Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mêđốt là ở giữa và pôtamốt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và Ơphrát ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ nước Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pécxích). Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và Ơphrát dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt, đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn ở cửa sông này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển do đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Bản đồ tổng quan Lưỡng Hà cổ đại
1. Ðiều kiện thiên nhiên ở lưu vực Lưỡng Hà
Khu vực do hạ lưu hai con sông Tigre và Euphrate tạo thành gọi là Lưỡng Hà hay Mésopotamie có nghĩa làmiền đất đai ở giữa hai con sông Giống như miền thung lũng sông Nin, lưu vực Lưỡng Hà cũng là một khu vực phì nhiêu rất thích hợp cho nghề nông.
Lưu vực Lưỡng Hà cũng như Ai cập là nơi phát tích của một nền văn minh tối cổ của loài người. Chỗ khác nhau là: Ai cập thì bốn bề đều có biên giới thiên nhiên cách trở, đất nước không bị ngoại tộc đến xâm lược một cách thường xuyên. Còn lưu vực Lưỡng Hà thì địa hình bằng phẳng, không có biên giới thiên nhiên hiểm trở. Do đó, những bộ tộc du mục sống ở ven núi hay trên các miền sa mạc ở chung quanh khu vực Lưỡng Hà đều dòm ngó một cách thèm thuồng miếng đất phì nhiêu xanh tươi ấy. Bởi vậy, lịch sử của Lưỡng Hà đầy dẫy những cuộc chiến tranh giữa những bộ tộc định cư và những bộ tộc du mục nhằm tranh giành quyền làm chủ khu vực này.
2. Các quốc gia tối cổ ở Lưỡng Hà: Sumer và Akkcad.
Vào khỏang nữa sau thiên niên kỷ IV trước công nguyên, cùng thời kỳ mà người Ai-cập bắt đầu xây dựng nhà nước, cư dân ở lưu vực Lưỡng-hà cũng đã sớm thoát ly khỏi chế độ công xã nguyên thủy, bắt đầu xây dựng nhà nước của mình trên cơ sở chế độ nô lệ.
Người Sumer là kẻ đã đặt nền móng đầu tiên cho nền văn hóa cổ đại ở lưu vực Lưỡng Hà.
Nhưng người Sumer cũng không phải là người bản xứ đã sống từ trước ở đấy. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ IV trước công nguyên, họ mới đến định cư ở Nam bộ Lưỡng Hà.
Sau khi người sumer đã thiên di đến lưu vực Lưỡng Hà, ban đầu họ còn sống tập trung với nhau để chăn nuôi và làm ruộng theo chế độ công xã thị tộc. Họ đã phát minh ra đồ đồng rất sớm, đã bước từ thời đại đồ đá sang thời đại đồ kim loại. Họ đã có thể chế tạo được những đồ gốm tinh xảo, dệt được các thứ vải. Họ đã xây đắp được nhiều công trình thủy lợi khá hoàn bị và đã biết dùng trâu,bò để cày ruộng. Người sumer còn biết dùng xe cộ và dùng bàn quay làm đồ gốm sớm hơn cả người Ai cập.
Nô lệ dĩ nhiên là phải làm việc nặng nhọc suốt năm, nô lệ đều là những tù binh bị bắt trong chiến tranh hay mua ở nước ngoài dem về. Phần lớn nô lệ là thuộc về nhà nước hay đền đài. Một số gia đình quý tộc giàu có cũng có thể có nô lệ. Nô lệ chủ yếu làm việc trong gia đình, xây đắp các công trình thuỷ lợi, canh giữ đồng ruộng, chăn nuôi súc vật,v.v. Nô lệ thường không được lao động cùng với dân tự do. Nông dân công xã đảm nhiệm chủ yếu công việc sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Chế độ nô lệ ở các quốc gia cổ đại Lưỡng-hà mang nặng tính chất gia trưởng. Nô lệ không được sử dụng rộng rãi trong lao động sản xuất và họ có thể có gia đình riêng.
Khoảng năm 3500 trước công nguyên, ước chừng đồng thời với người cổ Ai cập, người Sumer Sumer cũng đã phát minh ra chữ viết của mình. Vì thứ chữ đó hình giống như các góc nhọn hay các đinh nhọn chắp nối lại với nhau, nên người ta gọi là chữtiết hình hay chữ hình góc nhọn .
