• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

uocmo_kchodoi

Moderator
Xu
0
Từ lâu câu chuyện về nguồn gốc của loài người vẫn là một câu chuyện khó đối với các nhà khoa học. Tuy rằng ngày nay đã có câu trả lời khá làm hài lòng mọi người trong cũng như ngoài giới khoa học, nhưng dù sao cũng có tồn tại nỗi vướng mắc chính là không có thời gian hay địa điểm rõ ràng, chính xác nào cho biết loài người đã xuất hiện đầu tiên ở đó cả. Sự xáo trộn sinh học đầu tiên của con người xảy ra vào thời điểm tiến hành thí nghiệm tiến hóa trong chi người, Homo.

THE INCREDIBLE HUMAN JOURNEY
(Cuộc hành trình vĩ đại của loài người)

Lê Quỳnh Ba biên tập
Theo “The Incredible Human Journey", Alice Roberts

“The Incredible Human Journey” là bộ phim tài liệu khoa học 5 tập, dài 300 phút, được giới thiệu bởi Tiến sĩ Alice Roberts. Phim lần đầu tiên được chiếu trên đài BBC, Vương quốc Anh vào tháng 5 và 6, năm 2009. Cô là giáo sư về Kết nối Cộng đồng trong Khoa học ở Đại học Birmingham, Anh Quốc.

I: Rời khỏi châu Phi (Out of Africa)
  1. Homo sapiens xuất hiện ở Đông Phi:
Ngày nay, các nhà khoa học đa số thống nhất loài người đã tiến hóa từ vượn người qua 3 loại hình cơ bản. Ba loại hình đó là:

Homo habillis (Người Khéo léo),

Homo erectus (Người Đứng thẳng),

Homo sapiens (Người Tinh khôn, người Hiện đại).

evoluciohumana.jpeg

Vượn người Phương Nam (Australopithecus) là dạng vượn người đầu tiên, sống cách nay ít nhất 3 – 4 triệu năm. Đại diện là hóa thạch của Lucy (Australopithecus afarensis), phát hiện năm 1974, niên đại khoảng 3,85 – 2,95 triệu năm. Họ giống khỉ hơn giống chúng ta.

Cách đây 3,0 đến 1,5 triệu năm, khi vượn người biết chế tạo công cụ được gọi là con người. Nhóm con người đầu tiên được đặt tên Homo habillis (Người Khéo léo), không phải vì họ thực sự khéo léo mà do biết chế tạo công cụ hơn dạng vượn người mà thôi. Người Khéo léo biết chế tạo công cụ dùng để đập hạt, cắt thịt,…

Cách đây 1,8 triệu năm, con người tiến hóa hơn biết dùng lửa, biết chế tạo dụng cụ cắt phức tạp hơn được gọi là Homo erectus (Người Đứng thẳng). Loài này đã bắt nguồn từ châu Phi (có thể cả Đông Nam Á) và lan tỏa xa tới Anh, Gruzia, Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Jave). Một số đại diện như: Homo heidelbergensis, Người vượn Java, Người vượn Bắc kinh,… Loài này hiện nay đã tuyệt chủng.

Cách đây khoảng 200.000 năm ở Đông Phi bắt đầu xuất hiện Homo sapiens (Người Tinh khôn). Người Tinh khôn trông giống loài người như ngày nay, đã biết mặc quần áo.

2. Người Tinh khôn đã rời khỏi châu Phi như thế nào.

df9eb.png

Roberts đến Namibia nơi có người Bụi rậm Kalahari, bộ tộc săn bắn hái lượm cuối cùng trên lục địa, để minh chứng người Tinh khôn đã tiến hóa thích nghi với lối sống săn bắt hái lượm. Cô theo họ đi săn, diễn giải rằng khi họ chạy rượt đuổi các con thú, cơ thể có nhiều cơ chế làm cho sức khỏe họ dẻo dai hơn các con thú. Như việc tiết ra mồ hôi làm giảm nhiệt độ cơ thể nên lâu mệt, trong khi các con thú bị săn (như nai, hươu,…) không có cơ chế tiết mồ hôi nên mau bị mệt. Họ có thể rượt đuổi cho đến khi chúng chạy không nỗi nữa. Hay lòng bàn chân có vòm cong khiến bàn chân linh hoạt hơn. Việc thường xuyên chạy khiến phát triển cơ mông săn chắc. Họ có ngôn ngữ nghe như tiếng lách cách, nhiều phụ âm. Họ biết lên kế hoạch cho buổi đi săn,… Những sự tiến hóa, thích nghi đó đã thực sự hữu ích giúp người hiện đại thích nghi với lối sống săn bắt hái lượm. Khác với cuộc sống leo trèo, đung đưa trên cây khi rừng nhiệt đới còn rậm rạp. Sự tiến hóa đó, giúp họ tồn tại được và phân tán khắp lục địa.

Cô đến thăm di chỉ Omo ở Ethiopia, đó là nơi phát hiện mẫu vật con người hiện đại về mặt giải phẫu sớm nhất. Ở gần làng Kibish của bộ tộc Nyangatom, các nhà cổ sinh vật học đã tìm thấy sọ của H. sapiens, niên đại 195.000 tuổi, sống ở hoang mạc bắc Phi khác với Homo heidelbergensis (thuộc Homo erectus) niên đại khoảng 500.000 năm. Homo heidelbergensiscó thể là tổ tiên chung của H. sapiensH. neanderthalensis.

Tại Nam Phi, cô thăm các hang động ở Pinnacle Point nơi người tối cổ đã sống. Trong lớp đất 130.000 – 167.000 năm ở Cape Town, Nam Phi, phát hiện loại giáo có ngạnh, để tính sát thương mạnh hơn. Vậy là 160.000 trước đây, H. sapiens đã sống rất nhiều nơi ở châu Phi.

Sau đó, cô giải thích rằng về di truyền học cho thấy rằng tất cả những người ngoài châu Phi (non-African) có thể là hậu duệ từ một nhóm nhỏ duy nhất từ châu Phi, những người đã rời lục địa hàng chục ngàn năm trước. Cô tìm hiểu các giả thuyết khác nhau về con đường họ đã đi. Vào khoảng 125.000 năm trước, sa mạc trở nên xanh tươi hơn, cho phép người Hiện đại băng qua núi Sinai vào bán đảo Arab. Năm 1930, ở hang Skul, Israen, phát hiện hầm mộ niên đại 100.000 năm. Nhánh này hình như đã chết hoàn toàn, có lẽ do đợt lạnh ở Trung Đông.

Vào khoảng 90.000 năm trước, bán đảo Arab và châu Phi trở lại thành sa mạc. Mực nước biển thấp hơn bây giờ 120 m. Eo biển Đỏ bây giờ rộng 30 km, lúc đó chỉ còn 11 km. Khoảng vài trăm người đã vượt qua eo biển, có thể là 1 bộ tộc đơn lẻ.

Vào khoảng 70.000 – 12.000 năm trước, phát hiện các dụng cụ đá ở Oman giống như ở thung lũng sông Somerset, những vùng này có nước, người Hiện đại đã đi dọc theo bờ biển bán đảo Arab, vào vùng Lưỡng Hà rồi tỏa đi khắp thế giới.

Các dân tộc trên thế giới, dường như là hậu duệ của 1 nhóm người khoảng 100 cá thể rời Đông Phi cách đây 70.000 năm qua vùng Sừng châu Phi.

II: Người Tinh khôn đến châu Á

CHÚNG TA ĐÃ Ở ĐÂU? Có chiến thắng thời kỳ băng hà không?
Người Trung Quốc có thể bắt nguồn từ 1 nhánh khác trong cây Phả hệ loài người? Khác với các dân tộc khác? Tại sao con người dấn thân vào nơi lạnh giá cách đây khoảng 40.000 năm?

Qua các nghiên trước, cho thấy Homo sapiens đã đi dọc theo bờ biển bán đảo Arab, qua cao nguyên Iran vào Trung Á, men theo các dãy núi chọc trời bên phải, tiến vào Siberi khoảng 40.000 năm trước. Khoảng 30.000 trước đây, họ đã tới bờ Bắc Băng Dương. Có 1 nhánh đi ven theo bờ biển Nam Á, rồi đi dọc theo Đông Nam Á để đi lên Trung Quốc.

Trong tập thứ hai, Roberts đi đến Siberia và thăm một cộng đồng dân bản địa bị cô lập, người Evenki vẫn còn sinh sống nhờ vào săn bắn tuần lộc. So sánh cách sống của họ nơi lạnh giá khắc nghiệt, khác biệt với châu Phi ấm áp, cô tự hỏi làm thế nào người châu Phi cổ đại có thể thích nghi được với khí hậu Bắc Á rất băng giá và tại sao người châu Á trông rất khác với người châu Phi. Người Evenki ở Siberi lạnh giá đã chế tạo ra những đôi giày rất ấm từ da tuần lộc. Tìm thấy những cây kim may bằng xương niên đại khoảng 40.000 trước đây. Muốn tồn tại nơi lạnh giá phải có quần áo, giày để giữ ấm. Họ là những người thợ may đầu tiên trên thế giới.

Người châu Phi cổ đại đi theo các con thú để săn bắt. Tìm thấy xương tuần lộc (đã bị ăn thịt) từ thời cổ đại. Đỉnh điểm của thời kỳ băng hà khoảng 25.000 năm trước, âm 80 0C, khí hậu khô hanh. Họ lui về trú ở Malta, Nam Siberia. Ở Bảo tàng Hermitage, Petecbua, trưng bày bộ xương dẹt, con người rất nhỏ, do thiếu thức ăn. Có cặp Thiên nga bằng ngà voi mamut, tại sao họ lại tạo ra Thiên nga. Khi Thiên nga bay về là báo hiệu mùa Xuân bắt đầu. Mùa Xuân đến mới bắt đầu săn bắn. Cho thấy họ sống trong mùa Đông giá lạnh, thiếu ăn, họ rất mong chờ mùa xuân. Điều kiện khắc nghiệt làm xương nhỏ lại.

Thời kỳ đầu của Băng hà cuối, bộ mặt của người Đông Á đã thay đổi. Mắt hình quả hạnh, mặt phẳng hơn, mũi nhỏ hơn. Vì lạnh, mắt nhỏ để giảm mất nhiệt từ mắt.

21.png

Hình: Người Tinh khôn 30.000 năm tuổi ở Hang Thượng, Trung Quốc

Sau đó, Roberts dẫn dắt khám phá có một luận thuyết khác với luận thuyết “rời khỏi châu Phi”. Đó là giả thuyết “Nguồn gốc đa vùng ở thời hiện đại” đã đạt được sự hỗ trợ từ một vài nhóm nhà khoa học ở Trung Quốc. Theo lý thuyết này, người Trung Quốc có nguồn gốc từ người Hôm erectus bản địa chứ không phải từ Hôm sapiens châu Phi như sự tiến hóa của các dân tộc khác.

Roberts đã đến thăm hang động Zhoukoudian (Chu Khẩu Điếm), nơi đã phát hiện Người vượng Bắc Kinh, thuộc loài Hôm erectus được cho là tổ tiên của người Trung Quốc. TheoGS.Wu Xin Zhi (Ngô Tân Chỉ) di cốt người ở Hang Bồ Câu, được gọi là người vượn Bắc Kinh thuộc H. erectus tuổi từ 500.000 – 200.000 năm, họ không có hậu duệ, đã tuyệt chủng. Người hang Thượng niên đại 30.000 năm thuộc H. sapiens từ châu Phi sang. H. erectus Trung Quốc mặt phẳng, mũi tẹt, cạnh dưới hốc mắt cũng phẳng. người Trung Quốc tin tưởng mãnh liệt rằng họ có nguồn gốc khác với các dân tộc khác. Roberts thấy rằng những đặc tính hình thể của người Trung Quốc hiện đại và trong hộp sọ hóa thạch, như xương gò má rộng, hình dạng hộp sọ và những răng cửa hình xẻng là các đặc điểm không có trong hầu như tất cả mọi người khác. Có lẽ đó là do điều kiện địa lý.

Cô cũng thấy rằng các công cụ bằng đá được tìm thấy ở Trung Quốc có vẻ nguyên thủy hơn so với các nơi khác, và suy luận rằng chúng đã được sản xuất chỉ từ Hôm erectus bản địa. Tuy nhiên, cô lưu ý rằng các bằng chứng từ sọ chỉ để tham khảo. Cô phỏng vấn một nhà khảo cổ học Mỹ, người trình bày giả thuyết rằng người Trung Quốc cổ đại sử dụng tre thay cho đá, để giải thích sự vắng mặt của công cụ bằng đá tinh vi, mặc dù chưa có bằng chứng khảo cổ học hỗ trợ cho giả thuyết này.

Cuối cùng, Roberts phỏng vấn nhà di truyền học Trung Quốc Jin Li (Kim lực), Đại học Fudan, Thượng Hải. Người điều hành ở Trung Quốc trong Dự án bản đồ gene người, đã nghiên cứu lấy mẫu ADN hơn 12.000 cá thể sống rải rác khắp Trung Quốc từ 160 nhóm dân tộc. So sánh với một mẫu gen nam giới, chỉ xuất hiện cách đây 80.000 năm ở châu Phi. Nghiên cứu ban đầu đưa ra giả thuyết rằng người Trung Quốc hiện đại tiến hóa từ người Hôm erectus bản địa ở Trung Quốc, nhưng thực tế lại kết luận rằng người Trung Quốc đã không tiến hóa từ người vượn Bắc Kinh (Homo pekinensis), mà cũng di chuyển từ châu Phi đến như phần còn lại của dân cư thế giới.

Ở Hang Tông Phiên, Quế Lâm, có di chỉ về đồ gốm dùng để nấu ăn, về việc trồng lúa cách đây 9.000 năm. Cho thấy có sự định cư, có nền văn minh.

II : Người Tinh khôn đến châu Âu
  1. Lộ trình vào châu Âu:
Ở vùng Đông Transylvania, có hang Pestera cu Oase, mất 1,5 ngày lái xe từ thủ đô Bucaret, Rumani. Vào năm 2002, người ta phát hiện hang, đây là loại hang có nước, gọi là hang Xương vì tìm thấy sọ Homo sapiens niên đại 40.000 năm tuổi, đặt tên là sọ Oase. Đặc điểm, răng cứng hơn, mặt gồ ghề hơn người ngày nay. Nhà hình sự học Richard Neave phục hồi hộp sọ (Hình ). Cho thấy H. sapiens đã đến châu Âu khoảng 45.000 năm trước. Ở bờ biển Ucagizli có vỏ sò 42.000 năm tuổi. Tuyến đường họ có thể đã đi từ châu Phi là qua Trung Đông đến Nam Thổ Nhĩ Kỳ. Roberts đã tiếp tục đi theo con đường đó.

31.png

Hình: Roberts và sọ Oase phục dựng.

Cô đi qua eo biển Bosphorus (eo biển giữa châu Á và châu Âu ở Thổ Nhĩ Kỳ) và ngược sông Danube, dọc theo lộ trình có thể của H. sapiens đã tiến vào châu Âu khoảng 45.000 năm trước.

Eo Bosphorus, cách đây 40.000 – 50.000 năm, mực nước biển còn thấp, đi bộ qua được. Thực tế có tồn tại một phụ nữ đặc biệt cách đây 40.000, ta đặt tên cho bà là bà mẹ Europa, vì bà ấy để lại gen di truyền. Ngày nay 10 % người châu Âu có thể truy nguyên nguồn gen của mình. 10% người châu Âu này là hậu duệ của bà. Khi người Tinh khôn vào châu Âu, sông Danuyps là 1 cửa ngõ bước vào thế giới mới.

2. Đối đầu với Người Neanderthal:

Khi người Tinh khôn tiến vào châu Âu cách đây 40.000 – 45.000 năm, vùng đất này đã có chủ. Người Neanderthal đã cư trú ở đó, phân bố từ Siberia đến Tây Ban Nha.

32.png

Hình: Roberts và mô hình Neanderthal.​

Người Neanderthal chậm chạp và kém thông minh, vạm vỡ, thích nghi việc chịu lạnh, não lớn, săn giỏi, công cụ cắt rất sắc.

Công cụ của người hiện đại gọn nhẹ hơn, an toàn hơn cho người sử dụng. Chiếc lao của người Tinh khôn chỉ cần đứng từ xa, có thể phóng đến sát hại những con thú dữ, còn công cụ của người Neanderthal phải đến gần con thú mới sát thương được. Người ta còn phát hiện một chiếc sáo ngà voi ma mút, niên đại 40.000 – 50.000 năm của người Tinh khôn.

Người Neanderthal và người Tinh khôn đã cùng sống ở thung lũng Lohne. Vậy tại sao người Neanderthal đã tuyệt chủng, còn người Tinh khôn đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.

Người Tinh khôn tính cộng đồng cao hơn, có sáng tạo nghệ thuật, công cụ hiệu quả hơn, phân bố tập trung hơn. Nhờ đó đã thích nghi hiệu quả hơn người Neanderthal. Dần dần Người Neanderthal bị thu hẹp dân số, thu hẹp vùng lãnh thổ. Họ bị dồn đến vùng Gibraltar, cuối cùng là tuyệt chủng.

Cách đây 25.000 năm, có làn di cư thứ 2, từ phía Đông vào châu Âu, gọi là làn di cư của bà mẹ Iris. Ở Doln, Vestonice, Cộng hòa Séc, người ta phát hiện được ngà voi được khắc như là 1 bản đồ; tượng Vệ nữ Doln, Vestonice, tượng gốm đầu tiên. Ngày nay, 2/3 % dân châu Âu thuộc hậu duệ của bà mẹ Iris.

Người Neandertal đã biến mất khoảng 24.000 năm trước. Robert đưa ta đến thăm Gibraltar, nơi được biết đến là có di chỉ về những người Neanderthal cuối cùng. Lúc đó nước biển thấp hơn 100m, so với bây giờ.

3. Những thay đổi để thích nghi với khí hậu châu Âu:

Cách đây 24.000 năm, đỉnh cao của thời kỳ băng hà, nước Anh băng dày 1/2 dặm, âm 20 0C. H. sapiens ở châu Âu phải trốn vào những cái hang. Họ còn để lại các bức tranh hang động ở Lascaux, niên đại khoảng 16.000 tuổi. Khoảng 100 thế hệ kiên nhẫn sống trong hang cho đến khi trái đất ấm trở lại.

Cô bàn về các lý thuyết giải thích lý do tại sao người châu Âu có làn da trắng. Vì châu Âu ít có ánh nắng hơn châu Phi. Và thiếu ánh sáng cũng làm thiếu vitamin D, người ta tìm thấy một số bộ xương bị còi xương.

Những ngôi đền thời đồ đá mới ngoạn mục tại Gobekli Tepe ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ , niên đại 10.000 năm. Đền Göbekli Tepe, một dạng chôn cất trên bầu trời. Nơi đây có khu định cư của thợ săn thú bầy đàn. Cho thấy sự định cư và sự ra đời của ngành nông nghiệp, làm thay đổi hoạt động xã hội.
 

uocmo_kchodoi

Moderator
Xu
0
Có 1 điều hiển nhiên là chúng ta có mối liên quan chặt chẽ với khỉ Hình người. Rất nhiều bằng chứng đã được đưa ra để chứng minh điều đó. Tuy nhiên ta lại đặt ra câu hỏi rằng những tác động nào đã khiến cho chúng tiến hóa thành loài người như hiện nay. Đó là cả một quá trình rất dài, trải qua các giai đoạn khác nhau. Bước đi đầu tiên trong quá trình đó là từ hơn 6 triệu năm trước khi chúng ta bắt đầu có những đặc điểm tách khỏi Khỉ hình người. Loài đó được đặt tên khoa học là Sahelanthropus tchadensis.

VƯỢN NGƯỜI PHƯƠNG NAM
ĐÃ TRỞ THÀNH NGƯỜI KHÉO LÉO NHƯ THẾ NÀO?

Lê Quỳnh Ba biên tập
(Theo phim BECOMING HUMAN,
Viết, sản xuất và chỉ đạo bởi: Graham Townsley,
HHMI (Howard Hughes Medical Institute))


Khoảng 3 triệu năm trước, chúng ta thấy có những sinh vật có bộ não lớn giống Tinh tinh hơn con người. Ranh giới sự tiến hóa của loài người dường như rất mong manh. Giờ đây chúng ta biết rằng trong suốt hàng triệu năm có những sinh vật giống người đã sống cùng nhau trên hành tinh này, khoảng 20 loài. Cho đến 1 ngày, chỉ còn duy nhất người Khôn ngoan, 1 loài thích nghi rất tốt trên Trái đất.

Vậy con đường tiến hóa đó như thế nào? Và tại sao. Một giả thuyết mới cho rằng các giai đoạn biến đổi địa chất đã buột tổ tiên chúng ta phải thích nghi hay tuyệt chủng. Tôi nghĩ mình nên nhìn vào tổ tiên đáng tự hào và cách họ tiến hóa ở Đông Phi. Và đó là cách chúng ta sinh tồn, cách chúng ta có thể sống trong tương lai. Vì vậy hãy chuẩn bị cho chuyến đi hàng triệu năm lịch sử, câu chuyện về nguồn gốc loài người.

