ăn.

Làn mây khói lồng che mặt ngọc

Những nàng tiên ngang dọc thềm trong

Áo cừu điêu thử người dùng

Đàn vang sáo thét, não nùng sướng tai

Móng dò ninh người xơi rỉm rót

Thêm chanh chua, quất ngọt, rượu mùi.

Nhưng tiếp sau đó ông nêu lên cảnh trái ngược trong xã hội:

Cửu son rượu thịt để ôi

Có thằng chết lả xương phơi ngoài đường.

Những bài thơ có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao như vậy của Đỗ Phủ rất nhiều, vì vậy ông được đánh giá là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất đời Đường.

Bạch Cư Dị (772-846) xuất thân từ gia đình địa chủ quan lại, năm 26 tuổi đậu Tiến sĩ, đã làm nhiều chức quan to trong triều, nhưng đến năm 44 tuổi thì bị giáng chức làm Tư Mã Giang Châu.

Bạch Cư Dị đã đi theo con đường sáng tác của Đỗ Phủ, đã làm nhiều bài thơ nói lên nỗi khổ cực của nhân dân và lên án giai cấp thống trị. Thơ của Bạch Cư Dị không những có nội dung hiện thực tiến bộ mà có nhiều bài đã đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật. Đáng chú ý hơn nữa là trong những bài thơ lên án giai cấp thống trị, ông đã dùng những lời lẽ khi thì chua cay, khi thì quyết liệt. Ví dụ lên án sự ức hiếp tàn nhẫn của các quan lại đối với nhân dân trong việc thu thuế, trong bài “Ông già Đỗ lăng” ông đã viết:

Quan trên biết rõ mà không xét,

Thúc lấy đủ tô cầu lập công.

Bán đất cầm dâu nộp cho đủ,

Cơm áo sang năm trông vào đâu?

Lột áo trên mình ta,

Cướp cơm trong miệng ta,

Hại người hại vật là hùm sói,

Cứ gì cào móng nghiến răng ăn thịt người.

Sau khi bị giáng chức, ông trở nên bi quan nên tính chiến đấu ở trong những bài thơ cuối đời của ông không được mạnh mẽ như trước nữa. Mặc dầu vậy, ông vẫn là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn của Trung Quốc thời Đường.

Tóm lại, thơ Đường là những trang rất chói lọi trong lịch sử văn học Trung Quốc, đồng thời, thơ Đường đã đặt cơ sở nghệ thuật, phong cách và luật thơ cho nền thi ca Trung Quốc các thời kỳ sau này. Thơ Đường cũng có ảnh hưởng lớn đến thơ ca Việt Nam.

c) Tiểu thuyết Minh - Thanh

Tiểu thuyết là một hình thức văn học mới bắt đầu phát triển từ thời Minh - Thanh. Trước đó, ở các thành phố lớn thường có những người chuyên làm nghề kể chuyện, đề tài của họ thường là những sự tích lịch sử. Dựa vào những câu chuyện ấy, các nhà văn đã viết thành các tiểu thuyết chương hồi. Những tác phẩm lớn và nổi tiếng trong giai đoạn này là Truyện Thủy hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Nho Lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần v.v...

Truyện Thủy hử kể lại cuộc khởi nghĩa nông dân của Lương Sơn Bạc do Tống Giang lãnh đạo. Qua tác phẩm này, tác giả không những đã thuật lại rõ ràng quá trình diễn biến của cuộc khởi nghĩa mà còn hết sức ca ngợi tài trí và sự dũng cảm của các vị anh hùng nông dân, do đó thời Minh - Thanh, tác phẩm này bị liệt vào loại sách cấm. Mặc dầu vậy, những câu chuyện của các anh hùng Lương Sơn Bạc vẫn được lưu truyền trong nhân dân và đã có tác dụng cổ vũ rất lớn đối với sự đấu tranh của nông dân chống sự áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến.

Tam quốc chí diễn nghĩa bắt nguồn từ câu chuyện ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi kết nghĩa ở vườn đào lưu truyền trong dân gian. Nội dung miêu tả cuộc đấu tranh về quân sự, chính trị phức tạp giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô.

Tây du ký viết về chuyện nhà sư Huyền Trang và các đồ đệ tìm đường sang Ấn Độ lấy kinh Phật, trải qua rất nhiều gian nan nguy hiểm ở dọc đường, cuối cùng đã đạt được mục đích. Tác giả đã xây dựng cho mỗi nhân vật của tác phẩm một tính cách riêng, trong đó nổi bật nhất là Tôn Ngộ Không, một nhân vật hết sức thông minh, mưu trí, dũng cảm và nhiệt tình, đồng thời qua Tôn Ngộ Không, tính chất chống phong kiến của tác phẩm được thể hiện rõ rệt.

Nho lâm ngoại sử là một bộ tiểu thuyết trào phúng viết về chuyện làng nho. Qua tác phẩm này, Ngô Kính Tử đả kích chế độ thi cử đương thời và mỉa mai những cái xấu xa của tầng lớp trí thức dưới chế độ thi cử đó.

Hồng lâu mộng (giấc mộng lầu hồng) viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến và câu chuyện yêu đương giữa một đôi thiếu niên, nhưng qua đó, tác giả đã vẽ nên bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Bằng cách xây dựng cho hai nhân vật chính của tác phẩm là Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc tính cách chống đối chế độ thi cử, chế độ quan trường, đạo đức và lễ giáo phong kiến, khát vọng tự do và hạnh phúc, đồng thời dành cho những người thuộc tầng lớp bị coi là thấp kém những tâm hồn cao đẹp và tình cảm chân thành, tác giả đã đánh trực tiếp và khá mạnh vào hệ ý thức của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Vì vậy, Hồng lâu mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc.


( Còn Tiếp )
Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
3. Sử học
Trung Quốc là một nước rất coi trọng lịch sử, bởi vậy sử học ở Trung Quốc phát triển rất sớm và Trung Quốc có một kho tàng sử sách rất phong phú.

Theo truyền thuyết từ thời Hoàng Đế ở Trung Quốc đã có những sử quan tên là Đại Náo, Thương Hiệt. Nhưng đó là điều không đáng tin. Đến đời Thương, trong các minh văn bằng chữ giáp cốt có chứa đựng một số tư liệu lịch sử quý giá. Có thể coi đó là mầm mống của sử học.

Thời Tây Chu trong cung đình thường xuyên có những viên quan chuyên phụ trách việc chép sử. Đến đầu thời Đông Chu, những nước chư hầu có nền văn hóa phát triển tương đối cao như Tấn, Sở, Lỗ... cũng đặt chức quan chép sử. Trong số các sách lịch sử của các nước, tốt nhất là quyển sử biên niên của nước Lỗ. Trên cơ sở quyển sử của nước Lỗ; Khổng Tử biên soạn lại thành sách Xuân Thu, đó là quyển sử do tư nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc.

Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm, từ năm 722 đến năm 481 TCN. Sách Xuân Thu viết rất cô đọng ngắn gọn, toàn bộ sách chỉ có 18.000 chữ nhưng đã ghi chép các sự kiện lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nước chư hầu. Hơn nữa, xuất phát từ quan điểm chính trị của mình, Khổng Tử đã sửa chữa một số sự thật lịch sử, ví dụ vua nước Sở tự xưng là “vương”, Khổng Tử đã hạ xuống gọi là “tử”, hoặc như trong cuộc hội nghị chư hầu ở Tiễn Thổ (Hà Nam) do Tấn Văn Công triệu tập, vua Chu thực ra là bị triệu tập đến nhưng Khổng Tử lại chép là vua đi săn ở đó.

Tự đánh giá tầm ảnh hưởng chính trị của sách Xuân Thu, Khổng Tử nói: “Kẻ hiểu ta là do sách Xuân Thu, kẻ lên án ta cũng là do sách Xuân Thu”. Tư Mã Thiên, tác giả Sử ký thì nói rằng: “Từ khi cái nghĩa (tư tưởng) của sách Xuân Thu lưu hành, loạn thần tặc tử trong thiên hạ đều sợ hãi”. Chính vì vậy, sách Xuân Thu tuy là tác phẩm sử học nhưng đến thời Hán được coi là một tác phẩm trong Ngũ kinh của nhà Nho.

Ngoài sách Xuân Thu, các tác phẩm khác như Thượng Thư (kinh Thi), Chu Lễ... cũng là những tài liệu lịch sử rất quý báu để nghiên cứu tình hình chính trị, chế độ quan lại, lễ nghi lúc bấy giờ. Đến thời Chiến Quốc, các sách như Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách, Lã thị Xuân Thu đều là những tác phẩm sử học rất có giá trị.

Đến thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập mà người đặt nền móng đầu tiên là Tư Mã Thiên.

Với tác phẩm Sử ký, bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, Tư Mã Thiên đã ghi chép lịch sử gần 3.000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.

Toàn bộ tác phẩm bao gồm 12 bản kỷ, 10 biểu, 8 thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện. Bản Kỷ là sự tích các vua; Biểu là bảng tổng kết về niên đại; Thư là lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt như lễ, nhạc, kinh tế; Thế gia là lịch sử các chư hầu và những người có danh vọng; Liệt truyện chủ yếu truyện các nhân vật lịch sử khác. Qua 5 phần đó, Tư Mã Thiên đã ghi lại mọi mặt trong xã hội như chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, ngoại giao... của Trung Quốc trong giai đoạn lịch sử đó. Do vậy, Sử ký là một tác phẩm lớn rất có giá trị về mặt sử liệu cũng như về tư tưởng.

Tiếp theo Sử ký là Hán thư của Ban Cố. Hán thư là lịch sử triều Tây Hán ghi chép lịch sử từ Hán Cao tổ (206 TCN) cho đến cuối thời Vương Mãng (năm 23 sau CN) tất cả 230 năm.