Lịch pháp đã có người Sumer làm theo nguyên tắc âm lịch: 29 ngày hoặc 30 ngày là một tháng, 12 tháng là một năm; đương nhiên lịch pháp đó không thật khớp với thời gian quả đất vận chuyển một vòng xung quang mặt trời, cho nên họ mới đặt ra tháng nhuận. Âm lịch của người Sumer rất gần với nông lịch của Trung Quốc; nó được các bộ tộc khác ở Tây Á sữ dụng một cách rộng rãi. Ðến ngày nay, người Hồi giáo và người Do Thái ở Tây Á vẫn sữ dụng lịch pháp ấy.
Về toán học hệ đếm của người Sumer lấy 60 làm cơ số, nhưng cũng bổ sung thêm bằng cơ số thập phân. Ngày nay người ta phân vòng tròn làm 360 độ, phân một giờ làm 60 phút, một phút làm 60 giây, d0ó là thừa hưởng phát minh của người Sumer để lại.
Khoảng đầu thiên niên kỷ III trước công nguyên, người Sê-mit đã di cư từ miền ngoại Cap-ca-dơ xuống phương Nam. Họ chia ra làm nhiều bộ lạc, sống cuộc đời du mục ở suốt cả một dải đất từ Xi-ri đến sa mạc Ai cập.
Trong tất cả các giống người thuộc chủng tộc Sê-mit, thì người Akkad là giống người bước vào thời kỳ lịch sử xã hội có giai cấp sớm nhất. Vào khoảng năm 3500 trước công nguyên, họ đã định cư ở vùng trung du Lưỡng Hà, tại miền Akkad. Lúc người Sumer đang dựng lên một quốc gia- thành thị của họ ở miền Nam lưu vực Lưỡng Hà, thì người Akkad cũng đã dời bỏ đời đời sống du mục để làm nghề nông.
Trên lưu vực Lưỡng-hà, người Sumer và người Akkad đã từng đánh nhau suốt mấy trăm năm để tranh giành quyền bá chủ.
Cuối thế kỷ XXIV trước công nguyên, lãnh tụ quân sự của người Akkad là Sargon đánh thắng vương quốc của người Sumer, dùng vũ lực thống nhất cả lưu vực Lưỡng Hà.
Sau khi đã chinh phục được người Sumer, người Akkad lại tiếp thu hoàn toàn nền văn hóa tiên tiến của kẻ bị chinh phục: về kỹ thuật canh tác nông nghiệp, về lịch pháp, sổ học, kiến trúc, công nghệ cũng như về tín ngưỡng tôn giáo và chữ viết. Về sau, lâu ngày người Akkad và người Sumer dần dần đồng hóa với nhau.
Khoảng năm 2228 trước công nguyên, bộ tộc Gu-ti sống tại miền rừng núi Gu-ti-um ở phía đông sông Tigre, xâm nhập lưu Lưỡng Hà. Ðế quốc do người Akkad dựng lên đã bị lật đổ trong cuộc xâm lăng ấy. Người Gu-ti liền đặt nền thống trị của họ trên toàn bộ lưu vực Lưỡng Hà, thay cho người Akkad.
Người Gu-ti thống trị lưu vực Lưỡng-Hà ước trên bảy mươi năm. Trong thời gian đó, người Sumer và người Akkad nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống lại sự áp bức của người Gu-ti. Ðến khoảng năm 2150 trước công nguyên, người Sumer đánh đuổi được người Gu-ti ra khỏi khu vực Lưỡng Hà, khôi phục lại nền độc lập của người Sumer. Từ đó về sau, người Sumer lại khống chế người Akkad, trở lại làm chủ ở lưu vực Lưỡng Hà.
Sau khi đã đánh đổ ách thống trị của người ngoại tộc, người Sumer đã tiến lên một trình độ cao hơn về sinh hoạt kinh tế và văn hóa. Thành bang Ua ở vùng Sumer cuối cùng phát triển lên thành một đế quốc, đế quốc Ua, tồn tại trên một trăm năm (2118-2007 trước công nguyên). Khoảng năm 2007 trước công nguyên, người Amorites ở phía tây và người Ê-lam ở phía đông lại xâm nhập Lưỡng Hà, lật đổ nền thống trị của đế quốc Ua.
