Chia Sẻ La Mã cổ đại

Trang Dimple

New member
Xu
38
Lịch sử La Mã bắt đầu từ 1 ngôi làng nhỏ (có sách nói là gồm 7 ngọn đồi) ở trung tâm Italy, sau đó phát triển thành thủ phủ, xâm chiếm và kiểm soát 1 vùng rộng lớn gồm toàn bộ Italy, Nam Châu Âu, Trung Đông, Ai Cập và trở thành đế chế hùng mạnh nhất trên thế giới vào thời điểm bắt đầu công lịch. La Mã kiểm soát cái mà trước đó chưa 1 quốc gia nào từng có, nó cai trị toàn thế giới trong 1 thời gian dài. Đế chế La Mã trải dài từ Vương quốc Anh đến Ai Cập, từ Tây Ban Nha đến Mesopotamia thiết lập 1 thời kỳ hòa bình đáng khen ngợi.

Dù vậy, La Mã là 1 quốc gia quân sự và nó cai trị lãnh thổ mênh mông của mình bằng cách duy trì 1 lực lượng quân sự mạnh trên nhiều nước nó chiếm đóng. Là 1 chủng tộc thông minh, người La Mã dành rất nhiều trí tuệ của họ cho việc xây dựng chiến thuật, công nghệ, tổ chức và luật lệ quân sự, tất cả dành cho việc duy trì cái thế giới rộng lớn họ đã dựng lên.

Nhưng La Mã được biết đến không chỉ vì thiên tài quân sự và tổ chức mà còn vì văn hóa. Quần thể văn hóa La Mã chỉ kém chút ít không đáng kể so với Hy Lạp, nơi đã bắt đầu thể chế nhà nước vài thế kỷ trước Cộng hòa La Mã. Văn hóa La Mã có nhiều cái bắt nguồn từ Hy Lạp: nghệ thuật, kiến trúc, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên, người La Mã đã làm biến đổi nhiều thứ văn hóa này bằng việc làm nó trở nên thích nghi với thế giới quan và nhu cầu riêng của họ. Thứ văn hóa biến đổi này sau đó được truyền bá đến các cộng đồng dân cư châu Âu thời cổ đại và phục hưng.

Chúng ta gần như không biết gì về những cư dân đầu tiên của La Mã. Những người đầu tiên là người Cro-Magnons, nhưng đến thời đồ đá mới, họ dường như bị thay thế bởi những người di trú đến từ Châu Phi, Tây Ban Nha, và Pháp. Những người này sau đó lại bị thay thế bởi làn sóng người di trú trong thời kỳ đồ đồng, bắt đầu ở khu vực này khoảng năm 1500 trước công nguyên. Cộng đồng mới này đến từ các vùng đất bên kia dãy Alps và vượt biển Adriatic tới phía Đông của bán đảo Italia. Họ là những người du cư, chăn nuôi gia súc và sở hữu phương tiện sx cao. Họ đúc đồng, cưỡi ngựa và có xe ngựa. Họ là những người thiện chiến và bắt đầu định cư tại các vùng cao trên bán đảo Italia. Ngày nay chúng ta gọi họ là người Italic, gồm nhiều dân tộc khác nhau: người Sabine, người Umbrian, người Latinh và rất nhiều nữa.

Vào khoảng năm 700-800 trước công nguyên, hai nhóm cư dân mới bắt đầu xâm chiếm bán đảo Italia. Không giống những người nhập cư trước đó, những người khai hoang mới này mang tới cùng họ nền văn minh Hy Lạp và Etruscans.



I. SỰ THÀNH LẬP NHÀ NƯỚC LA MÃ SỰ PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN CỘNG HÒA CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA MÃ (từ giữ thế kỹ VIII đến đầu thế kỷ III trước công nguyên)

1. Sự thành lập La Mã và tổ chức chính trị buổi đầu của nó (thế kỷ VIII-VI trước công nguyên).

La Mãì là một đơn vị địa lý thuận lợi cho sự thống nhất về lãnh thổ và về chính trị. Từ thời thượng cổ, trên bán đảo Ý đã có người nguyên thủy sinh sống. Ðến đầu thiên niên kỷ II trước công nguyên, có những cuộc thiên di lớn của các dân tộc châu Âu xuống bán đảo Ý.