Hán thư bao gồm 12 bản kỷ, 8 biểu, 10 chí, 70 liệt truyện. Chí cũng như Thư của Sử ký là những chuyên đề về các lĩnh vực riêng biệt như kinh tế, văn học, địa lý, pháp luật... Hán thư còn có Tam quốc chí của Trần Thọ (233297) và Hậu Hán thư của Phạm Diệp (398-445). Bốn tác phẩm Sử ký, Hán thư, Tam quốc chí, Hậu Hán thư đều là do tư nhân soạn và được gọi chung là “tiền tứ sử” (4 bộ sử trước).

Bắt đầu từ đời Đường cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước gọi là “Sử quán” được thành lập. Từ đó về sau các bộ sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn. Đến thời Minh, Trung Quốc đã biên soạn được 24 bộ sử, về sau thêm vào Tân Nguyên SửThanh sử cảo thành 26 bộ sử.

Ngoài 26 bộ sử nói trên còn có rất nhiều tác phẩm sử học viết theo các thể loại khác như Sử thông của Lưu Tri Cơ, Thông điển của Đỗ Hữu đời Đường, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống...

Sử thông là tác phẩm viết về phương pháp biên soạn lịch sử sớm nhất của Trung Quốc, trong đó tác giả bình luận tất cả các tác phẩm sử học đời trước về các mặt như phương pháp biên soạn, việc sử dụng tư liệu, cách hành văn, v.v...

Thông điển là quyển sử đầu tiên viêt về lịch sử từng lĩnh vực như kinh tế, chế độ thi cử, chức quan... từ thời thượng cổ cho đến giữa thế kỷ VIII.

Tư trị thông giám là bộ sử biên niên rất lớn ghi chép lịch sử từ thời Chiến Quốc đến thời Ngũ Đại.

Bên cạnh những bộ sử ấy thành tựu lớn nhất trong công tác biên soạn thời Minh - Thanh là đã hoàn thành được mấy bộ sách hết sức đồ sộ. Đó là Vĩnh Lạc đại điển, Cố kim đồ thư tập thànhTứ khố toàn thư.

Vĩnh lạc đại điển do vua Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc) tổ chức biên soạn bao gồm các nội dung: chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, v.v... Đó là một công trình tập thể của hơn 2.000 người làm việc trong 5 năm.

Bộ sách gồm 11.095 tập, là bộ Bách khoa toàn thư rất lớn của Trung Quốc. Tiếc rằng năm 1900 khi liên quân 8 nước đế quốc đánh vào Bắc Kinh, nhiều công trình văn hóa đã bị cướp, đốt hoặc phá hủy. Vì vậy bộ Vĩnh Lạc đại điển hiện nay ở trong và ngoài nước chỉ còn hơn 300 tập.

Cổ kim đồ thư tập thành biên soạn dưới thời Khang Hy đời Thanh bao gồm các nội dung chính trị, kinh tế, đạo đức, văn học, khoa học... được chia thành 10.000 chương. Đây là bộ Bách khoa toàn thư lớn thứ 2 sau Vĩnh lạc đại điển.

Tứ Khố toàn thư biên soạn dưới thời Càn Long đời Thanh gồm có 4 phần: Kinh (sách kinh điển của Nho gia), Sử, Tử (tác phẩm của các học giả thời Chiến Quốc), Tập (văn, thơ, từ, khúc) chia thành 36.000 tập.

Những bộ sách trên là những di sản văn hóa vô cùng quý báu của
Trung Quốc có giá trị lịch sử rất lớn. Tuy nhiên trong khi tổ chức biên soạn Tứ khố toàn thư, vua Thanh đã ra lệnh bỏ đi nhiều tác phẩm bị coi là không có lợi cho nhà Thanh, đồng thời những tác phẩm được chọn vào cũng bị cắt xén và sửa chữa. Việc đó làm cho giá trị của bộ sách này bị hạn chế một phần.

( Còn Tiếp )

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
4. Khoa học tự nhiên
a) Toán học

Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người
Trung Quốc đã biết phép đếm lấy 10 làm cơ sở. Đến thời Tây Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm toán học nhan đề là Chu bễ toán kinh. Nội dung của sách này nói về lịch pháp, thiên văn, hình học (tam giác, tứ giác, ngũ giác), số học (phân số, số thường)... đặc biệt đây là tác phẩm toán học của Trung Quốc sớm nhất nói về quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông giống như định lý Pitago.

Thời Đông Hán lại xuất hiện một tác phẩm quan trọng hơn gọi là Cửu chương toán thuật. Tác phẩm này chia thành 9 chương, trong đó chứa đựng các nội dung như 4 phép tính, phương pháp khai căn bậc 2 và bậc 3, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông...

Đến thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã chú giải sách Cửu chương toán thuật, ông còn tìm được số pi bằng tỉ số 3927: 1250 = 3,1416. Tổ Xung Chi (429-500) cũng chú thích Cửu chương toán thuật. Đặc biệt, ông là người sớm nhất thế giới tìm được số pi rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và 3,1415927.

Đời Đường, Trung Quốc cũng có nhiều nhà toán học có tên tuổi như nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu Thông soạn sách Tập cổ toán kinh, dùng phương trình bậc 3 để giải quyết nhiều vấn đề toán học.

Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại càng có nhiều nhà toán học, trong số đó Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống có thể coi là những người tiêu biểu. Giả Hiến đã tìm được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra những ý kiến về cấp số, cách tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Đặc biệt, thời kỳ Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra cái bàn tính, rất tiện lợi cho việc tính toán.

b)
Thiên văn và phép làm lịch.

Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn. Đến thời Thương, trong tài liệu ghi bằng chữ giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực. Đó là những tài liệu sớm nhất thế giới về mặt này. Trong sách Xuân thu cũng có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác. Sách Xuân Thucòn chép năm 613 TCN “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là sao chổi Halây được ghi chép sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người ta biết được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần.

Thiên Ngũ hành chí sách Hán thư thì chép ngày Ất Mùi, tháng 3 năm 28 TCN, “Mặt Trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa Mặt Trời”. Đó cũng là tài liệu sớm nhất ghi chép về điểm đen trong Mặt Trời.

Nhà thiên văn học nổi tiếng nhất Trung Quốc là Trương Hành (78-139). Ông đã biết ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, lần đầu tiên giải thích đúng đắn rằng nguyệt thực là do Mặt Trăng nấp sau bóng của Trái Đất. Tác phẩm thiên văn học của ông nhan đề là “Linh hiến”, trong đó ông đã tổng kết những tri thức về thiên văn học lúc bấy giờ. Trong “Linh hiến”, ông đã nêu ra những nhận thức đúng đắn như vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa.

Ông còn cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, mà trái đất thì như lòng đỏ. Một vòng của bầu trời là 365° 1/4, một nửa ở trên Trái Đất, một nửa ở dưới Trái Đất. Căn cứ theo suy nghĩ ấy của mình, ông làm một mô hình thiên thể dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” còn gọi là “hồn thiên ghi” khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên đó cũng di chuyển giống như tình hình thực ngoài bầu trời.

Trương Hành còn có nhiều hiểu biết về địa lý, địa chất học. Ông chế tạo được một dụng cụ đo động đất gọi là “địa động nghi” có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất.

Nhờ sớm có những hiểu biết về thiên văn nên từ sớm Trung Quốc đã có lịch.

Theo truyền thuyết, Hoàng Đế đã sai Dung Thành đặt ra lịch, thời Chuyên Húc sửa lại thành lịch mới, một năm chia thành 12 tháng. Đường Nghiêu lại sai hai họ Hy, Hòa sửa lại lịch một lần nữa. Đến đời Hạ lại sửa lại lịch của Nghiêu. Lịch đời Hạ lấy tháng giêng âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm. Đến đời Thương, Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Loại lịch này, một năm chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để cho khớp với vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, người đời Thương đã biết thêm vào một tháng nhuận. Lúc đầu cứ 3 năm thêm một tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng nhuận, về sau đến giữa thời Xuân Thu, cứ 19 năm thì thêm 7 tháng nhuận.

Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc gà gáy là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Thời Chu lấy tháng 11 âm lịch ngày nay làm tháng đầu năm và quy định lúc nửa đêm là lúc bắt đầu ngày đầu năm. Đời Tần và đầu đời Hán đã từng lấy tháng 10 âm lịch làm tháng đầu năm.

Năm Thái sơ thứ nhất thời Hán Vũ đế (104 TCN) Trung Quốc đổi dùng một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái sơ. Lịch này lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đầu năm, từ đó loại lịch này về cơ bản được dùng cho đến ngày nay. Từ thời Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết chia một năm thành 4 mùa, 4 mùa có 8 tiết là Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia một năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí còn 12 tiết khác gọi là tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, nếu tháng nào không có trung khí thì thành tháng nhuận. Từ đó việc bố trí tháng nhuận đã có quy luật, không tùy tiện như trước nữa.

Người Trung Quốc ngày xưa chia một ngày đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi (Tí, Sửu...) để đặt tên giờ. Mỗi giờ chia thành 8 khắc.

Để đo thời gian, đầu tiên, người Trung Quốc dùng một cái cọc gọi là “khuê” để đo bóng mặt trời, do đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí làm cho cách tính lịch càng chính xác. Sau đó, người Trung Quốc lại dùng cái “nhật quỹ”. Đó là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96 khấc, đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam. Khi mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt đĩa có khắc giờ.

Đến khoảng đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra “lậu hồ” (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì. Để việc đo thời gian được chi ly hơn, về sau người ta dùng một hệ thống bốn năm bình xếp thành nhiều bậc. Nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình dưới. Trong bình dưới cùng có một cái phao có gắn một thanh tre nhỏ trên đó có khắc giờ. Nước trong bình dâng lên thì thanh tre chỉ giờ cũng dâng lên cao hơn miệng bình, có thể biết được giờ khắc. Cái bình này thường làm bằng đồng nên dụng cụ đo thời gian này gọi là “đồng hồ trích lậu” (cái bình bằng đồng rò nước). Đến đầu thế kỷ XVII, đồng hồ của phương Tây truyền vào Trung Quốc, từ đó loại “đồng hồ nước” mới không dùng nữa.

c)
Y dược học.