Dưới sức tấn công của cả hai mặt, các thành bang Sumer mất hết độc lập chính trị của mình. Từ đó về sau, người Sumer không khôi phục lại độp lập của họ được nữa, dần dần đi đến chỗ suy vong. Tuy vậy, nền văn hóa rực rỡ của người Sumer ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa của các bộ tộc khác ở vùng Trung Cạn Ðông; kỷ thuật canh tác của họ, lịch pháp, số học, văn tự hình góc nhọn, kiến trúc và công nghệ của họ đều là những di sản vô cùng quí báu của nền văn hóa cổ đại ở lưu vực Lưỡng-Hà.
3.Vương quốc Babylone và thời đại Hammourabi.
Lúc đế quốc Ua của người Sumer đang trên đà suy yếu, thì một bộ tộc Sê-mit sống ở miền Xi-ri, gọi là người Amorites thừa cơ xâm nhập lưu vực Lưỡng-hà, lật đổ đế quốc Ua.
Khoảng năm 1894 trước công nguyên, người Amorites chọn thành Babylone ở trên bờ sông Euphrate làm thủ đô, thành lập lên ở đấy một vương quốc chiếm hữu nô lệ.
Vương quốc Babylone hưng thịnh nhất và mở mang lãnh thổ rộng lớn nhất là thời vua Hammourabi.Dưới thời ông ta trị vì (1792-1750 trước công nguyên).
Ðể cũng cố nền thống trị của giai cấp quí tộc chủ nô, Hammourabi đật một bộ luật gọi là một luật Hammourabi gồm có 282 điều khoản.
Nhìn chung, xã hội chiếm hữu nô lệ Babylone có những đặc điểm nổi bật dưới đây.Sự phát triển của chế độ tư hữu về ruộng đất và của quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên sự phát triển của chế độ tư hữu vẫn còn bị nhiều hạn chế và chế độ nô lệ cũng còn mang nặng tính chất gia trưởng.
Nền kinh tế về cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên. Chế độ chính trị chuyên chế trung ương tập quyền. Nhà vua Babylone tập trung trong tay vương quyền lẫn thần quyền. Vua là kẻ chỉ huy tối cao về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, đồng thời cũng là tăng lữ tối cao, thay mặt thần, để trị dân.
4. Ðế quốc Assyrie.
Thành bang Assyrie nằm ở phía bắc Mesopotamie, ở đây đất đai không được tốt lắm, khí hậu khô khan, nhưng Assyrie có mục trường rộng lớn, có đá vôi, có gỗ quý dùng làm vật liệu xây dựng rất tốt và nhất là có một vùng khoáng sản tiếp liền với khu vực mỏ đồng và mỏ sắc ở miền Ðông bắc Tiểu Á. Họ sống chủ yếu về nghề chăn nuôi và săn bắn, nghề nông không phát đạt lắm.
Về mặt văn hóa, người Assyrie chịu ảnh hưởng nhiều nhất của người Sumer, Akkad, sau định cư ở phía bắc lưu vực Lưỡng Hà, họ học liền ở người Sumer lịch pháp, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Người Assyrie là một bộ tộc phát triển sau, nên lúc này sự phân hóa giai cấp trong nội bộ chưa kịch liệt lắm, trong khi đó thì các nước láng giềng đang ngày càng suy yếu vì mâu thuẫn gây gắt trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là những nguyên nhân chính đã giúp cho người Assyrie tự cường lên nhanh chống.
Ðế quốc Assyrie là đế quốc đầu tiên có lãnh thổ rộng lớn nhất, cũng là đế quốc đầu tiên đã thâu tốn nhiều trung tâm văn hóa cổ đại như: Lưỡng Hà, I-ran, xi-ri, Tiểu Á, Pa-le-xtin, Ai cập dưới một chính quyền thống nhất. Ðế quốc Assyrie là một đế quốc rộng lớn, nhưng nó chỉ là một tổ chức liên minh quân sự và hành chính to lớn, nó không có một cơ sở kinh tế thống nhất vững chắc. Chiến tranh xâm lược liên miên đã làm cho nông dân công xã và dân chăn nuôi giảm sút nhanh chống. Mâu thuẫn trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô lệ luôn luôn tiêu hao lực lượng kinh tế và lực lượng quân sự của đế quốc Assyrie. Chính lúc này lại có rất nhiều bộ lạc du mục chung quanh xâm nhập vào Lưỡng Hà. Năm 612, liên quân của người Can-đê và người Me-đơ đánh chiếm kinh đô Ni-ni-vơ: đế quốc Assyrie, xây dựng bằng vũ lực, bị diệt vong từ đó.