NHỮNG BƯỚC TIẾN HÓA ĐẦU TIÊN

Hàng triệu năm trước, trên các đồng bằng châu Phi 1 sự kiện quan trọng đã xảy ra, từ khỉ Hình người từng đi bằng 4 chân đã đứng thẳng đi bằng 2 chân. Rốt cuộc sự thay đổi như thế này là do sự thay đổi trong não của chúng. Bằng cách nào đó, qua thời gian, chúng trở thành chúng ta. Ta biết điều đó đã xảy ra, nhưng ta không biết khi nào. Và tại sao. Cho đến tận bây giờ.

untitled-1.png

Sơ đồ tiến hóa loài người từ 6 triệu năm trước đến nay​

Ở sa mạc Sahara, 1 hóa thạch 6 triệu năm tuổi , tên gọi Toumai (Sahelanthropus tchadensis),có lẽ nắm giữ bí mật về chúng ta lần đầu đi thẳng. Michel Brunet, College France: “Chúng ta đang ở trong trang đầu tiên của sự tiến hóa của loài người. Chúng tôi rất gần với thời kỳ đầu tiên”. Những chiếc xương hóa thạch của đứa trẻ 3,3 triệu năm tuổi đã gợi ý cho chúng ta về sự khởi đầu của sự suy nghĩ của con người.

Chúng ta đã phát hiện nhiều loài người khác nhau sống cùng 1 lúc trên Trái Đất, và tại sao đã bị tuyệt chủng, chỉ còn 1 loài. Chúng ta, những người thông minh và là loài đầu tiên còn lại 1 mình. Điều gì đã thúc đẩy sự tiến hóa của chúng ta? Tại sao lại trở thành người.

Phát hiện Selam thuộc Australopithecus (Vượn người phương Nam)

Các nhà khoa học đã sục sạo khắp các vùng hẻo lánh nhất châu Phi để tìm ra manh mối. Việc tìm kiếm câu trả lời bắt đầu từ đây, ở Afar, Đông Bắc Ethiopia. Đó là một phần của Thung lũng Vết nức lớn, 1 vết cắt lớn vào Trái Đất, nơi các biến đổi địa chất đã tác động vào lục địa châu Phi. Hàng triệu năm lịch sử đã tạo cho bề mặt Trái Đất ở vùng Afar có hình dạng như vậy: nóng, tiêu điều, và cả xung đột nguy hiểm nữa,… Những sự ganh đua cổ xưa và cả vũ khí hiện đại biến Afar thành vành đai trắng xung đột căng thẳng. Nhưng ZeresenayAlemseged, California Academy of Sciences, đã biến vùng cấm địa này thành nơi làm việc của mình.

Vào năm 2000, anh tìm kiếm những hóa thạch về tổ tiên sớm nhất của loài người chúng ta. Xương hóa thạch như voi, sơn dương, lợn rừng có rất nhiều, nhưng hóa thạch của tổ tiên chúng ta thì vô cùng hiếm. Rồi may mắn đã đến, Zeresenay đã tìm kiếm cả cuộc đời, tìm kiếm để làm rõ nguồn gốc chúng ta theo 1 cách đặc biệt. Zeresenay phát biểu: “Chiều hôm đó chúng tôi quyết định khảo sát sườn đồi này, thứ đầu tiên phát hiện ra là xương gò má của 1 khuôn mặt. Đó là 1 khuôn mặt rất nhỏ, chắc là của trẻ sơ sinh. Nhưng không phải là trẻ sơ sinh. Ta có thể nói như vậy nhờ hình dạng của nó”. Cái sọ được bọc trong sa thạch. Khi xoay cái sọ, anh có thể thấy nhiều xương bên trong hơn. Mọi thứ bị lèn kín vào hộp sọ, bọc kín trong sa thạch. Manh mối của hóa thạch gắn liền với đặc trưng vùng đất này, với những dãi tro núi lửa. “Đó tà tro núi lửa có niên đại 3,4 triệu năm. Nếu tro núi lửa có niên đại 3,4 triệu năm cái sọ nằm ngay phía trên phải ít tuổi hơn”. Đó là 1 đứa trẻ từ buổi đầu tiến hóa của loài người khoảng 3,3 triệu năm trước. Zeresenay gọi đứa bé là Selam, tiếng Ethiopia là Hòa Bình. Bắt đầu điều tra làm sáng tỏ nhiều bí ẩn của nó. Hành trình của đứa bé bắt đầu từ rất lâu trước đây.

Hãy hình dung toàn bộ thời gian loài người được lịch sử ghi lại, đưa chúng ta vthời kỳ Kim Tự Tháp Ai Cập 5000 năm trước; gấp đôi lên 10.000 năm trước, khi thực vật được nuôi trồng và nông nghiệp ban đầu. Gấp đôi lên lần nữa 20.000 năm trước tới thời kỳ của thợ săn kỷ Băng hà vẽ hình ảnh gây ngạc nhiên trên tường hang động. Gấp thêm 6 lần, đưa chúng ta về 1,3 triệu năm trước, khi sinh vật đầu tiên trông giống người đi săn trên các đồng bằng châu Phi. Rồi tiếp tục ngược dòng thời gian thêm 2 triệu năm nữa, chúng ta đến thời kỳ của Selam gần 3,3 triệu năm trước.

Selam và họ hàng cô bé trông như thế nào? Họ sống trong thế giới kiểu gì? Câu trả lời ẩn sâu trong bộ xương hóa thạch của họ.

Addis Ababa, thủ đô Ethiopia, quê hương của Zeresenay, anh thuộc tầng lớp các nhà khoa học trẻ châu Phi cố làm sáng tỏ bí ẩn về nguồn gốc loài người. Zeresenay đã mang hóa thạch quý về Bảo tàng Quốc gia. Thách thức lớn đối với anh là gỡ cô bé khỏi nấm mồ sa thạch, mà xương cô bé bị bọc trong đó. Anh nhanh chóng xác định được nhân thân cô bé. Cô bé thuộc loài mà hầu hết các nhà khoa học cho là tổ tiên cổ xưa của chúng ta, Australopithecus afarensis, 1 sinh vật nhỏ giống vượn đi bằng 2 chân. Đây tương tự như Lucy nổi tiếng, mà Donald Johanson đã tìm thấy trong những năm 1970. Donald Johanson, Institute of Human Origins cho rằng: “Lucy vô cùng quan trọng, vì cô là 1 dạng hổn hợp, cô có các đặc điểm khác nhau của khỉ Hình người và người”. Zeresenay nói: “Tôi nghĩ mẫu vật như Selam và Lucy rất đặc biệt, vì đơn giản là chúng ta có thể nghiên cứu và thấy sự tiến hóa đang phát triển”.

lucy.png

Selam (Australopithecus afarensis), niên đại 3,3 triệu năm​

Để thấy sự tiến hóa đang phát triển phải mất một số công đoạn. Hóa thạch của Selam là những hạt cứng được gắn với nhau bởi mạng sa thạch mềm. Nó phải được loại bỏ cẩn thận. Chúng tôi mất hàng giờ, hàng ngày, hàng năm. Chúng tôi đã loại bỏ từng hạt cát một. Anh tập trung làm công việc đó suốt 8 năm trời. Nhưng sự đền đáp thật đáng kinh ngạc. Nhờ công việc tiến triển, Zeresenay gần như phơi bày toàn bộ hộp sọ. Phía bên dưới là xương sống của cô bé cùng với 2 xương vai. Những xương khác cũng được tìm thấy gần đó. Một bàn chân gần như hoàn thiện. Đây là xương bánh chè, xương chày ở đây. Trước đây chưa từng tìm thấy 1 bộ xương đứa trẻ nào đầy đủ như thế. Bộ xương cô bé nằm gọn trong hộp giày, nhưng nói lên rất nhiều về cuộc đời cô bé. Ví dụ điển hình xem cô bé chết lúc mấy tuổi. Zeresenay nhìn vào răng cô bé nhưng trong hàm không phải răng em bé. Có thể thấy trêm phim chụp CT từ đó có thể biết Selam chết năm lên 3 tuổi.

Giống như Lucy cô bé chứng tỏ 1 bước tiến hóa quan trọng, khác với khỉ Hình người những sinh vật này đã đi thẳng. Cũng như hóa thạch đầu tiên, Donald Johanson, đã tìm thấy: nó (xương ống chân) cắm lên mặt đất như thế, và tôi nhẹ nhàng gõ lên bằng giày của mình, và đây là thứ rơi ra đất. Còn đây là đầu trên của xương chày, xương bánh chè ở ngay trên này, ở rất gần 2 xương đó, tôi tìm thấy xương này (xương ống chân trên), ghép chúng với nhau, bạn thấy chúng khớp với nhau như thế nào. Nó có đủ dấu hiệu của 1 người đi thẳng. Những xương khác khẳng định Lucy đi bằng 2 chân như chúng ta. Đây là xương chậu của Lucy, bạn thấy nó rất khác xương của vượn. Có sự thay đổi hướng của những xương chậu này, như vậy chúng không giống nhau. Nhưng rõ ràng 2 cái này giống nhau hơn, khác hẳn 1 con khỉ Hình người”. (Xương chậu Lucy không hướng lên phía trên, mà bè ra như con người). Phần eo trở xuống Lucy giống chúng ta. Phần eo trở lên của cô bé và họ hàng mình giống khỉ Hình người. Xương vai Selam giống vượn giúp cô bé dễ dàng leo trèo, đu cây. Những sinh vật cổ này hẳn là có nhiều thời gian trên cây. Có lẽ là ngủ trên đó để tránh kẻ thù. Nhưng đi thẳng trên mặt đất vào ban ngày. Chúng có nhà ở 2 thế giới. Môi trường sống của chúng như thế nào. Chắc rất khác so với thung lũng Vết nức lớn ngày nay.

Môi trường sống thời Selam và Lucy:

Qua biên giới của Kenya, là 1 trong những nơi nóng nhất và cằn cỗi nhất trên thế giới. Một sự bành trướng của đá núi lửa và sa mạc như thiêu như đốt. Hiện giờ nó là như thế, nhưng có 1 bằng chứng thuyết phục cho phần lịch sử của nó. Đó là nó rất khác bây giờ. Các nhà nghiên cứu bất chấp nhiệt độ cao, vẫn nghiên cứu những dấu hiệu biến đổi khí hậu vùng thung lũng Subacan. Yannick Garcin Daniel Melnick, University of Potsdam: “Vùng thung lũng Subacan, Kenya hiện nay nóng cằn cỗi nhất thế giới, trước đây thung lũng này ngập 580 m nước”. Bạn có thể tưởng tượng: cả thung lũng này được lấp đầy bởi cái hồ lớn. Một cái hồ lớn, sâu hơn mọi cái hồ lớn.

Thực tế, lục địa châu Phi từng ẩm ướt hơn so với bây giờ. Hàng triệu năm trước, từ rất lâu trước thời Selam và Lucy, châu Phi là 1 môi trường nhiệt đới ẩm ướt. Đây là môi trường tổ tiên của Selam và Lucy sinh sống. Trông chúng rất giống với loài vượn. Nhưng rồi châu Phi bắt đầu dần dần khô ráo hơn. Rừng nhiệt đới bắt đầu thu hẹp. Vào thời của Selam vào thời điểm 3 – 4 triệu năm trước, thung lũng Vết nứt lớn là tổng hợp các môi trường khác nhau. Chúng ta biết điều đó nhờ hóa thạch của động vật sống ở đây, xương chúng rãi rác trên mặt đất. Zeresenay: “Đây là răng nanh Hà mã, đây là xương Hà mã. Làm sao có thể tìm thấy 1 con hà mã trong môi trường (khô cằn) kiểu này nhỉ? Có xương linh dương ở đây. Các hóa thạch kể câu chuyện về các phong cảnh biến mất. Đây là hàm dưới 1 con linh dương. Ba triệu năm trước, thung lũng Vết nứt lớn là 1 kiểu chắp vá: các đồng bằng đầy cỏ, các khu rừng, rãi rác có hồ và sông. Chắc chắn rất khác với gì ta thấy ngày nay. Con lợn ở đây. Do môi trường thay đổi, các nhà khoa học tin rằng tổ tiên ta cũng thay đổi”. Đó là những sinh vật dùng hầu hết thời gian ở trên cây giống vượn và đười ươi ngày nay. Nhưng vì rừng của chúng bị thu hẹp, vài con trong đó phát triển đặc điểm đi bằng 2 chân. Đây là 1 trong những đặc điểm đặc trưng của con người. Nhưng làm sao vận động bằng 2 chân phát triển? Và tại sao?

Phát triển đi bằng 2 chân:

Brian Richmond, The George Washinton University cho rằng: “Vận động bằng 2 chân là không bình thường, không có loài động vật có vú nào đi bằng 2 chân như chúng ta. Thật khó tìm hiểu tại sao đi bằng 2 chân? Có rất nhiều giả thuyết, một trong số đó là chúng đứng lên để có thể nhìn qua ngọn cỏ cao, một giả thuyết khác là để hái quả ở cành thấp như tinh tinh làm ngày nay, một giả thuyết khác chúng đứng lên để thấy mát hơn để không chịu nhiều ánh sáng mặt trời”.

Daniel Lieberman, Havard University, chuyên gia về vận động bằng 2 chân cho rằng: “Thuyết phục nhất là để tiết kiệm năng lượng, năng lượng rất quan trọng để sinh tồn. Trở lại rừng rậm, nhà của tổ tiên khỉ Hình người cách đây 10 triệu năm, giống như khỉ Hình người ngày nay chúng thích hợp với cuộc sống trên cây, chúng rất giỏi trèo cây, giỏi 1 cách phi thường. Trên mặt đất loài này có thể đi bộ, nhưng đi 1 đoạn ngắn, nếu chúng phải mang 1 thứ gì đó. Nhưng lại là thợ leo trèo tài năng, chúng có thể đi bộ và chạy rất nhanh, hiệu quả nhưng không kinh tế. Đi bộ rất mệt, nhưng chúng không thể đi xa. Nếu bạn là tinh tinh thì đi bộ chỉ 2 – 3 km/1 ngày thì không ý nghĩa mấy. Nhu cầu năng lượng thay đổi khi rừng biến mất, tổ tiên khỉ Hình người phải đi bộ nhiều hơn. Ví dụ chúng phải đi bộ từ khu trái cây này đến khu trái cây khác”. Daniel Lieberman, là chuyên gia về Vận động bằng 2 chân, ông cho rằng đi bằng 2 chân để tiết kiệm năng lượng. Khi bạn so sánh tiêu tốn năng lượng giữa người và tinh tinh, thì rõ ràng tinh tinh tiêu tốn năng lượng hơn. Nó tốn gấp 4 lần năng lượng người để đi bộ. Dù đi bằng 2 chân hay 4 chân tinh tinh không thể cạnh tranh dáng đi của con người. Nó được thiết kế tồi để chịu nhiều trọng lực, phần thân trên rất nặng, dùng nhiều cơ bắp để giữ cơ thể không bị sụp xuống. Theo Lieberman những khác biệt về kết cấu cơ thể giúp tiết kiệm năng lượng hơn, đưa tổ tiên chúng ta vào con đường vận động bằng 2 chân con đường cuối cùng dẫn đến chúng ta. Nhưng phải mất bao lâu?

Khi lần đầu tìm thấy loài của Lucy, nhiều người tưởng rằng nó là loài vượn quá độ giữa loài vượn và con người (Chimp) . Những khoa học về gen đã thay đổi hiểu biết của chúng ta với 1 công nghệ gọi là đồng hồ phân tử. Ngày nay các nhà khoa học có thể liên hệ ADN của nhiều loài có liên hệ gần gũi để xem chúng tách khỏi tổ tiên chúng bao lâu rồi. Mark Stoneking, Max Planck Institute nêu ra: “Đó là 1 ý tưởng rất đơn giản, tỉ lệ thay đổi trong khối ADN trong chừng mực nào đó nó không thay đổi theo thời gian. Đó là 1 khái niệm phi thường, vì từ đó bạn có thể xác định 2 loài có chung 1 tổ tiên lúc nào”. Trong các hạt sống tiến hóa thì có lúc ADN tự thay đổi khi nó nhân lên, những thay đổi này xảy ra với 1 tỉ lệ ngẫu nhiên. Bằng cách đếm các khác biệt mã gen giữa người và tinh tinh, ta có thể tính toán chúng tiến hóa cách xa bao lâu. “Niên đại khoảng 5 -7 triệu năm trước, khi lần cuối người và tinh tinh chung 1 tổ tiên”. Đây là 1 minh chứng chúng ta tách khỏi khỉ Hình người sớm hơn chúng ta tưởng, từ 6 triệu năm trước. Điều đó chứng tỏ Lucy và Selam không phải là 1 bước tiến tách khỏi loài tinh tinh, mà có nhiều bước. Chúng có thể gần chúng ta hơn loài người đầu tiên. Vậy loài nào có trước Lucy và Selam.

Tổ tiên loài người nào có trước Lucy:

Ai là tổ tiên cổ xưa nhất của chúng ta. Cho đến những năm 1990 vẫn không có ghi chép hóa thạch nào. Những người săn hóa thạch lùng sục khắp vùng thung lũng Vết nứt lớn châu Phi, nhưng chỉ tìm được những mảnh xương hóa thạch nhỏ hơn 4 triệu năm tuổi. Đến 1997, Nhà Nhân chủng học Pháp Michel Brunet, quyết định tìm kiếm ở 1 nơi khác. Michel Brunet, College de France thuật lại: chúng tôi quyết định đến châu Phi, nhưng là phía Tây thung lũng Vết nứt lớn. Cách thung lũng 965 km về phía Tây, ở rìa sa mạc Sahara, vùng Bắc Chad” . Dĩ nhiên bạn đến Đông Phi, bạn chỉ tìm thấy hóa thạch Đông Phi. Đây là vấn đề. Michel tìm thấy 1 nơi có một ít xương động vật có niên đại 6 triệu năm tuổi. Không ai nghĩ có hóa thạch giống người có ở 1 lớp đất cổ như thế. Mọi người nói không có hóa thạch ở đó. Michel không nản chí, ông rất quyết tâm, nhiều người nghĩ ông điên. Ông cùng nhóm của mình tìm hàng năm trên sa mạc, tìm kiếm những dấu hiệu về tổ tiên của chúng ta. Nhiều năm ròng họ chẳng tìm được gì. Trong chuyến thám hiểm lần thứ 26, năm 2001, họ tìm thấy 1 hộp sọ méo mó và bị vỡ khoảng 6 triệu năm tuổi. Họ gọi đó là Sahelanthropus tchadensis. Không tìm thấy các xương khác bên ngoài xương hộp sọ

lucy1.png

Toumai (Sahelanthropus tchadensis), niên đại 6 triệu năm trước​

Đó có thể là tổ tiên loài người hay là 1 dạng Khỉ hình Người khác. Hộp sọ bị méo mó đến nỗi khó mà nói được điều gì. Michel phải tái tạo nó. Bước đầu tiên là đưa hộp sọ này, giờ được đặt tên là Toumai, tới phòng máy ở Pháp để dùng máy scan ở đó. Tái tạo hình ảnh 3D của hộp sọ bị vỡ này. Dùng ảnh ảo, hộp sọ có thể được khôi phục hình dạng gốc. Sau đó nó được tái tạo bằng máy in 3D dùng tia lazer làm cứng chất dẻo lại. Khi cuối cùng được đưa lên khỏi bồn nước, mẫu đúc của hộp sọ sẵn sàng cho nghiên cứu chi tiết. Mẫu đúc cho phép Michel trả lời 1 câu hỏi quan trọng rằng: sinh vật cổ đại này đi bằng 2 chân trước Lucy và Selam hàng triệu năm. Đó là cách hộp sọ nối với xương sống cung cấp đầu mối quan trọng này và Michel có thể suy ra từ hình dạng hộp sọ Toumai. Nếu hộp sọ Toumai đặt trên cổ tinh tinh đi bằng 4 chân, mắt hướng xuống dưới, như thế không đúng. Mà phải đặt trên xương sống động vật đi bằng 2 chân, mắt hướng thẳng tới trước. Theo Michel, chứng tỏ Toumai đi thẳng, về phương diện giải phẩu mà nói nó có hộp sọ lùi về phía sau của động vật đi bằng 2 chân, phần sau của hộp sọ không phải như của Khỉ Đột, như người ta cố nói, nhưng không phải như vậy. Những gì bạn phải làm là quan sát. Một số nhà khoa học nghi ngờ: liệu Toumai có đi bằng 2 chân hay không. Nhưng nếu Michel đúng thì hóa thạch 6 triệu năm tuổi của ông đúng là ứng cử viên sáng giá là tổ tiên đầu tiên của loài người.

Các khám phá kiểu này khiến ta thay đổi quan niệm về sự tiến hóa của loài người. Các nhà khoa học thường có ý tưởng đơn giản rằng do sự phát triển của đồng cỏ buột tổ tiên của ta rời khỏi rừng cây và trở thành sinh vật đi bằng 2 chân, với kích cở não phát triển nhanh chóng. Và sự tiến hóa ở con người đã diễn ra, chúng đang trên con đường trở thành con người. Donald Johanson, Institute of Human Origins: Ý nghĩ đơn giản đó đã thuyết phục trong hơn 1 thế kỷ. Darwin nghĩ ta rời cây, đi bằng 2 chân giải phóng bàn tay, tạo công cụ, có não lớn, bớt răng nanh và nhiều thứ khác cùng 1 lúc. Nhưng đi thẳng không thể dẫn đến não lớn được. Từ Toumai đến Selam, trãi qua 3 triệu năm, cả 2 loài đi bằng 2 chân, nhưng bộ não vẫn nhỏ. Và đó không phải là những sinh vật duy nhất , qua hàng triệu năm, có nhiều sinh vật đi thẳng với những cái tên phức tạp và bộ não chỉ lớn cở của tinh tinh như Orrorin tugenenis 6 triệu năm tuổi. Daniel Lieberman: chúng ta thấy thời kỳ nở rộ rất nhiều loài, chúng có thể hơi khác nhau, như Ardipithecus ramidus 4,4 triệu năm, quan trọng là không có sự khác biệt lớn giữa các loài. Australopithecus africanus 2,4 – 3 triệu năm. Chúng là những sinh vật đi 2 chân, mũi to, não cở tinh tinh. Kenyanthropus platyops 3,5 triệu năm. Các giống này, cách thích nghi này kéo dài hàng triệu năm. Khỉ Hình người đi bằng 2 chân, não nhỏ, đã cực kỳ thành công. Tranh luận nổi lên giữa các nhà khoa học, cuối cùng loài nào tiến hóa thành người.