Nền y dược học Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời và vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay không những ở Trung Quốc mà cả trên thế giới.

Từ thời Chiến quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là Hoàng đế nội kinh, trong đó đã nêu ra những vấn đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm mống phát sinh” của bệnh.

Đến cuối thời Đông Hán, kết hợp những thành tựu y học đời trước với những kinh nghiệm của mình, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “Thương hàn tạp bệnh luận” gồm hai phần: “Thương hàn luận” và “Kim quỹ ngọc hàm kinh”. Cả hai phần này nội dung tương tự như nhau, chủ yếu nói về cách chữa bệnh thương hàn. Đến thời Bắc Tống, qua hiệu đính, sách này tách thành hai tác phẩm. Đến nay, sách này vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Quốc.

Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến quốc. Ông vốn tên là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, đi nhiều nơi để hành nghề y, ở nước Triệu thì làm thầy thuốc phụ khoa, đến nước Chu thì làm thầy thuốc chữa tai mắt mũi, đến nước Tấn thì làm thầy thuốc chữa bệnh cho trẻ em. Ở nước Tần ông bị quan thái y của vua Tần ghen ghét nên bị ra lệnh giết chết. Về sau, ông được tôn sùng là người khởi xướng của ngành mạch học ở Trung Quốc.

Từ Hán về sau ở Trung Quốc càng có nhiều thầy thuốc giỏi, trong đó nổi tiếng nhất là Hoa Đà (? -208). Ông là một thầy thuốc đa năng, giỏi về các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, song có sở trường nhất là khoa ngoại. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân, mổ xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, bốn năm ngày sau là khỏi, trong vòng một tháng thì bình thường trở lại.

Hoa Đà chủ trương muốn không có bệnh tật thì phải luyện tập thân thể để huyết mạch được lưu thông, giống như cái trục cánh cửa sở dĩ không mục là vì chuyển động luôn. Chính ông đã soạn ra một bài thể dục gọi là “ngũ cầm hý” (trò chơi của 5 loại muông thú), trong đó bắt chước các động tác của 5 loài động vật là hổ, hươu, gấu, vượn và chim. Về sau, vì không chịu làm thầy thuốc riêng của Tào Tháo nên bị Tào Tháo giết chết.

Nhà y dược học nổi tiếng thời Minh là Lý Thời Trân (15181593). Ông xuất thân từ một gia đình nhiều đời làm thầy thuốc. Ngoài việc chữa bệnh, ông bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu các cây thuốc, do đó đã soạn được một bộ sách thuốc nhan đề là “Bản thảo cương mục”. Trong tác phẩm này, ông đã ghi chép 1892 loại cây thuốc, đã phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây thuốc đó. Vì vậy, sách này không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng.

Ngoài ra, các mặt khác như địa lý, nông học... cũng có
những thành tựu rất lớn.

( Còn Tiếp )

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
5. Bốn phát minh lớn về kỹ thuật
Thời Trung đại, Trung Quốc có bốn phát minh rất quan trọng, đó là giấy, kỹ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam.

a) Kỹ thuật làm giấy

Mãi đến thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II TCN, người Trung Quốc đã phát minh ra phương pháp dùng xơ gai để chế tạo giấy. Ngày nay ở nhiều nơi tại Trung Quốc đã phát hiện được giấy làm từ thời Tây Hán. Tuy nhiên giấy của thời kỳ này còn xấu, mặt không phẳng, khó viết, nên chủ yếu là dùng để gói.

Đến thời Đông Hán, năm 105, một viên quan hoạn tên là Thái Luân đã dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách... làm nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, do đó đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó giấy được dùng để viết một cách phổ biến thay thế cho các vật liệu được dùng trước đó. Do công lao ấy, năm 114, Thái Luân được vua Đông Hán phong tước “Long Đình hầu”. Nhân dân thì gọi giấy do ông chế tạo là “Giấy Thái hầu” và tôn ông làm tổ sư của nghề làm giấy.

Vào khoảng thế kỷ III nghề làm giấy truyền sang Việt Nam, thế kỷ IV truyền sang Triều Tiên, thế kỷ V truyền sang Nhật Bản, thế kỷ VII truyền sang Ấn Độ.

Giữa thế kỷ VIII, do cuộc chiến tranh giữa nhà Đường và Arập, kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc truyền sang Arập. Năm 1150, người Arập lại truyền nghề làm giấy sang Tây Ban Nha. Sau đó, nghề làm giấy lần lượt truyền sang Ý (1276), Đức (1320), Hà Lan (1323), Anh (1460). Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papirut ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu... đều bị giấy thay thế.

b) Kỹ thuật in

Kỹ thuật in bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có trước từ đời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma.

Hiện chưa xác minh được kỹ thuật in bắt đầu ra đời từ bao giờ, nhưng điều chắc chắn là đến giữa thế kỷ VII (đầu đời Đường), kỹ thuật in đã xuất hiện. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn tượng Phổ Hiền để phân phát bốn phương. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704-751. Đây là ấn phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được.

Kỹ thuật in khi mới ra đời là in bằng ván khắc. Đây là một phát minh rất quan trọng giúp người ta có thể in nhiều bản trong một thời gian ngắn, công nghệ khắc in đơn giản, ít tốn, vì vậy cách in bằng ván khắc này đã được sử dụng rất lâu dài. Tuy vậy, cách in này cũng có mặt chưa được tiện lợi lắm vì nếu không cần in nữa thì ván khắc sẽ vô dụng.

Để khắc phục nhược điểm đó, đến thập kỷ 40 của thế kỷ XI, một người dân thường tên là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung. Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có sáp, xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in.

Phát minh của Tất Thăng tuy là một tiến bộ nhảy vọt của nghề in nhưng vẫn còn một số nhược điểm như chữ hay mòn, khó tô mực, chữ không được sắc nét. Để khắc phục nhược điểm đó, từ thế kỷ XI, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả. Đến thời Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ. Sau đó người ta còn dùng chữ rời bằng thiếc, đồng, chì, nhưng chữ rời bằng kim loại khó tô mực nên không được sử dụng rộng rãi.

Từ đời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu. Cuối thế kỷ XIV, ở Đức đã biết dùng phương pháp in bằng ván khắc để in tranh ảnh tôn giáo, kinh thánh và sách ngữ pháp. Năm 1448, Gutenbe (Gutenberg) người Đức dùng chữ rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh. Việc đó đã đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.

c) Thuốc súng

Thuốc súng là một phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan thuộc phái Đạo gia. Vốn là, đến đời Đường, Đạo giáo rất thịnh hành. Phái đạo gia tin rằng, người ta có thể luyện được thuốc trường sinh bất lão hoặc luyện được vàng, do đó, thuật luyện đan rất phát triển. Nguyên liệu mà người luyện đan sử dụng là diêm tiêu, lưu huỳnh và than gỗ. Trong quá trình luyện thuốc tiên thường xảy ra các vụ cháy làm bỏng tay, bỏng mặt, cháy nhà... và thế là họ đã tình cờ phát minh ra thuốc súng.

Đến đầu thế kỷ X, thuốc súng bắt đầu được dùng để làm vũ khí. Những vũ khí đầu tiên này được gọi là tên lửa, cầu lửa, quạ lửa, pháo, đạn bay v.v...; tác dụng của chúng chỉ là để đốt doanh trại của đối phương mà thôi.

Đến đời Tống, vũ khí làm bằng thuốc súng không ngừng được cải tiến. Trong cuộc chiến tranh Tống - Kim, quân Tống đã dùng một loại vũ khí gọi là “chấn thiên lôi”, tiếng nổ to như sấm, sức nóng tỏa ra hơn nửa mẫu đất, người và da bò nát vụn không còn dấu vết.

Năm 1132, Trung Quốc đã phát minh ra loại vũ khí hình ống gọi là “hỏa thương”. Lúc đầu hỏa thương làm bằng ống tre to, phía trong nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa sẽ phun ra thiêu cháy quân địch.

Vào thế kỷ XIII, trong quá trình tấn công Trung Quốc, người Mông Cổ đã học tập được cách làm thuốc súng của Trung Quốc. Sau đó, người Mông Cổ chinh phục Tây Á, do đó đã truyền thuốc súng sang Arập. Người Arập lại truyền thuốc súng và súng vào châu Âu qua con đường Tây Ban Nha.

d) Kim chỉ nam

Từ thế kỷ III TCN, người Trung Quốc đã biết được từ tính và tính chỉ hướng của đá nam châm. Lúc bấy giờ Trung Quốc phát minh ra một dụng cụ chỉ hướng gọi là “tư nam”. Tư nam làm bằng đá thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Như vậy tư nam chính là tổ tiên của kim chỉ nam. Tuy nhiên, tư nam còn có nhiều hạn chế như khó mài, nặng, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được chính xác nên chưa được áp dụng rộng rãi.

Đến đời Tống, các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính, rồi dùng kim đó để làm la bàn. La bàn lúc đầu còn rất thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm sợi bấc đèn rồi thả nổi trên bát nước gọi là “thủy la bàn”, hoặc treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.

La bàn được các thầy phong thủy sử dụng đầu tiên để xem hướng đất. Đến khoảng cuối thời Bắc Tống, la bàn được sử dụng trong việc đi biển. Khoảng nửa sau thế kỷ XII, la bàn do đường biển truyền sang Arập rồi truyền sang châu Âu. Người châu Âu cải tiến thành “la bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI la bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc.

( Còn Tiếp )

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
6. Tư tưởng và tôn giáo

Lịch sử tư tưởng Trung Quốc rất phong phú. Từ rất sớm, người Trung Quốc đã đưa ra những quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chiến tranh loạn lạc xảy ra triền miên, các nhà tư tưởng Trung Quốc quan tâm trước hết đến việc tìm kiếm đường lối tối ưu bảo đảm cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an cư lạc nghiệp. Học thuyết của các nhà tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các trường phái tư tưởng của Trung Quốc thời cổ trung đại, trong đó quan trọng nhất là các phái Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia.

a) Âm dương - Bát quái - Ngũ hành - Âm dương gia

Âm dương, bát quái, ngũ hành là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải thích nguồn gốc của vạn vật.