Bản đồ tổng quan Lưỡng Hà cổ đại
1. Ðiều kiện thiên nhiên ở lưu vực Lưỡng Hà
Khu vực do hạ lưu hai con sông Tigre và Euphrate tạo thành gọi là Lưỡng Hà hay Mésopotamie có nghĩa làmiền đất đai ở giữa hai con sông Giống như miền thung lũng sông Nin, lưu vực Lưỡng Hà cũng là một khu vực phì nhiêu rất thích hợp cho nghề nông.
Lưu vực Lưỡng Hà cũng như Ai cập là nơi phát tích của một nền văn minh tối cổ của loài người. Chỗ khác nhau là: Ai cập thì bốn bề đều có biên giới thiên nhiên cách trở, đất nước không bị ngoại tộc đến xâm lược một cách thường xuyên. Còn lưu vực Lưỡng Hà thì địa hình bằng phẳng, không có biên giới thiên nhiên hiểm trở. Do đó, những bộ tộc du mục sống ở ven núi hay trên các miền sa mạc ở chung quanh khu vực Lưỡng Hà đều dòm ngó một cách thèm thuồng miếng đất phì nhiêu xanh tươi ấy. Bởi vậy, lịch sử của Lưỡng Hà đầy dẫy những cuộc chiến tranh giữa những bộ tộc định cư và những bộ tộc du mục nhằm tranh giành quyền làm chủ khu vực này.
2. Các quốc gia tối cổ ở Lưỡng Hà: Sumer và Akkcad.
Vào khỏang nữa sau thiên niên kỷ IV trước công nguyên, cùng thời kỳ mà người Ai-cập bắt đầu xây dựng nhà nước, cư dân ở lưu vực Lưỡng-hà cũng đã sớm thoát ly khỏi chế độ công xã nguyên thủy, bắt đầu xây dựng nhà nước của mình trên cơ sở chế độ nô lệ.
Người Sumer là kẻ đã đặt nền móng đầu tiên cho nền văn hóa cổ đại ở lưu vực Lưỡng Hà.
Nhưng người Sumer cũng không phải là người bản xứ đã sống từ trước ở đấy. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ IV trước công nguyên, họ mới đến định cư ở Nam bộ Lưỡng Hà.
Sau khi người sumer đã thiên di đến lưu vực Lưỡng Hà, ban đầu họ còn sống tập trung với nhau để chăn nuôi và làm ruộng theo chế độ công xã thị tộc. Họ đã phát minh ra đồ đồng rất sớm, đã bước từ thời đại đồ đá sang thời đại đồ kim loại. Họ đã có thể chế tạo được những đồ gốm tinh xảo, dệt được các thứ vải. Họ đã xây đắp được nhiều công trình thủy lợi khá hoàn bị và đã biết dùng trâu,bò để cày ruộng. Người sumer còn biết dùng xe cộ và dùng bàn quay làm đồ gốm sớm hơn cả người Ai cập.
Nô lệ dĩ nhiên là phải làm việc nặng nhọc suốt năm, nô lệ đều là những tù binh bị bắt trong chiến tranh hay mua ở nước ngoài dem về. Phần lớn nô lệ là thuộc về nhà nước hay đền đài. Một số gia đình quý tộc giàu có cũng có thể có nô lệ. Nô lệ chủ yếu làm việc trong gia đình, xây đắp các công trình thuỷ lợi, canh giữ đồng ruộng, chăn nuôi súc vật,v.v. Nô lệ thường không được lao động cùng với dân tự do. Nông dân công xã đảm nhiệm chủ yếu công việc sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Chế độ nô lệ ở các quốc gia cổ đại Lưỡng-hà mang nặng tính chất gia trưởng. Nô lệ không được sử dụng rộng rãi trong lao động sản xuất và họ có thể có gia đình riêng.
Khoảng năm 3500 trước công nguyên, ước chừng đồng thời với người cổ Ai cập, người Sumer Sumer cũng đã phát minh ra chữ viết của mình. Vì thứ chữ đó hình giống như các góc nhọn hay các đinh nhọn chắp nối lại với nhau, nên người ta gọi là chữtiết hình hay chữ hình góc nhọn .