Vào khỏang năm 753 trước công nguyên, ba bộ lạc La Tinh đã xây dựng lên một thành thị trên bờ sông Tibre, lây tên một nhân vật truyền thuyết là Romulus, được coi là người sáng lập ra thành La Mã, để dặt tên cho thành là Roma tức là La Mã. Từ đó về sau, người ta gọi người La Tinh sống ở thành ấy là nhân dân La Mã. Sự xây dựng thành thị lần đầu tiên là các mốc đánh dấu sự tan rã của chế độ thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước.

Về mặt tổ chức chính trị, thì trong quá trình phát triển lịch, La Mã trong buổi dầu cũng có "vua", có viện nguyên lão và đại hội nhân dân.

Dựa theo cuộc cải cách mà So-lon đã tiến hành ở A-ten, vào giữa thế kỹ VI trước công nguyên vua (Servius Tullius), đã phá giới hạn của tổ chức thị tộc, thực hành cải cách xã hội. Ông căn cứ theo tài sản tư hữu nhiều, ít để chia toàn thể những người trai tráng có nghĩa vụ đi lính, không phân biệt quí tộc Patrici hay bình dân pơ-lep làm sáu đẳng cấp: đẳng cấp thứ nhất là lớp quý tộc có nhiều của cải; càng xuống những đẳng cấp dưới thì của cải tư hữu càng ít dần; đẳng cấp thứ sáu thì chỉ gồm những người vô sản. Ðại hội mới, gồm toàn thể các binh sĩ, gọi là đại hội Xanturia.

Nguyên nhân căn bản của những biến động xã hội dẫn đến cải cách của Tullius là cuộc đấu tranh ngày càng quyết liệt giữa một bên là quần chúng bình dân pơ-lep, mà vai trò trong nền sản xuất xã hội ngày càng trở nên quan trọng, và một bên la tầng lớp quý tộc Patrici mà thế lực đã bị giảm sút. Kết qủa tất nhiên của cuộc đấu tranh đó là sự giải thể càng nhanh chóng của xã hội thị tộc La Mã, là sự thũ tiêu bước đầu tình trạng cách biệt về ngồn gốc xã hội giữa po-lep và Patrici, là sự thực hiện bước đầu quyền bình đẳng về nghĩa vụ quân sự giữa hai giai cấp đó. Bởi vậy cải cách của Tullius tuy chưa hoàn toàn xóa bỏ mọi sự cách biệt giữa quý tộc và bình dân, song vẫn được người bình dân xem như là một trong những thắng lợi đầu tiên của họ đối với giai cấp quý tộc thị tộc.

2. Sự thiết lập chế độ cộng hòa La Mã. Cuộc đấu tranh của người pơ-lep (Thế kỷ V-III tr.c.n.).

Vào khoảng năm 510 tr.c.n., chấm dứt thời kỳ vương chính trong lịch sử La Mã, thời kỳ tan rã toàn diện của chế độ xã hội thị tộc. Cũng từ đó mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cộng hòa La Mã.

Lúc bấy giờ, "vua" đã bị phế truất, nhà nước La Mã mới ra đời. Ðại hội Xanturia, mà thực chất là đại hội của toàn thể quân đội, họp để quyết định chung về mọi vấn đề quân sự như tuyên chiến, đình chiến hoặc nghị hòa, bầu cử tướng lĩnh hàng năm..., trở thành cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước La Mã. Ðại hội Xanturia họp là hình thức phôi thai của nền dân chủ nô La Mã.

Cơ quan quyền lực thứ hai của nhà nước cộng hòa La Mã được giao cho hai quan chấp chính gọi là Consul, quyền hành ngang nhau, Thời chiến thì giữ chức tư lệnh quân đội La Mã, thời bình thì nắm giữ quyền lập pháp, quyền hành chính lẫn quyền tư pháp, quyền hạn rất lớn.