Từ những nhận thức rút ra được trong cuộc sống thực tế, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, trong vũ trụ có hai yếu tố cơ bản là âm và dương. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động, rắn rỏi... Âm thì có các tính chất ngược lại như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng v.v... Âm và dương tác động vào nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do sự không điều hòa của hai lực lượng ấy. Âm dương được gọi là lưỡng nghi.

Bát quái là 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. Các quẻ trong Bát quái được dùng những vạch liền (biểu tượng của dương) và vạch đứt (biểu tượng của âm) sắp xếp với nhau thành từng bộ ba để biểu thị.

Bát quái tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn: trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong Bát quái, hai quẻ càn, khôn là quan trọng nhất.

Bát quái còn tượng trưng cho quan hệ gia đình như Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly: con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoài: con gái út.

Tám quẻ Càn, Khôn..., mỗi quẻ đều có 3 vạch, gọi là những quẻ đơn. Tám quẻ đơn ấy lại phối hợp với nhau thành 64 quẻ kép (quẻ 6 vạch). Sự phối hợp bằng cách chồng 2 quẻ đơn với nhau ấy, nếu tạo ra được sự giao cảm giữa 2 quẻ trên dưới thì thành quẻ tốt (cát), nếu không tạo ra được sự giao cảm thì thành quẻ xấu (hung). Ví dụ: quẻ Thái được tạo thành bởi quẻ Khôn ở trên quẻ Càn, tức là đất ở trên trời, do đó khí dương phải thăng lên, khí âm phải hạ xuống. Hai khí giao cảm với nhau làm thay đổi vị trí, dẫn đến sự phát triển. Như vậy, quẻ Thái là quẻ tốt. Ngược lại, quẻ Bĩ được tạo thành bởi quẻ Càn trên quẻ Khôn, như vậy là trời đất đúng vị trí do dó không tạo ra được sự giao cảm nên không dẫn đến sự phát triển. Bởi vậy quẻ Bĩ là quẻ xấu.

Với quan niệm 8 yếu tố vật chất như nước, lửa, núi, hồ v.v... tạo nên vũ trụ, đồng thời chú ý đến sự phát triển của sự vật, thuyết bát quái là một tư tưởng triết học mang tính chất duy vật và biện chứng, nhưng những yếu tố tích cực ấy rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung cho các quẻ như Ly là lửa, là con gái đầu hoàn toàn áp đặt, không có cơ sở khoa học. Chính vì vậy thuyết bát quái đã trở thành cơ sở tốt cho việc bói toán.

Ngũ hành là 5 tác nhân tạo nên sự vật, gồm: Mộc (gỗ), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (không khí), Thủy (nước).

Âm dương gia là trường phái tư tưởng ra đời vào thời Chiến Quốc. Trường phái này dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành để giải thích sự biến hóa trong giới tự nhiên và sự phát triển của xã hội.

Để giải thích sự biến đổi của sự vật, phái âm dương gia nêu ra quy luật về mối quan hệ tương sinh tương thắng của Ngũ hành. Tương sinh là sinh ra nhau, cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh thủy, Thủy sinh Mộc. Tương thắng là chống nhau, cụ thể là: Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc.

Ngũ hành lại ứng với nhiều thứ khác như bốn mùa, bốn phương, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ âm, 10 can và các con số v.v... ví dụ:

Mộc: mùa Xuân, phương Đông, màu xanh, vị chua...

Hỏa: mùa Hạ, phương Nam, màu đỏ, vị đắng...

Thổ: Giữa Hạ và Thu, trung ương, màu vàng, vị ngọt...

Kim: mùa Thu, phương Tây, màu trắng, vị cay...

Thủy: mùa Đông, phương Bắc, màu đen, vị mặn...

Sự biến chuyển của bốn mùa là tuân theo quy luật Ngũ hành tương sinh tức là Mộc sinh Hỏa thì Xuân sinh Hạ, Kim sinh Thủy thì Thu sinh Đông. Do ngũ hành có 5 thứ mà mùa chỉ có 4 mùa nên người ta đặt Thổ vào giữa Hạ và Thu tạo thành cái cầu nối giữa Hỏa và Kim để cho phù hợp với quy luật Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Tuy nhiên không phải tất cả những gì ứng với Ngũ hành đều có thể dùng quy luật đó để giải thích, ví dụ không thể nói phương Đông sinh ra phương Nam, màu xanh sinh ra màu đỏ, vị đắng sinh ra vị ngọt v.v...

Còn sự khác biệt về khí hậu và thời tiết của bốn mùa thì phái âm dương gia lại dùng tác động của âm dương để giải thích. Theo họ, về mùa Xuân, khí trời (dương) hạ xuống khí đất (âm) dâng lên, trời đất hòa đồng, do đó cây cối đâm chồi nảy lộc. Còn mùa Đông, khí trời dâng lên, khí đất hạ xuống, trời đất không hòa đồng nên bị ngăn cách, không phát triển được.

Nhân vật tiêu biểu của phái Âm dương gia là Trâu Diễn người nước Tề. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Trâu Diễn là thuyết “Ngũ đức chuyển dịch”.

Theo thuyết này, mỗi triều đại trong lịch sử Trung Quốc có một loại đức chi phối. Cái đức ấy được biểu hiện bằng Ngũ hành và vận động theo quy luật tương thắng của Ngũ hành. Phái Âm dương quả quyết rằng, trước khi thành lập một triều đại mới, trời cho một triệu trứng để biết được triều đại đó thuộc đức gì. Thời Hoàng Đế, trời cho thấy trước con dế trũi, dế trũi màu vàng, nên đức của Hoàng Đế là đức Thổ. Thời Hạ Vũ, trời cho thấy trước triệu chứng về thu đông mà cây cối không rụng lá, cây cối còn lá thì màu xanh nên đức của triều Hạ là Mộc. Thời Thương trời cho thấy trước có lưỡi gươm bằng đồng sinh ra ở trong nước nên đức của triều Thương là Kim. Thời Chu trời cho thấy trước chim hỏa xích ngậm sách đỏ đến chết trên bệ cúng thần đất nên đức của triều Chu là Hỏa. Vì vậy, triều Hạ đã thay thời Hoàng Đế, triều Thương thay triều Hạ, triều Chu thay triều Thương.

Đến thời Tây Hán, thuyết Âm dương Ngũ hành còn được Đổng Trọng Thư bổ sung, do đó càng có ảnh hưởng lâu dài trong tư tưởng triết học Trung Quốc và kể cả Việt Nam chúng ta.

b) Nho gia

Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử (thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã phát triển học thuyết này làm cho Nho học ngày càng thêm hoàn chỉnh.

-
Khổng Tử (551-479 TCN)

Khổng Tử tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (ở tỉnh Sơn Đông ngày nay). Ông là một nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử có làm một số chức quan ở nước Lỗ trong mấy năm, nhưng phần lớn thời gian trong cuộc đời của ông là đi đến nhiều nước để trình bày chủ trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương truyền, số học trò của Khổng Tử có đến 3.000 người, trong đó có người thành đạt, sử sách thường gọi là thất thập nhị hiền.

Đồng thời với việc dạy học, Khổng Tử còn chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu,trong đó sách Nhạc bị thất truyền, 5 quyển còn lại về sau trở thành 5 tác phẩm kinh điển của Nho gia được gọi chung là Ngũ kinh.

Những lời nói của Khổng Tử và những câu hỏi của học trò của ông được chép lại thành sách Luận ngữ. Đó là tác phẩm chủ yếu để tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử.

Tư tưởng của Khổng Tử gồm 4 mặt là triết học, đạo đức, chính trị và giáo dục.

Về mặt triết học, Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, do đó ông đã thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời đất quỷ thần. Một mặt, ông cho rằng trời chỉ là giới tự nhiên, trong đó bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng; nhưng mặt khác, ông lại cho rằng trời là một lực lượng có thể chi phối số phận và hoạt động của con người, do đó con người phải sợ mệnh trời.

Đối với quỷ thần, một mặt Khổng Tử tỏ thái độ hoài nghi khi nói rằng: “chưa biết được việc thờ người, làm sao biết được việc thờ quỷ thần”, “chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết”; nhưng mặt khác ông lại rất coi trọng việc cúng tế, tang ma và ông cho rằng “tế thần xem như có thần”.

Về mặt đạo đức, Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội.

Nội dung của quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm rất nhiều mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng... nhưng trong đó quan trọng hơn cả là “nhân”.

Nhân, một mặt là lòng thương người, “điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt”. Đồng thời đối với bản thân thì phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, nếu “không hợp với lễ thì không nhìn, không hợp với lễ thì không nghe, không hợp với lễ thì không nói, không hợp với lễ thì không làm”. Ngoài ra, nhân còn bao gồm các nội dung khác như cung kính, nghiêm túc, thành thật, dũng cảm, rộng lượng, cần cù v.v... Như vậy, nhân là một phạm trù rất rộng, hầu như đồng nghĩa với đạo đức.

Bên cạnh nhân, Khổng Tử còn rất chú trọng đến “lễ”, nhưng lễ theo Khổng Tử không phải là một tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập mà là một vấn đề luôn luôn gắn liền với nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ, nhân là gốc, là nội dung, còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ: “Trong các lễ, xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm, trong lễ tang, đầy đủ mọi nghi thức chẳng bằng thương xót”. Do đó “người không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được?” vì “nói về lễ không phải chỉ có lụa ngọc mà thôi”.

Lễ không những chỉ là biểu hiện của nhân mà lễ còn có thể điều chỉnh đức nhân cho đúng mực. Khổng Tử nói: “cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết lễ thì làm loạn, thẳng thắn mà không biết lễ thì làm phật ý người khác”.

Ngoài “nhân” và “lễ”, Khổng Tử cũng đã nhắc đến “trí”, “tín” nhưng ông bàn về các nội dung này chưa nhiều.

Về đường lối trị nước, Khổng Tử chủ trương phải dựa vào đạo đức. Ông nói: “cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”.

Nội dung của đức trị, theo Khổng Tử gồm ba điều, đó là làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành.

Một hôm, Khổng Tử đi đến nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ông, Khổng Tử nói: “Thật là đông đúc!” Nhiễm Hữu hỏi: “Dân đông rồi thì phải làm gì?” Đáp: “Giáo dục họ”.

Biện pháp để thi hành đường lối đức trị là “phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ tín, tiết kiệm trong công việc chi dùng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp lý”.

Bên cạnh những chủ trương mang ít nhiều tính chất đổi mới đó, Khổng Tử cũng có mặt bảo thủ. Khổng Tử chủ trương những quy chế, lễ nghi được đặt ra từ thời Tây Chu là không được thay đổi.

Về giáo dục, Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng. Ông là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích của giáo dục là uốn nắn nhân cách và bồi dưỡng nhân tài, vì vậy phương châm giáo dục quan trọng của Khổng Tử là học lễ trước học văn sau.

Ông nói: “Các trò vào phải hiếu với cha mẹ, ra phải kính mến các anh, nói năng phải thận trọng và thành thực, yêu thương mọi người và gần gũi người có lòng nhân. Sau khi thực hành đầy đủ các điều nói trên thì dành sức lực để học văn hóa”.

Phương châm giáo dục thứ hai của Khổng Tử là học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế.

Trong quá trình dạy học, Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy. Ông chú ý dẫn dắt học trò từng bước một để họ có thể suy nghĩ rút ra kết luận. Ông còn tùy theo trình độ, tính cách từng học trò mà dùng những phương pháp dạy khác nhau.

Đối với học trò, ông yêu cầu họ trước hết phải thiết tha mong muốn hiểu biết, phải khiêm tốn, phải tranh thủ mọi điều kiện để học tập. Đồng thời ông còn khuyên học trò phải đánh giá đúng khả năng của mình, “biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như vậy mới là biết”.

Tóm lại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn và là nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ đại. Tuy vậy, trong thời đại của ông (thời Xuân Thu), chủ trương chính trị của ông chưa được các vua chư hầu chấp nhận.

- Mạnh Tử (371-289 TCN)

Mạnh Tử người nước Trâu (ở Sơn Đông ngày nay) là học trò của Tử Tư (tức Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước.

Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được ngoại giới.

Về đạo đức, tư tưởng Mạnh Tử có hai điểm mới:

Một là, Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi con người mới sinh ra và được biểu hiện ở bốn mặt là nhân, nghĩa, lễ, trí. Trên cơ sở những biểu hiện đạo đức bẩm sinh ấy, nếu được giáo dục tốt thì sẽ đạt đến chỗ cực thiện. Ngược lại, nếu không được giáo dục thì bản tính tốt sẽ mất đi và tiêm nhiễm tính xấu.

Hai là, trong bốn biểu hiện đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý đến lợi. Nếu từ vua quan đến dân thường đều tranh nhau lợi thì nước sẽ nguy. Trái lại, chưa từng thấy người có nhân lại bỏ rơi người thân, chưa từng thấy người có nghĩa lại quên vua.

Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Tương tự như ý kiến của Khổng Tử, Mạnh Tử giải thích rằng sở dĩ phải thi hành đường lối nhân chính tức là dùng đạo đức để trị nước là vì “dùng sức mạnh để bắt người ta phục thì không phải là người ta phục từ trong lòng mà vì sức không đủ. Lấy đức để làm cho người ta phục thì trong lòng người ta vui và thực sự là phục vậy”.

Điểm nổi bật nhất trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. Ông nói: “Dân quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ.” Quý dân là phải chăm lo đến đời sống của dân tức là phải đảm bảo ruộng đất cày cấy cho dân, phải thuế nhẹ, không được huy động nhân dân đi phu trong các vụ mùa màng để nhân dân được no đủ. Đồng thời phải chú ý bảo vệ tính mạng của dân tức là không được gây chiến tranh. Kẻ nào gây chiến tranh thì phải xử bằng cực hình.

Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của Mạnh Tử là thống nhất. Mục đích của chủ trương này là muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn Trung Quốc được thái bình; vì vậy, biện pháp để thực hiện việc thống nhất không phải là chiến tranh mà là nhân chính. Theo Mạnh Tử, nếu có ông vua nào không thích giết người mà thi hành nhân chính thì mọi tầng lớp trong xã hội đều muốn được sống và làm việc trong đất nước của ông vua ấy, do đó ông vua ấy có thể thống nhất được thiên hạ.

Bên cạnh việc chăm lo đời sống của nhân dân, Mạnh Tử chủ trương phải chú ý mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn mà trước hết là để dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, lễ.

Như vậy, trong đường lối trị nước của Mạnh Tử có những đề xuất rất đáng trân trọng, nhưng thời Chiến Quốc là thời kỳ đang diễn ra cuộc chiến tranh để thôn tính lẫn nhau nên chủ trương của Mạnh Tử bị coi là viển vông không sát thực tế nên cũng không được các vua chấp nhận.

- Đổng Trọng Thư (179-104 TCN)

Sau khi nước Tần thống nhất Trung Quốc, triều Tần tiếp tục sử dụng tư tưởng Pháp gia làm đường lối trị nước, vì vậy triều Tần sớm bị lật đổ.

Năm 136 TCN, chấp nhận ý kiến của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” (bỏ các phái khác đề cao một mình phái Nho). Từ đó Nho gia bắt đầu trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc.

Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển thêm một bước, nhất là về tư tưởng triết học và đạo đức.

Về triết học, Đổng Trọng Thư có hai điểm mới đó là thuyết “thiên nhân cảm ứng” tức là quan hệ tác động qua lại giữa trời và người, đồng thời dùng âm dương ngũ hành để giải thích mọi sự vật.

Đổng Trọng Thư khẳng định: “Trời là thủy tổ của muôn vật cho nên bao trùm tất cả không có ngoại lệ”. Trong muôn vật, do tinh túy của trời đất sinh ra, không gì quý bằng con người. Giữa trời và người lại có mối quan hệ qua lại. Khi quốc gia sắp bị hư hỏng về sự mất đạo, trời đem tai biến để trách bảo. Đã trách bảo mà người không biết tự xét, trời đem quái dị để làm cho sợ hãi. Thế mà người vẫn không biết đổi thì sự bại vong mới đến”. Ngược lại, sự cố gắng hết sức của con người cũng có thể tác động đến trời.

Đồng thời Đổng Trọng Thư còn dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông do đó ông cũng phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước.

Ông cho rằng: “Giữa trời đất, có hai khí âm dương bao trùm lấy con người giống như nước thường ngập con cá, chỗ khác với nước là có thể thấy và không thể thấy mà thôi”. Trong hai yếu tố âm dương, Đổng Trọng Thư quyết đoán rằng trời trọng dương, không trọng âm.

Đối với ngũ hành, Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật là liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau thì thắng nhau.

Thứ tự của ngũ hành là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Do vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Đồng thời, Mộc thắng Thổ, Hỏa thắng Kim, Thổ thắng Thủy, Kim thắng Mộc, Thủy thắng Hỏa.

Đổng Trọng Thư còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm dương ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận của con người.

Về đạo đức, đóng góp quan trọng của Đổng Trọng Thư là việc nêu ra các phạm trù tam cương, ngũ thường, lục kỷ.

Tam cương là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong ba quan hệ ấy, bề tôi, con và vợ phải phục tùng vua, cha, chồng. Hơn nữa, vua, cha, chồng là dương, bề tôi, con, vợ là âm, mà trời trọng dương không trọng âm, cho nên không những về mặt quan hệ xã hội mà theo ý trời, bề tôi, con, vợ đều phải ở địa vị phục tùng.

Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những nội dung này đã có trong tư tưởng Khổng, Mạnh nhưng đến Đổng Trọng Thư mới ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường nhất của người quân tử.

Lục kỷ là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, ngang hàng với mẹ, với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.

Tam cương ngũ thường do Đổng Trọng Thư nêu ra đã trở thành những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến ở Trung Quốc.

Về chính trị, Đổng Trọng Thư không có chủ trương gì mới mà chỉ cụ thể hóa tư tưởng của Khổng Mạnh trong hoàn cảnh lịch sử mới như hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết người, giảm nhẹ thuế khóa, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục.

Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho gia đã được hoàn chỉnh. Đến thời kỳ này tư tưởng Nho gia rất được đề cao và thường được gọi là Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học.

- Sự phát triển của Nho học đời Tống.

Từ đời Hán về sau, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ yếu của Trung Quốc. Cũng từ đời Hán, Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời. Từ đó, có nhiều nhà Nho cho rằng triết học của Nho gia quá đơn giản, do đó đã học tập một số yếu tố của hai học thuyết kia, đồng thời khai thác các thuyết âm dương ngũ hành... để bổ sung cho triết lý Nho gia thêm phần sâu sắc.

Điểm chung của các nhà Nho đời Tống là muốn giải thích nguồn gốc của vũ trụ và giải thích mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất mà họ gọi là lý và khí. Nói chung họ đều cho rằng lý có trước khí, vì vậy họ được gọi chung là phái lý học.

Người đầu tiên khởi xướng lý học là Chu Đôn Di (1017-1073). Ông cho rằng nguồn gốc của Vũ trụ là thái cực, cũng gọi là vô cực. Thái cực có hai thể: động và tĩnh. Động sinh ra dương, động cực rồi lại tĩnh. Tĩnh thì sinh ra âm, tĩnh cực rồi lại động.

Âm dương tác động với nhau mà sinh ra ngũ hành rồi sinh ra vạn vật. Ông còn thể hiện ý kiến của mình trong một biểu đồ nên tác phẩm của ông gọi là “Thái cực đồ thuyết”.