Lịch pháp đã có người Sumer làm theo nguyên tắc âm lịch: 29 ngày hoặc 30 ngày là một tháng, 12 tháng là một năm; đương nhiên lịch pháp đó không thật khớp với thời gian quả đất vận chuyển một vòng xung quang mặt trời, cho nên họ mới đặt ra tháng nhuận. Âm lịch của người Sumer rất gần với nông lịch của Trung Quốc; nó được các bộ tộc khác ở Tây Á sữ dụng một cách rộng rãi. Ðến ngày nay, người Hồi giáo và người Do Thái ở Tây Á vẫn sữ dụng lịch pháp ấy.
Về toán học hệ đếm của người Sumer lấy 60 làm cơ số, nhưng cũng bổ sung thêm bằng cơ số thập phân. Ngày nay người ta phân vòng tròn làm 360 độ, phân một giờ làm 60 phút, một phút làm 60 giây, d0ó là thừa hưởng phát minh của người Sumer để lại.
Khoảng đầu thiên niên kỷ III trước công nguyên, người Sê-mit đã di cư từ miền ngoại Cap-ca-dơ xuống phương Nam. Họ chia ra làm nhiều bộ lạc, sống cuộc đời du mục ở suốt cả một dải đất từ Xi-ri đến sa mạc Ai cập.
Trong tất cả các giống người thuộc chủng tộc Sê-mit, thì người Akkad là giống người bước vào thời kỳ lịch sử xã hội có giai cấp sớm nhất. Vào khoảng năm 3500 trước công nguyên, họ đã định cư ở vùng trung du Lưỡng Hà, tại miền Akkad. Lúc người Sumer đang dựng lên một quốc gia- thành thị của họ ở miền Nam lưu vực Lưỡng Hà, thì người Akkad cũng đã dời bỏ đời đời sống du mục để làm nghề nông.
Trên lưu vực Lưỡng-hà, người Sumer và người Akkad đã từng đánh nhau suốt mấy trăm năm để tranh giành quyền bá chủ.
Cuối thế kỷ XXIV trước công nguyên, lãnh tụ quân sự của người Akkad là Sargon đánh thắng vương quốc của người Sumer, dùng vũ lực thống nhất cả lưu vực Lưỡng Hà.
Sau khi đã chinh phục được người Sumer, người Akkad lại tiếp thu hoàn toàn nền văn hóa tiên tiến của kẻ bị chinh phục: về kỹ thuật canh tác nông nghiệp, về lịch pháp, sổ học, kiến trúc, công nghệ cũng như về tín ngưỡng tôn giáo và chữ viết. Về sau, lâu ngày người Akkad và người Sumer dần dần đồng hóa với nhau.
Khoảng năm 2228 trước công nguyên, bộ tộc Gu-ti sống tại miền rừng núi Gu-ti-um ở phía đông sông Tigre, xâm nhập lưu Lưỡng Hà. Ðế quốc do người Akkad dựng lên đã bị lật đổ trong cuộc xâm lăng ấy. Người Gu-ti liền đặt nền thống trị của họ trên toàn bộ lưu vực Lưỡng Hà, thay cho người Akkad.
Người Gu-ti thống trị lưu vực Lưỡng-Hà ước trên bảy mươi năm. Trong thời gian đó, người Sumer và người Akkad nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống lại sự áp bức của người Gu-ti. Ðến khoảng năm 2150 trước công nguyên, người Sumer đánh đuổi được người Gu-ti ra khỏi khu vực Lưỡng Hà, khôi phục lại nền độc lập của người Sumer. Từ đó về sau, người Sumer lại khống chế người Akkad, trở lại làm chủ ở lưu vực Lưỡng Hà.
Sau khi đã đánh đổ ách thống trị của người ngoại tộc, người Sumer đã tiến lên một trình độ cao hơn về sinh hoạt kinh tế và văn hóa. Thành bang Ua ở vùng Sumer cuối cùng phát triển lên thành một đế quốc, đế quốc Ua, tồn tại trên một trăm năm (2118-2007 trước công nguyên). Khoảng năm 2007 trước công nguyên, người Amorites ở phía tây và người Ê-lam ở phía đông lại xâm nhập Lưỡng Hà, lật đổ nền thống trị của đế quốc Ua.
