Lịch sử Việt Nam thời hiện đại(1945-2000)

Hide Nguyễn

Du mục số
Chương 1: Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

Phần 1: Xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hoà (1945-1946)

1. Tình hình và nhiệm vụ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cánh mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra thời kỳ phát triển lịch sử mới cho dân tộc Việt Nam. Trong dòng thác chung của tiến trình phát triển cách mạng thế giới lúc ấy, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đứng trước bối cảnh đặc biệt.

* Tình hình quốc tế

Sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Từ thành trì cách mạng của thế giới đó, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước được Hồng quân Liên Xô giải phóng khỏi ách phái xít đã đứng vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu trở thành trụ cột cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và bảo vệ hòa bình của nhân dân thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới làm lung lay hệ thống chủ nghĩa thực dân cũ.

Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân, nhân dân lao động, của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước tư bản, có tác động mạnh đến chính sách đối nội, đối ngoại của các thế lực đang cầm quyền trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa có thay đổi vị trí: Các nước phát xít bị bại trận, các đế quốc đại diện cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như Anh, Pháp suy yếu ; Mỹ trở thành đế quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc và đang trở thành sen đầm quốc tế.

Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa phong trào giải phóng dân tộc chống ách thực dân, giữa thế lực đế quốc cũ và mới là nội dung chính của tiến trình lịch sử thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tình hình đó tác động sâu sắc đến lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

* Tình hình trong nước

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ vừa ra đời, vừa phải đối phó với nhiều kẻ thù. Ở miền Bắc, với danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật, 20 vạn quân Tưởng vào đóng quân từ bắc vĩ tuyến 16 đến biên giới Việt–Trung. Quân Tưởng tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho lực lượng tay sai lên nắm chính quyền.

Với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, quân đội Anh vào đóng ở miền Nam, đã giúp quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Họ trang bị lại vũ khí cho cả quân Nhật để sử dụng chúng tiếp sức cho Pháp. Được sử ủng hộ của quân đội Anh, ngay trong ngày 2-9-1945, quân Pháp đã nổ súng giết hàng chục người khi đồng bào ta đang mít tinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn. Ngày 23-9-1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần hai.

Sự hiện diện và hoạt động của hàng chục vạn quân Tưởng, Anh, Pháp, Nhật trên nước ta đã tạo điều kiện cho tay sai của chúng, gồm Việt Quốc, Việt Cách… chống phá cách mạng ráo riết.

Tình hình phức tạp, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đã đặt ra muôn vàn khó khăn cho chính thể cộng hoà non trẻ Việt Nam.

Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Mọi ngành kinh tế ngừng trệ, bế tắc. Tài chính quốc gia trống rỗng. Các loại tiền mất giá của quân đội Tưởng được tung vào thị trường càng làm cho tài chính Việt Nam khó khăn hơn. Nạn đói năm 1945 làm cho gần hai triệu người chết chưa khắc phục xong, thì nguy cơ nạn đói mới lại đe doạ nhân dân. Chế độ thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề. Nổi bật nhất là trên 90% nhân dân mù chữ.
Cách mạng vừa thành công, thể chế dân chủ cộng hoà chưa được củng cố, đã phải đương đầu với khó khăn từ mọi phía. Đây là thời kỳ vận mệnh dân tộc ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bằng tài trí, kiên cường, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vượt qua chặng đường lịch sử khó khăn nhất.

2. Mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc

Ngay sau ngày giành chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước đã xác định kháng chiến, kiến quốc là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Khẩu hiệu hành động là : “Dân tộc là trên hết” “Tổ quốc trên hết”, phải tập trung lực lượng đối phó với kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của nhân dân là thực dân Pháp.

Sức mạnh và ưu thế của chế độ dân chủ mới là khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp. Mặt trận đó bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, địa chủ phong kiến, không phân biệt tôn giáo, chính kiến…vào các tổ chức yêu cầu trong phạm vi toàn quốc.

Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên nhiều nhân sĩ, trí thức vào các cơ quan tư vấn, hành chính, quốc hội… Hàng loạt tổ chức cứu quốc được củng cố, mở rộng hoặc được lập thêm như Hội Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Công giáo cứu quốc, Viên chức cứu quốc, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam v.v. Nha Dân tộc thiểu số cũng được thành lập nhằm tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập tại Hà Nội. Đây là một hình thức tổ chức mặt dân tộc rộng rãi trong tình hình mới. Đây là một hình thức tổ chức mặt trận dân tộc rộng rãi trong tình hình mới. Với tôn chỉ mục đích làm cho dân tộc Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tranh thủ tập hợp mọi lực lượng và cá nhân yêu nước vào mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc.

3. Xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân và pháp luật

* Xây dựng hệ thống chính quyền hợp hiến

Trong phiên họp của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hà Nội ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”

Công việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, dự thảo hiến pháp...được chuẩn bị khẩn trương trong những tháng cuối năm 1945. Tuy nhiên, trong điều kiện các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang lăm le lật đổ chính quyền nhân dân nên quá trình chuẩn bị và tiến hành Tổng tuyển cử thực sự là cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp.