Đồng thời với Chu Đôn Di còn có Thiệu Ung (1011-1077) cũng cho rằng thái cực là nguồn gốc của Vũ trụ. Tiếp đó, thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng (thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm; hoặc Xuân, Hạ, Thu, Đông; hoặc Thủy, Hỏa, Mộc, Kim), tứ tượng sinh bát quái, bát quái tạo thành 64 quẻ, 64 quẻ ấy bao gồm tất cả mọi quy luật của sự vật.

Kipkis.com-Lich-su-van-minh-the-gioi-21.jpeg

Sau Chu Đôn Di và Thiệu Ung, thời Tống còn có nhiều nhà lý học nổi tiếng như hai anh em Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107), Chu Hy (1130-1200) v.v... Ngoài việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa lý và khí, Trình Di và Chu Hy còn nêu ra phương pháp nhận thức “cách vật trí tri” nghĩa là phải thông qua việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu được cái lý của sự vật tức là cái khái niệm trừu tượng. Hai ông còn tách hai thiên Đại HọcTrung Dung trong sách lễ ký thành hai sách riêng. Từ đó, Đại Học, Trung Dung được gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành bộ kinh điển thứ hai gọi là Tứ thư.

Do quá tôn sùng và lĩnh hội một cách máy móc các ý kiến của những người sáng lập Nho giáo nên Nho giáo đời Tống đã trở nên bảo thủ và khắt khe hơn trước.

Tóm lại, với tư cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2.000 năm, Nho giáo đã đóng góp quan trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dưỡng đạo đức, phát triển văn hóa giáo dục. Nhưng đến cuối xã hội phong kiến, do mặt phục cổ, bảo thủ của nó, Nho gia đã có trách nhiệm rất lớn trong việc làm cho xã hội Trung Quốc bị trì trệ, không nắm bắt kịp trào lưu văn minh trên thế giới.

( Còn Tiếp )

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
c) Đạo gia và Đạo giáo

- Đạo gia: Người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử.

Lão Tử: Về tên tuổi và thời đại của Lão Tử ngày nay không được biết rõ ràng. Có ý kiến cho rằng Lão Tử tức là Lão Đam, tên là Lý Nhĩ, người nước Sở, sống vào thời Xuân Thu. Ông có soạn một quyển sách gồm hai thiên nói về “đạo” và “đức” hơn 5.000 chữ. Đó là cốt lõi của quyển Lão Tử (về sau còn gọi là Đạo đức kinh).

Về mặt triết học, Lão Tử cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là “đạo”. Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để duy trì sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là “đức”. Như vậy đạo đức ở đây là một phạm trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù luân lý.

Đồng thời, Lão Tử đã nhận thức được các mặt đối lập trong thế giới khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, dài và ngắn cùng so sánh, cao và thấp cùng làm rõ sự khác nhau.

Như vậy, tư tưởng triết học của Lão Tử vừa có yếu tố duy vật vừa có yếu tố biện chứng thô sơ.

Về cách quản lý đất nước, Lão Tử chủ trương vô vi, nước nhỏ, dân ít và ngu dân. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho xã hội được thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên quay lại thời kỳ vừa thoát thai khỏi xã hội nguyên thủy, không cần chữ viết, không cần vũ khí, thuyền xe. Còn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho “tâm hồn họ trống rỗng nhưng bụng họ thì no, chí của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh”. Như vậy họ sẽ không biết gì và không có ham muốn.

Trang Tử (khoảng 369-286 TCN) tên là Trang Chu, người nước Tống, sống vào thời Chiến Quốc.

Về mặt triết học, kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Trang Tử cũng cho rằng “đạo” là nguồn gốc của sự vật, trời đất, thần thánh. Đồng thời từ chỗ cho vạn vật đều do đạo sinh ra, ông đã đi đến chỗ phủ nhận tồn tại khách quan, cho rằng “trời đất và ta cùng sinh ra vạn vật với ta là một” mà “đã cho là một rồi thì còn nói cái này cái kia làm gì nữa”.

Mặt khác, Trang Tử đã biến những yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương đối, ngụy biện.

Trang Tử cho rằng chân lý khách quan là không có vì đứng từ các phía khác nhau mà xét sự vật thì sẽ đi đến những kết luận khác nhau. Do vậy, nếu cho là lớn thì vạn vật không có cái gì không lớn, nếu cho là nhỏ thì vạn vật không có cái gì không nhỏ...; nếu cho là đúng thì vạn vật không có cái gì không đúng, nếu cho là sai thì vạn vật không có cái gì không sai; nếu đứng ở phía tỉnh thì mộng là mộng, nếu đứng ở phía mộng thì tỉnh là mộng v.v...

Tư tưởng triết học của Trang Tử còn nhuốm màu sắc thần học khi ông nêu ra một con người lý tưởng gọi là “chân nhân”. Đó là con người đã đạt tới mức cao nhất của “đạo”, do đó khi ngủ không thấy chiêm bao, khi tỉnh không có lo âu, ăn không biết ngon, không biết sống là đáng vui, không biết chết là đáng ghét, nhất thế cũng không hối tiếc, đắc thắng cũng không vui mừng, lên cao không sợ, xuống nước không ướt, vào lửa không nóng.

Về chính trị, Trang Tử cũng chủ trương “vô vi” và tiến xa hơn Lão Tử, chủ trương đưa xã hội trở lại thời nguyên thủy, để nhân dân ở chung với chim muông, sống chung cùng vạn vật như vậy nhân dân sẽ chất phác mà chất phác thì bản tính của nhân dân còn nguyên vẹn.

Chủ trương chính trị của Lão Tử và Trang Tử đều trái với tiến trình lịch sử nên không được giai cấp thống trị đương thời chấp nhận, nhưng tư tưởng của họ đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo Giáo ở Trung Quốc sau này.

Các bài viết của Trang Tử và một số người thuộc phái Đạo gia đời sau được chép thành sách Trang Tử đến đời Đường được gọi là Nam Hoa kinh.

- Đạo giáo: Từ thời cổ đại, trong xã hội Trung Quốc đã tồn tại các hình thức mê tín như cúng tế quỷ thần, phù phép đồng bóng, bói toán, đặc biệt là tư tưởng tin vào thần tiên. Tương truyền rằng ở ngoài biển khơi có ba ngọn núi tên là Bồng Lai, Phương Trương và Doanh Châu. Người ta có thể đi thuyền ra các nơi đó gặp tiên để xin thuốc trường sinh bất tử. Đến thời Đông Hán, những hình thức mê tín ấy kết hợp với học thuyết Đạo gia đã dẫn đến sự ra đời của Đạo giáo.

Vị đạo sĩ được sử sách nói đến đầu tiên là Vu Cát, tác giả sách Thái Bình kinh sống vào giữa thế kỷ II. Nội dung của sách này gồm có âm dương, ngũ hành, phù phép, đồng bóng, ma quỷ. Đến cuối thế kỷ II, Đạo giáo chính thức ra đời với hai phái giáo: đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo.

Người truyền bá đạo Thái BìnhTrương Giác, ông lấy Thái Bình kinh làm kinh điển nên tôn giáo của ông được gọi như vậy. Đạo Thái Bình một mặt tuyên truyền việc trường sinh bất tử, dùng phù phép tàn hương nước lã để chữa bệnh; mặt khác đề xướng chủ nghĩa bình quân, chủ trương ai cũng phải lao động, có làm mới có ăn, phản đối bọn thống trị vơ vét tài sản, mà không cứu giúp nhân dân nghèo khổ.

Đạo Thái Bình đã được truyền bá trong phạm vi khá rộng, số tín đồ lên đến mấy trăm ngàn người. Năm 184, dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, tín đồ Đạo Thái Bình nổi dậy khởi nghĩa, lịch sử gọi là khởi nghĩa của quân khăn vàng, nhưng đã bị đàn áp đẫm máu, Đạo Thái Bình tan rã.

Đạo Năm Đấu Gạo do Trương Lăng thành lập ở Tứ Xuyên. Vì những người theo đạo phải nộp 5 đấu gạo nên gọi như vậy, lại vì Trương Lăng tự xưng là Thiên Sư nên còn gọi là đạo Thiên Sư.

Đạo Năm Đấu Gạo tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái thượng lão quân”, lấy sách Lão Tử làm kinh điển. Sau khi Trương Lăng chết, con là Trương Hoành, cháu là Trương Lỗ tiếp tục truyền đạo ở Tứ Xuyên, Trương Lỗ thành lập một chính quyền hợp nhất với tôn giáo, tự xưng là sư quân. Ở trong vùng kiểm soát của mình, đạo Năm Đấu Gạo thành lập các “nghĩa xá”, trong đó treo gạo thịt để cung cấp cho người đi đường ăn uống không phải trả tiền. Chính quyền của Trương Lỗ tồn tại được 30 năm, sau bị Tào Tháo đàn áp.

Đạo giáo chính thống: Sau khi đạo Thái Bình và đạo Năm Đấu Gạo bị đàn áp, Đạo giáo bắt đầu phân hóa: một bộ phận vẫn lưu truyền trong dân gian, còn một bộ phận khác thì biến thành Đạo giáo chính thống.

Những người có vai trò quan trọng trong việc cải biến các hình thức Đạo giáo đầu tiên thành Đạo giáo chính thống là Cát Hồng, Khấu Liêm Chi, Lục Tu Tĩnh... sống vào thời Tấn, Nam Bắc triều.

Cát Hồng (238-363) chủ trương kết hợp Đạo giáo với Phật giáo và Nho giáo lập thành Đạo Kim Đan của quý tộc.

Khấu Liêm Chi vốn là giáo đồ đạo Thiên Sư. Ông chủ trương bỏ các phù phép của đạo Năm Đấu Gạo, đặt ra các quy tắc mới lập nên đạo Thiên Sư mới gọi là đạo Bắc Thiên Sư.

Lục Tu Tĩnh kết hợp đạo Thiên Sư với đạo Kim Đan làm một đồng thời dựa vào nghi thức của Phật giáo để đặt ra nghi thức cho Đạo giáo. Tôn giáo của Lục Tu Tĩnh được gọi là đạo Nam Thiên Sư. Sự xuất hiện hai đạo phái Nam Bắc Thiên Sư đánh dấu sự hình thành của Đạo giáo chính thống.

Đối tượng thờ cúng của Đạo giáo chính thống là Lão Tử và các vị tiên.

Lão Tử được quan niệm là hóa thân của “đạo”, đã nhiều lần giáng sinh xuống cõi người. Đạo giáo lại cho rằng “đạo” đã sinh ra các tầng trời như Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh được gọi chung là Tam Thanh thiên. Lão Tử được suy tôn là “Thái thượng lão quân”, còn gọi là “Đạo đức thiên tôn” Ngự ở tầng Thái Thanh. Các vị tiên không những chỉ ở trên các tầng trời mà còn ở trong 36 động thiên và 72 phúc địa ở trên mặt đất.

Mục đích tu luyện của tín đồ đạo giáo là trở thành các vị tiên trường sinh bất tử. Phương pháp tu luyện để trở thành tiên là luyện khí công, nhịn ăn lương thực (tịnh cốc), luyện đan.

Luyện đan là luyện thuốc tiên nhưng thực tế thì các thứ thuốc đó được luyện từ một số khoáng chất rất độc vì vậy uống xong không những không được trường sinh bất tử mà nhiều người đã bị ngộ độc chết.

Đạo giáo đến thời Đường Tống được giai cấp thống trị nâng đỡ nên thế lực phát triển khá mạnh, nhưng từ Nguyên về sau thì ngày càng suy tàn. Tuy vậy Đạo giáo đã có những ảnh hưởng đáng kể đối với văn hóa Trung Quốc nhất là việc phát minh ra thuốc súng, phép dưỡng sinh và văn học nghệ thuật.

d) Pháp gia.

Pháp gia là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Phái này xuất hiện từ thời Xuân Thu mà người khởi xướng đầu tiên là Quản Trọng.

Quản Trọng (? - 645 TCN) là Tướng quốc của vua Hoàn Công nước Tề. Ông đã đề ra một số chính sách cải cách làm cho nước Tề trở nên hùng mạnh và được làm bá chủ một thời.

Tiếp đó, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, thuộc về phái pháp gia còn có nhiều người khác, trong đó tiêu biểu nhất là Thương Ưởng và Hàn Phi.

Thương Ưởng là người đã giúp Tần Hiếu Công cải cách làm cho nước Tần trở thành nước giàu mạnh nhất ở Trung Quốc thời Chiến Quốc, trên cơ sở đó hơn một thế kỷ sau đã đánh bại các nước khác, thống nhất toàn Trung Quốc.

Hàn Phi (280? - 233 TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của phái Pháp gia, nhưng ông có tật nói lắp không biện luận được nên đã tập trung sức lực để viết tác phẩm trình bày các luận thuyết của mình. Khi Tần đánh Hàn, vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ nước Tần. Lúc đầu Hàn Phi được vua Tần (tức Tần Thủy Hoàng sau này) tiếp đãi tử tế nhưng sau bị bạn cùng học là Lý Tư gièm pha nên bị hạ nhục và phải uống thuốc độc tự tử.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà Pháp gia đời trước, Hàn Phi cho rằng muốn trị nước tốt thì cần phải có 3 yếu tố: pháp, thế, thuật.

Sở dĩ dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là phương pháp có hiệu lực nhất là vì “dân vốn nhờn với lòng thương mà chỉ vâng theo uy lực”. Ông nêu một ví dụ: có một đứa con hư hỏng; cha mẹ, thầy giáo, làng xóm đều thương yêu, dạy dỗ bảo ban nó nhưng nó vẫn không thay đổi. Nhưng sau khi viên quan ở châu bộ cầm binh khí, thi hành pháp luật nhà nước lùng bắt kẻ xấu thì nó mới sợ hãi và sửa đổi tính nết.

Nhưng muốn “pháp” có thể thi hành được thì vua phải có “thế” tức là phải có đầy đủ uy quyền. Để chứng minh luận điểm của mình ông lấy ví dụ Khổng Tử là một người đầy đủ tài đức nhưng trong cả nước chỉ có 70 người theo ông. Còn Lỗ Ai Công là một ông vua vào loại kém mà nhân dân cả nước không có ai dám không thần phục. Đó là vì Lỗ Ai Công có thế lực, còn Khổng Tử chỉ có nhân nghĩa mà thôi.

Ngoài “pháp” và “thế” còn cần phải có “thuật” tức là phương pháp điều hành. Thuật bao gồm 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là phương pháp chọn quan lại: chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng dõi. Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công tác, làm tốt thì thưởng rất hậu, làm không tốt thì phạt rất nặng.

Còn về đường lối xây dựng đất nước, Hàn Phi chủ trương chỉ chú ý vào hai việc là sản xuất nông nghiệp và chiến đấu.

Hàn Phi nói: “... dân trong nước, mọi lời nói hợp với pháp luật, mọi việc làm dốc vào việc cày, cấy, kẻ dũng cảm dốc hết sức vào việc quân, do đó khi vô sự thì nước giàu, khi hữu sự thì binh mạnh. Đó là cái vốn của nghiệp vương, lại biết lợi dụng thời cơ của nước thì vượt ngũ đế, ngang tam vương tất là do pháp ấy”.

Còn văn hóa giáo dục thì không những không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà còn có hại cho xã hội.

Theo Hàn Phi nếu khuyến khích việc học tập thì sẽ có ít người chịu cày ruộng và chiến đấu, do đó nước sẽ nghèo. Hơn nữa, người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật sẽ rối loạn. “Bởi vậy, nước của vị vua sáng suốt không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời trước, dùng quan lại làm thầy giáo”.

Phải thừa nhận rằng phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. Chính vì thế, sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục thi hành đường lối này nên chỉ tồn tại được 15 năm thì sụp đổ.

Từ Hán về sau, tuy học thuyết Pháp gia không được chính thức công nhận, nhưng thực tế thì nhiều yếu tố của phái này vẫn được vận dụng để kết hợp với Nho gia trong việc trị nước.

e) Mặc gia

Người sáng lập phái Mặc gia là Mặc Tử (khoảng 468-376 TCN), người nước Lỗ. Về chủ trương chính trị, hạt nhân của tư tưởng Mặc Tử là thuyết “kiêm ái” (thương yêu mọi người).

Ông cho rằng: “Phàm trong thiên hạ, sở dĩ có những điều oán thù tai vạ tranh cướp nhau đều là do không yêu thương nhau mà sinh ra”, vì vậy phải “thương yêu ai cũng như nhau”, phải “coi nước người khác như nước của mình, coi gia đình người khác như gia đình của mình, coi người khác như bản thân mình”. “Nếu mọi người trong thiên hạ thương yêu nhau, giữa các nước không tấn công lẫn nhau, giữa nhà này nhà khác không có chuyện rắc rối, thì giặc giã trộm cướp không có, vua tôi cha con đều có thể trên dưới yêu thương lẫn nhau, và như vậy thì thiên hạ sẽ ổn định”.

Để thực hiện thuyết kiêm ái, “kẻ có sức phải giúp đỡ người khác, kẻ có của phải chia sẻ cho người khác, kẻ hiểu biết phải dạy dỗ người khác.” Hơn nữa phải tạo điều kiện cho những người già cả không vợ con thì có nơi nuôi dưỡng cho hết tuổi già, những trẻ nhỏ mồ côi không có cha mẹ thì có nơi nương tựa để khôn lớn”.

Xuất phát từ hạt nhân tư tưởng kiêm ái ấy, Mặc Tử đề xướng chủ trương tiết kiệm (tiết dụng), vì nếu sống xa xỉ thì phải “giật cái ăn cái mặc của dân”. Đồng thời, Mặc Tử phản đối việc nghe âm nhạc, phản đối việc tổ chức đám tang linh đình, đặc biệt phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, vì nó “tàn hại muôn dân”, “làm kiệt quệ của cải của trăm họ trong thiên hạ”.

Như vậy, tư tưởng chủ yếu của Mặc Tử cũng là lòng thương người, nhưng thuyết “kiêm ái” của Mặc gia khác chữ “nhân” của Nho gia ở chỗ đây là tình thương không có phân biệt thân sơ. Vì thế Mạnh Tử đã công kích Mặc gia là “không cha” mà không cha là cầm thú.

Trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, Mặc Tử chủ trương người có tài đức (thượng hiền). Hễ bất cứ ai, kể cả nông dân và thợ thủ công, nếu có tài năng thì có thể đưa lên chức vị cao, nếu ai ngu đần thì hạ xuống, dù là dòng họ quý tộc, cho nên các quan không phải cứ sang trọng mãi, dân không phải hèn hạ suốt đời.

Tóm lại, tư tưởng của Mặc Tử có mặt phản ánh nguyện vọng của nhân dân lao động, nhưng thuyết kiêm ái của ông rõ ràng là mang tính không tưởng, vì vậy không được giai cấp thống trị áp dụng. Sau khi Mặc Tử chết, phái chính thống của Mặc gia phát triển thành phái hiệp khách chuyên phục vụ cho một số vua chúa quý tộc.

( Còn Tiếp )

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
7. Giáo dục
a) Trường học

Từ đời Thương,
Trung Quốc đã có chữ viết nhưng tình hình giáo dục thời kỳ này như thế nào nay không thể biết được. Đến thời Chu nền giáo dục Trung Quốc đã có quy chế rõ ràng.

Trường học thời Tây Chu chia làm hai loại quốc học và hương học.

Trường quốc học gồm có Bích Ung và Phán Cung. Bích Ung là trường đại học ở kinh đô Tây Chu, Phán Cung là trường đại học ở kinh đô các nước chư hầu. Thuộc về quốc học, ở kinh đô còn có trường tiểu học.

Trường hương học là trường học ở các địa phương. Tùy theo các cấp hành chính, trường học địa phương có các tên “thục”, “tường”, “tự”, “hiệu”.

Thời Xuân Thu, nền quốc học của nhà Chu dần dần suy thoái, trường tư bắt đầu xuất hiện. Người đầu tiên sáng lập trường tư là Khổng Tử. Đến thời Chiến Quốc, Mặc Tử, TrangTử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng là những thầy giáo có nhiều học trò, do đó lập thành những phái khác nhau.

Từ đời Hán về sau, cùng với sự đề cao Nho giáo, nền giáo dục của Trung Quốc càng phát triển mạnh.

Trường học cao nhất thời Hán gọi là Thái học được thành lập từ thời Hán Vũ đế (140-87 TCN). Các giáo quan dạy ở Thái học gọi là Ngũ kinh bác sĩ, học sinh thời Tây Hán gọi là “bác sĩ đệ tử”, thời Đông Hán gọi là “thái học sinh”. Nội dung học tập chủ yếu là kinh điển Nho gia. Phương thức dạy học là giảng ở những giảng đường lớn. Do thầy giáo ít, học trò đông nên chủ yếu là tự học. Mỗi năm phải thi một lần. Ai thông được một kinh trở lên thì được bổ làm quan.

Ở các địa phương cũng có trường quốc lập gọi là “học”, “hiệu”, “tường”, “tự”, nhưng trường học ở các địa phương không được coi trọng. Nền tư học dân gian thì từ đời Hán về sau lại càng thịnh hành.

Thời Tùy - Đường, nền giáo dục Trung Quốc có một bước phát triển quan trọng: nhiều trường chuyên ngành đã được thiết lập. Đó là các trường Quốc tử học, Thái học, Tứ môn học, Thư học (học viết chữ), Toán học, Luật học. Các trường này thuộc một cơ quan giáo dục gọi là Quốc tử giám tương tự như Bộ Giáo dục.

Ngoài hệ thống trường thuộc Quốc tử giám còn có một số trường khác như Hoàng văn quán, Quảng văn quán, trường Y học, trường Thiên văn học.

Thời Tống còn đặt ra “chế độ tam xá” ở trường Thái học, gồm Ngoại xá, Nội xá và Thượng xá, mục đích là để cho chế độ thi cử lên lớp được nghiêm túc. Học sinh mới vào trường Thái học gọi là Ngoại xá sinh, sau kỳ thi năm thứ nhất, những người đạt kết quả loại nhất loại nhì và có đức hạnh thì được lên Nội xá. Sau 2 năm, Nội xá sinh thi tuyển lên Thượng xá, tốt nghiệp Thượng xá vào loại ưu cũng có tư cách như Tiến sĩ.

Bên cạnh trường quốc học còn có rất nhiều trường dân lập do các học giả nổi tiếng thành lập gọi là thư viện. Số học sinh học tập ở đây rất đông, có thư viện đã thu hút hàng ngàn học sinh đến học.

Thời Minh - Thanh, các trường đại học do trung ương mở được tập trung lại và gọi là Quốc tử giám. Đời Minh có hai trường Quốc tử giám ở Bắc Kinh và Nam Kinh, đời Thanh chỉ còn một trường Quốc tử giám ở Bắc Kinh mà thôi. Ngoài Quốc tử giám, đời Thanh còn có “Tông học” và “Bát kỳ quan học” để dạy con em hoàng tộc và con em người Mãn Châu, Mông Cổ.

Ở các địa phương có phủ châu huyện học, về danh nghĩa là trường học, thực tế là cơ quan quản lý tú tài vì chỉ có tú tài mới được học ở đó. Các trường học này, về mặt tổ chức hết sức lỏng lẻo.

Sau chiến tranh Thuốc phiện, đến cuối thế kỷ XIX, nhà Thanh học tập phương Tây bắt đầu mở một số trường học kiểu mới như Kinh sư đồng văn quán (1862), Giang Nam thiết lộ học đường (Trường đường sắt Giang Nam, 1895). Đầu thế kỷ XX nhà Thanh tuyên bố thực hiện “tân chính” (đường lối chính trị mới) mà nội dung quan trọng của tân chính là việc cải cách chế độ giáo dục. Từ đó các trường học kiểu mới đã thay thế các trường học kiểu cũ.

b) Khoa cử.

- Từ đời Hán đến thời Nam Bắc triều: tuy nền giáo dục của
Trung Quốc không ngừng phát triển, nhưng thời kỳ này chưa có khoa cử.

Thời Hán ở trong các trường học có tổ chức thi hàng tuần hàng tháng hàng năm để kiểm tra kết quả học tập chứ chưa có thi quốc gia. Để tuyển chọn nhân tài trong cả nước, triều Hán thi hành chính sách “sát cử” tức là giao cho các quan địa phương khảo sát và tiến cử những người có tài có đức trong khu vực do mình cai trị. Những người được cử thường được gọi là “hiếu liêm”, “mậu tài”, “hiền lương phương chính” v.v...

Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Trung Quốc thi hành chế độ “cửu phẩm trung chính”. Triều đình phái các viên quan gọi là “trung chính” về các địa phương căn cứ theo tài năng và đức hạnh, chia những người có học thức ở trong vùng thành 9 hạng để nhà nước tùy tài mà bổ dụng.

Những biện pháp sát cử và cửu phẩm trung chính này đều không tránh khỏi tiêu cực. Thông thường chỉ có con em dòng dõi quý tộc được lựa chọn, còn những người khác tuy có tài năng cũng ít khi được tiến cử.

- Thời Tùy Đường: Bắt đầu từ thời Tùy, chế độ khoa cử mới được đặt ra, khoa thi đầu tiên gọi là khoa Tiến sĩ, nội dung thi là văn học.

Đến đời Đường, số khoa thi càng nhiều, gồm có: Tú tài (về sau bỏ), Minh kinh (hiểu rõ kinh sách), Minh pháp (nắm vững pháp luật), Minh toán (giỏi toán), Minh thư (giỏi viết chữ), trong đó quan trọng nhất là hai khoa Tiến sĩ và Minh kinh (Tiến sĩ cao hơn Minh kinh).

Những người mới đỗ Tiến sĩ được dự yến vào vườn hạnh Tràng An, gọi là Thám hoa yến. Thời Đường đỗ Tiến sĩ chỉ mới đủ tư cách để làm quan, còn muốn có quan chức thực sự thì phải thi kỳ thi tuyển của bộ Lại, nếu trúng tuyển mới trở thành quan lại.

- Thời Tống: Tiếp tục thực hiện chế độ thời Đường nhưng có một số quy định mới:

+ Nội dung thi nặng về kinh nghĩa (thời Đường chủ yếu thi thơ phú).

+ Định ra chế độ 3 năm thi một lần (từ Đường đến đầu Tống, mỗi năm hoặc 2 năm một lần).

+ Tiến sĩ chia thành 5 cấp: nhất giáp, nhị giáp, tam giáp, tứ giáp, ngũ giáp (từ Nguyên về sau chỉ chia thành 3 cấp, nhất giáp chỉ có 3 người).

+ Điện thí trở thành một chế độ. Đời Đường đã có Điện thí nhưng thỉnh thoảng mới tổ chức, nhưng nếu thi Điện thí không đạt yêu cầu thì có thể trượt Tiến sĩ. Từ Tống về sau Điện thí không đánh hỏng, hơn nữa đã đỗ đều được làm quan, không cần thi tuyển ở bộ Lại nữa.

+ Đặt thêm cấp thi Hương, thời Đường người thi Tiến sĩ là do học quán hoặc địa phương tiến cử gọi là “cử tử” hoặc “cử nhân”, không qua khoa thi ở địa phương. Thời Tống trước khi thi Tiến sĩ, phải qua kỳ thi ở địa phương. Nếu thi Tiến sĩ không đậu thì khóa sau phải thi Hương lại một lần nữa.

- Thời Minh - Thanh: Đến thời kỳ này chế độ khoa cử càng hoàn bị và chặt chẽ hơn trước. Cấp thi gồm có: Thi Viện, thi Hương, thi Hội và thi Điện.

Trước khi thi Viện phải qua hai kỳ thi dự bị: thi ở huyện và thi ở phủ. Nếu thi đậu thì được gọi là đồng sinh. Tiếp đó phải dự kỳ thi Viện do quan Đề đốc học viện được chính phủ trung ương ủy phái chủ trì. Thi Viện đậu được thì gọi là Tú tài và được vào học ở trường huyện hoặc trường phủ gọi là sinh viên.

Thi Hương: là kỳ thi ở cấp tỉnh, cứ 3 năm tổ chức một lần. Người dự thi là những người đã đỗ Tú tài. Ngoài ra những người gọi là “quyên giám” (bỏ tiền ra mua tư cách sinh viên) và “ấm giám” (con cái quan lại được tập ấm) cũng được dự thi. Những người trúng tuyển trong kỳ thi Hương gọi là Cử nhân, người đỗ đầu gọi là Giải nguyên. Những người đậu Cử nhân có thể được bổ dụng làm quan từ trung cấp trở xuống.

Thi Hội là kỳ thi tổ chức ở kinh đô do bộ Lễ chủ trì, cứ 3 năm tổ chức một lần. Người dự thi là các Cử nhân. Những người thi đậu trong kỳ thi Hội được gọi là “Cống sĩ”, thông thường gọi là Tiến sĩ. Người đỗ đầu gọi là Hội nguyên.

Thi Điện (cũng gọi là thi Đình) là kỳ thi tổ chức ở trong cung vua, người chủ khảo là hoàng đế. Người dự thi là những người đã đậu Tiến sĩ. Kết quả thi Điện được chia làm 3 cấp là: Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp.

Nhất giáp có 3 bậc: Nhất giáp đệ nhất danh gọi là Trạng nguyên, còn gọi là Điện nguyên, Đình nguyên; nhất giáp đệ nhị danh gọi là Bảng nhãn; nhất giáp đệ tam danh gọi là Thám hoa. Những người này còn được gọi là Tiến sĩ cập đệ.

Những người đậu trong bảng Nhị giáp gọi là Tiến sĩ xuất thân. Những người đậu trong bảng Tam giáp thì gọi là Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Cùng với việc cải cách chế độ giáo dục, chế độ khoa cử phong kiến của Trung Quốc đến năm 1905 thì bãi bỏ.

Nguồn :
Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top