Dưới sức tấn công của cả hai mặt, các thành bang Sumer mất hết độc lập chính trị của mình. Từ đó về sau, người Sumer không khôi phục lại độp lập của họ được nữa, dần dần đi đến chỗ suy vong. Tuy vậy, nền văn hóa rực rỡ của người Sumer ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa của các bộ tộc khác ở vùng Trung Cạn Ðông; kỷ thuật canh tác của họ, lịch pháp, số học, văn tự hình góc nhọn, kiến trúc và công nghệ của họ đều là những di sản vô cùng quí báu của nền văn hóa cổ đại ở lưu vực Lưỡng-Hà.
3.Vương quốc Babylone và thời đại Hammourabi.
Lúc đế quốc Ua của người Sumer đang trên đà suy yếu, thì một bộ tộc Sê-mit sống ở miền Xi-ri, gọi là người Amorites thừa cơ xâm nhập lưu vực Lưỡng-hà, lật đổ đế quốc Ua.
Khoảng năm 1894 trước công nguyên, người Amorites chọn thành Babylone ở trên bờ sông Euphrate làm thủ đô, thành lập lên ở đấy một vương quốc chiếm hữu nô lệ.
Vương quốc Babylone hưng thịnh nhất và mở mang lãnh thổ rộng lớn nhất là thời vua Hammourabi.Dưới thời ông ta trị vì (1792-1750 trước công nguyên).
Ðể cũng cố nền thống trị của giai cấp quí tộc chủ nô, Hammourabi đật một bộ luật gọi là một luật Hammourabi gồm có 282 điều khoản.
Nhìn chung, xã hội chiếm hữu nô lệ Babylone có những đặc điểm nổi bật dưới đây.Sự phát triển của chế độ tư hữu về ruộng đất và của quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên sự phát triển của chế độ tư hữu vẫn còn bị nhiều hạn chế và chế độ nô lệ cũng còn mang nặng tính chất gia trưởng.
Nền kinh tế về cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên. Chế độ chính trị chuyên chế trung ương tập quyền. Nhà vua Babylone tập trung trong tay vương quyền lẫn thần quyền. Vua là kẻ chỉ huy tối cao về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, đồng thời cũng là tăng lữ tối cao, thay mặt thần, để trị dân.
4. Ðế quốc Assyrie.
Thành bang Assyrie nằm ở phía bắc Mesopotamie, ở đây đất đai không được tốt lắm, khí hậu khô khan, nhưng Assyrie có mục trường rộng lớn, có đá vôi, có gỗ quý dùng làm vật liệu xây dựng rất tốt và nhất là có một vùng khoáng sản tiếp liền với khu vực mỏ đồng và mỏ sắc ở miền Ðông bắc Tiểu Á. Họ sống chủ yếu về nghề chăn nuôi và săn bắn, nghề nông không phát đạt lắm.
Về mặt văn hóa, người Assyrie chịu ảnh hưởng nhiều nhất của người Sumer, Akkad, sau định cư ở phía bắc lưu vực Lưỡng Hà, họ học liền ở người Sumer lịch pháp, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Người Assyrie là một bộ tộc phát triển sau, nên lúc này sự phân hóa giai cấp trong nội bộ chưa kịch liệt lắm, trong khi đó thì các nước láng giềng đang ngày càng suy yếu vì mâu thuẫn gây gắt trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là những nguyên nhân chính đã giúp cho người Assyrie tự cường lên nhanh chống.
Ðế quốc Assyrie là đế quốc đầu tiên có lãnh thổ rộng lớn nhất, cũng là đế quốc đầu tiên đã thâu tốn nhiều trung tâm văn hóa cổ đại như: Lưỡng Hà, I-ran, xi-ri, Tiểu Á, Pa-le-xtin, Ai cập dưới một chính quyền thống nhất. Ðế quốc Assyrie là một đế quốc rộng lớn, nhưng nó chỉ là một tổ chức liên minh quân sự và hành chính to lớn, nó không có một cơ sở kinh tế thống nhất vững chắc. Chiến tranh xâm lược liên miên đã làm cho nông dân công xã và dân chăn nuôi giảm sút nhanh chống. Mâu thuẫn trong nội bộ xã hội chiếm hữu nô lệ luôn luôn tiêu hao lực lượng kinh tế và lực lượng quân sự của đế quốc Assyrie. Chính lúc này lại có rất nhiều bộ lạc du mục chung quanh xâm nhập vào Lưỡng Hà. Năm 612, liên quân của người Can-đê và người Me-đơ đánh chiếm kinh đô Ni-ni-vơ: đế quốc Assyrie, xây dựng bằng vũ lực, bị diệt vong từ đó.
Sửa lần cuối: