Hanamizuki
New member
- Xu
- 0
Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên thời cận đại
CÁCH MẠNG HÀ LAN
Hà Lan, một lãnh thổ nằm trên bờ biển bắc Âu là vùng hạ lưu của 3 con sông Escault, Meuse, Rhin. Lãnh thổ Hà Lan xưa kia bao gồm cả phần đất nước Bỉ ngày nay. Ðến năm 1831, Bỉ mới tách khỏi Hà Lan.Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở Hà Lan, mở đầu cho thời kỳ cận đại của lịch sử thế giới
1 Tình hình Netherlands ( Hà Lan) vào đầu thế kỉ XV- XVI
1.1 Kinh Tế Công- thương nghiệp
Thời trung đại, Netherlands là vùng kinh tế công thương nghiệp phát triển ở châu Âu. Cùng với len dạ, nghề dệt bông, vải gai, dệt thảm, làm đồ da, đồ kim loại, đóng thuyền cũng phát triển mạnh.
Trong lãnh vực thương nghiệp, ngoại thương có những bước phát triển đáng kể. Netherlands đã buôn bán với các nước Anh, Nga, Tây Ban Nha và những thuộc địa của những nước này ở nam Mỹ.
Trên cơ sở phát triển công thương nghiệp, quan hệ phong kiến theo kiểu phường hội dần tan rã, và đồng thời với quá trình đó là sự hình thành một mối quan hệ mới, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.2. Nông nghiệp
Ở một số vùng phía bắc và nam của Hà Lan như Flandre, Brabant, Zéland... đã xuất hiện tình trạng các lãnh chúa phong kiến đem ruộng đất cho thuê hoặc kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, đến thế kỷ XVI, nền kinh tế Netherlands đã có những bước phát triển nhất định và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp của đất nước.
Trong quá trình phát triển ấy, Netherlands đã hình thành hai trung tâm kinh tế là Amsterdam ở miền bắc và Antwerpen ở miền nam.
1.3 Sự thống trị của Tây Ban Nha
Thời trung đại, lãnh thổ Netherlands bị chia thành một số lãnh địa phong kiến, một số thuộc Pháp, một số thuộc Ðức. Cuối thế kỷ XV, Netherlands trở thành một lãnh địa phụ thuộc chặt chẽ vào Tây Ban Nha. Chúng đã thi hành một chính sách cai trị hết sức hà khắc.
Trên lãnh vực tôn giáo, Tây Ban Nha đã thi hành một chính sách đàn áp tôn giáo khốc liệt, đặc biệt là tân giáo.
Trên lĩnh vực kinh tế, Tây Ban Nha thi hành chính sách thuế khóa hết sức nặng nề.
Sự nô dịch về chính trị, sự đàn áp về tôn giáo và sự kìm hãm về kinh tế đã làm cho các tầng lớp trong xã hội Netherlands đều bất mãn với chế độ cai trị của Tây Ban Nha. Ngoài ra, trong xã hội Netherlands còn tồn tại mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất T.B.C.N với chế độ phong kiến. Do vậy, cuộc cách mạng Netherlands bùng nổ là nhằm giải quyết hai mâu thuẫn trên.
2. Cách mạng bùng nổ.
Nhận thấy sự đấu tranh hợp pháp của một số quí tộc không đem lại kết quả hữu hiệu, ngày 11-8-1566 nhân dân miền nam đã nổi dậy khởi nghĩa tấn công vào giáo hội Thiên chúa của chính quyền Tây Ban Nha
Năm 1609, Tây Ban Nha phải ký với Hà Lan một hiệp ước hòa bình trong vòng 12 năm, thừa nhận sự độc lập của Hà Lan. Sau khi hiệp định hết hạn, chiến tranh lại tiếp tục. Mãi đến năm 1648, Tây Ban Nha mới chính thức thừa nhận nền độc lập của Các tỉnh liên hiệp.
3. Tính chất và ý nghĩa lịch sử
- Là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới.
- Mở đường cho chủ nghĩa TB Hà Lan phát triển.
- Mở ra thời đại mới - bùng nổ các cuộc cách mạng tư sản.
- Hạn chế: Quan hệ sản xuất phong kiến còn tồn tại ở một số nơi, nhân dân không được hưởng quyền lợi KT, CT
CÁCH MẠNG TƯ SẢN ANH
Cuộc CMTS Anh giữa thế kỷ XVII là một cuộc tấn công vào thành trì của xã hội cũ để xây dựng chế độ xã hội mới’ lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho CNTB phát triển. CMTS Anh là cuộc cách mạng tư sản thứ 2 trên thế giới sau CM Hà lan nhưng là cuộc CM đầu tiên có ý nghĩa to lớn đối với quá trình hình thành CNTB trên phạm vi toàn châu Âu và thế giớ
1. Nguyên nhân.
Đầu thế kỷ XVII, Anh là nước có nền kinh tế phát triển nhất châu Âu. Sản xuất công trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn so với sản xuất phường hội. Tư sản Anh giàu lên nhanh chóng nhờ sự phát triển của ngoại thương, chủ yếu là buôn bán len dạ và buôn nô lệ da đen.
Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ vốn là quý tộc đã chuyển huwongs kinh doanh theo lối TBCN đuổi tá điền đi, biến ruộng đất thành đồng cỏ rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy long cung cấp cho thị trường. Bộ phận quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hóa trở thành tầng lớp quý tộc mới.
Chế độ PK với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và giáo hội Anh ngày càng cản trở sự kinh doanh và làm giàu của của tư sản và quý tộc mới. Sác –lơ I đặt ra nhiều thứ thuế, duy trì nhiều đặc quyền phong kiến làm cho đời sống nhân dân hết sức cơ cực.
Đặc điểm tình hình trên đã làm cho mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới và các thế lực phong kiến bảo thù ngày càng them gay gắt. Đây chính là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ CMTS Anh.
Nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cách mạng tư sản anh xoay quanh vấn đề tài chính khi sác –lơ I triệu tập quốc hội đòi tăng thuế để có tiền chi viện cho cuộc đàn áp những cuộc nổi dậy của người Xcot –len ở miền Bắc. Quý tộc mới và tư sản đã không phê duyệt các khoàn thuế do vua đặt ra, kịch liệt phản đối chính sách bạo ngược của nhà vua. Bị thất bại, Sác lơ I chạy lên vùng núi phía Bắc Luân đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản công.
2. Diễn biến
Tháng 8/1642, Sác- lơ I tuyên chiến với Quốc Hội. Cuộc nội chiến bắt đầu.
Từ 1642 – 1648 là khoảng thời gian xảy ra cuộc nội chiến giữa Quốc Hội và nhà Vua.
Ban đầu, quân đội quốc Hội bị đánh bại vì lực lượng của nhà vua được trang bị tốt và thiện chiến.
Tuy nhiên, được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, Ôlivơ Crôm – oen đã tiến hành cải cách quân đội. Ông tổ chức 1 đội quân gồm chủ yếu là nông dân,có kỷ luật, có tính chiến đấu cao, được gọi là “đội quân sườn sắt” Từ đây, quân đội của Quốc hội bắt đầu chiếm ưu thế. Năm 1648, quân đội của Crôm - oen đã đánh bại quân đội của Sác – lơ .Cuộc nội chiến kết thúc. Sác lơ I bị kết án tử hình.
Đầu năm 1649, do áp lực của quần chúng nhân dân, Sác – lơ I bị xử tử. Anh trở thành nước cộng hòa do Ô livơ C.rôm - oen đứng đầu. CM đạt tới đỉnh cao.
Mặc dù cách mạng đạt tới đỉnh cao nhưng mọi quyền hành đều thuộc về quý tộc mới và tư sản. Nông dân và binh lính không được hưởng quyền lợi gì nên tiếp tục đấu tranh đòi tự do.
Năm 1953, để bảo vệ quyền lợi của mình, quý tộc mới và TS Anh đã đưa C.rôm –oen lên làm Bảo hộ công. Chế độ độc tài quân sự được thiết lập.
Năm 1658. C.rôm - oen qua đời, nước Anh rơi vào tình trạng ko ổn định về chính trị. Quý tộc mới và tư sản lo sợ nhân dân nổi dậy đấu tranh nên chủ trương thỏa hiệp với lực lượng PK cũ để lập lại chế độ quân chủ.
Năm 1688, QH đã tiến hành chính biến đưa Vin hem – Ô ran giơ (Quốc trưởng Hà Lan và là con rể vua Anh) lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.
3. Kết quả, ý nghĩa
CMTS Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển mạnh mẽ hơn. Đây là cuộc CMTS có ý nghĩa trọng đại trong thời kỳ quá độ từ chế độ PK sang chế độ TBCN.
CUỘC CHIẾN TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP CỦA CÁC THUỘC ĐỊA ANH Ở BẮC MỸ.
1. Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Bắc Mỹ.
1.1Công- thương nghiệp
Giữa thế kỷ XVIII, 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ đã có một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tương đối phát triển. Mặc dù bị chính quyền kìm hãm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ phát triển nhanh nhờ những điều kiện thuận lợi: tài nguyên thiên nhiên phong phú và lao động di dân hăng say.
Thủ công nghiệp phát triển tự do, không bị chế độ phường hội hạn chế, số công trừơng thủ công ngày càng tăng, những công xưởng tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện, lao động máy móc thay thế cho lao động thủ công. Các bang đã tự túc được nông phẩm và có thể xuất khẩu một số lượng lớn ngũ cốc, da thú, bơ, sữa, thuốc lá ... Công nghiệp đóng tàu khá phát triển nhờ nguồn lợi thiên nhiên về gỗ (30% tàu Anh đóng ở Bắc Mỹ). Các ngành công nghiệp khai mỏ, luyện sắt, thép... và những ngành công nghiệp khác như: dệt vải, dệt len, thuộc da... cũng phát triển.
Thương nghiệp cũng phát triển, mang lại nhiều nguồn lợi to lớn cho giai cấp tư sản Bắc Mỹ, đặc biệt trong lãnh vực ngoại thương: trong vòng 50 năm kể từ 1700-1750, giá trị hàng xuất khẩu tăng 5 lần (từ 265.783 lên 1.044.591. bảng).
Sự lớn mạnh của nền kinh tế thuộc địa làm Anh lo sợ, tìm mọi cách để kìm hãm. Giai cấp tư sản non trẻ của thuộc địa đang phát triển ngày càng tăng cường thế lực của mình và bước đầu và trở thành một lực lượng đối kháng với tư sản chính quốc.
1.2. Kinh tế nông nghiệp
Vào thế kỉ XVII-XVIII, Anh xem Bắc Mỹ là vùng nông nghiệp phụ thuộc vào chính quốc, nhiệm vụ của nước Mỹ là cung cấp nguyên liệu và lương thực cho chính quốc. Trong nông nghiệp có hai vùng kinh tế phát triển đó là:
Miền Bắc và tây bắc: kinh tế trại chủ giữ vị trí chủ yếu. Những trại chủ là những nông dân khai khẩn dựa trên sức lao động của chính họ, không bị chế độ phong kiến ràng buộc; để có thêm thu nhập, họ làm các nghề thủ công.
Ở miền Nam: chế độ nô lệ đồn điền của chủ nô chiếm địa vị thống trị. Kinh tế đồn điền của miền Nam dựa vào lao động của nô lệ và gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sự bóc lột nô lệ ở các đồn điền miền Nam không khác gì thời cổ đại: nô lệ làm việc 18-19 giờ/ ngày; không được phép bỏ đồn điền và không được tụ tập. Họ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và không có quyền phản kháng. Hàng triệu nô lệ đã chết trên đất Hiệp chủng quốc để làm giàu cho các chủ đồn điền.
2. Chính sách cai trị của Anh.
Thực dân Anh chia các thuộc địa Bắc Mỹ thành 2 loại: loại I gồm 5 bang được hưởng quyền tự trị rộng rãi, loại II là 8 bang còn lại do chính phủ Anh trực tiếp cai trị. Ở mỗi bang, thống đốc nắm quyền chỉ huy quân đội, chọn nhân viên hành chính. Quyền bầu cử rất hạn chế: chỉ có những thương nhân, địa chủ mới có quyền bầu cử, nô lệ da đen, da trắng và người Indians không có quyền bầu cử.
Giai cấp thống trị xem thuộc địa là nguồn cung cấp nguyên liệu và thị trường cho họ, nên tìm mọi cách để buộc kinh tế thuộc địa lệ thuộc vào kinh tế chính quốc. Nhưng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở Bắc Mỹ làm Anh lo ngại, vì thế Anh đưa ra một loạt biện pháp nhằm hạn chế sự kinh doanh của giai cấp tư sản Bắc Mỹ. Những chính sách này làm hại đến quyền lợi của chủ nô, tư sản, và ngay cả nhân dân thuộc địa, vì vậy họ phản kháng lại chính quyền Anh và đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh giành độc lập. Nói một cách khác, nguyên nhân của chiến tranh là do sự xung đột giữa giai cấp thống trị Anh với tư sản Bắc Mỹ và các tầng lớp nhân dân thuộc địa.
2.Nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh.
Với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Bắc Mỹ, giai cấp thống trị Anh tìm cách kìm hãm nó bằng việc ban hành một số những đạo luật khắt khe, buộc nhân dân Bắc Mỹ phải thi hành. Năm 1699 cấm xuất cảng len từ đất Mỹ, chỉ cho phép bán tại nơi sản xuất. Năm 1776, nghị viện Anh ra quyết định buộc phải đưa sang hải cảng Anh những hàng hóa từ thuộc địa muốn xuất cảng sang các nước khác, nghiêm cấm việc buôn bán đường... Ngoài ra, năm 1763 vua Anh còn ban hành đạo luật cấm khai khẩn đất đai ở phía tây dãy Alleghenies, điều này đụng chạm đến quyền lợi của những người Indians và dân tự do.
Ðến 1765, chính quyền Anh lại ban bố luật thuế tem: mọi giấy tờ phải đến cơ quan trước bạ để chịu thuế. Việc ban bố đạo luật này coi như vi phạm đến chính quyền các bang, vì các bang đòi phải có sự đồng ý của nhân dân thuộc địa. Thực chất của vấn đề thuế tem là quyền hạn của thuộc địa. Một đại hội bàn về thuế tem được triệu tập tại New york. Ðại hội yêu cầu quốc hội Anh bãi bỏ những đạo luật vừa ban hành đồng thời phát động một phong trào tẩy chay hàng Anh. Trước sự phản kháng của nhân dân thuộc địa, quốc hội Anh buộc phải bãi bỏ thuế tem.
Tháng 10. 1773, ba chiếc tàu chở chè của công ty Ðông Âún vào cảng Boston, nhân dân Boston cải trang làm người Indians, tấn công 3 chiếc tàu và ném các thùng chè xuống biển (trị giá 100.000 bảng). Chính phủ Anh ra lệnh đóng cửa cảng Boston, không cho tàu buôn vào. Tướng Gages được cử sang làm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ.
Tháng 4. 1774 chính quyền Anh lại ban hành những đạo luật khác gây nên một phong trào chống Anh rộng rãi trong quần chúng và thúc đẩy chiến tranh bùng nổ.
3. Diễn biến của chiến tranh.
3.1.Giai đoạn I: (1775 - 1777)
Ðại hội lục địa lần I: (1774)
Trước sự phát triển của những hoạt động cách mạng của nhân dân, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở Mỹ thấy cần có một hội nghị để biểu lộ ý chí chung. Vì vậy họ triệu tập Hội nghị lục địa lần I ngày 5.9. 1774 ở Philadelphia. Trong hội nghị đã diễn ra sự đấu tranh giữa hai phái ôn hòa và cấp tiến. Ða số đại biểu vẫn chủ trương ôn hòa với chính quốc, cho nên về mặt chính trị, giai cấp tư sản chưa đi đến quan điểm dứt khoát, còn về mặt kinh tế thì những biện pháp cứng rắn đều được thông qua. (Ðại biểu các bang nhất trí hành động tẩy chay hàng Anh trong tất cả các bang). Hội nghị đã gởi lên vua Anh một bản kiến nghị đòi xóa bỏ những đạo luật vô lý của chính quyền Anh, nhưng quốc hội Anh không đáp ứng môt yêu cầu nào của hội nghị. Tuy vậy, hội nghị lục địa lần I có một ý nghĩa lớn vì nó đã thống nhất các lực lượng đấu tranh chống lại chính quốc.
Ðại hội lục địa lần II. (1775)
Sau những cuộc giao tranh đầu tiên, sự phát triển của tình hình chính trị và quân sự cuối 1774 và 1775 đã đưa nhân dân Bắc Mỹ đến một giai đoạn mới: đấu tranh vũ trang. Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng về một phía, chống lại lực lượng của Anh.
Giai cấp tư sản tuy có tư tưởng cách mạng, nhưng đa số vẫn chiến đấu với tinh thần tự do, họ sợ phong trào quần chúng và e ngại trước lực lượng của chính quốc. Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân đòi phải tổ chức thống nhất các bang và hoạt động theo sự chỉ huy chung. Do đó, hội nghị lục địa lần II triệu tập ngày 10.5.1775 với mục đích giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh.
Trong đại hội lục địa II vẫn diễn ra sự đấu tranh giữa 2 phe, những người cách mạng triệt để đề ra những biện pháp kiên quyết nhưng không được sự ủng hộ.Những người phái hữu tuy chống Anh nhưng lại phản đối việc li khai với chính quyền và đề ra những biện pháp thỏa hiệp. Thái độ thiếu kiên quyết của dại hội là thái độ thiếu kiên quyết của những phần tử tư sản.Tuy nhiên, Ðại hội đã làm được một việc quan trọng là xây dựng được một lực lượng quân sự do Gcorge Washington chỉ huy.
Tuyên ngôn độc lập (1776 ) - Hiến pháp 1781.
Chính sách hiếu chiến của giới cầm quyền Anh và những thất bại quân sự khiến cho giai cấp tư sản ở Bắc Mỹ phải chuyển biến trong việc lãnh đạo cách mạng. Tư sản Bắc Mỹ phải qua một chặng đường dài đấu tranh mới đi đến quan điểm đòi độc lập hoàn toàn.
Ðầu 1776, Thomas Paine đã ra một bản luận văn quân sự kêu gọi lật đổ nền thống trị của Anh, thành lập chế độ cộng hòa. Jefferson đã dựa vào bản luận văn quân sự để soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, và ngày 4.7.1776 Tuyên ngôn độc lập được đại hôi lục địa thông qua. Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 7.1776, các bang lần lượt tuyên bố độc lập.
Bằng lời văn trang trọng, Tuyên ngôn nêu rõ: Mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc... Bản Tuyên ngôn còn nêu rằng chỉ nhân dân mới có quyền thiết lập chính quyền, đứng lên đấu tranh khi quyền lợi bị chà đạp. Bản Tuyên ngôn còn lên án vua Anh và tuyên bố quyền độc lập của các quốc gia, quyền gia nhập liên minh, buôn bán, kí kết hiệp ước...
Ðây là một văn kiện có tính chất tiến bộ thời bấy giờ, nó thể hiện tính chất dân chủ, tự do, nêu cao nguyên tắc chủ quyền của nhân dân.
Thắng lợi ban đầu của cách mạng.
Quân đội của Bắc Mỹ được thiết lập do George Washington chỉ huy, trong buổi ban đầu đã chiến đấu với những điều kiện vô cùng gian khổ: quân nhu, súng ống, đạn dược đều thiếu thốn. Trong lúc đó, một số thương nhân Boston lại cung cấp vũ khí và lương thực cho quân đội Anh. Tuy vậy, quân Anh vẫn không giành được thắng lợi mặc dù có trang bị vật chất đầy đủ vì phải đương đầu với một kẻ thù ẩn hiện khắp nơi: nhân dân Bắc Mỹ áp dụng chiến thuật phân tán, du kích. Các tầng lớp nhân dân lao động Mỹ cũng triệt để ủng hộ kháng chiến, dân nô lệ da đen đã chiến đấu dũng cảm vì họ bảo vệ lợi ích của họ. Sau những đợt tấn công quyết liệt của quân Anh, quân Bắc Mỹ đã đẩy lùi được và thắng lớn ở trận Sarratoga vào giữa 1777.Chiến thắng này đã làm thay đổi cục diện chiến tranh.
3.2. Giai đoạn 2 của chiến tranh (1777 - 1781).
Ðặc điểm chung: thời kỳ này có sự tham gia của những lực lượng bên ngoài.Về đối nội: mang tính dân chủ hơn trước.
Trong những năm đầu sau trận Sarratoga, tình hình chiến tranh vẫn chưa có những thay đổi lớn. Quân đội Bắc Mỹ gặp nhiều khó khăn về vũ khí và trang bị, phải chiến đấu trong những điều kiện thiếu thốn. Ðến tháng 11.1781, quân đội Bắc Mỹ mới chiến thắng rực rỡ ở Yorktown. Chiến thắng này mang một ý nghĩa quyết định: nó cổ vũ cho quần chúng nhân đấu tranh mạnh mẽ hơn, đồng thời một phong trào phản chiến ở Anh nổ ra. Trước tình hình đó, Anh đồng ý thương lượng với Bắc Mỹ. Hiệp ước Versailles được ký tháng 9.1783, Anh phải công nhận nền độc lập của các bang thuộc địa. Trước đó ít lâu, Ðại hội lục địa đã thông qua một hiến pháp cho Bắc Mỹ, ngày 1. 3. 1781 HP có hiệu lực: quyền hạn của chính quyền trung ương bị hạn chế, các bang có quyền rộng rãi: qui định thuế má, ngân sách, tổ chức, quân đội và hạm đội riêng...
4. Cuộc đấu tranh sau cách mạng
Cuộc khởi nghĩa của dân nghèo 1786 - 1789.
Sau chiến tranh, nước Cộng hòa trẻ tuổi lâm vào tình trạng khó khăn: lạm phát, thuế khóa nặng nề, giá sinh hoạt tăng vọt, ngân sách nghèo nàn, kinh tế bị tàn phá; môt số tư sản và địa chủ giàu lên nhờ chiến tranh, trong khi đó đời sống binh lính và nhân dân càng bấp bênh.Trước tình hình như vậy, nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi quyền sống, ruộng đất và tự do dân chủ. Năm 1785, có những cuộc khởi nghĩa của dân nghèo thành thị, nông dân. Ðến năm 1786, phong trào lan rộng.
Một cuộc khởi nghĩa lớn lúc bấy giờ là khởi nghĩa của những người nghèo ở bang Massachusettes, có công nhân, trại chủ, binh lính giải ngũ tham gia. Người lãnh đạo là Daniel Shace, một trại chủ nghèo nguyên là đại úy trong quân đội. Cuộc khởi nghĩa kéo dài từ tháng 9/ 1786 đến tháng 2/ 1787. Những người khởi nghĩa đã đề ra một chương trình hành động: phân phối ruộng đất công bằng, thủ tiêu nợ nần, xử án công bằng.... Cuộc khởi nghĩa thu hút dân nghèo và các bang lân cận. Giai cấp tư sản dùng mọi lực lượng để đàn áp và dập tắt phong trào, Shace bị xử tử.
Hiến pháp 1787.
Sau chiến tranh, nhiều yếu tố về kinh tế và chính trị đã thúc đẩy giai cấp tư sản phải củng cố chính quyền trung ương . Từ 25.5 -17. 9.1787, đại hội đại biểu các bang được triệu tập ở Philadelphia để sửa đổi hiến pháp và tháng 9.1789, hiến pháp mới được thông qua với một số sửa đổi có hiệu lực đến ngày nay.
Theo hiến pháp mới, chính quyền trung ương được tăng cường, nhưng các bang vẫn giữ quyền tự trị rộng rãi trong các vấn đề có tính chất địa phương.
Hành pháp: Tổng thống đứng đầu chính phủ, nhiệm kỳ 4 năm, quyền hạn Tổng thống rất rộng.
Lập pháp: thuộc về Quốc hội. Quốc hội gồm hai viện :
-Thượng viện: đại diện các bang, nhiệm kỳ 6 năm, cứ 2 năm phải bầu lại 1/3 nghị sĩ.
-Hạ viện: đại diện nhân dân liên bang, nhiệm kỳ 2 năm.
Tư pháp: giao cho Tòa án tối cao liên bang, những thành viên trong tòa án tối cao do Tổng thống cử và giữ chức vụ suốt đời.
Hiến pháp còn những mặt tiêu cực: chỉ những người có tài sản mới được bầu cử, nô lệ và người Indians không có quyền bầu cử; chế độ nô lệ vẫn còn duy trì. Một hạn chế khác là muốn bầu cử phải có thời hạn cư trú nhất định trong một địa phương nào đó.
Hiến pháp 1787 thực chất là sự thỏa hiệp giữa hai tầng lớp tư sản miền Bắc và chủ nô miền Nam, tư sản miền Bắc phải nhân nhượng phần nào với chủ nô miền Nam để chống lại phong trào dân chủ của nhân dân. Ðây là một hiến pháp của giai cấp tư sản. Trong chế độ mới này, chính quyền nằm trong tay tư sản công thương nghiệp miền Bắc và chủ nô miền Nam.
5. Tính chất và ý nghĩa lịch sử.
Nhân dân các thuộc địa đã đấu tranh giành độc lập trong 6 năm, thu nhiều thắng lợi. Kết quả lớn nhất là thủ tiêu nền thống trị của Anh, giành độc lập hoàn toàn và thiết lập một quốc gia tư sản ở Bắc Mỹ với 13 bang: New Hamsphire, Massachussetts, Connecticut, Rhodes Island, NewYork, Pensylvania, New Jersey, Maryland, Delaware, Virginia, Carolina North, Carolina South, Georgia.
Ðây là một cuộc chiến tranh giành độc lập, nhưng cuộc chiến tranh này không chỉ giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà còn giải quyết những nhiệm vụ kinh tế và xã hội của một cuộc cách mạng tư sản, nó chống lại chế độ phong kiến do bọn thực dân Anh thiết lập và chống lại những biểu hiện khác của chủ nghĩa thực dân đang ngăn trở sự phát triển của công, thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Nó giải phóng Mỹ khỏi chủ nghĩa thưc dân Anh, đưa tư sản và chủ nô lên nắm chính quyền, mở đường cho kinh tế tư bản chủ nghĩa Mỹ phát triển mạnh.
Cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định, bao gồm nô lệ, công nhân, nông dân... Nhưng khi cách mạng thành công, giai cấp tư sản đã không đáp ứng những yêu cầu của nhân dân: không giải quyết ruộng đất cho họ, chế độ nô lệ vẫn còn duy trì...
Cách mạng tư sản ở Mỹ có một ý nghĩa lịch sử lớn lao: thiết lập một quốc gia tư sản độc lập, đem lại sự tiến bộ cho dân tộc, mở ra con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế. Ðồng thời, phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Bắc Mỹ đã kích thích và ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của nhân dân các nước khác.
CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP
Cuối thế kỉ XVIII, giữa Pari hoa lệ của nước Pháp – “kinh đô Châu Âu” đã bùng nổ một cuộc cách mạng “long trời lở đất” - một cuộc đại cách mạng tư sản.
1. Nước Pháp trước cách mạng .
1.1 Tình hình kinh tế.
a.Kinh tế công thương nghiệp.
Trong thế kỷ XVIII, công thương nghiệp Pháp phát triển khá mạnh và tạo nên sự phồn vinh cho nước Pháp. Ðại diện cho ngành công nghiệp ở Pháp lúc bấy giờ là những công trường thủ công sản xuất thảm hoa, len dạ, tơ lụa, xà phòng, thủy tinh…Tuy nhiên những qui định ngặt nghèo của chế độ phường hội đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất công nghiệp ở Pháp, nó kìm hãm sự tự do kinh doanh và cải tiến sản xuất.
Thương nghiệp cũng có những tiến bộ nổi bật, nhất là ngoại thương. Tuy nhiên nội thương không phát triển lắm vì chế độ thuế quan khá nghiêm ngặt.
b. Nông nghiệp.
Nông nghiệp Pháp là một nền nông nghiệp lạc hậu. Nguyên nhân của tình trạng này là chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Chế độ này đẻ ra hàng loạt những nghĩa vụ phong kiến vừa phi lý, vừa bất công, nặng nề đè lên lưng người nông dân, làm cho họ mất sáng kiến và hứng thú sản xuất.
Tóm lại, cuối thế kỷ XVIII, công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, những yếu tố TBCN đang nổi lên, nhưng chế độ phong kiến đã ngăn cản sự phát triển đó.
1.2 Chế độ chính trị và xã hội
a. Nền Quân chủ chuyên chế của Louis XVI.
Louis XVI là người đại diện cho chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp. Ông nắm mọi quyền hành, không chịu một sự kiểm soát nào. Vua cử ra những quan thân cận mình để làm tổng quản ở các địa phương, những người này rất độc đoán và khắc nghiệt. Sự quan liêu, tham nhũng và bất công của các quan giám quận là một gánh nặng đối với đời sống nhân dân địa phương.
b. Chế độ ba đẳng cấp
Pháp là một quốc gia phong kiến lâu đời. Xã hội phong kiến Pháp chia làm ba đẳng cấp: hai đẳng cấp có đặc quyền là đẳng cấp quý tộc và đẳng cấp tăng lữ. Họ nắm mọi chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước, trong quân đội và trong giáo hội; có mọi thứ đặc quyền, được miễn các loại thuế. Ðẳng cấp Thứ Ba gồm: tư sản, nông dân, bình dân thành thị.
+ Giai cấp tư sản: đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong Ðẳng cấp Thứ Ba.
+ Giai cấp nông dân: là giai cấp đông đảo nhất họ chịu ba tầng áp bức: nhà nước, nhà thờ, lãnh chúa. Ngoài thuế 1/10 nộp cho nhà thờ, nông dân còn phải đóng nhiều loại thuế cho lãnh chúa, thực hiện chế độ lao dịch nặng nề và nộp những khoản phụ thu khác. Căm thù lãnh chúa, nông dân sẵn sàng đi theo giai cấp tư sản, và trở thành động lực chủ yếu của cách mạng.
+ Bình dân thành thị: gồm những người làm nghề tự do, thợ thủ công, những người bán hàng rong...Trong tầng lớp bình dân thành thị, công nhân và thợ thủ công là những tầng lớp tích cực cách mạng, họ đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến.
Toàn bộ đẳng cấp thứ ba đều không có đặc quyền, đặc lợi và mâu thuẫn gay gắt với hai đẳng cấp trên.
1.3. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.
Các nhà văn, nhà tư tưởng tiến bộ đã tấn công vào chế độ phong kiến và giáo hội thông qua trào lưu "tư tưởng Ánh sáng" của thế kỉ XVIII. Nó có tác dụng dọn đường, chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội bùng nổ.
1.4 Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến.
Giữa thế kỷ XVIII, nền quân chủ chuyên chế Pháp lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Louis XVI thừa hưởng một ngân khố trống rỗng do những cuộc chiến tranh của Pháp với các nước châu Âu thời Louis XV. Bên cạnh đó, sự hoang phí vô độ của triều đình làm cho ngân sách ngày càng kịêt quệ. Ðể giải quyết nạn khủng hoảng tài chính, nhà vua cho triệu tập hội nghị Ba Ðẳng cấp. Ðẳng cấp Thứ Ba tự tuyên bố đại diện cho dân tộc Pháp và thành lập Hội nghị Quốc dân. Sau đó Hội nghị Quốc dân đổi thành Quốc hội Lập hiến.
2. Diễn biến cách mạng
2.1. Giai đoạn thống trị của Tư sản Lập hiến: nền quân chủ lập hiến.
Ngày 14.7.1789
Trước hành động cách mạng của toàn thể đẳng cấp Thứ Ba, Louis XVI tìm mọi cách chống đối. Vua đã điều 20.000 quân từ Versailles về Paris với mưu toan bóp chết cách mạng. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản tỏ ra bối rối, nhưng quần chúng nhân dân đã đứng lên cứu nguy cho cách mạng. Từ ngày 12. 7 đến 13.7. 1789, họ đã xuống đường cướp vũ khí. Ngày 14.7, họ kéo đến ngục đánh chiếm Bastille - biểu trưng của chế độ chuyên chế bị lật đổ. Lợi dụng công lao của quần chúng nhân dân, tư sản tài chính lên nắm chính quyền, tuyên bố chế độ Quân chủ lập hiến.
Hoạt động của Quốc Hội Lập Hiến
- Ðêm lịch sử 4.8.1789: quốc hội Lập hiến đã tuyên bố sắc lệnh bãi bỏ chế độ phong kiến. Trên thực tế, những nghĩa vụ phong kiến cá nhân được xóa bỏ, nông dân được giải phóng khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, nhưng vẫn chưa được quyền sở hữu về đất đai.
- Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
Ngày 26.8.1789, Quốc hội lập hiến thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Bản Tuyên ngôn đã nêu lên công thức nổi tiếng của cách mạng Pháp: Tự do -Bình đẳng - Bác ái.
Hiến Pháp 1791
Theo Hiến pháp, chế độ quân chủ chuyên chế trên pháp lý đã chấm dứt. Quyền lực quốc gia được điều hành bởi Quốc hội Lập pháp. Vua chỉ còn quyền hành pháp. Hiến pháp còn qui định chế độ tuyển cử, chỉ có những công dân tích cực mới có quyền bỏ phiếu.
- Chính sách kinh tế - hành chính:
Quốc hội bãi bỏ các qui chế của phường hội, cho phép tự do buôn bán lúa mì, cấm nhập cảng sợi lanh và các vật liệu kiến trúc để khuyến khích sản xuất trong nước. Tổ chức hành chính được sửa đổi. Ðặc quyền các tỉnh bị bãi bỏ. Hàng rào thuế quan nội địa bị bãi bỏ.
Chiến tranh giữa Pháp và Châu Âu.
Ngày 20.4.1792. Quốc hội lập pháp tuyên chiến với Áo. Phổ cũng theo Áo chống Pháp. Quốc hội ra sắc lệnh "Tổ quốc lâm nguy" quyết tâm bảo vệ đất nước. Trước thái độ không kiên quyết chống ngoại xâm của giai cấp tư sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên khởi nghĩa, lật đổ sự thống trị không những của Quốc hội lập pháp mà cả sự thống trị của nhà vua.
2.2. Giai đoạn thống trị của Tư sản Girondins: nền Cộng Hòa I.
Quốc ước.
Sau khi tư sản tài chính bị lật đổ, tư sản công thương nghiệp lên nắm chính quyền. Bên cạnh chính quyền của tư sản, công xã cách mạng đã tồn tại như một chính quyền cách mạng của nhân dân. Dưới áp lực của công xã, Quốc hội phải đề ra những biện pháp cách mạng. Với những biện pháp biệt lệ do công xã đề ra, nhân dân vô cùng phấn khởi, quyết tâm chiến đấu. Ngày 20.9.1792, họ đã dánh tan quân Phổ ở Valmy. Cũng ngày 20.9.1792, Quốc hội Lập pháp tuyên bố giải tán. Ngày 20.9.1792, một Quốc Ước được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu ra đời. Trong phiên họp đầu tiên của mình, Quốc ước tuyên bố nền Cộng Hòa I vào 22. 9. 1792. Việc tuyên bố nền Cộng Hòa đã xóa bỏ vĩnh viễn sự thống trị của chế độ phong kiến và đưa nước Pháp vào một kỉ nguyên mới dưới sự thống trị của giai cấp tư sản.
Những khó khăn của cách mạng: ngoại xâm và nội phản.
Ðầu tháng 1.1793, cách mạng Pháp gặp rất nhiều khó khăn.Tháng 2.1793, nước Anh tư bản chủ nghĩa tham gia vào liên minh chống Pháp, gây nhiều khó khăn về quân sự cho Pháp. Trong nước, loạn Vendée nổ ra ở miền tây nam nước Pháp (tháng 3.1793). Thêm vào đó, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Robespierre và các đồng chí của ông đã kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Trong đêm 31.5 rạng ngày 1.6.1793, quần chúng nhân dân đã đứng lên lật đổ sự thống trị của Tư sản Girondins, đưa cách mạng tiến lên một giai đoạn mới.
2.3. Nền Chuyên Chính Dân Chủ Cách Mạng của phái Jacobins.
a. Sự thành lập chính quyền chuyên chính dân chủ cách mạng.
Với việc lật đổ phái Girondins, cách mạng Pháp chuyển sang đỉnh cao: Nền Chuyên Chính Dân Chủ Cách Mạng Jacobins. Chính quyền thuộc về một bộ phận tiến bộ nhất trong giai cấp tư sản, gắn bó với quyền lợi của quần chúng nhân dân. Ðại diện cho chính quyền này là Robesspierre, Marat, Saint Just, Danton
b. Những biện pháp của phái Jacobins.
Sau khi nắm chính quyền dựa trên nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phát huy được tính tích cực của họ, phái Jacobins đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ những thành quả của cách mạng Pháp.
- Hiến Pháp 1793: Hiến pháp xóa bỏ việc phân biệt hai loại công dân tích cực và tiêu cực, qui định quyền phổ thông đầu phiếu cho nam công dân trên 21 tuổi. Theo Hiến pháp, quyền Hành pháp giao cho một Hội Ðồng gồm 24 người do Quốc hội lập pháp cử ra. Hằng năm 1/2 số thành viên của uỷ ban được đổi mới. Hiến pháp 1793 được xem là hiến pháp dân chủ nhất. Nó tuyên bố những nguyên tắc tự do và dân chủ.
- Vấn đề ruộng đất : Quốc ước đã giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất để lôi kéo nhân dân về phía cách mạng. Ngày 3.6.1793, chính quyền cách mạng ban hành đạo luật chia tài sản của bọn lưu vong thành lô nhỏ, bán trả góp kéo dài trong 10 năm để nông dân nghèo có thể mua được. Ngày 10.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh chia đều đất công cho nông dân. Ngày 17.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh thủ tiêu các đặc quyền phong kiến, nông dân được giải phóng khỏi mọi nghĩa vụ phong kiến mà không phải bồi thưòng. Những đạo luật ruộng đất đã có tác dụng tích cực trong nhân dân, biến họ thành lực lượng trung thành với cách mạng.
- Luật giá tối đa: qui định các đạo luật trừng trị bọn đầu cơ tích trữ, hạn chế việc tự do mua bán, trưng thu và định giá lương thực, thực phẩm, tổ chức phân phối công bằng, định giá tối đa đối với mọi nhu yếu phẩm của nông dân. Tháng 9. 1793 Quốc ước thông qua đạo luật giá tối đa về các loại ngũ cốc và bột mì trong toàn quốc. Quốc ước cũng qui định lương tối đa đối với công nhân.
- Thanh toán thù trong giặc ngoài: Những phần tử phản cách mạng lần lượt lên máy chém. Các cuộc bạo động phản cách mạng ở Vendée và những nơi khác đều bị trấn áp một cách kiên quyết. Ngày 23.8.1793, Quốc ước thông qua sắc lệnh "tổng động viên", qui định nghĩa vụ cho từng nhóm tuổi, từng giới. Chiến thuật quân sự mới "vận động theo hàng dọc" được áp dụng. Quân đội cách mạng được tổ chức lại. Nhờ những yếu tố đó, quân đội Pháp đã giành được thắng lợi lớn. Cuối tháng 12.1793, quân địch ở khắp nơi đều bị đánh bật ra ngoài biên giới Pháp.
2.4. Thoái trào của Cách mạng.
a. Cuộc đảo chính Thermidor.
Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và nội phản đã tập hợp các lượng xã hội có quyền lợi khác nhau chung quanh phái Jacobins, nhưng khi những nguy cơ cách mạng bị đẩy lùi, thì những mâu thuẫn trong hàng ngũ phe cách mạng lại nổ ra. Do sự chia rẽ nội bộ và mất sự ủng hộ tích cực của quần chúng nhân dân, phái Jacobins suy yếu hẳn. Thừa dịp này, tư sản phản cách mạng tổ chức cuộc chính biến lật đổ Robespierre và đồng đội của ông. Ðó là cuộc chính biến ngày 27.7.1794, chấm dứt sự thống trị của phái Jacobins. Sau khi lật đổ phái Jacobins, tư sản phản cách mạng Thermidor lên nắm chính quyền. Họ tìm mọi cách để thanh toán nền chuyên chính dân chủ cách mạng, thủ tiêu những thành quả của phái Jacobins.
b. Chế độ Ðốc chính.
Tháng 10.1795, Quốc Ước Thermidor thông qua một hiến pháp mới thành lập chế độü Ðốc chính. Theo hiến pháp, quyền Hành pháp nằm trong tay ban Giám đốc gồm 5 ủy viên. Quyền Lập pháp thuộc hai viện: viện 500 và viện những người kỳ cựu, có khả năng hạn chế quyền hành lẫn nhau. Dưới chế độ Ðốc chính, đời sống nhân dân tiếp tục sa sút, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, quan trọng nhất là cuộc khởi nghĩa của Babeuf.
c. Cuộc đảo chính của Napoléon Bonaparte.
Lo sợ trước phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân và sự phục hồi của vương triều Bourbons, giai cấp tư sản thấy cần phải có một chính quyền mạnh, họ đã nhờ đến Napoléon. Napoléon làm cuộc đảo chính ngày18 tháng Sương mù 1799. Chế độ Ðốc chính chấm dứt, nền độc tài quân sự của Napoleon bắt đầu.
3. Tính chất ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp 1789
Ðây là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nó đã lật đổ những quan hệ lỗi thời của nền quân chủ chuyên chế phong kiến. Cuộc Cách mạng này đã tuyên bố một chế độ chính trị mới ở Pháp, đã giải phóng nông dân khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển.
Trong cuộc cách mạng này, giai cấp tư sản đã đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu đã tham gia vào tiến trình của cách mạng và đã đưa cách mạng tiến lên, vượt ra ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Chính sự tham gia của quần chúng nhân dân đã làm cho cách mạng Pháp mang tính dân chủ rộng rãi và triệt để cách mạng so với những cuộc cách mạng trước nó. Cách mạng Pháp có một ý nghĩa lịch sử quan trọng không những đối với lịch sử nước Pháp mà cả đối với lịch sử châu Âu lúc bấy giờ. Những tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp ảnh hưởng đến các nước châu Âu và làm cho chế độ phong kiến ở các nước này bị lung lay. "Cách mạng Pháp xứng đáng là một cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã diễn tiến dưới dấu hiệu của cách mạng Pháp" (Lê Nin)
Hanamizuki