Nhưng là 1 nhóm, chúng phát triển lâu hơn chúng ta 25 lần. Chúng phát triển cùng cở não gần 4 triệu năm. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có gì thay đổi. Có bằng chứng chứng tỏ rằng các hạt giống con người đã phát triển ở những con khỉ Hình người này.

Nghiên cứu cấu trúc não của Selam:

Một khác biệt giữa người và tinh tinh là độ dài thời thơ ấu. Nhưng chúng ta biết gì về thời thơ ấu của tổ tiên mình. Chúng ta biết nhiều về cơ thể trưởng thành, nhưng không biết nhiều về trẻ em. Não tinh tinh sơ sinh phát triển rất sớm, chúng được hình thành đầy đủ khi 3 tuổi. Ở người sự phát triển này chậm hơn và , phải mất gần 20 năm để não phát triển đầy đủ. Nhưng não Selam từ 3,3 triệu năm trước thì sao? Sọ cô bé sẽ cho ta biết những gì ta cần. Ta có răng sữa và răng trưởng thành của cô bé, điều đó cho ta biết cô bé 3 tuổi. Chúng ta có mẫu đúc phần bên trong hộp sọ cô bé, cái cho ta biết về não cô bé. “Khi có cái này (sọ não), bạn có thể đo trực tiếp xem não hình thành như thế nào. Từ những hóa thạch khác, ta biết não Selam so với não người trưởng thành thế nào. Điều này có thể tính toán não cô bé hình thành thế nào khi 3 tuổi, khi cô bé chết (khoảng 330 cc)”. Loài Tinh tinh 3 tuổi hình thành 90% não, nhưng não Selam chỉ bằng 75% người trưởng thành, chứng tỏ nó phát triển chậm hơn. Thời thơ ấu để thời gian để cô bé học cách sinh tồn mà gia đình cô luôn sống trong thế giới nguy hiểm. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho thời thơ ấu dài hơn ở con người.

Nhưng có bằng chứng nào khác cho thấy nào não Selam giống con người và khác não với tinh tinh hơn hay không. Hãy so sánh não người và não tinh tinh. Todd Preuss, Emory University “Não người họ hàng gần nhất của ta, não tinh tinh, nó lớn hơn so với não linh trưởng đặc trưng ”. Các nhà khoa học tìm đầu mối sự tiến hóa của não trong các khe và rãnh hẹp trên bề mặt của nó. Một cấu trúc quan trọng được gọi là Rãnh lưỡi liềm (ở vùng chẩm). Ở tinh tinh cũng như động vật linh trưởng có 1 rãnh sâu lớn ở đây. Rãnh lưỡi liềm. Rãnh lưỡi liềm là 1 rãnh sâu ở não linh trưởng nó chia vỏ não thành từng phần liên quan đến tầm nhìn với phần còn lại của vỏ não, nơi những suy nghĩ phức tạp hơn xảy ra. Não người không có rãnh sâu này và lớp vỏ ngoài cùng lớn hơn, những cấu trúc nhìn thấy được thì dịch chuyển ra sau. Vậy Selam có rãnh sâu hay lớp vỏ ngoài cùng của tinh tinh hay có điều gì thay đổi không. Não không hóa thạch nhưng hộp sọ hoàn thiện đáng kể của cô bé cho cung cấp 1 cái nhìn về cấu trúc khác nhau trong não của bé. Mẫu đúc của hộp sọ này được gọi là mẫu đúc não, bảo toàn ấn tượng bề mặt vỏ não. Ralph Holloway, Columbia University, có bộ sưu tập 300 mẫu khuôn đúc não từ nhiều tổ tiên của chúng ta. “Thứ mà những nhà Cổ sinh vật học tìm là những dấu hiệu trên mẫu đúc não gợi ý sự tái tổ chức đang xảy ra và đó là lý do những thứ như rãnh Lưỡi liềm trở nên quan trọng. Ralph khẳng định khi tổ tiên ta giống tinh tinh tiến hóa thành những sinh vật như Selam và Lucy, rãnh Lưỡi liềm, rãnh hẹp đánh dấu cấu trúc nhìn thấy được lùi ra sau, chừa chổ cho lớp vỏ não ngoài cùng lớn hơn (là) phần suy nghĩ của não bộ. Nhìn kỹ, cái chổ lõm ở đây có khả năng là rãnh Lưỡi liềm. Vì thế, điều đó gợi ý rằng vào thời Australopithecus bạn có 1 con thú đơn giản là thông minh hơn tinh tinh ngày nay.

Nếu thế, mặc dù vẫn là cở não của tinh tinh, nhưng não của Selam đã kết cấu lại. Nhưng còn cả chặng đường dài. Selam và giống loài của mình vẫn giống Khỉ không đuôi. Phải mất 1 triệu năm tiếp theo, hạt giống con người có trong cấu trúc Selam nhỏ bé mới kết trái.

Những công cụ đá đầu tiên và Homo habilis:

Đó là thời kỳ bị bao phủ bởi những bí ẩn. Một nữa triệu năm, ghi chép về hóa thạch hầu như không có gì. Nhưng trong giai đoạn này đã có chuyện đã xảy ra. Trong những lớp đất 2,5 triệu năm các nhà khoa học đã tìm ra thứ mới. Ta gọi đó là đá, nhưng có người đã tạo hình chúng. Đó là những đồ đá đầu tiên. “Cách ta biết đây là 1 công cụ thay vì hòn đá bị vỡ là nó bị vỡ theo cách rất đặc biệt, đập vỡ những phần thừa theo hướng này, hướng kia”. Có phương pháp để là làm vỡ hòn đá này để tạo thành công cụ. Đó không phải là phương pháp tùy tiện. Được xem không phải là được làm bởi Australopithecus, loài của Lucy. Australopithecus xuất hiện vài triệu năm và không chế tạo đồ đá. Nhưng nếu không phải loài của Lucy, thì là ai

luccy.png

Phục dựng Homo habilis,niên đại 1,6 – 2,5 triệu năm trước​

Khoảng trống trong ghi chép hóa thạch khiến ta khó nói được. Nhưng điều đó không bất ngờ. Công cụ đá được bảo toàn dễ dàng. Các khúc xương được bảo toàn kém hơn. Cuối cùng sọ của 1 loài sinh vật mới xuất hiện. Đây có phải là loài làm ra công cụ hay không. Những sọ này khác với những sọ trước đó. Chúng tiêu biểu cho buổi đầu 1 kỷ nguyên mới bắt đầu vào khoảng 2 triệu năm trước. Đây là kỷ nguyên của chúng ta. Kỷ nguyên của Người Khôn ngoan, con người. Những loài biết chế tạo công cụ. Homo habilis (người Khéo tay) là loài đầu tiên trong số này. Homo habilis, 1,6 – 2,5 triệu năm trước. “Rõ ràng ta đã có bằng chứng rằng công cụ dùng để đập vỡ xương, làm mũi tên. Có vết cắt rõ ràng trên xương: rùa, cá sấu, linh dương lớn, thậm chí cà hà mã,…. Ta biết rằng thịt là thành phần quan trọng trong chế độ ăn của loài Homo habilis.

Hóa thạch đầu tiên (của người làm công cụ) được gọi là Homo habilis. Bao gồm 21 xương bàn tay, có biệt danh là người Khéo tay. Cái xương nhỏ ở đầu ngón cái. Chiếc xương nhỏ này ở người Homo habilis rất giống ở người. Chiếc xương này chứng tỏ có miếng đệm lớn ở ngón tay cái với bề mặt rộng để cầm chắc và chính xác. Với loại bàn tay mới khéo léo, sinh vật này có thể làm công cụ tốt hơn.

Nhưng trông nó như thế nào, với ít xương tìm thấy có thể chỉ ra rằng có 1 sinh vật thấp hơn ta nhiều bằng cở Selam và Lucy (Australopithecus), cao khoảng 90 – 120 cm. Homo habilis vẫn giống tinh tinh theo nhiều cách. Nhưng có sự khác biệt quan trọng, cái ta thấy trong sự tiến hóa của Homo habilis là sự mở rộng não hơn so với loài Australopithecus. Sọ Australopithecus không có trán nó chỉ có 1 dốc thẳng sau hốc mắt. Một cái trán dốc được nâng lên. Sọ Australopithecus, phần phía sau hốc mắt bị bó chặt cũng thể hiện 1 khu vực trán nhỏ. Trái lại, Homo habilis có sự mở rộng sau hốc mắt đó chỉ rõ 1 khả năng mở rộng các chức năng nhận thức cao hơn. Các chức năng hợp lý hơn của não. Đó là sự mở rộng tương đương nhân đôi kích thước não.

“Một khi bạn đi từ não 400 cc của Australopithecus tới 700 – 800 cc của Homo habilis, bạn sẽ có sự gia tăng lớn về nhận thức. Cùng với bộ não lớn hơn Homo habilis bắt đầu trông giống người nhiều hơn”. Đường nét của sọ hóa thạch cho phép nhà khoa học Victor phục dựng ra các khuôn mặt của loài người. Phần mũi nhô ra của tinh tinh không còn. Homo habilis mặt người hiện ra. Điều này phơi bày bí ẩn lớn: sau hàng triệu năm không thay đổi kích cỡ não và khả năng trí tuệ, đột nhiên lại tăng lên. Hai triệu năm trước, điều gì đã khởi động sự tiến hóa của loài người.

Biến đổi khí hậu đã khởi động sự tiến hóa của loài người:

Các nhà khoa học khắp châu Phi đã tìm ra manh mối. Họ đã tìm ra vài manh mối ở cực nam thung lũng Vết nức lớn. Đó là trung tâm hoạt động kiến tạo, nơi các lớp đất cổ bị dồn lên bề mặt. 10 triệu năm trước, châu Phi là 1 nơi ẩm ướt hơn nhiều. Một khu rừng nhiệt đới dần khô ráo ở đó , nhưng các núi đá ở Kenya cho thấy các đợt khô ráo bị ngắt quãng, bởi sự biến đổi khí hậu thất thường. Rick Potts, Smithsonian Institution là chuyên gia nghiên cứu các tảng đá này. Lớp đất này tiêu biểu cho 1000 năm ổn định môi trường, nhưng rồi có 1 đợt phun trào núi lửa bất ngờ. Rồi hồ xuất hiện có lẽ 500 năm, hạn hán, rồi hồ đã trở lại. Trong vài trường hợp ta thấy từng lớp thay đổi môi trường này. Với con mắt điêu luyện Rick có thể thấy vài lớp từng là lòng hồ, những lớp khác là cát sa mạc, có những lớp từ đợt phun trào núi lửa, 1 bức chụp nhanh của 1 triệu năm khí hậu. Sự quan sát này dẫn ông đến 1 ý tưởng mới đáng kinh ngạc.

Đó là 1 sự thay đổi nhanh chóng (của khí hậu) như là 1 chất xúc tác cho sự tiến hóa. “Tôi bắt đầu nghĩ rằng đó không phải là 1 môi trường đặc biệt của thảo nguyên, một thứ rất quan trọng mà là xu hướng thay đổi môi trường tự nhiên”. Có thể nói là nhu cầu sống sót qua giai đoạn thay đổi khí hậu đột ngột đã khiến cho tổ tiên chúng ta thích nghi hơn. Một nhóm các nhà khoa học từ Đức đến đây để tìm hiểu những biến đổi khí hậu này. Thật khó tin nhưng sự hình thành lớp đá này được tạo từ vỏ của động vật đơn bào được gọi là tảo Silic (tảo cát). Có rất nhiều loài khác nhau nhưng chúng cùng sống dưới nước. Vỏ của chúng tụ lại trong lớp nước tích lũy qua hàng triệu năm, chứng tỏ thung lũng này từng là 1 cái hồ lớn. Annett Junginger, University of Potsdam phân tích những mẫu đá này dưới kính hiển vi. “Thứ chúng tôi tìm ra là những lớp trắng có chứa 1 loại tảo Silic đặc biệt chỉ có ở hồ sâu”. Nhưng giữa các lớp trắng đó cô cũng tìm thấy những loại tảo Silic khác chỉ tìm thấy ở những chổ nước nông. Điều đó ở chổ này 1 hồ lớn đã xuất hiện, rồi biến mất, rồi lại xuất hiện nhiều lần. Những hồ này rất quan trọng không phải là những ao nhỏ. John Kingston, Emory University, “ chúng tôi có thể chứng minh là 1 loạt hồ xuất hiện theo chu kỳ”. Khi chúng tôi nói về hồ nước ngọt lớn cở hồ Victoria, lấp đầy thung lũng Rift rồi biến mất. Một lượng nước khổng lồ chảy qua khu vực này. Dòng chảy liên tục và sự quay vòng và lại thay đổi. Một thời kỳ kinh khủng nếu sống ở đây”. Không phải thay đổi theo 1 hướng duy nhất mà là thay đổi qua lại. Ở 1 nền tảng và xu hướng khô ráo chậm, châu Phi thay đổi định kỳ theo hướng biến đổi khí hậu. Ẩm ướt, khô ráo rồi lại thỉnh thoảng ẩm ướt trong khoảng 1000 năm. Hạn hán nghiêm trọng xen với những cơn bão và gió mùa. Sông và rừng xuất hiện, rồi biến thành đồng khô. Tất cả chỉ trong nháy mắt như qua 1 đêm. Mark Maslin, University College London, “Chúng tôi thay đổi ý kiến hoàn toàn từ việc khô chậm này, thay đổi đáng kinh ngạc giữa ẩm ướt và khô ráo”.

Tổ tiên chúng ta đã phải chịu những hậu quả gì. Những giai đoạn thời tiết bất ổn này có phải là chìa khóa hiểu biết cho bước nhảy tiến hóa từ khỉ Hình người đi bằng 2 chân đến loài tạo công cụ có bộ não lớn hơn là loài Homo habilis không. Để biết điều đó các nhà khoa học cần những ghi chép chi tiết quay về quá khứ xa hơn tảo Cát. Quay lại thời kỳ Homo habilis tiến hóa khoảng 2 triệu năm trước, chỉ có thể tìm thấy ở 1 nơi đó là đại dương. Các lớp trầm tích từ đại dương kể lại 1 câu chuyện từ hàng triệu năm trước. Chúng được khoan từ đáy đại dương. Tại vùng thí nghiệm tại vùng nông thôn New York, Peter De Menocal, Lamont – Doherty Earth Observatory, lưu giữ hàng ngàn mẫu cát và đá. Một thư viện các lỗ khoan từ đại dương. “Một trong đặc điểm hấp dẫn về trầm tích đại dương là chúng tích tụ chậm nhưng dần dần và liên tục qua thời gian”. Mỗi lõi khoan dài 90 cm nắm giữ những ghi chép về quá khứ. Hiện giờ các lớp trầm tích về quá khứ đang nằm dưới đáy biển, các chuyên gia có thể phát hiện ra các lớp khác biệt. Lớp cát dày là các giai đoạn khô hạn khi bụi dễ bị gió cuốn đi. Lớp cát mỏng là giai đoạn ẩm ướt. Bằng cách đo các lớp cát đó, họ có thể nói khi nào ẩm ướt hay khô ráo. Nghiên cứu trầm tích sâu dưới đáy biển như 1 cuốn sách lịch sử về những biến đổi khí hậu xưa. Để làm cho công việc này có ý nghĩa họ phải xác định niên đại. Cách xác định niên đại là dựa vào vỏ sinh vật chìm xuống đáy cùng thời gian đó. Việc này cho biết về niên đại trong khi đó phân tích cát cho biết về khí hậu. Peter viết nhật ký về khí hậu rất chi tiết và so nó với hình cung lớn về sự tiến hóa của loài người.

Với 3,0 triệu năm giữa Toumai và Selam khi kích cở não không thay đổi, khí hậu châu Phi ổn định, khô hơn 1 chút. Rồi đến 200.000 năm khí hậu thay đổi khắc nghiệt giữa ẩm ướt và khô ráo. Trong suốt thời gian đó, công cụ đá xuất hiện và với những sinh vật có não kích cỡ lớn xuất hiện. Châu Phi cũng là nhà của nhiều sinh vật giống người khác, sự bất ổn của khí hậu đã tác động lên chúng. Có những thời kỳ khí hậu châu Phi rất bất ổn, nên sinh vật nào sống ở đó thời kỳ đó phải thích ứng với những biến đổi khí hậu khắc nghiệt. Những loài không thể thích ứng đã chết như loài của Selam và Lucy. Những loài giải quyết vấn đề tốt hơn như Homo habilis sống sót.

Những phát hiện sự biến đổi khí hậu đột ngột ở châu Phi thời xa xưa, giúp Rick Potts trình bày vững chắc thêm cho Sự tiến hóa của loài người. Ý kiến truyền thống của chúng tôi về sự tiến hóa của loài người là thảo nguyên, đồng cỏ, cây cối là động lực, nhưng thay vào đó là do các biến đổi địa chất là động lực cho sự tiến hóa chúng ta đã thích nghi thay đổi. Đó là 1 ý kiến đơn giản nhưng mang tính cách mạng. Sự tiến hóa của loài người là 1 thí nghiệm của tự nhiên mang tính biến thiên.

Chúng ta không chỉ thích ứng với 1 môi trường hay khí hậu mà thích ứng với nhiều môi trường. Chúng ta là những sinh vật của biến đổi khí hậu. Tôi nghĩ mình nên nhìn vào tổ tiên đáng tự hào của mình và cách họ tiến hóa ở Đông Phi. Và nói đó là cách chúng ta sinh tồn, cách chúng ta có thể sống trong tương lai. Vì ta thông minh như thế. Ngày nay, biến đổi khí hậu dường như đang đe dọa sự sống. Nhưng có thể nó giữ chìa khóa về sự biến đổi làm kinh ngạc chúng ta thành người như bây giờ. Nó không dừng lại ở 2 triệu năm trước. Những biến đổi khắc nghiệt tiếp tục 1,5 triệu năm tiếp theo đẩy tổ tiên chúng ta vào con đường cuối cùng tiến hóa thành sinh vật thông minh nhất mà thế giới từng biết.

Nguồn: nghiencuulichsu.com​
 
Sửa lần cuối:

uocmo_kchodoi

Moderator
Xu
0
Tìm hiểu nguồn gốc của loài người quả là một vấn đề thú vị. Những câu hỏi lớn giờ đã có câu trả lời. Điều gì đưa chúng ta vào con đường trở thành Loài Người Khôn Ngoan? Đó là cả một quá trình đầy gian nan. Môi trường sống buộc chúng ta phải thích nghi để tồn tại, hoặc sẽ bị diệt vong. Thật may rằng tổ tiên của chúng ta đã ngày càng trở nên thông minh, vượt qua mọi thử thách để thích nghi và trở thành Loài Người. Tuy nhiên trước khi trở thành Loài Người như hiện nay, chúng ta đã từng là Người Đứng Thẳng (Homo erectus). Người Đứng Thẳng có não nhỏ hơn 1 chút, hàm lớn hơn 1 chút, nhưng về cơ bản giống chúng ta. Họ xuất hiện trên Trái Đất gần 2 triệu năm trước.

NGƯỜI ĐỨNG THẲNG

Lê Quỳnh Ba biên tập
Theo phim BECOMING HUMAN,
Viết, sản xuất và chỉ đạo bởi: Graham Townsley,
HHMI (Howard Hughes Medical Institute)

Nhiều phát hiện mới tiết lộ rằng tổ tiên chúng ta ở trung tâm của quá trình tiến hoá. Đây là những người tiên phong lần đầu rời châu Phi. Những người đầu tiên làm ra lửa, những thợ săn đầu tiên. Những sinh vật này có khả năng phân tích cách sử dụng công cụ và tìm ra giải pháp kỹ thuật cho vấn đề làm thế nào để giết con vật to lớn, nguy hiểm mà không ảnh hưởng đến tính mạng của mình. Người Đứng Thẳng mở đường cho việc trở thành loài người, định cư ở tất cả các lục địa và tạo ra những xã hội loài người đầu tiên. “Tổ tiên chúng ta bắt đầu quan tâm người khác nghĩ gì và quan tâm người khác nghĩ gì về mình”. Ngày nay những phát hiện mới khiến họ sống động chưa từng thấy. Cuối cùng ta đã đối diện với tổ tiên từ thưở khai sinh của Loài Người.

Thung lũng Tách Giãn Lớn (thung lũng Great Rift) ở Đông Phi, 2 triệu năm trước, những hoang mạc và hẻm núi kỳ vĩ này, chứng kiến 1 sự kiện bí ẩn, sự ra đời của tổ tiên đầu tiên mà ta gọi là Con Người. Những khám phá mới, tiết lộ những sinh vật mới giống chúng ta 1 cách kỳ lạ. Một nhà lữ hành thế giới, 1 người làm công cụ, 1 thợ săn, người tìm ra lửa. Sinh vật của xã hội loài người đầu tiên. Thật đáng kinh ngạc những phẩm chất biến chúng ta thành loài người, không bắt đầu bằng chính giống loài của chúng ta, Người Khôn Ngoan, mà sự ra đời thực sự của loài người bắt đầu từ trước đó rất lâu, hàng triệu năm trước.

Hãy hình dung toàn bộ thời gian lịch sử loài người, đưa chúng ta về thời kỳ Kim Tự Tháp Ai Cập 5000 năm trước; gấp đôi lên, 10.000 năm trước, khi thực vật được nuôi trồng và nông nghiệp bắt đầu. Gấp đôi lên lần nữa, 20.000 năm trước tới thời kỳ của thợ săn kỷ Băng hà vẽ hình ảnh gây ngạc nhiên trên tường hang động. Gấp thêm 6 lần, đưa chúng ta về 1,3 triệu năm trước, khi sinh vật đầu tiên trông rất giống chúng ta, Người Đứng Thẳng tại thung lũng Great Rift ở châu Phi. Trong hàng triệu năm, vết đứt gãy địa chất khổng lồ chạy suốt chiều dài Đông Phi là sân khấu cho công cuộc tiến hóa loài người.

Tất cả bắt đầu khi những con Khỉ đầu tiên đứng thẳng trên 2 chân khoảng 6 triệu năm trước. Có rất nhiều loài khác nhau, các biến thể cùng loài. Những sinh vật giống khỉ với bộ não nhỏ. Hóa thạch có tên gọi Lucy là thí dụ nổi tiếng nhất, cô bé chỉ cao 1,1 m, với bộ não bằng kích thước não Tinh Tinh. Trong hàng triệu năm, những sinh vật như cô ấy lang thang trong những cánh rừng và hoang mạc châu Phi. Nhưng rồi có điều gì đó thay đổi. Khoảng 2 triệu năm trước, những sinh vật mới xuất hiện với khả năng chưa từng có trong vương quốc các loài. Hãy gặp Người Đứng Thẳng, người chế tạo ra công cụ và là thợ săn, 1 trong những thành viên đầu tiên trong Loài Người chúng ta. Đó chính là những sinh vật giống người, Loài Người. Daniel Lieberman, Harvard University: “Chuyển đổi thành người có lẽ là 1 trong những biến đổi quan trọng nhất xuất hiện trong quá trình tiến hóa của loài người. Tay mỏng hơn, chân dài hơn, não to hơn. Đó là bước tiến hóa vĩ đại từ cơ thể Khỉ Hình Người sang cơ thể như chúng ta”. Nhưng còn những điều quý hơn, không được rõ ràng, về loài người chúng ta. Đó là sự sáng tạo, trí thông minh và sự quan tâm lẫn nhau. Làm thế nào để ta biết khi nào những điều đó bắt đầu?

Chỉ dựa vào những hộp sọ và những mảnh xương làm sao ta có thể biết những con người đầu tiên thực sự như thế nào? Cần có 1 quan điểm quan trọng để làm sáng tỏ cuộc sống của họ.

Phát hiện bộ xương Người Đứng Thẳng

(Homo erectus, 1,8 triệu – 50.000 năm trước)

Hồ Turkana, phía bắc Kenya, được bao bọc bởi sa mạc và núi lửa nóng bỏng trãi dài. Năm 1984, 2 nhà Nhân chủng học nổi tiếng Richard và Meave Leakey làm việc tại vùng biển cạn hẻo lánh này. Meave Leakey, Nat Geo Explorer -in-Residence: “Khi tôi làm việc ở phía Đông của hồ, Richard lao đến và nói: “Chị phải đến, có 1 cái gì đó rất thú vị”. Là gia đình về Nhân chủng học hàng đầu, người nhà Leakey quen với các xương hóa thạch. Nhưng hóa thạch này rất đặc biệt. Một người trong nhóm của Leakey tìm thấy mảnh sọ của 1 trong những người tiền sử. Qua hình dáng và kích thước có thể đoán đó là Người Đứng Thẳng và không phải chỉ có 1 mẫu xương. Richard Leakey, National Geographic Grantee “Chúng tôi bắt đầu xem xét di chỉ trên phạm vi rộng hơn. Tất nhiên chúng tôi tìm thấy phần còn lại của hộp sọ. Một hộp sọ hoàn chỉnh đã là hiếm, nhưng đó chỉ là mới bắt đầu”. Chẳng mấy chốc bộ xương của Người Đứng Thẳng chưa từng được thấy bắt đầu xuất hiện. Meave Leakey: “Không tin nổi nhưng chúng tôi bắt đầu thấy các mẫu xương sườn. Đó là những bộ phận của Người Đứng Thẳng chưa ai biết chưa ai từng thấy. Vì thế mỗi mẫu xương hiện ra dưới lòng đất là 1 điều mới mẻ đối với giới khoa học”

Và đây, xương thật của tổ tiên loài người sống cách đây hơn 1,5 triệu năm. Đó là bộ xương người sơ khai nhất từng được phát hiện. Nhóm của Leakey gọi bộ xương là cậu bé Turkana. Bộ xương đã nâng tầm hiểu biết của chúng ta về quá trình chuyển từ Khỉ Hình Người sang Người. Susan Antón, New York University: “Điều thực sự quan trọng về cậu bé Turkana là sự đầy đủ của bộ xương. Chúng tôi có xương chân, tay và ít xương sống và xương sườn. Thường thì khi tìm thấy thứ này, chỉ cần 1 mẫu xương nhỏ cũng làm chúng tôi háo hức. Nhưng mẫu xương nhỏ đó không thể cho chúng tôi biết về cá thể. Có bộ xương gần như đầy đủ, ta bắt đầu đưa ra các câu hỏi lớn”. Câu hỏi lớn đầu tiên: Cậu ấy trông như thế nào?

1-untitled.jpg

Hình: Cậu bé Turkana (thuộc Homo erectus, niên đại 1,5 triệu năm)​

Gương mặt Người Đứng Thẳng (niên đại 1,5 triệu năm)

Bộ xương cho chúng ta biết cậu ấy cao 1,57 m, vóc dáng giống loài người hơn loài khỉ. Nhưng giống tới mức nào. Họa sĩ về Nhân chủng học Viktor Deak chuyên vẽ và điêu khắc tổ tiên loài người chúng ta với độ chính xác giải phẩu cao. Viktor chuẩn bị bổ sung cậu bé Turkana vào gia đình các khuôn mặt cổ xưa của anh. Viktor Deak, họa sĩ Paleo: “Ở giai đoạn này tôi biết cậu bé Turkana không phải là Khỉ Hình Người. Cậu ấy là Con Người thật sự, rất sơ khai. Đây ta có hộp sọ Người Hiện Đại, khuôn mặt rất giống nhau, nhưng sọ của cậu bé Turkana hơi thô, trán thấp hơn và não nhỏ hơn nhiều”. Viktor sẽ tái tạo lại khuôn mặt cậu bé Turkana từng lớp cơ một dựa trên kiến thức về cơ thể và giải phẩu học hiện đại. Dù có vẻ thô sơ nhưng bộ xương cậu bé rất giống xương Người. Hông rộng hơn 1 chút, tay dài hơn, nhưng hình dạng tổng thể giống như chúng ta. Cậu bé Turkana là Người Đứng Thẳng, nếu nhìn cách 30m ta khó phát hiện ra là gì, tưởng đó là 1 con người. Viktor cần 1 tuần để hoàn thành khuôn mặt cậu bé Turkana.

Đồng thời 1 nhóm làm phim hoạt hình đang tạo khung cảnh để đưa cậu bé Turkana và cộng đồng cậu bé vào cuộc sống. Để đảm bảo làm được chính xác, họ nhờ sự trợ giúp của Daniel Lieberman, nhà Nhân chủng học, Trường ĐH Tổng hợp Harvard. “Khi chạy, lòng bàn tay họ luôn hướng về phía trước nhiều hơn 1 chút”. Các diễn viên mặc quần áo xanh mô tả lại sự di chuyển cho các họa sĩ. Ở giai đoạn hậu kỳ họ sẽ được thay thế như cơ thể Người Đứng Thẳng. Đầu và mặt họ dựa theo mẫu của Viktor. Khi đầu cậu bé Turkana được tái tạo gần xong, khuôn mặt hiện ra rất giống chúng ta. Lần đầu tiên trong hơn 1,5 triệu năm, đây là tổ tiên chúng ta, Người Đứng Thẳng (Homo erectus), với tên gọi cậu bé Turkana.

Xác định tuổi của cậu bé Turkana qua răng

Cậu ấy trông như thế nào mới là khởi đầu câu chuyện. Để tái tạo cột sống, ta phải biết cậu bé bao nhiêu tuổi. Susan Antón, New York University: “Nhìn vào bộ xương cậu ấy, ta có thể thấy các đĩa tăng trưởng trên các chi, thường thì bị tan ra khi trưởng thành. Dù cậu ấy rất cao nhưng ta biết cậu ấy còn phát triển, rõ ràng cậu bé Turkana chưa phát triển hết”. Meave Leakey: “Ta có thể trả lời các câu hỏi như liệu cậu ấy có ấy có lớn lên như người hiện đại không. Hay cậu ấy lớn lên giống loài khỉ hơn”. Turkana đã cao 1,57m, khi các nhà khoa học so sánh xương và răng cậu ấy với chúng ta. Họ cho rằng có thể cậu ấy khoảng 14 tuổi

2-untitled.jpg

Hình: So sánh hình dạng ngoài Khỉ Hình người (trái) và Người Đứng Thẳng (phải)​

Nhưng khi chuyên gia Nha Khoa Christopher Dean bắt đầu nghiên cứu răng cậu ấy, ông bắt đầu sửng sốt. Hóa ra tất cả các răng dù hóa thạch hay chưa đều chứa dữ liệu tuổi thơ khá chính xác. Christopher Dean, University College London: “Đây là xương hóa thạch, ta có thể thấy lớp men bao bọc lõi răng làm từ men răng. Men răng là cách gọi khác của từ Ngà. Trong men răng ta có thể thấy các que nối từ men răng tới bề mặt răng. Men răng phát triển dần dần như vòng gỗ của cây, dưới kính hiển vi điện tử trông nó giống như các que được là từ các hạt tí hon. Mỗi hạt tí hon dọc theo hình lăng trụ này là đại diện cho 1 ngày tăng trưởng sản xuất men răng chịu tác động của đồng hồ sinh học. Chất tiết ra trong ngày tăng lên rồi chậm dần. Mỗi cái răng đều chứa dữ liệu vĩnh cửu về quá trình đó. Ta có thể thấy các que chạy suốt qua mô này và sau mỗi ngày dọc theo qua này có rung động chậm dần rồi nhanh dần. Nếu đếm các hạt này ta có thể biết răng đã phát triển bao nhiêu ngày. Khi Christopher quan sát răng hóa thạch của cậu bé Turkana, ông thấy rất ngạc nhiên, thực tế cậu bé chưa đến 14 tuổi mà mới 8 tuổi.

Thời thơ ấu dài hơn Tinh Tinh:

Điều đó cho thấy cậu bé tăng trưởng giống với Tinh Tinh ngày nay hơn. Cao 1,57m ở tuổi lên 8, chắc hẳn cậu bé đã lớn rất nhanh với tốc độ giống loài Tinh Tinh hơn là giống chúng ta. Tuổi thơ của Tinh Tinh rất ngắn, nó trưởng thành ở tuổi dậy thì khi lên 7. Tuổi dậy thì của con người dài hơn, chúng ta đến tuổi dậy thì vào khoảng 12 tuổi. Vì thế, từ khi tiến hóa thành Khỉ Hình Người tuổi thơ dài hơn. Nhưng lợi thế ở chổ nào khi trẻ con phải phụ thuộc, phải được cho ăn, được chăm sóc và mất nhiều thời gian để trưởng thành. Bữa ăn của tuổi thơ kéo dài là mấu chốt trong công cuộc tiến hóa của loài người. Điều đó có thể liên quan đến kích thước não. Con người có bộ não lớn nhất nếu so sánh các kích thước tương quan của cơ thể. Bộ não lớn đến mức, phần lớn tăng trưởng não phải diễn ra bên ngoài dạ con. Nếu không đầu ta không qua được sinh môn. Tuổi thơ kéo dài chậm chạp cho bộ não có thời gian phát triển sau khi sinh và thời gian học mọi thứ ta cần cho hoạt động trong xã hội loài người phức tạp. Đó là lợi thế của tuổi thơ kéo dài, ít nhất là đối với chúng ta.

Thông tin từ bộ não:

Thế còn cậu bé Turkana thì sao? Bộ não cậu ta có kích thước 900 cc, nhỏ hơn não chúng ta, nhưng lớn gấp đôi não 1 con Tinh Tinh. Liệu cậu ta có suy nghĩ và nói được như chúng ta hay không. Ralph Holloway, Columbia University, tin rằng là có, ông đã thu thập vỏ não của tổ tiên Loài Người trong hơn 30 năm.

3-untitled.jpg

Hình: Sọ Người, cậu bé Turkana và Tinh Tinh.​

Vỏ não là 1 cái khuôn làm từ bên trong hộp sọ cho thấy hình thù của bộ não. Ralph đặc biệt quan tâm đến cái gọi là vùng Roca. “Vùng Roca liên quan đến trí nhớ, chức năng hành xử nhưng có vai trò quan trọng đối với khía cạnh ngôn ngữ”. Trong bộ não của cậu bé Turkana, Ralph tin rằng có bằng chứng thay đổi đặc biệt vùng Roca gắn với giao tiếp. “Vùng Roca của cậu bé hoàn toàn hiện đại về mặt diện mạo. Đó là bằng chứng chắc chắn cho khả năng giao tiếp tượng trưng, nói cách khác là ngôn ngữ”. Đó là ý kiến gây tranh cãi. Ta không bao giờ biết chắc Turkana có nói được không. Nhưng có những manh mối khác về trí thông minh của cậu ta.

Công cụ đá tinh xảo

Trong những công cụ đá mà cậu ta để lại. John Shea, Stony Brook University: “Người Đứng Thẳng làm công cụ như chiếc rìu bằng đá (đây), nó được mài khắp 2 mặt, mũi rìu cho phép ta làm các việc cần mũi nhọn. Đó là 1 dụng cụ rất đa năng và sắc”. Người Đứng Thẳng đã để lại cho ta nhiều dấu hiệu về tài sáng chế. Ở miền Trung Kenya này, Rick Potts, Smithsonian Institution, đang nghiên cứu 1 báu vật của Người Đứng Thẳng: “Công cụ bằng đá đại diện cho 1 giai đoạn quan trọng vì một khi ta đã có công cụ trong tay thì tất cả thức ăn trên đời có thể là của ta. Điều đó thể hiện 1 ưu thế sống sót rất lớn”.

Đây là nơi lưu trữ hơn 500 chiếc rìu đá do Người Đứng Thẳng làm ra. Cách đó chỉ 1 dặm, Rick đến thăm mỏ đá, nơi cách đây hàng ngàn năm, tổ tiên ta đã đến mài đá thành công cụ và để lại những mảnh không sử dụng đến. “Trong những đường nức dưới chân tôi có hàng ngàn mảnh đá thải ra từ việc làm công cụ. Có 1 vài vết lởm chởm nơi Người Đứng Thẳng đập vào những mảnh đá lớn. Chúng tôi thấy những bằng chứng thể hiện rằng họ cũng nhận thấy có 1vết nức. Điều đó thể hiện ở những gì còn sót lại ở đây. Điều ngạc nhiên là ta có thể tưởng tượng ra 1 Người Đứng Thẳng ngồi đây quyết định, kiểu quyết định để làm ra 1 công cụ bằng đá”. Đó là 1 kiểu công cụ được John Shea nghiên cứu, mô tả lại. “Tôi đã đập nhẹ 1 chút. Tôi đang kiểm tra xem nó có bị nức bên trong không, trước khi tôi làm. Có thể bị nức ở đây. Tôi có cảm giác trong đó có vấn đề. Kể cả đối với 1 chuyên gia làm rìu đá thì đây cũng không phải là 1 công việc dễ dàng. Đúng, có 1 vết nức. Một thợ làm công cụ giỏi phải hiểu đặc tính về đá. Để làm vật này mỏng, dễ cầm, dễ vận chuyển và lưỡi sắc, tôi phải làm 1 điều ngoài trực giác. Tôi sẽ làm cùn lưỡi, để lần sau đập lại. Nó sẽ không hỏng khi tôi cố gắng. Tôi sẽ đập nó thật mạnh.

Người Đứng Thẳng cho ta biết họ có khả năng nghĩ trước và dự tính kết quả những hành động của mình. Ta sẽ nhìn vào đây, chuyện gì sẽ xảy ra. Nhiều viên đá trong số này có khiếm khuyết, không nhìn được chúng có thể là 1 thảm họa. Tôi đã thấy trong đó vẫn còn những vết nức. Nhưng nếu tôi là người tiền sử, phát hiện ra nó, tôi sẽ thôi không làm rìu đá từ mảnh đá đó nữa. Nếu tôi chạy quanh hoang mạc đuổi theo tê giác hay đang làm thịt tê giác trong khi sư tử đang đi vòng quanh. Rồi cái rìu của tôi bị vỡ. Thế là tôi gặp rắc rối, liệu tối nay về nhà tôi có gì để ăn không? Là Người Đứng Thẳng, tôi có thể trở thành bữa ăn cho thú dữ. Là thợ thủ công lành nghề Người Đứng Thẳng đã tiến hóa 1 trí thông minh mới.

Người Đứng Thẳng di chuyển chậm, không có móng vuốt và răng nanh, làm sao săn được thú

Nhưng bộ não lớn hơn của anh ta lại đi kèm với cái giá tiềm ẩn. Bộ não hiện đại chiếm 25% năng lượng cơ thể chúng ta. Với bộ não và cơ thể lớn, Người Đứng Thẳng cũng như cậu bé Turkana cần nhiều dinh dưỡng hơn từ vùng hoang mạc. “Cậu bé Turkana trưởng thành có thể cao 1,8 m. Đây là sinh vật to khỏe, có nguồn năng lượng khổng lồ. Một người có thể thỏa mãn nguồn năng lượng đó bằng cách ăn rất nhiều cây cỏ. Nhưng có 1 loại thức ăn có thể cung cấp nhiều dinh dưỡng mà 1 bộ não trưởng thành và cơ thể cần. Ở châu Phi thì có rất nhiều. Nguồn thức ăn chất lượng cao và có lẽ là quan trọng nhất đối với sự tiến hóa của loài người là thịt và thực phẩm từ thịt. Chúng rất giàu protein và calo.

Daniel Lieberman, Harvard University: “ Nhưng vấn đề duy nhất đối với việc tìm kiếm thịt là nó rất khó kiếm. Phần lớn dã thú dựa vào tốc độ hay sức mạnh để giết con mồi. Tổ tiên chúng ta thì không. Ngày nay chúng ta đã ở trên đỉnh của thức ăn. Nên rất khó tưởng tượng ra khó khăn của người tiền sử. Đây là sinh vật di chuyển chậm, không có móng vuốt và răng nanh. Một con mồi dễ dàng cho các loài dã thú. “Đây là hóa thạch trán và đỉnh lông mày của Người Đứng Thẳng và trên đó có vết cắn của động vật ăn thịt. Điều này làm ta nhớ ra rằng, các cá thể Người Đứng Thẳng không ở trên đỉnh chuổi thức ăn”. Vậy làm thế nào để Turkana 1 người yếu đuối với bộ não lớn cần nhiều calo có thể kiếm được thịt. “Người Đứng Thẳng đã phải đối mặt với 1 vấn đề làm thế nào để giết 1 con vật to lớn, nguy hiểm có nhiều thịt và mỡ mà không bị nó giết hại”. “Tôi nghĩ câu trả lời cho câu hỏi đó là những đổi mới thông minh, là khả năng chạy bền bỉ và hoạt động cao giữa buổi trưa”.

Tổ tiên của Người Đứng Thẳng, loài khỉ nhỏ bé như Lucy có 2 chân, nhưng có lẽ không chạy nhiều. Nhưng cậu bé Turkana được sinh ra để chạy như chúng ta. Daniel Lieberman, Harvard University tin rằng họ có thể chạy 1 quãng xa như chúng ta vì họ đã mất lớp lông dày trên cơ thể và có thể làm mát bằng cách toát mồ hôi. “Đây chính là chìa khóa cho sự thành công”.

Loài Người mất lông trên cơ thể lúc nào

Nhưng làm sao ta biết liệu có phải những thay đổi cốt yếu này xảy ra vào thời cậu bé Turkana hơn 1 triệu năm trước. Da và lông hiếm khi giữ được hóa thạch, nên để tìm hiểu điều này ta phải xem xét 1 sinh vật có liên quan mật thiết, đó là con rận. “Dường như loài động vật nào cũng có vài loài rận ký sinh. Thú có vú, chim ngay cả cá cũng có. Nhưng phần lớn sinh vật khác chỉ có 1 loại sống ký sinh”. Con người có 1 loại chấy trên đầu và 1 loại khác ở vùng mu. Nhà vi trùng học Mark Stoneking, Max Planck Institute tự hỏi: tại sao như vậy. Câu trả lời có vẻ rõ ràng. Đó là khi khắp cơ thể ta có lông thì ta có 1 loại rận. Nhưng rồi lông biến mất chỉ còn tóc trên đầu và vùng mu nên sẽ có khoảng trống không có lông giữa 2 vùng đó. Mark ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng rận vùng mu rất khác chấy trên đầu vì lẽ gì đó trong quá khứ có vẻ như nó bắt nguồn từ loài khỉ. Vì rận vùng mu có quan hệ mật thiết với rận ở khỉ. Không cần suy đoán vì sao vùng mu của tổ tiên ta lại có rận của loài khỉ. Nhưng dù sao ta tìm rận loài khỉ để tìm hiểu vấn đề này. Viễn cảnh phù hợp nhất là khi ta mất lông trên cơ thể chấy di cư lên đầu để lại vùng mu tạm thời không có rận. Khi tổ tiên ta tiếp xúc với khỉ, có lẽ ngủ ở tổ của chúng hay tìm thịt trên xác chúng, rận từ khỉ đã định cư ở vùng mu của họ. Cuối cùng nó trở thành rận mu của con người ngày nay.

Nếu ta tìm hiểu được khi nào rận vùng mu con người và rận của khỉ khác nhau, ta sẽ biết khi nào cơ thể ta mất đi phần lông. Rất may là có 1 cách để tìm hiểu điều đó. Kỹ thuật xác định niên đại bằng gen được gọi là đồng hồ phân tử. Nó dựa trên thực tế rằng chuỗi cơ sở hóa học tạo nên biến đổi ADN ở tỉ lệ thông thường. Đó là tỉ lệ thay đổi ở chuỗi ADN hầu như thường xuyên qua thời gian. Mark Stoneking: “Tức là có 1 cách giúp ta xác định khi nào cả 2 loài chia xẻ cuối cùng tổ tiên của chúng”. Bằng cách đếm các điểm khác biệt trong mã gen của 2 loài, giới khoa học có thể xác định chuỗi sinh hóa tách khỏi nhau bao lâu. Khi Mark dùng đồng hồ phân tử để đếm điểm khác biệt ADN của rận trên khỉ và ADN của rận vùng mu con người, ông đã xác định được niên đại khi chúng tách nhau. “Niên đại ước tính để chúng tách nhau khoảng chừng cách đây 3 triệu năm.

Tức là rất lâu trước thời cậu bé Turkana. Có thể là thời kỳ của Lucy tổ tiên ta dần mất đi 1 phần lông trên cơ thể. Cậu bé Turkana gần như không có lông giống như chúng ta. Điều đó có thể cho cậu ta lợi thế trước các loài dã thú. Phần lớn động vật gặp bất lợi dưới ánh nắng ban trưa vì chúng trở nên quá nóng. Chúng chỉ có thể làm mát bằng cách thở. Khi chạy nhanh chúng không thở được, nghĩa là chúng chỉ chạy quãng ngắn. “Động vật 4 chân chỉ có thể chạy nhanh trong 10 -15 phút, rồi sẽ bị nóng, nhưng con người có thể làm mát bằng cách toát mồ hôi. Cơ thể không có lông cho phép không khí lưu thông trên da và hạ nhiệt cơ thể khi toát mồ hôi. Điều đó khiến chúng ta là 1 trong những loài chạy đường dài tốt nhất”.

Thổ dân Kalahari săn bắt

Daniel Lieberman tin rằng điều đó giúp cho tổ tiên chúng ta khả năng săn bắt rất tốt, được gọi là săn bắt bền bỉ. Ông cũng tin rằng tư liệu về Nhân Chủng học có thể cho ta thấy điều đó thực hiện như thế nào. Thổ dân Kalahari cho ta hiểu rõ làm thế nào Người Đứng Thẳng có thể săn bắt từ cách đây 2 triệu năm. Thổ dân biết rằng nắng ban trưa động vật nghỉ trong bóng râm thế nên đó là thời gian hoàn hảo để săn bắt. Một khi họ đã định vị được con mồi, trong trường hợp này là 1 con linh dương. Cuộc chạy Maraton bắt đầu. Phương thức thật đơn giản, chạy đến kiệt sức. Mỗi lần con vật định nghỉ, các thợ săn lại truy đuổi, bắt nó chạy tiếp, họ không cho nó cơ hội để hạ nhiệt. Lý do họ có thể chạy tiếp là họ có thể toát mồ hôi mà con vật thì không. Nếu lý thuyết là đúng thì đó là lý do vì sao cậu bé Turkana kiếm được thịt. Người Đứng Thẳng đã tìm ra 1 cách cải tiến để nuôi bộ não háu đói của mình. Thời săn bắt hiện đại này thổ dân có thể chạy 4 tiếng dưới nắng kinh khủng. Con linh dương cuối cùng đã bị bất động vì say nắng.

Cậu bé Turkana không có giáo bọc thép như thổ dân mà cậu ta cũng không cần chúng. Người Đứng Thẳng có thể săn bắn với vũ khí siết chặt, với giáo để lao vào con vật ở khoảng cách ngắn, gậy, đá, những loại vũ khí đại loại như thế. John Shea, Stony Brook University: “Họ không dùng vũ khí phóng từ khoảng cách xa mà chúng ta biết”. Cuộc săn của Người Đứng Thẳng đơn giản nhưng hiệu quả, nó nuôi sống không chỉ bộ não lớn hơn của họ mà cả tính phức tạp ngày càng tăng của xã hội hành xử.

Vai trò của lửa và việc nấu ăn

Có những loài sinh vật sống tập thể khác, nhưng không loài nào giống chúng ta. Xã hội thể hiện trong mọi ngóc ngách trong cuộc sống của chúng ta. Các mối quan hệ, sự giao tiếp, các quy định, tất cả những thứ đó ràng buột chúng ta. Điều gì ở đằng sau nó, sao nó lại mang nhiều tính xã hội đến như vậy. Nó có thể liên quan đến sự đổi mới khác điều chưa từng xảy ra trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Đó là tạo ra lửa và nấu ăn. Richard Wrangham, Havard University: “Từ đây xuất hiện loài Đứng Thẳng, loài đầu tiên trông giống chúng ta. Tôi nghĩ chỉ việc nấu ăn mới giải thích tính quan trọng của sự thay đổi này. Bằng chứng sớm nhất rằng tổ tiên chúng ta chủ đích dùng lửa nấu ăn có từ lâu trước thời cậu bé Turkana”. Nhưng Wrangham chắc chắn Người Đứng Thẳng tạo ra lửa sớm hơn nhiều. “Giờ đây lần đầu tiên ta có 1 loài cam kết sống trên mặt đất, vì họ đã mất đi khả năng biết leo trèo. Họ ngủ như thế nào. Họ có khả năng bảo vệ mình trước động vật hoang dã trên hoang mạc châu Phi đầy dã thú săn đêm”. Richard tin rằng cậu bé Turkana và cộng đồng cậu ta không thể sống sót mà không có lửa.

Ông nghĩ chỉ có sự nấu ăn, làm thức ăn mềm và dễ tiêu hơn mới giải thích được việc Người Đứng Thẳng có răng nhỏ hơn và ngực nhỏ hơn nhiều. Những điều này tương thích với việc giảm tiêu hóa hơn. “Đó là kết quả của việc nấu ăn. Ngoài ra không gì khác”. Tổ tiên chúng ta có được lợi ích từ việc nấu ăn, 1 điều nữa cũng xảy ra, ít ra là theo Wrangham rằng chúng ta trở nên rất dễ gần gũi. Con người có tính bình tĩnh tuyệt vời so với Tinh Tinh. “Tính đó ở đâu ra. Chúng ta bị thu hút tới khu đất chung nơi có lửa”. Wrangham tin rằng chúng ta đã học cách giao tiếp khi ngồi quanh đống lửa, trong khi thức ăn đang được nấu. Đó là suy đoán, nhưng có 1 điều chắc chắn là trong thế giới Người Đứng Thẳng các mối quan hệ xã hội phát triển.

Mối quan hệ giữa mẹ con phải rất khác loài khỉ. Chẳng hạn 1 con Đười Ươi mẹ sẽ không cho cá thể nào mang con nó đi và sẽ luôn tiếp xúc với con của nó trong ít nhất là 6 tháng đầu đời. Sarah Blaffer Hrdy, University of California: “Không giây phút nào rời xa con. Yên tâm trong mối quan hệ mẹ con không gì phá vỡ này, lũ đười ươi con ít cần khả năng đọc được ý định của những con khác”. Mối quan hệ giữa mẹ và em bé không vững chắc bằng, sự thật là người mẹ có thể để con 1 mình nhiều hơn Đười Ươi mẹ. Điều đó thường xảy ra nhiều hơn ở bất cứ loại linh trưởng nào. “Cam kết mẫu tử ngẫu nhiên ở người rõ nét hơn nhiều, so với các loài khác. Không như phần lớn loài linh trưởng, người mẹ chia sẻ việc nuôi lớn với những người khác”. Sự tồn tại của 1 đứa con có thể dựa vào việc kêu gọi nhiều người chăm sóc. Có lẽ đó là lý do khiến các em bé có tính nhạy cảm độc nhất. “Khi em bé vừa sinh ra đã am hiểu các bà mẹ, đọc được vẻ mặt các bà mẹ, tìm dấu hiệu cam kết”. Chúng ta sinh ra đã bị kiểm soát bởi nhận thức mục đích và tình cảm của người khác. Điều độc nhất trong thế giới các loài.

Từ khi nào con người phát triển năng khiếu này, nhờ tình trạng tâm thần và tinh cảm đối với người khác và quan tâm những gì người khác nghĩ gì về mình. Những bản năng xã hội này có thể phát triển cùng với Người Đứng Thẳng không. Từ những việc hợp tác săn bắn, có hộp sọ não lớn hơn, thời thơ ấu dài hơn cũng như việc tìm lửa xuất hiện hay không. Có lẽ cậu bé Turkana và cộng đồng cậu ta đã có những kỹ năng xã hội quen thuộc với chúng ta. Đây là sinh vật xã hội thông minh với khả năng hợp tác ngày càng tăng.

Việc phân tán ra các lục địa

Có lẽ điều này dẫn đến 1 thành tựu khác: cuộc di cư từ châu Phi. Trong hàng triệu năm, những tổ tiên sớm nhất của chúng ta đã ở trên các hoang mạc châu Phi. Nhưng đến 1 lúc nào đó, họ bắt đầu ra đi. Hóa thạch hộp sọ và công cụ của họ được tìm thấy ở Trung Quốc và Indonexia. Câu hỏi đặt ra là họ di cư khi nào và tại sao. Khi cậu bé Turkana được tìm thấy giới khoa học tưởng là họ đã tìm ra được câu trả lời. Đây là 1 tổ tiên có não lớn và khỏe, có khả năng trãi qua 1 cuộc di cư gian khổ. Cậu ta có cái nhìn của 1 nhà chinh phục thế giới. “Giữa thập niên 80, chúng ta nghĩ loài người như người này đã rời châu Phi, nhưng có lẽ là từ 1 triệu năm trước”. Trong nhiều thập kỷ, giới khoa học tin rằng con người cao lớn, vạm vỡ như cậu bé Turkana đã rời châu Phi 1 triệu năm trước. Nhưng các phát hiện mới cho thấy cuộc di cư này đã bắt đầu sớm hơn nhiều.

Vỏ não là 1 cái khuôn làm từ bên trong hộp sọ cho thấy hình thù của bộ não. Ralph đặc biệt quan tâm đến cái gọi là vùng Roca. “Vùng Roca liên quan đến trí nhớ, chức năng hành xử nhưng có vai trò quan trọng đối với khía cạnh ngôn ngữ”. Trong bộ não của cậu bé Turkana, Ralph tin rằng có bằng chứng thay đổi đặc biệt vùng Roca gắn với giao tiếp. “Vùng Roca của cậu bé hoàn toàn hiện đại về mặt diện mạo. Đó là bằng chứng chắc chắn cho khả năng giao tiếp tượng trưng, nói cách khác là ngôn ngữ”. Đó là ý kiến gây tranh cãi. Ta không bao giờ biết chắc Turkana có nói được không. Nhưng có những manh mối khác về trí thông minh của cậu ta.

Công cụ đá tinh xảo

Trong những công cụ đá mà cậu ta để lại. John Shea, Stony Brook University: “Người Đứng Thẳng làm công cụ như chiếc rìu bằng đá (đây), nó được mài khắp 2 mặt, mũi rìu cho phép ta làm các việc cần mũi nhọn. Đó là 1 dụng cụ rất đa năng và sắc”. Người Đứng Thẳng đã để lại cho ta nhiều dấu hiệu về tài sáng chế. Ở miền Trung Kenya này, Rick Potts, Smithsonian Institution, đang nghiên cứu 1 báu vật của Người Đứng Thẳng: “Công cụ bằng đá đại diện cho 1 giai đoạn quan trọng vì một khi ta đã có công cụ trong tay thì tất cả thức ăn trên đời có thể là của ta. Điều đó thể hiện 1 ưu thế sống sót rất lớn”.

Đây là nơi lưu trữ hơn 500 chiếc rìu đá do Người Đứng Thẳng làm ra. Cách đó chỉ 1 dặm, Rick đến thăm mỏ đá, nơi cách đây hàng ngàn năm, tổ tiên ta đã đến mài đá thành công cụ và để lại những mảnh không sử dụng đến. “Trong những đường nức dưới chân tôi có hàng ngàn mảnh đá thải ra từ việc làm công cụ. Có 1 vài vết lởm chởm nơi Người Đứng Thẳng đập vào những mảnh đá lớn. Chúng tôi thấy những bằng chứng thể hiện rằng họ cũng nhận thấy có 1vết nức. Điều đó thể hiện ở những gì còn sót lại ở đây. Điều ngạc nhiên là ta có thể tưởng tượng ra 1 Người Đứng Thẳng ngồi đây quyết định, kiểu quyết định để làm ra 1 công cụ bằng đá”. Đó là 1 kiểu công cụ được John Shea nghiên cứu, mô tả lại. “Tôi đã đập nhẹ 1 chút. Tôi đang kiểm tra xem nó có bị nức bên trong không, trước khi tôi làm. Có thể bị nức ở đây. Tôi có cảm giác trong đó có vấn đề. Kể cả đối với 1 chuyên gia làm rìu đá thì đây cũng không phải là 1 công việc dễ dàng. Đúng, có 1 vết nức. Một thợ làm công cụ giỏi phải hiểu đặc tính về đá. Để làm vật này mỏng, dễ cầm, dễ vận chuyển và lưỡi sắc, tôi phải làm 1 điều ngoài trực giác. Tôi sẽ làm cùn lưỡi, để lần sau đập lại. Nó sẽ không hỏng khi tôi cố gắng. Tôi sẽ đập nó thật mạnh.

Người Đứng Thẳng cho ta biết họ có khả năng nghĩ trước và dự tính kết quả những hành động của mình. Ta sẽ nhìn vào đây, chuyện gì sẽ xảy ra. Nhiều viên đá trong số này có khiếm khuyết, không nhìn được chúng có thể là 1 thảm họa. Tôi đã thấy trong đó vẫn còn những vết nức. Nhưng nếu tôi là người tiền sử, phát hiện ra nó, tôi sẽ thôi không làm rìu đá từ mảnh đá đó nữa. Nếu tôi chạy quanh hoang mạc đuổi theo tê giác hay đang làm thịt tê giác trong khi sư tử đang đi vòng quanh. Rồi cái rìu của tôi bị vỡ. Thế là tôi gặp rắc rối, liệu tối nay về nhà tôi có gì để ăn không? Là Người Đứng Thẳng, tôi có thể trở thành bữa ăn cho thú dữ. Là thợ thủ công lành nghề Người Đứng Thẳng đã tiến hóa 1 trí thông minh mới.

Người Đứng Thẳng di chuyển chậm, không có móng vuốt và răng nanh, làm sao săn được thú

Nhưng bộ não lớn hơn của anh ta lại đi kèm với cái giá tiềm ẩn. Bộ não hiện đại chiếm 25% năng lượng cơ thể chúng ta. Với bộ não và cơ thể lớn, Người Đứng Thẳng cũng như cậu bé Turkana cần nhiều dinh dưỡng hơn từ vùng hoang mạc. “Cậu bé Turkana trưởng thành có thể cao 1,8 m. Đây là sinh vật to khỏe, có nguồn năng lượng khổng lồ. Một người có thể thỏa mãn nguồn năng lượng đó bằng cách ăn rất nhiều cây cỏ. Nhưng có 1 loại thức ăn có thể cung cấp nhiều dinh dưỡng mà 1 bộ não trưởng thành và cơ thể cần. Ở châu Phi thì có rất nhiều. Nguồn thức ăn chất lượng cao và có lẽ là quan trọng nhất đối với sự tiến hóa của loài người là thịt và thực phẩm từ thịt. Chúng rất giàu protein và calo.

Daniel Lieberman, Harvard University: “ Nhưng vấn đề duy nhất đối với việc tìm kiếm thịt là nó rất khó kiếm. Phần lớn dã thú dựa vào tốc độ hay sức mạnh để giết con mồi. Tổ tiên chúng ta thì không. Ngày nay chúng ta đã ở trên đỉnh của thức ăn. Nên rất khó tưởng tượng ra khó khăn của người tiền sử. Đây là sinh vật di chuyển chậm, không có móng vuốt và răng nanh. Một con mồi dễ dàng cho các loài dã thú. “Đây là hóa thạch trán và đỉnh lông mày của Người Đứng Thẳng và trên đó có vết cắn của động vật ăn thịt. Điều này làm ta nhớ ra rằng, các cá thể Người Đứng Thẳng không ở trên đỉnh chuổi thức ăn”. Vậy làm thế nào để Turkana 1 người yếu đuối với bộ não lớn cần nhiều calo có thể kiếm được thịt. “Người Đứng Thẳng đã phải đối mặt với 1 vấn đề làm thế nào để giết 1 con vật to lớn, nguy hiểm có nhiều thịt và mỡ mà không bị nó giết hại”. “Tôi nghĩ câu trả lời cho câu hỏi đó là những đổi mới thông minh, là khả năng chạy bền bỉ và hoạt động cao giữa buổi trưa”.

Tổ tiên của Người Đứng Thẳng, loài khỉ nhỏ bé như Lucy có 2 chân, nhưng có lẽ không chạy nhiều. Nhưng cậu bé Turkana được sinh ra để chạy như chúng ta. Daniel Lieberman, Harvard University tin rằng họ có thể chạy 1 quãng xa như chúng ta vì họ đã mất lớp lông dày trên cơ thể và có thể làm mát bằng cách toát mồ hôi. “Đây chính là chìa khóa cho sự thành công”.

Loài Người mất lông trên cơ thể lúc nào

Nhưng làm sao ta biết liệu có phải những thay đổi cốt yếu này xảy ra vào thời cậu bé Turkana hơn 1 triệu năm trước. Da và lông hiếm khi giữ được hóa thạch, nên để tìm hiểu điều này ta phải xem xét 1 sinh vật có liên quan mật thiết, đó là con rận. “Dường như loài động vật nào cũng có vài loài rận ký sinh. Thú có vú, chim ngay cả cá cũng có. Nhưng phần lớn sinh vật khác chỉ có 1 loại sống ký sinh”. Con người có 1 loại chấy trên đầu và 1 loại khác ở vùng mu. Nhà vi trùng học Mark Stoneking, Max Planck Institute tự hỏi: tại sao như vậy. Câu trả lời có vẻ rõ ràng. Đó là khi khắp cơ thể ta có lông thì ta có 1 loại rận. Nhưng rồi lông biến mất chỉ còn tóc trên đầu và vùng mu nên sẽ có khoảng trống không có lông giữa 2 vùng đó. Mark ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng rận vùng mu rất khác chấy trên đầu vì lẽ gì đó trong quá khứ có vẻ như nó bắt nguồn từ loài khỉ. Vì rận vùng mu có quan hệ mật thiết với rận ở khỉ. Không cần suy đoán vì sao vùng mu của tổ tiên ta lại có rận của loài khỉ. Nhưng dù sao ta tìm rận loài khỉ để tìm hiểu vấn đề này. Viễn cảnh phù hợp nhất là khi ta mất lông trên cơ thể chấy di cư lên đầu để lại vùng mu tạm thời không có rận. Khi tổ tiên ta tiếp xúc với khỉ, có lẽ ngủ ở tổ của chúng hay tìm thịt trên xác chúng, rận từ khỉ đã định cư ở vùng mu của họ. Cuối cùng nó trở thành rận mu của con người ngày nay.

Nếu ta tìm hiểu được khi nào rận vùng mu con người và rận của khỉ khác nhau, ta sẽ biết khi nào cơ thể ta mất đi phần lông. Rất may là có 1 cách để tìm hiểu điều đó. Kỹ thuật xác định niên đại bằng gen được gọi là đồng hồ phân tử. Nó dựa trên thực tế rằng chuỗi cơ sở hóa học tạo nên biến đổi ADN ở tỉ lệ thông thường. Đó là tỉ lệ thay đổi ở chuỗi ADN hầu như thường xuyên qua thời gian. Mark Stoneking: “Tức là có 1 cách giúp ta xác định khi nào cả 2 loài chia xẻ cuối cùng tổ tiên của chúng”. Bằng cách đếm các điểm khác biệt trong mã gen của 2 loài, giới khoa học có thể xác định chuỗi sinh hóa tách khỏi nhau bao lâu. Khi Mark dùng đồng hồ phân tử để đếm điểm khác biệt ADN của rận trên khỉ và ADN của rận vùng mu con người, ông đã xác định được niên đại khi chúng tách nhau. “Niên đại ước tính để chúng tách nhau khoảng chừng cách đây 3 triệu năm.

Tức là rất lâu trước thời cậu bé Turkana. Có thể là thời kỳ của Lucy tổ tiên ta dần mất đi 1 phần lông trên cơ thể. Cậu bé Turkana gần như không có lông giống như chúng ta. Điều đó có thể cho cậu ta lợi thế trước các loài dã thú. Phần lớn động vật gặp bất lợi dưới ánh nắng ban trưa vì chúng trở nên quá nóng. Chúng chỉ có thể làm mát bằng cách thở. Khi chạy nhanh chúng không thở được, nghĩa là chúng chỉ chạy quãng ngắn. “Động vật 4 chân chỉ có thể chạy nhanh trong 10 -15 phút, rồi sẽ bị nóng, nhưng con người có thể làm mát bằng cách toát mồ hôi. Cơ thể không có lông cho phép không khí lưu thông trên da và hạ nhiệt cơ thể khi toát mồ hôi. Điều đó khiến chúng ta là 1 trong những loài chạy đường dài tốt nhất”.

Thổ dân Kalahari săn bắt

Daniel Lieberman tin rằng điều đó giúp cho tổ tiên chúng ta khả năng săn bắt rất tốt, được gọi là săn bắt bền bỉ. Ông cũng tin rằng tư liệu về Nhân Chủng học có thể cho ta thấy điều đó thực hiện như thế nào. Thổ dân Kalahari cho ta hiểu rõ làm thế nào Người Đứng Thẳng có thể săn bắt từ cách đây 2 triệu năm. Thổ dân biết rằng nắng ban trưa động vật nghỉ trong bóng râm thế nên đó là thời gian hoàn hảo để săn bắt. Một khi họ đã định vị được con mồi, trong trường hợp này là 1 con linh dương. Cuộc chạy Maraton bắt đầu. Phương thức thật đơn giản, chạy đến kiệt sức. Mỗi lần con vật định nghỉ, các thợ săn lại truy đuổi, bắt nó chạy tiếp, họ không cho nó cơ hội để hạ nhiệt. Lý do họ có thể chạy tiếp là họ có thể toát mồ hôi mà con vật thì không. Nếu lý thuyết là đúng thì đó là lý do vì sao cậu bé Turkana kiếm được thịt. Người Đứng Thẳng đã tìm ra 1 cách cải tiến để nuôi bộ não háu đói của mình. Thời săn bắt hiện đại này thổ dân có thể chạy 4 tiếng dưới nắng kinh khủng. Con linh dương cuối cùng đã bị bất động vì say nắng.

Cậu bé Turkana không có giáo bọc thép như thổ dân mà cậu ta cũng không cần chúng. Người Đứng Thẳng có thể săn bắn với vũ khí siết chặt, với giáo để lao vào con vật ở khoảng cách ngắn, gậy, đá, những loại vũ khí đại loại như thế. John Shea, Stony Brook University: “Họ không dùng vũ khí phóng từ khoảng cách xa mà chúng ta biết”. Cuộc săn của Người Đứng Thẳng đơn giản nhưng hiệu quả, nó nuôi sống không chỉ bộ não lớn hơn của họ mà cả tính phức tạp ngày càng tăng của xã hội hành xử.

Vai trò của lửa và việc nấu ăn

Có những loài sinh vật sống tập thể khác, nhưng không loài nào giống chúng ta. Xã hội thể hiện trong mọi ngóc ngách trong cuộc sống của chúng ta. Các mối quan hệ, sự giao tiếp, các quy định, tất cả những thứ đó ràng buột chúng ta. Điều gì ở đằng sau nó, sao nó lại mang nhiều tính xã hội đến như vậy. Nó có thể liên quan đến sự đổi mới khác điều chưa từng xảy ra trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Đó là tạo ra lửa và nấu ăn. Richard Wrangham, Havard University: “Từ đây xuất hiện loài Đứng Thẳng, loài đầu tiên trông giống chúng ta. Tôi nghĩ chỉ việc nấu ăn mới giải thích tính quan trọng của sự thay đổi này. Bằng chứng sớm nhất rằng tổ tiên chúng ta chủ đích dùng lửa nấu ăn có từ lâu trước thời cậu bé Turkana”. Nhưng Wrangham chắc chắn Người Đứng Thẳng tạo ra lửa sớm hơn nhiều. “Giờ đây lần đầu tiên ta có 1 loài cam kết sống trên mặt đất, vì họ đã mất đi khả năng biết leo trèo. Họ ngủ như thế nào. Họ có khả năng bảo vệ mình trước động vật hoang dã trên hoang mạc châu Phi đầy dã thú săn đêm”. Richard tin rằng cậu bé Turkana và cộng đồng cậu ta không thể sống sót mà không có lửa.

Ông nghĩ chỉ có sự nấu ăn, làm thức ăn mềm và dễ tiêu hơn mới giải thích được việc Người Đứng Thẳng có răng nhỏ hơn và ngực nhỏ hơn nhiều. Những điều này tương thích với việc giảm tiêu hóa hơn. “Đó là kết quả của việc nấu ăn. Ngoài ra không gì khác”. Tổ tiên chúng ta có được lợi ích từ việc nấu ăn, 1 điều nữa cũng xảy ra, ít ra là theo Wrangham rằng chúng ta trở nên rất dễ gần gũi. Con người có tính bình tĩnh tuyệt vời so với Tinh Tinh. “Tính đó ở đâu ra. Chúng ta bị thu hút tới khu đất chung nơi có lửa”. Wrangham tin rằng chúng ta đã học cách giao tiếp khi ngồi quanh đống lửa, trong khi thức ăn đang được nấu. Đó là suy đoán, nhưng có 1 điều chắc chắn là trong thế giới Người Đứng Thẳng các mối quan hệ xã hội phát triển.

Mối quan hệ giữa mẹ con phải rất khác loài khỉ. Chẳng hạn 1 con Đười Ươi mẹ sẽ không cho cá thể nào mang con nó đi và sẽ luôn tiếp xúc với con của nó trong ít nhất là 6 tháng đầu đời. Sarah Blaffer Hrdy, University of California: “Không giây phút nào rời xa con. Yên tâm trong mối quan hệ mẹ con không gì phá vỡ này, lũ đười ươi con ít cần khả năng đọc được ý định của những con khác”. Mối quan hệ giữa mẹ và em bé không vững chắc bằng, sự thật là người mẹ có thể để con 1 mình nhiều hơn Đười Ươi mẹ. Điều đó thường xảy ra nhiều hơn ở bất cứ loại linh trưởng nào. “Cam kết mẫu tử ngẫu nhiên ở người rõ nét hơn nhiều, so với các loài khác. Không như phần lớn loài linh trưởng, người mẹ chia sẻ việc nuôi lớn với những người khác”. Sự tồn tại của 1 đứa con có thể dựa vào việc kêu gọi nhiều người chăm sóc. Có lẽ đó là lý do khiến các em bé có tính nhạy cảm độc nhất. “Khi em bé vừa sinh ra đã am hiểu các bà mẹ, đọc được vẻ mặt các bà mẹ, tìm dấu hiệu cam kết”. Chúng ta sinh ra đã bị kiểm soát bởi nhận thức mục đích và tình cảm của người khác. Điều độc nhất trong thế giới các loài.

Từ khi nào con người phát triển năng khiếu này, nhờ tình trạng tâm thần và tinh cảm đối với người khác và quan tâm những gì người khác nghĩ gì về mình. Những bản năng xã hội này có thể phát triển cùng với Người Đứng Thẳng không. Từ những việc hợp tác săn bắn, có hộp sọ não lớn hơn, thời thơ ấu dài hơn cũng như việc tìm lửa xuất hiện hay không. Có lẽ cậu bé Turkana và cộng đồng cậu ta đã có những kỹ năng xã hội quen thuộc với chúng ta. Đây là sinh vật xã hội thông minh với khả năng hợp tác ngày càng tăng.

Việc phân tán ra các lục địa

Có lẽ điều này dẫn đến 1 thành tựu khác: cuộc di cư từ châu Phi. Trong hàng triệu năm, những tổ tiên sớm nhất của chúng ta đã ở trên các hoang mạc châu Phi. Nhưng đến 1 lúc nào đó, họ bắt đầu ra đi. Hóa thạch hộp sọ và công cụ của họ được tìm thấy ở Trung Quốc và Indonexia. Câu hỏi đặt ra là họ di cư khi nào và tại sao. Khi cậu bé Turkana được tìm thấy giới khoa học tưởng là họ đã tìm ra được câu trả lời. Đây là 1 tổ tiên có não lớn và khỏe, có khả năng trãi qua 1 cuộc di cư gian khổ. Cậu ta có cái nhìn của 1 nhà chinh phục thế giới. “Giữa thập niên 80, chúng ta nghĩ loài người như người này đã rời châu Phi, nhưng có lẽ là từ 1 triệu năm trước”. Trong nhiều thập kỷ, giới khoa học tin rằng con người cao lớn, vạm vỡ như cậu bé Turkana đã rời châu Phi 1 triệu năm trước. Nhưng các phát hiện mới cho thấy cuộc di cư này đã bắt đầu sớm hơn nhiều.

4-untitled.jpg

Hình: Hành trình di cư của Người Đứng Thẳng 1,8 triệu năm trước​

Dmanisi, Gruzia, các ngọn núi và đồng bằng vùng Capca, cách thung lũng Vết Nức Lớn hàng ngàn dặm, chưa từng có hóa thạch nào của tổ tiên người tiền sử. Nhưng rồi đã có 1 phát hiện gây sửng sốt. Abesalom Vekua, Georgian National Musume: “Đó là hàm dưới với răng dốc xuống theo chiều này trên mặt đất. Khi tôi lau sạch, răng cửa lộ ra. Tôi bổng thấy rằng chúng ta phát hiện ra dấu vết của 1 giống họ Người. Nhưng đó là giống nào”. Cái hàm có vẻ là của Người Đứng Thẳng. Nhưng ban đầu chẳng mấy ai tin điều đó. David Lordkipanidze, Georgian National Musume: “Năm 1991, khi chúng tôi phát hiện ra chiếc hàm này, nhiều nhà khoa học còn hoài nghi về nó, vì thật khó tưởng tượng rằng Gruzia, Capca lại ở trên bản đồ tiến hóa của con người”. Từ đó Dmanisi được đặt lên bản đồ tiến hóa của loài người. Di chỉ đó trở thành nơi tìm hóa thạch của Người Đứng Thẳng. Họ đã làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta về việc ai rời châu Phi và từ khi nào.

Họ chứng tỏ rằng những người rời châu Phi đầu tiên còn nguyên thủy hơn cả cậu bé Turkana. “Người ta cho rằng giống Người rời châu Phi có vóc dáng cao như cậu bé Turkana với kỹ thuật tiên tiến”, Jordi Agustí, Catalan Institute of Paleoecology. Dmanisi đã chứng minh điều ngược lại, cao 1,35m còn thấp hơn Turkana, vai giống khỉ hơn và kỹ thuật chế tác đá đơn giản. “Họ còn nguyên thủy hơn và có bộ não nhỏ, đồng thời họ cũng dùng những dụng cụ đá cổ xưa”. Bất ngờ tiếp theo là họ đã xác định được niên đại của di chỉ. Phong cảnh Dmanisi cổ đại đã được dựng lên từng lớp từng lớp qua hàng triệu năm. 1,81 triệu năm trước, núi lửa phun trào với quy mô lớn làm lắng đọng 1 lớp tro bụi. Hóa thạch trên lớp tro bụi nên nó phải ít tuổi hơn khoảng 1,8 triệu năm tuổi. Đối với phần lớn các nhà khoa học tin rằng tất cả tổ tiên chúng ta tiến hóa ở châu Phi đây thực sự là bất ngờ lớn. Làm thế nào người nguyên thủy nhỏ bé di cư đến Capca gần 2 triệu năm trước, trước thời của Turkana rất lâu. Giới khoa học đã thừa nhận rằng, ngay khi Người Đứng Thẳng xuất hiện trên hoang mạc châu Phi họ bắt đầu ra đi. Bổng nhiên nguồn gốc của Người Đứng Thẳng có thay đổi về hình dáng cơ thể và rồi họ rời châu Phi ngay. Hóa thạch Gruzia cho thấy Người Đứng Thẳng rời châu Phi sớm hơn chúng ta nghĩ rất nhiều. Phát hiện mang tính khiêu khích hơn chứng tỏ cuộc di cư có thể bắt đầu sớm hơn.

Người Lùn ở đảo Florex, Indonexia

Cách châu Phi 5.000 dặm, đảo Florex, Indonexia. Năm 2003, các nhà khoa học đã có 1 phát hiện lạ đến mức không ai biết nó là gì. Họ tìm thấy xương của tổ tiên loài người tí hon, chỉ cao hơn 90 cm, còn nhỏ hơn hóa thạch Dmanisi. Họ gọi tổ tiên mới này là Homo floresiensis (niên đại 95.000 – 12.000 năm trước). Và vì kích thước tí hon của nó họ đặt biệt danh cho nó là người Hobbit. Điều này tạo ra 1 tiếp nối lớn, vì ta không biết chắc thứ ta đang có ở đây. Ralph Holloway, Columbia University: “Kích thước nhân trong bộ não người Hobbit xấp xỉ 400 cc, chỉ lớn hơn bộ não của Lucy”. Brian Richmond, The George Washington University: “Đó không chỉ là bộ não nhỏ, gương mặt giống như khỉ, mà bàn chân nguyên thủy, bàn tay cũng vậy”. “Các chi ngắn hơn rất giống với Lucy thật là bất ngờ lớn”.

Và trong hang nơi sinh vật nguyên thủy này được tìm thấy, họ cũng phát hiện ra các công cụ bằng đá, thứ Lucy chưa bao giờ có. John Shea: “Từ lâu người ta đã nói rằng làm công cụ đá cần có 1 bộ nào phát triển, nếu Homo floresiensis làm công cụ bằng đá thì sinh vật này có não bằng trái cam rõ ràng là công thức đó đã không đúng”. Mọi điều về sinh vật này là bí ẩn. Họ đến từ đâu và họ là ai. Vài nhà nghiên cứu tranh cãi rằng “Homo floresiensis chỉ là người lùn của người hiện đại bị mắc 1 căn bệnh nào đó, khiến họ vừa lùn và tương ứng là bộ não nhỏ”. Nhưng khi giới khoa học nghiên cứu kỹ hơn, phần lớn họ không thấy có bằng chứng của bệnh tật. Các công cụ bằng đá và hình dáng khuôn mặt đã chuyển trọng tâm sang Người Đứng Thẳng. Brian Richmond: “Vài nhà nghiên cứu cũng nghĩ rằng Homo floresiensis tiến hóa từ Người Đứng Thẳng”. Nhưng sao họ lại nhỏ bé như thế.

Thứ gọi là Đảo Lùn có thể là câu trả lời. Bị cô lập trên đảo với nguồn thức ăn hạn chế, thú lớn có vú đôi khi bị nhỏ lại theo thời gian. Trên đảo Florex từng có con voi to bằng con bò. Liệu cùng 1 sức ép tiến hóa có tác động lên Người Đứng Thẳng để sản sinh ra người Hobbit không. Hay sinh vật bí ẩn này có tổ tiên là 1 tổ tiên còn nguyên thủy hơn. Susan Larson, Stony Brook University: “Có lẽ ta đang nghiên cứu mẫu thời kỳ đầu của 1 nòi giống người”. Dù người Hobbit là gì thì có lẽ tổ tiên của họ đã thực hiện làn sóng di cư đầu tiên ra khỏi châu Phi. Một sinh vật chưa biết nữa giống khỉ 2 chân như Lucy, nữa giống Người Đứng Thẳng. Nếu đúng như thế, những gì ta thấy ở Indonexia có lý. Daniel Lieberman: “Nó giống như 1 cơ thể tồn tại trước khi cơ thể người trở nên hiện đại hơn”.

Chinh phục thành công Cựu Thế Giới

Điều gì đã đẩy những sinh vật như thế rời khỏi châu Phi. Một ảnh hưởng chính nằm sau cuộc di cư có lẽ là biến đổi khí hậu kéo dài, đồng cỏ đi liền với thú săn lớn, động vật sẽ di chuyển khỏi châu Phi. Sinh vật giống Người sẽ theo kịp các động vật ở đó. Dù sao, đó cũng là kế sinh nhai của họ. Tất nhiên tổ tiên chúng ta không biết họ đi khỏi châu Phi. Họ chỉ đi theo động vật mà họ phụ thuộc vào. Qua Sinai lên Trung Đông và xa hơn. Nó được gọi là 1 cuộc di cư nhưng thực ra không phải vậy. “Khi người ta nghĩ về di cư người ta nghĩ về Kinh Thánh hoặc nếu nghĩ đến di trú, họ nghĩ những người Châu Âu đầu tiên đến Tân Thế Giới. Nó có thể không giống di trú lịch sử sự phân tán loài người ra khỏi châu Phi”. Quá trình rất chậm, rất giống sự phân tán của bất kỳ loại động vật nào khác vào lãnh thổ mới. Susan Antón: “Ta có thể tưởng tượng ra 1 nhóm Người Đứng Thẳng dịch chuyển khu vực của mình 1 km 1 năm theo 1 hướng và làm điều đó liên tục trong thời gian đủ dài. Ta có thể lấp đầy khoảng cách từ châu Phi đến Indonexia trong khoảng 15.000 năm”.

5untitled.jpg

Hình: Một nhóm Người Đứng Thẳng quây quần với nhau​

Một triệu năm trước tổ tiên chúng ta đã định cư ở châu Á từ vùng Capca đến Indonexia. Họ cũng ở châu Âu những phát hiện ở Tây Ban Nha . Điều đó cho thấy Người Đứng Thẳng đã chinh phục cả Cựu Thế Giới. Việc họ tiến xa như vậy là vượt trội so với kỹ thuật hạn chế, bộ não nhỏ, chứng tỏ họ rất xuất sắc. Tuổi thọ của họ cũng thật đáng kinh ngạc. Vài nhóm Người Đứng Thẳng vẫn còn bám trụ ở châu Á đến 50.000 năm trước. Giống loài của chúng ta chỉ mới tồn tại trong 200.000 năm. Bí quyết của Người Đứng Thẳng là gì. (Homo erectus 1,8 triệu – 50.000 năm trước). Những phát hiện ở Dmanisi đã cho ta manh mối cuối cùng.

Một hộp sọ là của 1 ông già. Xương hàm của ông cho thấy ông ta không còn răng trước khi chết. Jordi Agustí, Catalan Institute of Paleoecology: “Đó là 1 bất ngờ. Tức là cá thể này đã sống 2 năm mà không có răng. Một người già sống lâu như thế mà không có răng, hẳn là những người khác trong nhóm ông ta đã nhai thức ăn và mớm cho ông ta. Tôi rất thích câu chuyện này”. Sarah Blaffer Hrdy, University of California, Davis: “Đó là 1 bằng chứng khác thường của quá khứ về chất lượng tình cảm tiêu biểu của Người Đứng Thẳng. Đây là manh mối đối với điều đó có thể là di sản quan trọng nhất của giống người này với bản năng chăm sóc lẫn nhau”.

Nếu chúng ta tưởng tượng ra ngày cuối cùng của cậu bé Turkana trên Trái Đất, theo kịch bản của những người làm phim. Cậu ta bắt đầu 1 ngày mới với 1 cuộc đi săn, nhưng cậu ta gặp rắc rối. Tại sao vậy. Bằng chứng từ bộ xương cho thấy cậu ta bị ốm vào thời điểm cậu ta chết. “Nếu xem xét hàm dưới, ta có thể thấy ngay dưới chân răng bị áp – xe và nhiễm trùng. Loại nhiễm trùng nguy hiểm có thể đã giết chết cậu ta”. Loại nhiễm trùng đã ăn vào xương hàm, hẳn là rất đau. Cậu bé Turkana đau đớn không thể tiếp tục cuộc săn. Biết mình sẽ được chăm sóc, cậu ta quay về trại để tìm sự an ủi. Richard Leakey: “Tôi nghĩ cậu ta là 1 anh chàng khốn khổ đau đớn phụ thuộc vào sự bố thí. Đây là giống người đã biết cảm nhận rằng phải yêu thương và chăm sóc lẫn nhau”. Nhưng họ càng muốn giúp cậu ta nhiều họ càng không thể làm gì để ngăn nhiễm trùng lan ra khắp cơ thể cậu ta. Viktor Deak, Paleoartist: “Từ bằng chứng đó tôi luôn tưởng tượng ra rằng cậu ta rất đau và cậu ta buồn vì điều đó. Nhưng cuối cùng từ điều đó mới có bộ xương hóa thạch dường như bất tử này”. Sọ của cậu ta còn nguyên vẹn có thể cậu ta chết dưới nước. Meave Leakey, Nat Geo Explorer -in-Residence: “Lấy được 1 bộ xương còn nguyên vẹn là 1 công việc rất khó khăn, vì bình thường dã thú sẽ ăn hết. Trong trường hợp này có vẻ như thi thể cậu ta dạt xuống đầm lầy nên dã thú không thấy và không ăn được, nó dần phân hủy và khi nước dâng lên cao mang theo bùn cát và chôn nó. Ta có thể thấy dấu chân hà mã dọc theo bộ xương, và vài cái xương sườn dựng đứng thay vì nằm trên mặt đất. Ta có thể tái tạo toàn cảnh cách cậu ta đã chết. Điều gì đã xảy ra và tại sao cậu ta còn nguyên vẹn. Đây là 1 trãi nghiệm tuyệt vời”. Trong gần 2 triệu năm, xương cậu ta được đất bảo quản.

Khám phá của các nhà khoa học đã mở ra 1 cửa sổ cho chúng ta về 1 thế giới chưa được biết đến, thế giới của tổ tiên loài người thành công nhất mọi thời đại Người Đứng Thẳng. Họ hé mở cho chúng ta giây phút bí ẩn khi hầu hết tất cả mọi thứ của con người được sinh ra cơ thể, trí óc cũng như tình cảm. Hãy nghĩ về tất cả những gì ta đã trở thành. Và hãy lần theo nguồn gốc của chúng ta qua những người đi trước. Họ đều tập trung vào cậu bé Turkana và giống Người của cậu ta. Giống người đầu tiên trên thế giới.

Nguồn: nghiencuulichsu.com​
 
Sửa lần cuối:

uocmo_kchodoi

Moderator
Xu
0
Tổ tiên của chúng ta chính là loài Khỉ hình người sống ở châu Phi. Để trở thành loài vật thông minh nhất, chúng ta - là những con Người Khôn Ngoan đã phải đấu tranh không ngừng nghỉ và trải qua quá trình tiến hóa lâu đời. Hơn 6 triệu năm trước chúng ta đã đi bước đầu tiên để tách khỏi Khỉ Hình Người. Kể từ đó có ít nhất 20 dạng tổ tiên của loài người trong cây phả hệ của chúng ta, một số tiếp tục con đường trở thành người, số kia đi vào ngõ cụt tiến hóa. Mới 50.000 năm trước có thể có tới 4 kiểu Người khác nhau sinh sống cùng thời điểm. Song ngày nay chúng ta là loài Người duy nhất. Tại sao chúng ta sống sót còn số khác thì không? Ta sẽ tìm hiểu xuất xứ giống loài của chúng ta hiện tại ngày nay, đó là Người Khôn Ngoan (Homo sapiens).

CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI KHÔN NGOAN

Lê Quỳnh Ba biên tập
Theo phim BECOMING HUMAN,
Viết, sản xuất và chỉ đạo bởi: Graham Townsley
HHMI (Howard Hughes Medical Institute)
Khoảng 140.000 năm trước, với số lượng ít, cũng là loài tiến hóa gần đây, Người Khôn Ngoan hoàn toàn bị định đoạt bởi nhiều lực lượng tự nhiên xung quanh mình. Người Khôn Ngoan đã chấp chới bên bờ sự diệt vong.

Cùng lúc đó, có một loại người khác, gọi là Người Neandertha. Trong gần 400.000 năm Người Neanderthal sống ở châu Âu trong kỷ Băng Hà, là những kẻ đi săn siêu hạng. Não của họ lớn hơn não chúng ta, và hồ sơ sinh tồn của họ dài gấp đôi chúng ta. Họ là loài Người tiến bộ nhất trên Trái Đất cho đến khi chúng ta xuất hiện, rồi họ biến mất, tại sao?

Tại sao Người Neanderthal biến mất.

Cuối cùng chúng ta đang tìm ra câu trả lời. Hài cốt đứa bé niên đại cách đây 100.000 năm tiết lộ điều ta có, họ không có. Cần phải tìm hiểu sự khác biệt giữa Người Neanderthal và chúng ta để biết được chúng ta có gì đặc biệt. Đó có phải là khả năng về thể chất hay lối tư duy mới. Những nghi vấn đó liên quan đến điều biến chúng ta thành con người. Để trả lời ta phải đi ngược thời gian về lại đoạn đầu về câu chuyện về loài người.

Người Đứng Thẳng, có thân hình gần giống chúng ta.

Hãy tưởng tượng toàn bộ thời gian lịch sử loài người được ghi lại, đưa chúng ta về thời kỳ Kim Tự Tháp Ai Cập 5000 năm trước; gấp đôi lên, 10.000 năm trước, khi thực vật được nuôi trồng và nông nghiệp bắt đầu. Gấp đôi lên lần nữa, 20.000 năm trước tới thời kỳ của thợ săn kỷ Băng hà vẽ hình ảnh gây ngạc nhiên trên tường hang động. Gấp thêm 6 lần, đưa chúng ta về 1,3 triệu năm trước, khi sinh vật đầu tiên trông rất giống chúng ta xuất hiện, Người Đứng Thẳng, người đi tiên phong về những gì thuộc về con người. Người Đứng Thẳng ở những đồng bằng châu Phi gần 2 triệu năm trước. Họ là lớp tổ tiên đầu tiên có thân hình giống với chúng ta. Họ là những thợ săn, hái lượm, người chế tạo ra công cụ bằng đá. Những con người sống thành nhóm xã hội và quan tâm tới nhau. Người Đứng Thẳng nổi tiếng nhất là cậu bé Tukana. Cậu bé Tukana và tổ tiên cậu ta chính là 1 ngưỡng cửa. Họa sĩ cổ sinh học chuyên làm ra các điêu khắc có căn cứ về người cổ đại. Từ hóa thạch còn lại chúng ta đã tái tạo đầu cậu bé Tukana.

Viktor Deak, họa sĩ về Nhân chủng học: “Các đặc điểm giống Khỉ Hình Người nổi rõ, xương trên mắt to, trán thấp hơn và nhô ra, sọ vẫn nhỏ hơn sọ chúng ta. Bất chấp những khác biệt đó cậu bé Tukana bắt đầu trông giống 1 con người. Có lẽ hành vi và cảm xúc phức tạp hơn, xuất hiện từ thời cậu bé Tukana. Và những gì thực sự là của con người bắt đầu manh nha từ đó”. Có lẽ Người Đứng Thẳng, 2 triệu năm trước đã bắt đầu rời châu Phi. Suốt từ đó, châu Phi là nơi tiến hóa cho chúng ta, cho từng đợt sóng di cư người cổ đại, những người cư trú ở châu Âu và châu Á. Cư trú ở những nơi xa xôi và phát triển theo cách riêng của họ.

Người heidelbergensis, với những chiếc rìu màu hồng, niên đại 500 ngàn năm.

Không lâu sau đó, có 1 làn sóng rời châu Phi để tới châu Âu, đây chính là 1 giống loài mà vào 1 ngày đã sinh ra Người Neanderthal. Kể từ khi chiếc sọ đầu tiên được phát hiện ở Heidelberg, họ được gọi bằng cái tên heidelbergensis nhưng hầu như ta không biết gì về họ cho đến cuộc phát hiện kỳ diệu ở vùng Antefurica, phía Bắc Tây Ban Nha. Đây là lối vào của toàn bộ hệ thống, là 1 đoạn đường dài, 1 số nơi bạn phải bò, 1 nơi khó làm việc. Ngày nay phải mất nữa giờ đi bộ, trườn và bò trong bóng tối mới tới được 15 mét đường thông vào trong hố. Nhưng mất gần 10 năm, di chỉ này hé lộ bí mật của nó. Chúng tôi bắt đầu tìm những mảnh xương người. Lúc đầu khó nhận thấy vì chúng rất mảnh, những có quá nhiều mảnh nhỏ xíu nên họ nghĩ họ đang tìm kiếm 1 thứ gì đó quan trọng. Dù không nói với nhau, nhưng chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ rằng dưới đây có xương. Vì trong hố đó có nhiều xương nên họ nhận ra họ không chỉ có 1 bộ, mà là nhiều bộ xương hoàn chỉnh. “Chúng tôi có khoảng 30 bộ xương hoàn chỉnh khoảng 500.000 năm tuổi”. Thật đặc biệt chúng là những bộ khung xương của người tiền sử, đó là Người Heidelbergensis 1 trong những người đầu tiên định cư ở châu Âu.

1.png

Hình: Người Heidelbergensis, tổ tiên chung của ta và Người Neanderthal.​

Nhưng sao mà ở 1 nơi mà thu được nhiều bộ xương như vậy. Juan Luis Arsuaga tin rằng chúng được cố ý đặt ở đó bởi những người họ hàng của họ. 500.000 năm trước, hố xương nằm sâu dưới đất, có 1 lổ thông lên trên mặt đất, có lẽ Người Heidelbergensis đã thả xác người của mình xuống hố. Một kiểu hố chôn cất nguyên thủy. Có bằng chứng cho thấy việc đó có thể là 1 nghi thức, cùng với xương Juan Luis Arsuaga còn tìm thấy được 1 đồ tạo tác, một chiếc rìu tay bằng thạch anh màu hồng, 1 khoáng chất chắc được lấy từ 1 nơi rất xa, họ gọi đó là “Excalibur”, theo tên thanh gươm trứ danh của vua Athur. Họ tin rằng đó là 1 tặng phẩm, biểu tượng đầu tiên được tìm thấy.

Nếu đúng thế, đây là loài có tư duy phức tạp, có ý thức về biểu tượng và lòng tin. “500.000 năm trước, những người định cư ở châu Âu đều có kế hoạch, có ý thức, có trí óc của loài người và cả hành vi biểu tượng”. Trước đây ta thường nghĩ các đặc điểm đó chỉ có ở chúng ta, Người Khôn Ngoan với các bằng chứng sớm nhất có ở những hang đá là các bức vẽ ở phía Nam nước Pháp cách đây 30.000 năm. Song kết quả kỳ diệu nhất ở Antefurica có thể đẩy quá trình phát triển trí óc lên sớm hơn 500.000 năm.

Người Neanderthal, vẻ ngoài rất giống chúng ta

Người H. heidelbergensis vẫn tiếp tục tiến hóa và cuối cùng thành giống người định cư ở châu Âu là Người Neanderthal (niên đại 200.000 – 30.000 năm trước). Trong tất cả các giống người cổ, Người Neanderthal gần với chúng ta nhất. Não của họ hơi lớn hơn não của ta. Cơ thể ngắn và chắc giúp họ sống qua nhiều thời kỳ băng hà. Họ là những người thợ săn, sống nhờ vào thú lớn, lang thang ở rìa những tảng băng khổng lồ phủ khắp châu Âu và Trung Á.

Khi hóa thạch Người Neanderthal đầu tiên được phát hiện (cuối 1829), Darwin vẫn chưa công bố thuyết tiến hóa của ông. Ý tưởng cho rằng Người Hiện Đại là hậu duệ của những giống loài nguyên thủy hơn đã gây ra sự tranh cãi lớn. Đây là hộp sọ hóa thạch đầu tiên của Người Neanderthal được tìm thấy. Michel Toussaint, University of Liège: “Nó được phát hiện vào cuối năm 1829, sau thời kỳ đó nhiều người không hài lòng với ý nghĩ đây là 1 con Người giống như chúng ta”. Nhiều người khẳng định Người Neanderthal bị bệnh, là những người méo mó. Khi đó, vì khái niệm tiến hóa đã có chổ đứng, nên nhiều người tự hỏi họ có phải là liên kết bị thiếu giữa ta và Khỉ Hình Người hay không. Jean-Jacques Hublin, Max Planck Institute: “Nếu ta trở lại hồi đầu thế kỷ 20, thì Người Neanderthal được coi là sinh vật giống khỉ”. Nhưng kể từ đó, hàng trăm mẫu hóa thạch đã tiết lộ nhiều điểm tương đồng giữa họ và ta. Sau thập kỷ 1970, có 1 quan điểm được gọi là phục hồi Người Neanderthal. “Nghĩa là ta có xu hướng nhìn họ 1 cách con Người hơn”.

Cậu bé Scladina, thuộc Người Neanderthal

Nhưng họ có suy nghĩ và hành động giống ta hay không. Ngày nay, hài cốt của 1 bé trai đã chết 100.000 năm trước, giúp các nhà nghiên cứu thâm nhập những bí ẩn trong trí óc của Người Neanderthal. Thung lũng Mush ở Bỉ, chính các hang đá ở đây là nơi để lộ những hóa thạch đầu tiên của Người Neanderthal, 150 năm trước. Ngày nay chúng tiết lộ nhiều bí mật sâu xa hơn về thế giới của Người Neanderthal. Trong hơn 20 năm, Michel Toussaint và Dominique Bon Jean, (Archéologie Andennaise) đã khai quật hang đá có tên Scladina. Từng milimét một, họ sàng lớp phế tích. Công việc vất vả của họ đã được đền đáp. Dominique Bon Jean, Archéologie Andennaise: “Tôi có cơ hội có mặt ở đây, khi 1 sinh viên của tôi phát hiện ra 1 cậu bé Người Neanderthal. Khi chúng tôi đến đó, thấy vật này chúng tôi rất bất ngờ, không thể tin nổi”. Thứ họ phát hiện được là xương hàm của 1 cậu bé chết cách đây 100.000 năm. Ở gần đó họ cũng tìm được những mảnh xương và răng, cho đến khi chúng khớp thành 1 bộ hàm hoàn hảo.

2.png

Hình: Tái hiện cậu bé Scladina, niên đại 100.000 năm tuổi.​

Từ đó họ đã nổ lực làm sống lại cuộc đời của cậu bé Scladina. Họ biết vùng rừng và các hang đá và thung lũng Mush chính là nhà của cậu bé. Có lẽ cậu bé sống ở đó trong 1 gia đình nhiều thế hệ. Cậu bé cũng học được từ cha mình kỹ năng trở thành người đi săn. Nhưng ta còn suy ra được gì từ lối sống đó, xương cậu bé chứa đầy manh mối. Và các kỹ thuật mới cho phép các nhà khoa học giải mã chúng. Michel đưa mảnh xương hàm tới 1 trong ít các nơi có thể kiểm tra những thứ ông cần. Viện nghiên cứu Max Planck ở Leipzig, Đức là 1 trong những trung tâm hàng đầu trên thế giới nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người. Ở đây, mảnh xương hàm của cậu bé Scladina được cho đi qua máy chụp CT rất mạnh, nó cho phép các nhà nghiên cứu thấy được cấu trúc bên trong răng và xương. “Đây là hàm dưới được “scan” vào ngày hôm trước, hàm dưới của cậu bé Scladina. Chúng tôi đã xây dựng được thứ gọi là mô hình bề ngoài. Về cơ bản đó là hình ảnh ảo của hàm dưới trên máy tính. Chúng tôi có thể tách răng và xương trong mẩu vật này. Những đặc điểm chúng tôi có thể xem xét cho thấy Người Neanderthal rất giống chúng ta về nhiều mặt, song cũng rất khác với chúng ta”.

Thời thơ ấu ngắn hơn ta.

Răng của trẻ chính là kết quả có giá trị nhất của mọi khảo cổ vì chỉ chúng cho ta biết tốc độ lớn của trẻ. “Nếu ta nhìn vào kiểu mọc răng của cậu bé Scladina đó, theo tiêu chuẩn hiện đại thì cậu bé khoảng 12 tuổi. Chiếc răng hàm thứ 2 đã nhú lên gần như hết. Song sau khi xem xét cấu trúc bên trong của men răng, chúng tôi biết được thật ra cậu bé ít tuổi hơn nhiều. Chúng tôi biết cậu bé đó qua đời lúc 8 tuổi”. Tuy cậu bé trông có vẻ giống chúng ta, nhưng có thể cậu ta phát triển nhanh hơn nhiều. Nghĩa là cậu bé đó có ít thời gian hơn cho não phát triển và học tập, nhưng hoàn toàn giả định Người Neanderthal kém thông minh hơn chúng ta hay không?

Bằng chứng quan trọng có trong hộp sọ. Kết quả cho thấy dấu vết bên trong hộp sọ Người Neanderthal đã tiết lộ não của họ có nhiều nét tương đồng với não của chúng ta. “Khi xem phía trong não của Người Neanderthal chúng ta thấy có thùy trán mà chúng ta không thể phân biệt được với Người Khôn Ngoan. Vùng Roca kiểm soát hoạt động ở mọi khía cạnh có hình thức hoàn toàn giống với con người”. Thế nên, nếu phía trước não của Người Neanderthal giống chúng ta thì phần còn lại sẽ như thế nào.

Khả năng tư duy bị hạn chế.

Ngày nay nhiều nhà khoa học như Katerina Harvati đang cố gắng đo kích thước hộp sọ với độ chính xác cao. Cô sử dụng 1 dụng cụ đặc biệt để số hóa hộp sọ và tạo ra những hình ảnh 3D hoàn hảo. Katerina Harvati, University of Tubingen: “Từ lâu ta đã biết Người Neanderthal trông khác Người Hiện Đại kể từ họ được tìm thấy và mô tả lần đầu tiên. Nhưng sự khác biệt đó có ý nghĩa gì”. Đây là hình ảnh 3D sọ của ta, với 1 mái vòm cao đặc trưng. Trái lại sọ Người Neanderthal thấp hơn và thon dài cho thấy não có hình dáng khác. Các phần não của Người Neanderthal có tên thùy đỉnh, thùy thái dương có vẻ hơi bé hơn, nét khác biệt nhỏ đó có thể ảnh hưởng tới khả năng tư duy của họ. Daniel Lieberman, Trường ĐH Tổng hợp Harvard: “Nhiều vùng ở thùy đỉnh và thùy thái dương rất quan trọng đối với nhận thức nhất là về ngôn ngữ, trí nhớ, khả năng nhớ các vị trí trong không gian”.Kích thước nhỏ hơn ở các vùng đó của Người Neanderthal có thể là 1 dấu hiệu về khả năng tư duy bị hạn chế.

Người Neanderthal hầu như chỉ ăn thịt

Nhưng xương hàm của cậu bé Scladina cho ta biết nhiều hơn về những hạn chế khác. Trở lại Viện Max Planck nhìn kỹ hơn về cấu trúc xương để tìm hiểu chế độ ăn uống của cậu bé. Thứ ta ăn sẽ để lại dấu hiệu hóa chất trong cơ thể ta. Những dấu hiệu đó được tích hợp vào protein trong xương. Michael Richards, Max Planck Institute: “Ta lấy xương tách protein và đo các số liệu đó, ta có thể suy ngược lại và nhận biết người này đã ăn thứ gì trong suốt cuộc đời”. Ông phát hiện ra rằng Người Neanderthal hầu như chỉ ăn thịt, tuy có nhiều trái cây và quả mọng, và rễ cây ăn được trong môi trường sống của họ. Chúng tôi không thấy bằng chứng cho thấy protein thực vật trong chế độ ăn của họ. Và có vẻ họ không hề ăn thức ăn dưới biển. Họ săn thú ăn cỏ như bò pidon, tuần lộc. Họ là loài ăn thịt, có chế độ ăn giống thú ăn mồi như loài sói hơn là con người. “Họ có dấu hiệu ít thay đổi dù sống ở bất cứ đâu. Cho tới nay chúng tôi đã xem xét các dạng Người Neanderthal ở Đức, Người Neanderthal ở Scladina, Người Neanderthal ở Pháp và Croatia, có từ cách đây trên 100.000 năm”. Dù ở những môi trường khác nhau, Người Neanderthal đều làm 1 việc giống nhau. Vậy nên xương của cậu bé Scladina và người của cậu ta tiết lộ nhiều manh mối về hành vi của Người Neanderthal họ đều làm 1 việc là đi săn thú lớn. Họ cứ làm thế hàng trăm ngàn năm.

Kỹ thuật của họ đã cho thấy 1 câu chuyện tương tự. Kỹ thuật của họ là nhanh, thô, và đơn giản. John Shea, Stony Brook University: “Có 1 số công cụ Người Neanderthal làm ra, ta có thể sao chép trong tích tắc hoặc cùng lắm là vài phút. Dù là săn thú lớn nhưng họ không phóng lao hay bắn tên. Không công cụ bằng đá nào của họ có hình dáng và kích thước đủ để bắn đi được. Chúng đều quá lớn khó có thể phóng đi được. Nghĩa là thợ săn Neanderthal phải đến gần con mồi, mới giết được chúng”. Từ đó khiến đi săn là 1 việc đầy rủi ro. Hầu hết xương của đàn ông Neanderthal đều có vết nứt. Cuộc sống của họ rất vất vả, nguy hiểm nên ngắn ngủi. Xương của họ cho thấy rất ít người thọ trên 30 tuổi.

Nhưng với tư cách là 1 loài, Người Neanderthal lại tồn tại gần 400.000 năm, dài gấp đôi chúng ta. Nhưng rồi 1 ngày, thời gian của họ trên Trái Đất cũng kết thúc. 25.000 năm trước, họ biến mất khỏi hồ sơ hóa thạch. Đã có chuyện gì xảy ra?

Người Khôn Ngoan, loài Người tiến hóa sau cùng

Để tìm hiểu chúng ta phải trở lại châu Phi. Thung lũng Vết Nức Lớn thời kỳ diễn ra rất nhiều sự tiến hóa của loài Người. Chính tại nơi đây hàng triệu năm về trước, thiên nhiên bắt đầu 1 cuộc đại thí nghiệm với nhiều sinh vật như Lucy, Người Đứng Thẳng. Chính tại nơi đây hơn 1 triệu năm về trước cậu bé Turkana và người của cậu ta với bộ não và cơ thể lớn hơn đã hình thành xã hội đi săn và hái lượm. Và cũng tại nơi đây, khoảng 200.000 năm trước, hộp sọ của 1 loài mới bắt đầu được tìm thấy, loài Người tiến hóa sau cùng, Người Khôn Ngoan (Homo sapiens).

Người Khôn Ngoan, thời kỳ đầu

Họ vẫn chưa hẳn là chúng ta, phần xương trên mắt họ hơi to hơn, mặt họ hơi lớn hơn, còn kỹ thuật thì vẫn đơn giản. Đồ đá của Người Neanderthal và đồ đá của Người Khôn Ngoan giống hệt nhau. “Không thể phân biệt được ai làm cái gì, khi họ cùng làm 1 thứ”.

Một thời kỳ băng hà dài và nặng nhất làm Người Khôn Ngoan tiến hóa vượt bậc

Vậy điều thay đổi là gì. Điều gì khiến chúng ta thành loài tháo vát như ngày nay. Tất cả các bằng chứng đều hướng tới sự biến đổi khí hậu. “Chúng ta tiến vào 1 thời kỳ băng hà dài và nặng nhất”. Vào 200.000 năm trước những tảng băng khổng lồ đã tràn xuống xa hơn. Ở châu Phi các trận đại hạn đã biến nhiều vùng thành sa mạc. “Về cơ bản chúng ta chịu thiên tai kép. Thách thức về khí hậu đối với châu Phi khiến dân số giảm xuống”. Nhà di truyền học Spencer Wells, Nat Geo Explorer-in-Residence tin rằng: những giao lưu trong dân số cổ đại đã để lại dấu vết về gen của ta. Nó có tên là “Hiệu ứng cổ chai”. Các chủng con người (hiện nay) tuy bề ngoài có vẻ khác nhau nhiều, nhưng thực ra có rất ít sự đa dạng về di truyền. Chúng ta giống đến 99,9%. Còn loài Khỉ, Tinh tinh, Khỉ đột hay Đười ươi thì sự đa dạng ADN nhiều gấp 4 đến 10 lần. ADN ở người thiếu sự đa dạng chính là manh mối cho thấy có thể có 1 cuộc khủng hoảng đã quét sạch dân số. Lý do chúng ta có ít sự đa dạng ở góc độ di truyền chính là vì ta đánh mất nó ở 1 điểm nào đó. Cứ hình dung chiếc chai thạch đậu này là dân số ban đầu. Trong này sự đa dạng là rất lớn. Vậy thì điều gì đã xảy ra ở cổ chai, khi đi qua cổ chai thì ít loài sống sót. Do đó, có sự sụt giảm dân số xảy ra ở ngay đây. Mọi người đang sống hôm nay là hậu duệ của 1 số ít cá thể này. Bạn có thể thấy ta bị mất đi nhiều màu sắc so với gốc gác. Hiệu ứng cổ chai là thế đấy. Mọi người hôm nay là hậu duệ của 1 số ít cá thể vượt qua được cổ chai đó.

3.png

Hình: Minh họa “Hiệu ứng cổ chai”​

Dữ liệu khí hậu cho thấy, khoảng 140.000 năm trước hầu hết châu Phi nhiệt đới đều trở nên hoang vu. Tổ tiên chúng ta buột phải tìm nơi trú ẩn dọc vùng duyên hải hoặc các cao nguyên. Xem ra có từ 4 – 6 điểm ở châu Phi là vẫn có thể có lợi cho quần thể săn bắt và hái lượm. Những nơi trú ẩn đó vẫn có bằng chứng cho thấy tổ tiên chúng ta bị đẩy đến bên bờ của sự tuyệt chủng. Curtis Marean, Institute of Human Origins: “Hồ sơ di truyền cho thấy chúng ta là con cháu của 1 quần thể xấp xỉ 600 cá thể. Có sự bất đồng về số lượng và thời gian. Nhưng có vẻ mọi người trên Trái Đất đều là con cháu của 1 quần thể rất nhỏ sống ở châu Phi”. Curtis Marean tin rằng họ sống ở dọc bờ biển Nam Phi. Chính cuộc sống dựa vào biển đã khiến họ buột họ phải thay đổi. Ở 1 cái hang ở Nam Phi, ông tìm thấy nhiều hang được tổ tiên Người Khôn Ngoan sử dụng trong suốt thời kỳ đại hạn.

Khí hậu khắc nghiệt buột Người Khôn Ngoan phải thay đổi chế độ ăn

Chúng có đầy manh mối gợi ý về những lối tư duy và hành vi mới. Ở đây ông tìm được các bằng chứng lâu đời nhất cho thấy con người đã sống nhờ vào biển. “Vật liệu sẫm màu này chính là tro của 1 bếp lửa, phần lớn chất liệu này là vỏ sò bị đốt. Do đó rõ ràng việc nướng sò đã diễn ra tại chính tại điểm này. 76.000 năm trước, ai đó đã có bữa tối ngon lành với món sò nướng ở đây”. Đây chính là quần thể đã mở rộng chế độ ăn uống, cần đến sự khéo léo, không có ở tổ tiên thời kỳ đầu. Nếu bạn đi bắt sò không đúng lúc, bạn sẽ bị chết ngay. Bạn phải biết thời điểm ra bờ biển khi có thủy triều thích hợp mới bắt được sò. Thời điểm thích hợp nhất là lúc thủy triều xuống tới mức thấp nhất. Để tiên đoán điều đó thì việc hiểu chu kỳ của Mặt Trăng sẽ rất có ích. Đó là thời điểm bạn muốn bắt sò biển. Chổ nước này sẽ rút ra xa ngoài kia vào thời điểm đó, ở chổ tảng đá kia. Thế nên, kẻ đi biển khôn ngoan sẽ biết dùng Mặt Trăng để xác định thời điểm thích hợp nhất.

Những người dân ở hang này không những săn bắt sò mà còn săn bắt ở đồng bằng bên trong bờ biển. Họ còn hái lượm những quả mọng và đào rễ cây, lối sống của họ phản ánh 1 nét linh hoạt mới. “Việc sử dụng có hệ thống nguồn hải sản cho thấy có sự phức tạp trong nhận thức”.

Công cụ đá chuyên biệt hơn

Tổ tiên chúng ta ở trong những chiếc hang này trong hơn 140.000 năm và để lại bộ tài liệu kỳ diệu về sự thay đổi của mình. Khu này là 1 tài liệu về sự thay đổi phong cách làm công cụ bằng đá. “Họ làm công cụ bằng đá thạch anh cứng. Khoảng 71.000 năm trước, họ có sự thay đổi trong việc chế tạo công cụ bằng đá có hình lưỡi dao mỏng. Trước khi đẽo gọt họ đốt nóng vật liệu này, đó là thời điểm cách đây 71.000 năm, còn trước đó 40.000 năm, thì điều đó chưa được phát hiện”. Kỹ thuật của tổ tiên chúng ta đã mở rộng từ rìu cầm tay đa năng ra nhiều loại công cụ chuyên biệt nhẹ hơn. “Khi đó, họ bắt đầu làm công cụ này, họ làm công cụ có đầu nhỏ và đục lỗ, họ còn làm nhiều cộng cụ khác có mũi chạm trổ đặc biệt”.

4.png

Hình: Công cụ đá từ Rìu tay đa năng thành nhiều loại công cụ chuyên biệt.​

Những đồ dùng chuyên biệt cho phép tổ tiên chúng ta đi xa hơn khỏi môi trường sống của mình. Nhưng đó chưa phải là thay đổi duy nhất. “Lúc này ta bắt đầu thấy con người xem các công cụ đá là biểu tượng, họ làm chúng phức tạp hơn mức cần thiết để có thể dùng được. Do đó lúc này công cụ bằng đá không còn là công cụ dùng để cắt nữa mà còn là công cụ mang thông tin xã hội của người chủ sở hữu nó”. Một dạng hiểu biết mới về biểu tượng đã xuất hiện. Bằng chứng đầu tiên về nghệ thuật trang điểm được làm từ khoáng chất đầu tiên có tên là hoàng thổ đã được phát hiện ở Blombos, 1 cái hang khác dọc bờ biển Nam Phi.

Bắt đầu biết sáng tạo hình ảnh biểu tượng

Trong khi khai quật ở vùng này, chúng tôi phát hiện 1 khối hoàng thổ. Christopher Henshilwood, University of Bergen: “Khi phủi sạch bụi trên bề mặt của khối này chúng tôi mới biết thật ra đó là nét trang trí ở 1 bề mặt, khi xem kỹ hơn khi soi ánh sáng, chúng tôi thấy có hoa văn và các đường chéo song song, có cả các đường chữ chi chạy ngang. Trên bề mặt rất phẳng này còn có nhiều đường thẳng chạy từ đầu xuyên qua phần giữa rồi dọc xuống phía dưới. Bạn có thể hình dung chúng tôi mừng thế nào vì chúng tôi không mong tìm 1 thứ có thể đại diện cho hình ảnh biểu tượng cách đây 75.000 năm. Đây thực sự là 1 bất ngờ lớn đối với chúng tôi”. Ở Blombos họ cũng tìm thấy nhiều vỏ sò có lỗ được cho là để làm vòng cổ.

5.png

Hình: Khối hoàng thổ ở động Blombos, niên đại khoảng 75.000 năm trước.​

Biết trang trí

Vậy tổ tiên chúng ta giờ đã biết đeo đồ trang sức và còn có thể vẽ lên cơ thể mình nữa. Christopher Henshilwood: “Với tôi, điều quan trọng là lần đầu tiên chúng ta có bằng chứng cho biết rằng con người có thể lưu thông tin ngoài bộ não”. Đó là sự ra đời của 1 nét văn hóa mới của con người, phức tạp hơn song dễ lưu truyền hơn từ thế hệ này qua thế hệ khác.

6.png

Hình: Người Khôn Ngoan biết vẽ mặt, biết dùng vỏ sò đeo cổ.​

60.000 năm trước, tổ tiên chúng ta đạt mức kỹ thuật và văn hóa mới.

Vậy là, 60.000 năm trước, tổ tiên chúng ta bắt đầu xuất hiện với kỹ thuật và văn hóa mới. Hàng ngàn năm hạn hán đã buột họ phải thay đổi. Họ đã sẵn sàng để khám phá thế giới. Khi khí hậu hiền hòa hơn, họ đã bắt đầu rời khỏi châu Phi. Có thể họ bị bất ngờ khi phát hiện ra nhiều lục địa đã được người khác cư trú. Những vết tích của người di trú trước đó rất lâu. Khi tới châu Á có thể họ đã gặp Người Đứng Thẳng hoặc người tí hon Hobbit. Không có bằng chứng về cuộc gặp gỡ nói trên, nhưng chúng ta biết chắc đã có 1 cuộc chạm trán. Như 1 con sóng từ từ đi qua Trung Đông vào châu Âu, chắc chắn họ đã gặp Người Neanderthal.

Những cuộc gặp gỡ đó như thế nào? Đã nhiều năm các nhà khoa học ghi chép Người Khôn Ngoan thời kỳ đầu đã lai cả Người Neanderthal thông qua hôn phối. Nếu thế đã có dấu vết ADN của Người Neanderthal trong gen chúng ta ngày nay.Nhưng không có cách nào lần ra ADN của Người Neanderthal cho đến khi các nhà nghiên cứu của Viện Max Planck tiến hành 1 cuộc phiêu lưu khoa học táo bạo tìm cách lập chuỗi bộ gen Người Neanderthal.

Lập Bộ gen hoàn chỉnh của người Neandertan.

Bộ gen của người có xấp xỉ 3 tỉ baze hóa học A,C,T và G cấu thành nên gen người. Lập bản đồ gen là 1 công việc khó khăn. Ý nghĩ lập bản đồ gen của loài đã tuyệt chủng từ lâu xem ra là 1 ý nghĩ kỳ quặc. Nhưng điều này cũng không ngăn Svante Paabo (Viện Max Planck) mơ tới điều đó. Vấn đề trước mắt là thu ADN từ xương của Người Neanderthal đã trên 30.000 năm tuổi.

“Trong phần lớn các trường hợp, ADN giảm phân đều đặn theo thời gian và chỉ để lại những đoạn nhỏ. Nhóm của tôi tham gia đến nay đã 20 năm vào việc phát triển kỹ thuật để thu mẫu ADN của người cổ từ các hóa thạch và xương. Chúng tôi luôn mơ làm được thế với Người Neanderthal, họ hàng gần nhất của chúng ta”.

Cuối cùng nhờ thận trọng không gây ô nhiễm, họ đã tách được ADN mẫu đầu tiên của Người Neanderthal. Giấc mơ của Svante giờ đã trở thành hiện thực. Ông và cộng sự đã tạo được 1 bảng sao về bộ gen hoàn chỉnh của Người Neanderthal. Giờ đây các nhà khoa học trên khắp thế giới có thể so sánh phần chính của bộ gen đó và bộ gen người.

Gen fóctê (2), gen duy nhất có liên quan sự phát triển lời nói và ngôn ngữ ở người.

Và 1 so sánh như vậy đã cung cấp cho ta 1 cái nhìn sâu hơn về não của Người Neanderthal. Gen fóctê (2) đó là gen duy nhất ta có thể biết có liên quan sự phát triển lời nói và ngôn ngữ ở người. Ta biết được như thế là vì nếu 1 bản sao ở người bị mất do đột biến ta sẽ gặp vấn đề về lời nói. Khi lần đầu tiên được phát hiện gen fóctê (2), mang lại nhiều niềm vui sướng. Tuy nhiều động vật cũng mang gen fóctê (2) nhưng phiên bản ở người là đặc biệt hơn cả. Một số người nghĩ đó là gen của ngôn ngữ, nhưng giờ ta biết các đặc điểm phức tạp như ngôn ngữ được nhiều gen qui định. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu nhất trí rằng phiên bản gen fóctê (2) ở người quan hệ gần gũi với 1 số kỹ năng vận động cơ bản cần thiết cho lời nói. Có 1 câu hỏi lớn, dĩ nhiên là điều đó có ở Người Neanderthal hay không? Svante Paabo: “Khi nhìn Người Neanderthal ta thấy họ giống hệt ta”. Bằng chứng trớ trêu là bất chấp hạn chế về trí óc cậu bé Scladina và người của cậu ta vẫn có thể biết nói. Nếu có chung khả năng ngôn ngữ với Người Neanderthal thì liệu ta và họ có cùng thừa hưởng 1 nguồn gốc chung hay không, và đó là ai. Bằng 1 kỹ thuật có tên đồng hồ phân tử, các nhà khoa học ngày nay có thể biết được điều đó là vì ADN chỉ đột biến hay biến đổi ở 1 tốc độ đều đặn đến bất ngờ. Nhờ xem xét các khác biệt trong 1 mã di truyền ở người Người Neanderthal và ta. Đơn giản là so sánh A,C,T và G trong ADN của ta các nhà khoa học có thể ước đoán 2 loài đã phân rẽ bao lâu.

ADN tiết lộ ta có chung tổ tiên với Người Neanderthal.

Ta có thể ước đoán thời điểm có chung tổ tiên khi 1 số cá nhân tiếp tục trở thành Người Hiện Đại còn số khác tiếp tục trở thành Người Neanderthal. Svante Paabo: “Đó là cách đây khoảng 300 – 400.000 năm trước”, thời gian đó ứng với các tổ tiên đã rời châu Phi 500.000 năm trước và chôn cất người chết ở các ngọn đồi phía Nam Tây Ban Nha đồng thời bỏ lại chiếc rìu đá màu hồng đặc trưng. Đó chính là Người H. heidelbergensis. Loài người mà giờ đây ta biết cũng là tổ tiên của mình. Ở châu Âu họ tiến hóa thành Người Neanderthal, còn ở châu Phi các nhóm người chưa di cư trở thành Người Khôn Ngoan. Do đó ADN tiết lộ ta có chung tổ tiên với Người Neanderthal. Nhưng ta có mang dấu vết ADN của Người Neanderthal trong gen của mình hay không. Có 1 bằng chứng cho việc ta thừa hưởng gen qua hôn phối. Có 1 số người khẳng định có con lai của Người Neanderthal và Người Khôn Ngoan.

Jean Jacques Hublin, Max Planck Institude: “Trong hồ sơ di truyền chúng tôi chưa thấy có bằng chứng rõ ràng. Điều quan trọng là Người Neanderthal bị thay thế bởi những con người khác và chỉ ít lâu sau chúng tôi không thấy dấu vết của Người Neanderthal ở châu Âu. Và dĩ nhiên ngày nay chúng ta không thấy dấu vết của Người Neanderthal . Vì không có bằng chứng về sự hôn phối nên xem ra rất có thể vì dân số của ta phát triển nên ta đã đẩy Người Neanderthal ra khỏi môi trường sống của họ”. Con người có cách sử dụng triệt để môi trường, hình như chúng ta có khả năng đẻ nhiều và con cháu chúng ta xem ra có khả năng sống sót cao hơn.

Tại sao Người Neanderthal tuyệt chủng.

Daniel Lieberman: “Thế nên, tăng trưởng dân số là 1 phần quan trọng trong việc thích nghi của con người”. Sự xuất hiện của Người Khôn Ngoan không phải là vấn đề duy nhất mà Người Neanderthal phải chiến đấu. Châu Âu đã bị tê liệt bởi sự đỏng đảnh của khí hậu. Người Neanderthal đã đấu tranh để tồn tại. Jean Jacques Hublin: “Có thể mật độ của Người Neanderthal ở vùng này rất thấp. Điều đó có lý do hợp lý. Kỹ thuật của Người Neanderthal rất hạn chế, trong khi đó năng lượng họ cần là rất lớn. Họ có cơ thể to lớn, bộ não lớn, sống trong môi trường lạnh, do đó có thể ước lượng mức năng lượng tiêu thụ hàng ngày của họ khoảng 5.000 Kcal bằng với 1 cuarơ xuyên Pháp tiêu hao trong mỗi ngày”. Nhưng với cơ thể mảnh và cao hơn Người Khôn Ngoan có nhu cầu thấp hơn về năng lượng. Họ đã phát triễn 1 kỹ thuật mới có tính đột phá, đó là vũ khí bắn, phóng lao.

So sánh 2 loại giáo

John Shea, Stony Brook University: “Đây là 2 loại lao khác nhau. Đây là loại nặng làm bằng gỗ, Người Neanderthal và tổ tiên họ đã dùng. Đây là lao nhẹ hơn, làm bằng xương mà Người Khôn Ngoan sử dụng. Những vũ khí này có nhiều đặc tính. Giáo nặng có hiệu quả ở cự li ngắn và vì chúng nặng nên bạn chỉ có thể cầm được ít. Còn giáo đầu nhọn bằng xương nhẹ hơn và bền hơn, có hiệu lực ở cự li xa hơn. Về bản chất giáo đầu nhọn bằng xương do tổ tiên ta sử dụng cho phép săn được nhiều hơn và an toàn hơn. Do đó nó có quan hệ rộng hơn với sinh thái. Những ngọn giáo lớn, tương đối nặng và ngắn cũng giống như đi săn bằng súng ngắn, còn những lao nhẹ này giống việc dùng súng trường bắn tự động, vừa bắn được nhiều mà lại được xa hơn. Một loại vũ khí hiệu quả hơn”. Ném lao cho phép tổ tiên ta săn đuổi được nhiều con thú lớn mà ít bị rủi ro hơn. Jean Jacques Hublin: “Người Hiện Đại có xu hướng tăng cường khai thác môi trường sống, để có được mọi thứ có thể có từ môi trường sống, xu hướng đó đã được xác lập ở châu Phi và trở nên rõ ràng hơn khi tổ tiên ta đi khắp Thế giới”.

7.png

Hình: So sánh 2 loại giáo nặng và giáo nhẹ.​

Các nhà khảo cổ đã có thể lần ra sự di chuyển của họ nhờ những con thú lớn bị tuyệt chủng. Ở châu Âu và châu Á sự xuất hiện của Người Khôn Ngoan trùng với sự biến mất của loài voi Ma mút có lông, của loài sư tử sống trong hang và các động vật có vú lớn. Còn ở Úc, những động vật trên 45 kg đều bị biến mất chỉ trong vài ngàn năm khi ta xuất hiện. Ảnh hưởng của Người Khôn Ngoan đến các quần thể thú lớn trở nên lớn hơn khi ta càng đi xa châu Phi. John Shea: “Do đó ở châu Phi có rất ít vụ tuyệt chủng lớn, chỉ có ít vụ tuyệt chủng liên quan đến Người Khôn Ngoan khi họ đến vùng Âu Á. Khi họ tới Úc và Tân thế giới thì có 1 đợt quét sạch khác”. Người Người Neanderthal chỉ là 1 trong nhiều loài bị biến mất khi chúng ta xuất hiện. Dần dần họ bị đẩy ra các vùng biên của châu Âu, nơi trú ẩn cuối cùng của họ có vẻ là dãy núi Gibranta cách đây 28.000 năm, rồi họ biến mất không để lại di sản mà chỉ để lại xương hóa thạch.

Chỉ còn lại 1 loài Người

Lần đầu tiên, chỉ có 1 loài Người trên hành tinh này. Nhưng loài này sống khắp hành tinh, tới những nơi có giống Người khác sinh sống khiến họ tới chổ tuyệt chủng. Họ tới châu Úc, châu Mỹ, lên Mặt Trăng và sao Hỏa. Jean Jacques Hublin: “Điều đó rất khác thường vì cách con người tăng cường khai thác môi trường sống là rất đặc biệt. Ban đầu biến đổi khí hậu biến ta thành ra như bây giờ, chúng đem lại cho chúng ta khả năng sáng chế mới và đã đưa chúng ta tới 1 luồng tiến bộ kỹ thuật mới, và điều làm chúng ta khác đi vẫn là 1 bí ẩn”. Ta sẽ sớm phát hiện ra những thay đổi về gen chỉ có ở loài người. Nhưng gen chỉ là 1 phần của điều khiến ta trở nên đặc biệt.

Phần kia chính là tác phẩm đầy bí ẩn chỉ có ở con người, đó là Văn hóa. Donald Johanson, Institute of Human Origins: “Người Khôn Ngoan là loài thích nghi nhất, nghĩa là Thế giới có thế nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn có cách để thích nghi. Ngày nay cách đó gọi là Văn hóa. Nếu các dòng sông băng trôi về Arizona, nơi tôi sinh sống, chúng tôi sẽ không có nhiều lông và da dày mà sẽ làm lò sưởi và hệ thống sưởi ấm”.

Văn hóa chính là nhà kho chứa chất tư duy và nhận thức phức tạp mà ta truyền lại cho con cháu chúng ta như truyền lại gen vậy. Cách thức tiến hóa văn hóa và tiến hóa di truyền tương tác với nhau sẽ là điểm đầu trong công cuộc nghiên cứu trong tương lai. Có 1 điều chắc chắn là tiến hóa không dừng lại. Spencer Wells, Nat Geo Explorer-in-Residence: “Tốc độ tiến hóa ở góc độ di truyền đã gia tăng trong 10.000 năm qua và có thể tiếp tục tăng trong vài ngàn năm nữa”. Không ai biết điều đó sẽ đưa chúng ta đi đâu. Nhưng chúng ta vẫn còn là 1 loài non trẻ và tương lai phía trước vẫn còn dài./.

Nguồn: nghiencuclichsu.com​
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top