Lực lượng Việt quốc, Việt Cách ngay từ đầu đã đòi xóa bỏ hệ thống chính quyền nhân dân, đòi hỏi phải chia các ghế trong quốc hội thành ba phần bằng nhau. Lực lượng thực dân đế quốc chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trước tình hình đó. Một mặt chính phủ nhân dân kiên quyết bác bỏ những đòi hỏi vô lí của địch, đồng thời nhân nhượng một số yêu sách cho chúng, để tạo điều kiện cho bầu cử được thuận lợi. Đảng Cộng sản Đông Dương phải rút vào hoạt động bí mật để thực hiện quyền lãnh đạo một cách kín đáo, có hiệu quả và chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.

Trước thái độ mềm dẻo, nhưng kiên quyết của ta, các tổ chức Việt quốc, Việt Cách đã phải cam kết cùng Việt Minh phấn đấu vì độc lập, đoàn kết dân tộc, tổ chức Tổng tuyển cử, đình chỉ công kích lẫn nhau, mở rộng Chính phủ tạm thời, ủng hộ kháng chiến.

Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời đã mở rộng thêm cho một số thành viên Việt quốc và Việt Cách được tham gia và đổi tên thành Chính phủ liên hiệp lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ liên hiệp lâm thời là tổ chức Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội trong cả nước.

Ngày 6-1-1946, bất chấp khủng bố của kẻ thù, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của chế độ mới được tiến hành, với khoảng 90% tổng cử tri đi bỏ phiếu. Tổng tuyển cử dân chủ, tự do đã bầu ra Quốc hội khoá I, gồm 333 đại biểu thuộc các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các đảng phái khác nhau.

Tổng tuyển cử là mốc quan trọng đầu tiên đánh dâu tiến trình xây dựng thể chế nước Việt Nam mới, theo chế độ Dân chủ cộng hoà. Đánh dấu sự kiện trọng đại này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Đó là “kết quả của sự hy sinh, đấu tranh của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta…đoàn kết chặt chẽ thành một khối hi sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ họp đầu tiên tại Nhà hát lớn, với gần 300 đại biểu tham dự. Thực hiện yêu cầu nhân nhượng, hoà giải, Quốc hội đã quyết định mở rộng thêm 70 đại biểu đại diện cho Việt Quốc, Việt Cách, không qua bầu cử, thành lập chính phủ liên hiệp kháng chiến, bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thành phần Chính phủ kháng chiến gồm chủ tịch, phó chủ tịch và 10 vị bộ trưởng. Quốc hội cũng bầu ra Ban thường trực gồm 15 uỷ viên chính thức.

Quốc hội thông qua bản Tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam độc lập, tuyên bố chính thể dân chủ cộng hoà, khẳng định quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các dân tộc trên đất nước Việt Nam, tuyên bố kiên quyết bảo vệ nền độc lập, quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.

Quốc hội kỳ họp thứ hai từ 28-10-1946 đến 9-11-1946. Vào thời điểm này, sau một năm phấn đấu, cách mạng Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn. Tại kỳ họp lần thứ hai,Quốc hội thảo luận các báo cáo của chính phủ, ra các Nghị quyết về nội trú, ngoại giao thông qua hiến pháp, lập chính phủ mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và bầu Ban thường trực Quốc hội.

Thắng lợi của Tổng tuyển cử của kỳ họp Quốc hội thứ nhất và thứ hai có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc xây dựng thể chế nhà nước dân chủ nhân dân, hợp hiến, hợp pháp; nó thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng, là linh hồn và đã chiến thắng mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch.

Ngày 22-11-1945. Chính phủ ra sắc lệnh quy định về tổ chức, quyền hạn của ủy ban hành chính các cấp từ xã đến tỉnh, kỳ. Sau Tổng tuyển cử, hệ thống chính quyền các cấp được kiện toàn. Đến cuối năm 1946, trừ vùng có chiến sự ác liệt (Nam Bộ, Nam Trung Bộ), các địa phương khác đã bầu ủy ban hành chính chính thức cấp huyện, tỉnh.Đội ngũ cán bộ viên chức của các ủy ban hành chính các cấp được tuyển lựa từ những người nhiệt huyết, tận tâm phục vụ sự nghiệp cách mạng, với tinh thần người đầy tớ của nhân dân.

Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để bảo vệ quyền lợi tự do dân chủ của nhân dân. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946 đã quy định chính thể, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. chức năng, vị trí của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Đó là : bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà,... Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới Việt Nam đã độc lập, ..dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do, ….Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hệ thống Nhà nước bao gồm từ cơ quan lập pháp đến hành pháp, tư pháp đã được xây dựng theo nguyên tắc:của dân,do dân và vì dân.

* Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng

Lực lượng giải phóng quân Việt Nam được củng cố và đổi tên thành Vệ quốc đoàn, Ngày 22-5-1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam, đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ tổng tham mưu. Từ đầu năm 1946, lực lượng vũ trang được biên chế thống nhất theo các cấp từ trung đoàn trở xuống.

Nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là: xây dựng quân đội toàn diện về chính trị, quân sự; tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đây là một đội quân cách mạng "Trung với nước, hiếu với dân".

Cùng với lực lượng vũ trang cách mạng tập trung, lực lượng dân quân tự vệ được các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố. Cuối năm 1946, bên cạnh khoảng gần 10 vạn bộ đội tập trung, còn có gần 1 triệu đội viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ trên khắp cả nước. Bộ đội tập trung và lực lượng dân quân tự vệ là những bộ phận nòng cốt bảo vệ hiệu quả nhà nước dân chủ nhân dân trong thời kỳ cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn thử thách.

Ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Việt Nam Công an vụ. Trong năm 1946, lực lượng công an nhân dân được kiện toàn về tổ chức, biên chế và các chiến sĩ trong lực lượng đặc biệt này được huấn luyện chính trị, nghiệp vụ để tăng cường khả năng chiến đấu, bảo vệ an toàn quốc gia, đấu tranh chống tội phạm, chống các thế lực phản động, bảo vệ tính mạng, tài sản quốc gia và của công dân.

* Bước đầu xây dựng nền văn hoá mới

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ở Hà Nội ngày 3-9-1945, vấn đề giải quyết nạn đói cho nhân dân được coi là nhiệm vụ đột xuất. Công cuộc đấu tranh chống "giặc đói" được phát động bằng phong trào tăng gia sản xuất và bằng sự đoàn kết của nhân dân theo tinh thần tự nguyện cứu trợ, đồng bào nơi đói ít san sẻ lương thực cho vùng bị đói trầm trọng. Chính phủ động viên toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, tổ chức lạc quyên, lập "hũ gạo tiết kiệm", đồng thời ban hành kịp thời các sắc lệnh tiết kiệm gạo, cấm tích trữ lương thực, ưu tiên vận chuyển lúa gạo từ Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc Bộ... nhờ các chính sách đó nên nạn đói tạm thời được khắc phục trong các tỉnh phía bắc.

Sau khi nạn đói trầm trọng bị đẩy lùi, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương quan tâm đặc biệt đến sản xuất nông nghiệp. Một số đê điều được bồi đắp, công tác thuỷ lợi được chăm lo. Nhà nước ban hành sắc lệnh cấp ruộng đất của Việt gian và đế quốc cho nông dân, giảm tô 25%... Kết quả của những hoạt động khuyến nông trên đã làm cho đời sống nhân dân dần dần được ổn định.

Chính phủ đã xóa bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, đồng thời động viên toàn thể nhân dân bằng tinh thần tự nguyện và theo khả năng của mình, đóng góp tài chính bằng nhiều hình thức như "quỹ độc lập","đảm phụ quốc phòng","quỹ kháng chiến","tuần lễ vàng".Các tầng lớp nhân dân đã hăng hái đóng góp hàng chục triệu đồng và hàng trăm cân vàng cho Nhà nước trong năm 1946.

Ngày 31-1-1946, Nhà nước phát hành giấy bạc Việt Nam.

Một thành tựu to lớn khác là công tác xoá nạn mù chữ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lớp bình dân học vụ được mở khắp nơi. Nha Bình dân học vụ sau khi thành lập đã tích cực mở hàng chục ngàn lớp học, với khoảng 2,5 triệu người đến lớp. Hệ thống giáo dục các bậc từ tiểu học,trung học và đại học được sớm khai giảng trở lại. Ngay trong tháng 9-1945 nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên học sinh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài quang vinh để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các cháu”.

Nếp sống văn hóa mới, văn học nghệ thuật, báo chí cách mạng... với nội dung nâng cao tinh thần bình đẳng, dân chủ, tiến bộ, phụng sự Tổ quốc đã phát triển chưa từng có trong thời kỳ trước.

Những thành tựu trên các mặt chính trị, kinh tế,văn hoá... trong năm đầu xây dựng chế độ mới là nhân tố căn bản bảo đảm cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám.

4. Đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc

Trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ thành quả cách mạng diễn ra vô cùng khó khăn, phức tạp, gian khổ. Chưa đầy một tháng sau khi giành chính quyền, thực dân Pháp, được Anh giúp đỡ, đã gây chiến ở Nam Bộ (23-9-1945).

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy và ủy ban kháng chiến Nam Bộ, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn cùng đồng bào Nam Bộ đã chiến đấu kiên cường, bảo vệ quê hương. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, được đồng bào cả nước chi viện đã kìm chân địch trong thành phố hơn một tháng, tạo điều kiện cho các tỉnh khác có thềm thời gian chuẩn bị chiến đấu.

Từ tháng 10, vùng chiến sự mở rộng ra cả Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ chiến đấu anh dũng, đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, hàng vạn thanh niên xung phong nhập ngũ. Các đơn vị Nam tiến được thành lập, khẩn trương lên đường vào chia lửa với quân và dân các tỉnh phía nam.

Dù cuộc chiến đấu của đồng bào ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ với kẻ thù không cân sức, nhiều tuyến phòng thủ của ta bị địch chiếm, nhưng đã làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch. Cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam chứng tỏ sức mạnh của nền dân chủ mới và ý chí bảo vệ độc lập, bảo vệ Tổ quốc của những công dân vừa được giải phóng.

Sau ngày giành chính quyền, nhân dân Việt Nam cùng một lúc phải đối phó với nhiều lực lượng chống phá cách mạng. Để tranh thủ thời gian, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến tranh lâu dài với kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc là thực dân Pháp. Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách nhân nhượng, hoà hoãn, tránh những xung đột bất lợi.

Ở phía bắc vĩ tuyến 16, đạo quân Tưởng vừa nhiễu sách về kinh tế, vừa tiến hành hoạt động khiêu khích, chống phá chính quyền cách mạng. Ta buộc phải cung cấp lương thực và cho chúng lưu hành tiền “quan kim” và quốc tệ mất giá.

Những nhân nhượng của chính phủ đã làm dịu tình hình căng thẳng giữa ta và quân Tưởng. Đồng thời dựa vào nhân dân và sử dụng thông tin, báo chí, ta kịp thời vạch trần âm mưu phá hoại cách mạng của bọn tay sai, kiên quyết trấn áp những phần tử phá hoại; vì vậy đã hạn chế tối đa âm mưu của kẻ thù ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.

Từ năm 1946, thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch mưu tính kế hoạch đưa quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. Sau một thời gian mặc cả, thương lượng với nhau, Hiệp ước Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng được ký vào ngày 28-2-1946. Theo Hiệp ước này, Pháp sẽ đưa quân ra miền Bắc thay quân Tưởng. Sự thoả hiệp giữa hai thế lực thực dân chà đạp lên chủ quyền dân tộc của nhân dân ta, vừa đặt Việt Nam vào thế phải đối phó với âm mưu mới của hai lực lượng phản động. Mặt khác, Pháp không thể mang quân thay thế quân Tưởng mà không gặp sự cố chống đối mạnh mẽ của ta. Trong trường hợp nếu xung đột xảy ra giữa ta và Pháp, quân Tưởng sẽ có lý do trì hoãn thi hành hiệp định, không chịu rút quân hoàn toàn khỏi Việt Nam. Đó là điều thực dân Pháp không muốn.

Nhận thức đầy đủ tình hình mới, Đảng và Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương đàm phán với Pháp, nhằm mục đích để Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng và tranh thủ thời gian hoà hoãn, bảo toàn và chuẩn bị lực lượng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Nguyên tắc đàm phán với Pháp là: “Pháp thừa nhận quyền dân tộc và tự quyết của nhân dân ta: chính phủ , quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao… và sự thống nhất quốc gia của ta” và “Điều cốt tử trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc”

Cuộc đàm phán giữa Chính phủ ta với Pháp diễn ra rất căng thẳng. Ta yêu cầu Pháp phải công nhận quyền “độc lập” dân tộc, trong khi Pháp chỉ công nhận quyền “tự trị” một khái niệm ta cương quyết phản đối. Cuối cùng, Pháp đã phải đồng ý với giải pháp do phái đoàn ta đưa ra “Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do”.

Ngày 6-3-1946, với sự có mặt của đại diện một số nước phái đoàn ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã ký với đại diện Chính phủ Pháp G.Xanh tơmi (Sainteny) bản Hiệp định sơ bộ. Nội dung chính của Hiệp định là:

- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp. Nước Pháp thừa nhận việc thống nhất ba kỳ do nhân dân

- Chính phủ Việt Nam chấp nhận Pháp đưa 15.000 quân ra miền Bắc để thay thế nhiệm vụ của quân Tưởng. Quân Pháp sẽ rút dần mỗi năm 1/5 quân số khỏi khu vực này và sẽ hoàn tất việc rút quân trong vòng 5 năm.

- Hai bên ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ. Tiếp tục mở các cuộc điều đình thương lượng về các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, tương lai của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Dù đã ký kết Hiệp định sơ bộ, nhưng thực dân Pháp vẫn trì hoãn thi hành những điều khoản đã ký kết và luôn vi phạm Hiệp định. Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đấu tranh đòi Pháp phải thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản đã ký và phải nhanh chóng mở cuộc đàm phán chính thức như đã thỏa thuận.

Tháng 4 và 5-1946, đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và đoàn đại biểu Pháp đã họp Hội nghị trù bị tại Đà Lạt để thảo luận về cuộc đàm phán chính thức sẽ tổ chức ở Pháp.

Ngày 31-5 , Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ ta cũng lên đường sang Pháp để đàm phán chính thức. Cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô (Fontainebleau) diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9-1946, do phía Pháp không từ bỏ tham vọng của mình ở Đông Dương, nên các cuộc đàm phán đều bế tắc.
Để tỏ rõ thiện chí muốn hòa bình của nhân dân Việt Nam và để tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân chắc chắn sẽ xảy ra, trước khi rời Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện Chính phủ Pháp Mu tê (Moutet) bản Tạm ước 14-9-1946. Bản Tạm ước quy định một số điều về quan hệ kinh tế, văn hóa giữa Pháp với Việt Nam, về đình chỉ chiến sự và kế hoạch đàm phán tiếp theo của hai bên.

Từ khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3 đến Tạm ước 14-9 -1946 là thời gian quý giá cho ta chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc chiến đấu lâu dài sau này.
 
phần 2: Sự bùng nổ và cuộc kháng chiến toàn quốc (1946-1950)

chientranhdongduong.jpg

Ngay trong quá trình đàm phán ở hội nghị giữa ta và Pháp đang diễn ra ở Phôngtennobô, Pháp đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nơi. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, địch liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng. Tại miền Bắc, tháng 11-1946, chúng ta đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12-1946, chúng đánh Đồ Sơn, Đình Lập. Sau các vụ ném lựu đạn vào nhiều khu vực dân cư thành phố, từ giữa tháng 12 trở đi, chúng đã gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Sự kiện tàn sát nhân dân ta tại Hàng Bún và phố Yên Ninh tháng 12-1946 chứng tỏ thực dân Pháp đã sẵn sàng bước sang cuộc phiêu lưu quân sự mới.
Ngày 18 và 19-12-1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư đòi ta phải phá bỏ công sự trong thành phố và đòi để chúng kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Tình hình vô cùng khẩn cấp, đòi hỏi ta phải đứng lên.

Ngày 18,19 tháng 12-1946. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã nhận định tình hình và chỉ thị cho các địa phương "Tất cả hãy sẵn sàng". Chiều 19-12, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị vũ trang sẵn sàng chiến đấu theo thời gian đã quy định.

20 giờ ngày 19-12-1946, mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân Thủ đô đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.

Ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền đi khắp cả nước. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cùng với những tư liệu khác như chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Kháng chiến nhất định thắng lợi đã nêu bật những vấn đề căn bản nhất về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là:

- Chỉ ra cuộc kháng chiến nhân dân ta đang tiến hành là sự tiếp nối con đường Cách mạng tháng Tám bằng hình thức chiến tranh cách mạng, chính nghĩa để bảo vệ độc lập và thống nhất dân tộc.

- Kháng chiến và kiến quốc liên quan mật thiết với nhau. Tiến hành khángchiến, thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, đồng thời thực hiện nhiệm vụ dânchủ ; hai nhiệm vụ đó quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng nhiệm vụ dân tộc là cấpbách nhất, còn vấn đề ruộng đất sẽ được giải quyết dần dần phù hợp với yêu cầucủa cuộc chiến tranh giải phóng. Cuộc kháng chiến của Việt Nam là cuộc chiếntranh nhân dân, toàn diện. Sức mạnh của nó là tổng hợp sức mạnh của toàn dân,chiến đấu chống kẻ thù trên các mặt trận quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Cuộc chiến đấu sẽ diễn ra lâu dài. Trường kỳ kháng chiến là một phươngchâm chiến lược quân sự bảo đảm kháng chiến thắng lợi.Những phương châm chỉ đạo chung cho cuộc kháng chiến đã được cụ thể hóa,vận dụng trong công cuộc kháng chiến kiến quốc suốt thời kỳ từ 1946 đến 1954.

Nguồn:Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương XI – Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ dân chủ mới (1945-1954), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.307-308.

--------------------


Phần 3: Cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ và thắng lợi (1951-1954)


1. Thực dân Pháp sa lầy trong chiến tranh, Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương

Sau chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nhận được sự chi viện của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa
Cũng từ năm 1950 trở đi, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào các nước ở bán đảo Đông Dương. Đến năm 1954, viện trợ quân sự của Mỹ đã chiếm 73% tổng ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương.

Được Mỹ viện trợ, thực dân Pháp tìm những thủ đoạn mới với hy vọng sẽ giành thắng lợi ở Việt Nam và Đông Dương. Một mặt, Pháp và Mỹ ra sức xây dựng chính phủ bù nhìn, mặt khác, tăng cường lực lượng quân sự để bình định và lìm cách phản công lực lượng vũ trang cách mạng, hòng giành lại quyền chủ động trên chiến trường.

Tướng Đơ Lat đơ Tatxinhi (De Lattre de Tassiny) được cử sang chỉ huy ở Đông Dương. Đơ Lat vạch kế hoạch tác chiến với nội dung chủ yếu là phải xây dựng lực lượng chủ lực cơ động mạnh, tăng cường lực lượng nguỵ quân; xây dựng tuần phòng ngự bao quanh vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ để ngăn chặn chủ lực ta, tăng cường bình định vùng địch tạm chiếm, tiến công phá căn cứ của ta và chuẩn bị tiến công ra chiếm vùng tự do.

Giải pháp chiến tranh mới của địch cũng như sự can thiệp ngày càng trắng trợn của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương làm cho cuộc kháng chìến của nhân dân ta gặp không ít khó khăn. Chỉ riêng ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, hàng trăm làng bị địch chiếm lại, nhiều khu căn cứ du kích bị địch đánh phá.

Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường của quân và dân ta, được sự giúp đỡ của các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vẫn phát triển không ngừng và đã làm thất bại những cố gắng của địch trong những năm 1951-1952.

2. Sự phát triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ hai (1951) là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng của nhân dân 3 nước Đông Dương. Đại hội đã quyết định lập Đảng mác xít riêng cho Việt Nam, Lào và Campuchia để tạo điều kiện cho cách mạng mỗi nước phát triển trong tình hình mới.

Đại hội đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng về cách mạng Việt Nam và tổ chức Đảng trong hoàn cảnh mới, nêu rõ nhiệm vụ lâu dài của cách mạng Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Sau Đại hội Đảng, Đại hội thống nhất Việt Minh- Liên Việt đã quyết định thống nhất hai tổ chức mặt trận thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Cương lĩnh của Mặt trận Liên Việt là tiêu diệt đế quốc Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ cùng bọn tay sai, giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, cùng nhân dân thế giới bảo vệ hoà bình.
Hội nghị đoàn kết nhân dân Việt- Miên- Lào gồm đại biểu mặt trận yêu nước của 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương tổ chức vào ngày 11-3-1951 đã ra tuyên bố thành lập khối liên minh giữa 3 dân tộc anh em. dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau, phấn đấu vì độc lập, tự do của mỗi nước.

Hệ thống chính quyền kháng chiến các cấp được củng cố từ trung ương xuống cơ sở phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ hành chính được nâng cao; các Bộ đã phát huy được vai trò quản lý nhà nước, điều hành kháng chiến, kiến quốc theo nhiệm vụ đã được Quốc hội và Chính phủ quy định.

Cùng với đà phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nền kinh tế ngày càng thu được những thành tựu quan trọng mới. Nông nghiệp văn là nhân tố quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1953, Luật Cải cách ruộng đất được ban hành. Đến trước tháng 5-1954, hàng triệu nông dân đã được chia hàng chục vạn hecta ruộng đất của địa chủ Việt gian, thực dân và ruộng đất vắng chủ. Đến năm 1953-1954, sản lượng lương thực vùng giải phóng đạt gần 3 triệu tấn(9).

Kết quả của quá trình thực hiện từng bước chính sách ruộng đất đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn quyết định cuối cùng.

Ngành công nghiệp, đặc biệt công nghiệp quốc phòng vẫn được chú trọng phát triển, đã đáp ứng được ngày càng nhiều hơn việc cung cấp vũ khí cho bộ đội đánh địch trên các chiến trường. Các bộ phận tiểu thủ công nghiệp vẫn đảm bảo cung cấp đủ những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống dân sinh và quốc phòng. Ngành thương nghiệp, bao gồm khu vực do Nhà nước quản lý và tư nhân có phát triển hơn thời kỳ trước.

Văn hóa giáo dục trong vùng giải phóng có bước phát triển to lớn kể từ khi thực hiện chính sách cải cách giáo dục năm 1950. Số học sinh cấp I, II, III, trong vùng tự do lên đến khoảng 1 triệu; hàng nghìn cán bộ kỹ thuật đã được đào tạo ; một số sinh viên, cán bộ đã được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.

Cơ sở y tế, chăm sóc sức khỏe cho bộ đội và nhân dân được mở rộng. Các tác phẩm văn hóa nghệ thuật được sáng tác ngày càng phong phú. Sinh hoạt văn hoá quần chúng ngày càng được chú trọng. An ninh trật tự vùng giải phóng ngày càng bảo đảm.
Đời sống của nhân dân, bộ đội, cán bộ hành chính được cải thiện một bước. Nạn đói và nhiều loạt dịch không còn hoành hành như trước. Quan hệ quốc tế giữa nước ta và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Trung Quốc và Liên Xô đã chi viện cho Việt Nam một số quân trang, quân dụng, thuốc men, lương thực và thực phẩm.

Nền dân chủ cộng hòa được củng cố và ngày càng phát triển là nhân tố quyết định đến thắng lợi trên mặt trận quân sự.

3.Tiến triển trên mặt trận quân sự và ngoại giao

* Sự phát triển lực lượng vũ trang cách mạng

Lực lượng bộ đội chủ lực có thêm một số đơn vị mới : đại đoàn 316 (15-1951), đại đoàn công pháo 351 (27-3- 1951), đại đoàn 325 (5-12-1952), trung đoàn 148 và 246. Tổng số lực lượng chủ lực thuộc Bộ Tổng tham mưu có 7 đại đoàn và 2 trung đoàn độc lập.

Lực lượng chủ lực của các liên khu cũng phát triển: Nam Bộ có các tiểu đoàn chủ lực nổi tiếng 302, 307; Nam Trung Bộ có trung đoàn 812; khu V có trung đoàn 108 và 803 ; khu IV có trung đoàn 271; khu III có trung đoàn 42; Việt Bắc có trung đoàn 238.

Cùng với đà phát triển của khối bộ đội chủ lực thuộc Bộ Tổng tham mưu hoặc Bộ chỉ huy Liên khu, bộ đội tỉnh, huyện và lực lượng dân quân du kích bám trụ các địa phương ngày càng đông và vũ khí trang bị được cải tiến. Lực lượng vũ trang cách mạng, với ba thứ quân, như mô hình chóp nón, chứng tỏ cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện đã phát triển khá cao trong những năm cuối cuộc chiến tranh.
* Đấu tranh quân sự

Thực hiện chủ trương tiến công sâu vào vùng địch hậu, tiêu diệt địch, phá thế kìm kẹp của chúng, lực lượng vũ trang cách mạng đã mở nhiều chiến dịch ở vùng trung du và đồng bằng vào đầu những năm 1950.
Chiến dịch Trần Hưng Đạo (từ 25-12-1950 đến 17-l-1951): Đại đoàn 308 và 312 cùng hai trung đoàn độc lập và bộ đội địa phương tiến công tiêu diệt địch ở tuyến phòng thủ vòng ngoài của chúng, kéo dài từ Việt Trì đến Bắc Giang, mở rộng vùng giải phóng ra khu vực có nguồn lương thực tương đối dồi dào, từ đó phát động chiến tranh du kích ở vùng địch hậu tại Liên khu III.

Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (29-3 đến 5-4-1951) : Đại đoàn 308 và 312 cùng một số trung đoàn độc lập tiến công địch ở tuyến quốc lộ 18, đoạn từ Phả Lại đến Uông Bí, Mạo Khê. Mục tiêu của chiến dịch nhằm tiêu diệt lực lượng dịch đồn trú ở đây, tạo đà cho chiến tranh du kích ở địa phương phát triển.

Chíến dịch Quang Trung (28-5 đến 20-6-1951 ): Đại đoàn 308, 304 và 320 cùng một số đơn vị hoả lực phối thuộc, có nhiệm vụ tiến công địch trong vùng sâu thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá tan lực lượng ngụy quân, tạo thế cho cuộc chiến tranh nhân dân phát triển ở vùng đông dân, giành lấy địa bàn quan trọng về kinh tế.

Qua 3 chiến dịch ở, trung du và đồng bằng đã để lại nhiều bài học trong việc tổ chức chiến đấu cho lực lượng vũ trang cách mạng. Cuộc chiến đấu quyết liệt giữa bộ đội chủ lực của ta với lực lượng địch đóng trên các địa bàn trên chứng tỏ dù ta có quyết tâm lớn, dù có trận bộ đội ta đông hơn địch, nhưng trước mắt ta chưa thể giành thắng lợi lớn.
Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, cuộc chiến tranh du kích trong vùng địch hậu đã phát triển và phối hợp có hiệu quả với cuộc chiến đấu của bộ đội chủ lực trong phạm vi toàn quốc

Rút bài học từ các chiến dịch ở trung du và đồng bằng, bộ đội chủ lực đã tiến công địch ở những địa bàn phù hợp với sở trường của lực lượng vũ trang cách mạng.

Chiến dịch Hoà Bình: Tháng 11-1951, địch sử dụng lực lượng cơ động chiến lược khoảng 30 tiểu đoàn đánh chiếm Hòa Bình, cửa ngõ nối tình tự do với đồng bằng Bắc Bộ. Mục tiêu của chiến dịch là tiến công và tiêu diệt lực lượng chủ lực địch ở tuyến phòng thủ Hòa Bình sông Đà đường số 6 phối hợp cùng mặt trận phía sau lưng địch phá kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng Bắc Bộ, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển.

Sau hơn hai tháng chiến đấu (từ 10-12-1951 đến 25-2-1952), 3700 quân địch trên cả hai mặt trận đã bị loại khỏi vòng chiến đấu ; vùng giải phóng và khu căn cứ du kích đều được mở rộng, tạo thành thế liên hoàn trong nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Chiến thắng Hoà Bình đã đẩy địch sâu vào thế bị động phòng ngự báo hiệu kế hoạch Đơ Lat nhất định thất bại. Chiến dịch Hòa Bình tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội ở các chiến trường Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng giải phóng.
Chiến dịch Tây Bắc: Cuối năm 1952, bộ đội được lệnh tiến công địch ở Tây Bắc nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giành dân, mở rộng vùng giải phóng.

Tây Bắc có vị trí quan trọng, nhưng lực lượng địch ở đây tương đối yếu Bộ đội tham gia chiến dịch này gồm đại đoàn 308,312,316, tiểu đoàn 910 và các đơn vị hoả lực phối thuộc.

Sau gần hai tháng chiến đấu (từ 14-10 đến 10-12-1952) ta đã diệt 6000 địch, mở rộng vùng giải phóng liền với căn cứ địa Việt Bắc. Phối hợp với chiến dịch Tây Bắc, chiến tranh du kích phát triển khắp các chiến trường.

Đầu năm 1953, Trung ương Đảng chỉ đạo phương châm chiến đấu là: Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch hậu.

Phối hợp cùng bộ đội Pa thét Lào, đầu năm 1953, các đại đoàn chủ lực Việt Nam mở chiến dịch Thượng Lào. Đây là chiến dịch đánh lần đầu tiền của liên quân Lào-Việt trên đất bạn.

Sau hơn một tháng vận động truy kích, tiêu diệt địch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 3000 tên, giải phóng khoảng 1/5 diện tích nước Lào. Thắng lợi đó chứng tỏ cách mạng Đông Dương đang vươn lên giành thế chủ động trên khắp các chiến trường.

• Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
Sự sa lầy của Pháp ở Đông Dương càng tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp sâu và tìm cách gạt Pháp. Tuy nhiên, cả hai tên thực dân đều muốn tìm giải pháp mới hòng đảo ngược tình thế trên chiến trường. Tướng Nava (Navarre) được điều sang Đông Dương để thực hiện mưu đồ đó.
Nava vạch ra kế hoạch tác chiến gồm hai bước:

Bước một (từ thu đông 1953-xuân 1954) : Phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, bình định miền Nam, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V.
Bước hai (từ mùa thu 1954) : Tiến công chiến lược miền Bắc, từ thắng lợi quyết định về quân sự, buộc ta đàm phán theo điều kiện có lợi cho Pháp.

Muốn thực hiện ý đồ đó, điều quan trọng nhất là phải tập trung khối cơ động mạnh mới có thể giành thắng lợi với ta trong trận quyết chiến chiến lược.

Kế hoạch quân sự của Nava là sự nỗ lực tối đa của quân Pháp ở Việt Nam. Chính phủ Pháp hy vọng từ đó sẽ giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh vốn quá lâu dài, đang bị dư luận ở Pháp và quốc tế lên án là cuộc chiến tranh bẩn thỉu'. Mỹ đã kiểm tra, ủng hộ và viện trợ cho kế hoạch Nava.

Từ mùa hè năm 1953, Nava bắt đầu thực hiện bước thứ nhất. Địch mở liên tiếp nhiều cuộc hành quân trên các chiến trường và ra sức tập trung lực lượng cơ động. Cuối năm 1953, Nava đã tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn.

Phối hợp với đòn tìến công của các đại đoàn chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích liên tục mở nhiều đòn tiến công dồn dập như mặt trận đường số 5, tập kích sân bay Cát Bà, Đồ Sơn, Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, mặt trận đường số 9, ở Liên khu V, ở Nam Bộ...

Như vậy, trước khi trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ mở màn, qua mấy tháng đấu trí, đấu lực ở giai đoạn đầu của chiến cuộc đông xuân 1953-1954, địch đã hoàn toàn bị động chiến lược. Trong khi đó, thế trận chiến tranh nhân dân của ta đã phát triển và lớn mạnh chưa từng có.

Là sản phẩm của thế bị động, nhưng thực dân Pháp được Mỹ giúp sức đã nhanh chóng biến Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Địch có 16.200 quân, bao gồm lực lượng bộ binh tương đương khoảng 14 tiểu đoàn, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải một liên đội 12 máy bay. Tập đoàn Điện Biên Phủ có 49 cứ điểm đề kháng mạnh với 3 phân khu liên hoàn. Các tướng lĩnh và chính khách cả Pháp và Mỹ tin chắc Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm".

Tổng số bộ đội của ta tham gia chiến dịch khoảng 55.000 người, gồm 5 đại đoàn (308,312,316,304,351 ) cùng các tiểu đoàn thuộc đơn vị công binh, vận tải, thông tin, quân y phối thuộc.

Lực lượng phục vụ chiến dịch có 260.000 dân công hỏa tuyến, hơn 600 xe ô tô, 20.000 xe đạp thồ và 11.800 thuyền. Hàng chục tấn đạn dược, gần 3 vạn tấn gạo từ hậu phương được dồn ra mặt trận.

13 giờ ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ.

Đây là chiến dịch lớn nhất trong lịch sử kháng chiến Chống thực dân Pháp của quân và dân cả nước: Lực lượng bộ đội được huy động đông nhất, với trang bị hiện đại nhất lúc đó; tiến hành chiến dịch liên tục, dài ngày, bao gồm một loạt trận đánh công kiên; kết hợp cường tập, mật tập, vây lấn; ưu thế binh lực trong từng trận đánh nói riêng và toàn bộ chiến dịch nói chung, ta mạnh hơn địch nhiều lần.

Sau 3 đợt tiến công đến ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch hoàn toàn bị tiêu diệt, 16.200 tên, kể cả bộ chỉ huy mặt trận của địch bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống. Toàn bộ kho tàng, vũ khí của địch bị thu hoặc bị phá hủy, 57 máy bay địch bị bắn rơi.

Trong khi bộ đội tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân cả nước đã phối hợp nhịp nhàng, tiến công địch khắp nơi. Những thắng lợi từ mặt trận chính (dội về đã thúc đẩy cuộc chiến đấu ở các địa phương phát triển. Ngược lại, cuộc chiến đấu và chiến thắng của chiến trường cả nước càng làm cho quân viễn chinh Pháp, ở Điện Biên Phủ thêm cô lập, tuyệt vọng.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả trực tiếp, cao nhất của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và là đỉnh cao của 9 năm kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Chiến thắng lịch sử này đã tạo điều kiện căn bản cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi.

• Trên mặt trận ngoại giao

Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh họp ở Giơnevơ đã bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Hội nghị có đại diện của 9 nước Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh, Campuchia, Lào, đại diện của chính quyền Bảo Đại và đoàn đại biểu của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu.
Đại diện của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam là lập lại hoà bình ở Đông Dương phải là một giải pháp toàn bộ về chính trì và quân sự cho cả 3 nước Đông Dương, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

Do tương quan so sánh lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực, do so sánh lực lượng trực tiếp giữa ta và địch trên chiến trường, do lợi ích của các nước khi tham gia hội nghị, nên cuộc đấu tranh tại bàn đàm phán diễn ra rất gay go, phứt tạp. Cuối cùng, ngày 21-7-1954, các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết. Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hoà bình ở Đông Dương được các nước tham dự hội nghị cam kết chính thức chấp nhận. Đại diện chính phủ Mỹ ra tuyên bố riêng thừa nhận Hiệp định.

Nội dung của Hiệp định Giơnevơ có 13 điều khoản, gồm các nội dung chính:

- Chấm dứt chiến sự, lập lại hoà bình ở Đông Dương.

- Cấm các nước ngoài đưa nhân viên quân sự và xây dựng căn cứ quân sự ở Đông Dương. Lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cho hai miền Bắc-Nam.

- Thừa nhận nguyên tắc về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia .


- Các bên tham gia hội nghị thừa nhận quyền độc lập, thống nhất, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Hai bên Việt Nam sẽ tiến hành Tổng tuyển cử vào tháng 7-1956.

- Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Pháp cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thố của Lào và Campuchia.
- Những nguyện tắc trong quan hệ giữa 3 nước Đông Dương là tôn trọng chủ quyền độc lập, thống nhất. không can thiệp vào nội bộ của nhau.

Với giải pháp Giơnevơ, nhân dân Việt Nam đã đi được một nửa chặng đường trong sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Tổ quốc, biểu hiện sinh động rằng trước khi giành thắng lợi hoàn toàn. vì một quốc gia nhỏ như Việt Nam phải đương đầu với thế lực xâm lược lớn. trong bối cảnh quan hệ quốc tế lúc đó, thì cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân ta sẽ diễn ra phức tạp, lâu dài, gian khổ.

Ngày 22-7-1954. Chủ tịch Hồ Chí minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. Người khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”.

Nguồn:Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương XI – Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ dân chủ mới (1945-1954), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.315-324.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top