Tóm lại, nhà nước La Mã vừa ra đời, đã mang tính chất hai mặt. Một mặt, nó tập hợp cả dân La Mã và Pơ-lep vào một nhà nước thống nhất, tổ chức theo hình thức cộng hòa, trong đó quyền dân chủ của nhân dân La Mã được đảm bảo một mức độ nhất định, tạo điều kiện cho La Mã phát triển mạnh mẽ chế độ chiếm hữu nô lệ; đó là mặt tích cực của nó. Nhưng mặt khác, nhà nước đó thực chất là nhà nước cộng hòa quí tộc, trong đó quyền hành tập trung vào tay giai cấp quí tộc La Mã; sự cách biệt giữa Pa-tơ-ri-xi nà Pơ-lep vẫn còn.

Cải cách của Tu-li-u-xơ căn bản chưa xóa bỏ được sự cách biệt giữa Pơ-lep và Pa-tơ-ri-xi, vì thế cuộc đấu tranh còn tiếp tục diễn ra trong suốt 200 năm sau.

Năm 287 tr.c.n., có thể coi là năm kết thúc quá trình đấu tranh bền bỉ của người bình dân chống phân biệt đối xử công dân tự do La Mã.

Tuy nhiên, chế độ cộng hòa La Mã dù có được dân chủ hóa, nhưng nhà nước đó căn bản vẫn đảm bảo quyền lợi của bộ phận chủ nô giàu có trước hết, nên nó còn mang nhiều tính chất hạn chế.

3. La Mã chinh phục bán đảo Ý và thống nhất khu vực Ðịa trung hải. Cuộc chiến tranh giữa La Mã và Cac-ta-giơ (264-146 tr.c.n.).

La Mã lúc mới thành lập, chỉ là một thành bang đất hẹp, người thưa ợ trên bờ sông Tibre. Từ thế kỷ IV tr.c.n., trở đi, La Mã bắt đầu bành trướng thế lực bằng những cuộc chiến tranh xâm lược các bộ tộc láng giềng.

Ở thời kỳ La Mã mới bắt đầu phát triển. Nguyên nhân là vì La Mã đã có một cơ sở kinh tế nông nghiệp tương đối vững cho phép đánh lâu dài, và một tổ chức quân sự tương đối mạnh gồm phần lớn là lính mộ trong đám bình dân có tinh thần chiến đấu và tinh thần kỷ luật tương đối cao, có vũ trang đầy đủ, có kỷ thuật tác chiến tốt.

Nguyên nhân cuộc chiến tranh La Mã Cac-ta-giơ là sự tranh giành đất đai, nô lệ và bá quyền về thương nghiệp ở miền Tây Ðịa trung hải, giữa bọn quí tộc chủ nô hai nước. Bàn về tính chất của cuộc chiến tranh ấy, Lê-nin nói: "...Chến tranh đế quốc chủ nghĩa cũng đã bùng nổ trong thời đại chế độ nô lệ. Cuộc chiến tranh giữa La Mã và Cac-ta-giơ, xét về cả hai bên, đều là một cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa".

Cuộc chiến tranh Pu-nit keó dài 120 năm. Về thực chất, đó là một cuộc chiến tranh giữa bọn quí tộc chủ nô La Mã và bọn quí tộc chủ nô Cac-ta-giơ để tranh giành thuộc địa và bá quyền về thương nghiệp ở Ðịa trung hải. Ðể phục vụ lợi ích của bọn quí tộc chủ nô, hàng trăm vạn người đã bị hy sinh tính mạng, vô số những thành thị nguy nga, tráng lệ đạ bị biến thành những đóng gạch dụng hoang tàn.

Sau cuộc chiến tranh Pu-nit, La Mã lại lần lượt chiếm thêm nhiều miền đất đai rộng lớn ở Ðông bộ Ðịa trung hải, ở miền tiểu Á và ở Bắc Phi.

Như vậy là trải qua trên hai trăn năm bành trướng bằng vũ lực, La Mã đại đế đã thống nhất toàn bộ khu vực Ðịa trung hải, thu gồm bán đảo Ý, Tây ban nha,Ma-xê-đô-ni, Hy lạp, Tiểu Á, Xi-ri, Ai cập và bờ biển Bắc Phi làm thành một đế quốc rộng lớn. Lúc ấy, nền thống trị của La Mã đã được xây dựng trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển cao độ.

II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ ÐẠI ÐIỀN TRANG VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA CHẾ ÐỘ CỘNG HÒA CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA MÃ


1. Sự xuất hiện và phát triển của nền kinh tế đại điền trang.

Những cuộc chinh phục đất đai của La Mã trong những thế kỷ III-II tr.c.n., đã gây nên những hậu quả lớn lao và sâu sắc trong các ngành sản xuất kinh tế của đế quốc La Mã. Từ đây, nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp và thương nghiệp, sử dụng lao động của những người dân tự do sản xuất nhỏ, đã bị những cuộc chiến tranh liên miên đẩy lùi xuống địa vị thứ yếu.

Bọn quí tộc quan lại và bọn thương nhân La Mã (thường gọi là "kỵ sĩ" vì đa số là bọn thương nhân này đều xuất thân từ tầng lớp kỵ sĩ) nhờ chiến tranh xâm lược mà phát tài to. Ngoài số vốn chúng đầu tư trong kinh doanh công thương nghiệp, chúng còn đem tiền của thừa thãi tậu những điền trang lớn, dùng nhân công nô lệ cày cấy.

2. Ðời sống của nông dân và nô lệ ở thời kỳ cộng hòa La Mã.

Ruộng đất càng tập trung trong tay bọn địa chủ chủ nô, điền trang càng mở rộng thì tình cảnh nông dân La Mã và nông dân Ý càng điêu đứng.

Quá trình bần cùng hóa nông dân tự do ở La Mã và ở Ý đi đôi với quá trình tâp trung ruộng đất vào tay bọn chủ nô chúa đất, đã vẫn đến tình trạng mâu thuẫn giai cấp gay gắt và đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội La Mã. Ðó là một trong những nguyên nhân khiến cho chế độ cộng hòa La Mã dần dần lâm vào một cuộc khủng khoảng vô cùng trầm trọng.

Trong xã hội La Mã cổ đại, không có một ngành sản xuất kinh tế nào mà không sử dụng một cách rộng rãi lao động của nô lệ.

Gần hai thế kỷ bành trướng bằng vũ lực, giai cấp thống trị La Mã đã bắt hàng chục vạn nhân dân những miền bị chinh phục, bắt hàng chục vạn tù binh đem bán nô lệ. Theo sau quận đội La Mã, thường có những bọn con buôn, những kẻ đấu thầu, chuyên nhận mua chiến tù hay thường dân bị bắt đem bán ra thị trường nô lệ.

Số nô lệ trong xã hội La Mã ước lượng là bao nhiêu, hiện không có tài liệu thống kê chính xác của thời cổ để lại. người ta chỉ có thể ước đoán rằng đến thế kỷ II tr.c.n., nô lệ đã chiếm một tỷ lệ dân số cao hơn nhiều so với dân tự do. Nói chung đời sống của nô lệ trong xã hội La Mã cổ đại hết sức khổ nhục.

Ngoài ra nô lệ bị đưa vào những doanh trại tập trung số nô lệ đó, cho họ ăn uống và luyện tập võ nghệ để đến dịp ngày lễ, ngày hội lớn ở La Mã là đưa họ ra trường đấu để đấu nhau với thú dữ (hổ, báo, voi, sư tử) hoặc giao đấu với nhau, chém giết lẫn nhau hết sức rùng rợn. Trận đấu bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc đổ máu vô cùng thê thảm của những người nô lệ đấu sĩ ï.

3. Những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội La Mã cuối thời đại cộng hòa.

a. Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nô lệ và dân nghèo ở Xi-xin và ở Tiểu Á (nửa sau thế kỷ II tr.c.n.).

Trong xã hội La Mã có quí tộc, bình dân và nô lệ. Quí tộc và bình dân là thuộc tầng lớp dân tự do. Nô lệ là những người lao động không có quyền lợi chính trị và không có quyền tự do về thân thể. Giữa quí tộc và bình dân vẫn còn có mâu thuẫn không thể điều hòa được. Ngay trong nội bộ giai cấp quí tộc, giữa bọn quí tộc địa chủ cũ và bọn quí tộc công thương mới, cũng có cuộc đấu tranh giành giật chính quyền. Nhưng lúc bấy giờ, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa quí tộc chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn đó đã được thể hiện qua những phong trào khởi nghĩa đầu tiên của nô lệ và dân nghèo ở Xi-xin và ờ Tiểu Á hồi nữa sau thế kỷ II tr.c.n.

b. Cuộc vận động cải cách ruộng đất của anh em Gracchus và phong trào chống La Mã của các nước đồng minh ở Ý.

Tình trạng tập trung ruộng đất như vậy không những đã làm mất nguồn sinh sống của đông đảo quần chúng dân tự do, mà lại còn làm cho thế nước ở La Mã suy yếu dần. Chế độ nô lệ ngày càng phát triển, thì số người vô sản lưu vong ngày càng đông. Quân đội La Mã xây dựng trên cơ sở mộ binh trong tầng lớp nông dân tự do, đến bây giờ bị giảm sút trầm trọng vì thiếu người nhập ngũ.

Nguy cơ ấy khiến cho nhiều nhà qúy tộc chủ nô lấy làm lo lắng. Do đó mà có việc hai anh em Gracchus đề xướng cuộc vận động hạn điền. Hai nhà cải cách xã hội này xuất thân từ gia đình quý tộc có quyền thế. Năm 133 trước công nguyên, người anh là Tiberius Gracchus được cử làm quan bảo dân.

Tiberius Gracchus đã thảo ra một đạo luật hạn định ruộng đất công, mỗi gia đình quý tộc được chiếm làm của riêng không được quá 1000 mẫu; phàm ruộng đất chiếm quá mức ấy thì tịch thu đem phân phối cho những người bình dân không có ruộng đất. Giai cấp quý tộc địa chủ phản đối kịch liệt đã giết chết Tiberius Gracchus cùng 300 đồng đảng. Như thế là cuộc vận động hạn điền biến thành một cuộc đấu tranh đổ máu. Mười năm sau em là Caius Gracchus được bầu làm quan bảo dân, lại đề ra một lần nữa luật hạn điền. Cuối cùng Caius Gracchus cùng với trên 3000 đồng đảng đều bị giết chết.

Cuộc vận động hạn điền của hai anh em Gracchus đề xướng, cuối cùng đã thất bại. Luật hạn điền bị huỷ bỏ. Ruộng đất đã bị tịch thu và phân phối cho bình dân, nay bị thu hồi để hoàn lại cho chủ cũ. Tình trạng kiêm tính đất đai lại càng trần trọng hơn trước. Mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội La Mã càng thêm sâu sắc.

c. Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quí tộc chủ nô.

Trong lúc cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô, giữa bình dân và quý tộc, giữa La Mã và các nước "đồng minh" ở Ý đang làm lung lay cơ sở của nền cộng hòa La Mã, thi trong nội bộ giai cấp thống trị chủ nô, giữa bọn quý tộc địa chủ và bọn quý tộc thương nhân, cũng nổ ra những cuộc xung đột rất tàn khốc để tranh cướp chình quyền ở La Mã.

Trong thời kỳ trấn áp các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và của các bộ tộc " đồng minh" ở Ý, La Mã chủ yếu dựa vào hai tướng: một là Marius, là quý tộc thương nhân, hai là Sylla, thuộc phái quý tộc bảo thủ. Cuộc đấu tranh trong nội bộ bọn thống trị La Mã lúc này diễn biến thành một cuộc xung đột giữa hai viên tướng đó.

Chế độ cộng hoà ở La Mã đã không có đủ sức để bảo vệ quyển lợi của bọn đại quý tộc chủ nô nữa. Bọn chúng lúc ấy yêu cầu thiết lập nền độc tài quân sự của Sylla chỉ tồn tại được ba năm. Sau khi Sylla chết, bọn đại quí tộc chủ nô lại tìm đến hia viên tướng khác là Pompeius và Crassus. Dù sao, với sự xuất hiện nền độc tài Sylla, những truyền thống của chế độ cộng hòa bị xúc phạm: nền cộng hòa La mã đã bắt đầu trải qua thời kỳ khủng hoảng trầm trọng

4. Cuộc khởi nghĩa nô lệ do Spartacus lãnh đạo (73-71 trưóc công nguyên)

Ðời sống của người nô lệ rất bi thảm, cho nên tinh thần đấu tranh của nô lệ rất kiên quyết. Do đó, họ quyết tâm đứng dậy chống lại bọn quý tộc chủ nô độc ác. Từ giữa thế kỷ II trước công nguyên, những cuộc khởi nghĩa bl liên tiếp bùng nổ ở trên đất Ý, trong đó cược khởi nghĩa to lớn nhất, ảnh hưởng sâu rộng nhất là cuộc khởi nghĩa của nô lệ và dân nghèo năm 73 trước công nguyên do Spartacus lãnh đạo. Năm 71 trước công nguyên, quân khởi nghĩa bị các đạo quân củ hai tướng La Mã Crassus và Pompéc đánh bại.

5. Nền độc tài quân sự của Cesar. Bước quá độ từ chế độ cộng hòa quý tộc sang đế chế.

Sau khi đã đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Spartacus, bọn quý tộc chủ nô La Mã phải dùng đến chính sách độc tài quân sự để củng cố nền thống trị của chúng.

César, Pompéc và Crassus cùng chung nắm giữ mọi quyền binh trong tay. Trong lịch sử, chính quyền đó gọi là chế độ chuyên chính tay ba hay là chế độ tạm hùng lần thứ nhất. Cuối cùng César nắm quyền độc tài.

Năm 44 trước công nguyên, trong lúc César đang chủ tọa một cuộc họp của Viện Nguyên Lão, phe đối lập đã bày mưu sắp kế sẵn, cố ý gây tình thế hỗn độn, thừa cơ xông vào đâm chết César tại chỗ.

César chết rồi thì tình hình chính trị ở La Mã trong một thời kỳ trở nên hỗn loạn. Thanh kiếm của phái quý tộc cộng hòa chỉ giết được cá nhân César , nhưng không thể ngăn cản nổi xu hướng chính trị mà Césrr là đại biểu. Bởi Vậy, sau đó thì cuộc nội chiến lại bùng nổ một lần nữa ờ La Mã .

Năm 43 trước công nguyên, Octavius và Antonius cùng với Lépidus, tổ chức thành chế độ tạm hùng lần thứ hai, cùng chung nắm giữ chính quyền ở La Mã .

Chế độ tạm hùng lần thứ hai đã thanh trừ được phái quý tộc cộng hòa trong nội bộ giai cấp thống trị La Mã rồi thì, Octavius, Antonius, Lépidus liền chia nhau đất đại để cai trị: , Octavius , thì được chia đất Ý và xứ Gô-lơ, Antonius thì được các miền đất đai rộng lớn ở Ðông bộ Ðịa Trung Hải, Lépidus thi được chia các tỉnh ở Bắc Phí. Ba tên quân phiệt này điều thấy chúng không thể chung sống với nhau lâu ở La Mã đươc.

Sự xung đột giữa , Octavius và Antonius cuối cùng dẫn đến chiến tranh. Năm 31 trước công nguyên, hải, lục quân của , Octavius cùng hạm đội liên minh của Antonius và Cơ-lê-ô-pat gặp nhau ở Ac-ti-um ngoài bờ biển phía tây bàn đảo Hy Lạp. , Octavius thắng to, liền đem quân đổ bộ sang Ai Cập. Antonius và Cơ-lê-ô-pat bị bao vây, tuyệt vọng, lần lượt tự sát. , Octavius thôn tính hết đất đai của Antonius. vương triều Pơ-tô-lê-mê thống trị Ai Cập trong ba trăm năm bị diệt vong. Từ đấy, Ai- Cập biến thành một tỉnh của đế quốc La Mã .

Trận Ac-ti-um năm 31 trước công nguyên đã quyết định sự thống nhất lại của đế quốc La Mã .

III. THỜI KỲ CỰC THỊNH CỦA ÐẾ QUỐC CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA MÃ


1. đế chế la mã thời sơ kỳ: thời đại ô-gu-xtu-xơ.

Sau khi đánh bại Antonius, Octavius trở về La mã với những chiến công hiển hách. Octavius xây dựng nền độc tài chuyên chế.

Octavius vẫn khoát bên ngoài chiếc áo cộng hòa, nhưng thực ra y đã thực hành một nền độc tài chuyên chế thật sự. Y đã trở thành người cầm quyền duy nhất của đế quốc La mã. Chính quyền của Octavius là một hình thức đặc biệt của chế độ qân chủ chuyên chế. Y nắm mọi quyền bính trong tay: quyền tổng chỉ huy quân đội, quyền quan chấp chính, quyền quan bảo dân và cả quyền đại giáo chủ nữa. Nhưng quyền hành đó về sau được trao cho Octavius suốt đời. Ngoài ra, Octavius còn được viện nguyên lão suy tôn làm quốc phụ và được tặng danh hiệu là Ô-gu-xtu-xơ có nghĩa là đấng cao cả mà mọi người phải tôn kính và sùng bái như một vị thần sống.

Khác với César, Octavius không dám coi thường truyền thống cộng hòa ở La mã, nên y không tự xưng là hoàng đế mà chỉ tự xưng là người công dân số một. Chế độ chính trị đó, trong lịch sử, gọi là chế độ nguyên thủ.

Dưới thời đại Ô-gu-xtu-xơ (từ năm 17 trước công nguyên đến năm 14 công nguyên), trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển, đế quốc La mã đã trãi qua một thời kỳ phồn thịnh chưa từng có. Sự thống nhất về chính trị và lãnh thổ đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế đế quốc La mã, đặc biệt là của ngành ngoại thương. Kinh đô ở trên bờ sông Ti-bơ-rơ, lúc ấy đã trở nên một thành thị nguy nga đồ sộ. Từ thời đại Octaviustrở đi, hoàng đế La mã lấy kinh đô làm trung tâm, đắp đường sá đi thông suốt đến các tỉnh, nhờ đó mà cũng cố thêm sự thống nhất về chính trị của đế quốc La mã. Những đường sá đều có lát đá, rộng rãi mà lại chắc chắn, chạyđi khắp nơi trong toàn quốc, chằn chịch như những mạch máu trong cơ thể. Hết thảy mọi con đường đều dẫn đến La mã.

IV. THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG SUY VONG CỦA ÐẾ QUỐC CHIẾM HỮU NÔ LỆ LA MÃ. KHỞI NGHĨA NÔ LỆ VÀ SỰ XÂM NHẬP CỦA MAN TỘC (Thế kỷ III-V)


1. Sự suy sụp của nền kinh tế chiếm hữu nô lệ của Ðế quốc La mã. Sự xuất hiện chế độ lệ nông.

Trong hai thế kỷ I -II, Ðế quốc La mã tuy bề ngoài vẫn giữ đựợc bộ mặt thái bình và thịnh vượng của nó, nhưng mâu thuẫn giai cấp sâu sắcbên trong và những cuộc thất trận liên tiếp bên ngoài đãdần dần làm cho nền kinh tế trong cả nước lâm vào tình trạng bế tắc, mầm mống của sự suy vi đã bắt đầu.

Do sự bóc lột tàn khốc của giai cấp chủ nô đối với nô lệ, do năng suất thấp kém của lao động nô lệ, do nguồn cung cấp nô lệ chiến tù ngày càng khô cạn mà dần dần phát sinh những biến đổi lớn trong nền kinh tế của Ðế quốc La mã. Chế độ lệ nông bắt đầu xuất hiện. Lệ nông so với nô lệ được chút ít tự do và có tinh thần tự nguyện sản xuất hơn. Tuy nhiên, lệ nông vẫn bị buộc chặt vào mãnh ruộng đất ấy; trên luật pháp, họ vẫn là nô lệ, mặc dầu lối làm ăn, canh tác đã có phần đổi mới.

2. Cuộc khủng hoảng chính trị của Ðế quốc La mã và sự thiết lập chế độ vương chủ.

Trên đây đã nói, lệ nông lúc đầu có ít nhiều hứng thú lao động, có thúc đẩy sản xuất tiến lên, có phục hồi lại nền kinh tế nông nghệp của Ðế quốc ở những thế kỷ trước, nhưng đến thời kỳ này, lệ nông cũng bị bóc lột tàn tệ, bị đối xử không khác gì nô lệ cho nên nền kinh tế lệ nông cũng không tránh khỏi tình trạng bế tắc.

Thời sơ kỳ Ðế chế, các hoàng đế tuy vẫn thực hành chế độquân chủ chủ nô, song những tập quán và truyền thống của chế độ cộng hòa La mã chưa mất hẳn, hình thức tổ chức nhà nước cộng hòa vẫn được duy trì.

Sang thời hậu kỳ Ðế chế, các hoàng đế đã vứt bỏ hoàn toàn cái vỏ cộng hòa, ra sức tăng cường hơn nữa chế độ quân chủ chuyên chế, tập trung cao độ quyền lực vào tay mình. Chế độ chính trị đó được gọi là chế độ vương chủ.

Từ cuối thế kỷ III, giữa các miền Ðông và Tây của Ðế quốc đã bộc lộ rõsự khác nhau trong xu hướng phát triển.

Ở miền Tây, tại những nơi mà chế độ nô lệ đã phát triển cao như Ý, Tây ban nha, đông nam xứ Gô-lơ, Bắc Phi, thì chế độ nô lệ đang bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng.

Ở miền Ðông, như ở Tiểu Á, Xi-ri và Ai cập, nền kinh tế vẫn giữa được vẽ phồn thịnh của nó.

Năm 395, hoàng đế Théodosius đem chia Ðế quốxc La mã cho hai người con trai của y: người con cả được Ðông bộ, thủ đô là Côn-xtan-ti-nô-pô-lit, người con thứ được Tây bộ, thủ đô là La mã. Từ đó trở đi, Ðế quốc La mã chia thành Ðông bộ (về sau gọi là Ðế quốc By-dăn-ti-um) và Tây bộ; mỗi bộ đều phát triển theo một con đường lịch sử riêng.

3. Cao trào cách mạng của nô lệ. Cuộc xâm lăng củangười Giecman và sự diệt vong của Ðế quốc la mã.

Sau những cuộc xâm nhập ồ ạt của các bộ Giec-man, Tây bộ Ðếquốc La mã đã bị họ chinh phục hoàn toàn, người Tây Gốt thống trị Tây ban nha; người Van-đan thống trị miền Bắc Phi, đảo Xac-đen và đảo Cooc-xơ; người Fơ-răng và người Buôc-gông thống trị xứ Gô-lơ; người Ăng-gơ-lơ và người Xăc-xơn thống trị đảo Anh; người Ðông-giốt thống trị đất Ý. Mỗi bộ tộc Giec-man đều thành lập chính quyền riêng của mìnhtrên một phần đất đai cũ của Tây bộ Ðế qốc La mã. Hoàng đế La mã ở Tây bộ Ðế quốc đã không còn chút quyền hành gì nữa, mà hoàn toàn trở thành bù nhìn.

Tây bộ Ðế quốc La mã cuối cùng đã bị chìm đắm trong cao trào cách mạng của nô lệ và trong các cuộc xâm lăng của người man tộc. Năm 476, lãnh tụ quân sự của người Giec-man là Odoacer đã phế truất vị hoàng đế cuối cùng của Ðế quốc La mã Romulus, rồi tự xưng làm vua. Sự kiện này. Hồi đó, tuy chỉ là một chính biến nhỏ, nhưng nó đã đánh dấu sự diệt vong của Ðế quốc La mã (Tây bộ) trong lịch sử.

Sau khi Tây bộ Ðế quốc La mã bị diệt vong, Ðông bộ Ðế quốc La mã vẫn tiếp tục tồn tại tới ngót một nghìn năm nữa. Trong lịch sử Trung đại, Ðông bộ Ðế quốc La mã được gọi là Ðế quốc Bi-dăn-ti-um. Nó bắt đầu bước vào quá trình phong kiến hóa và không còn là một đế quốc rộng lớn xây dựng trên cơ sở chế độ nô lệ như xưa kia nữa.

Xã hội nô lệ cổ đại đã tan rã. Trong cuộc binh đao khói lửa ở thời kỳ hậu Ðế chế La mã, nhân loại đã kết thúc một giai đoạn lịch sử quan trọng, đồng thời mở đầu một trang sử mới: thời đại chế độ phong kiến ở Châu Âu.
 
Sửa lần cuối:
Vào cuối thế kỷ thứ IV, Đế quốc Tây La Mã sụp đổ sau gần 500 năm thống trị như một siêu cường hùng mạnh nhất thế giới. Theo các sử gia, kết quả này là do hàng trăm yếu tố khác nhau gây nên, từ thua trận, thuế má bất ổn, cho tới thiên tai và thậm chí là biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nhiều người khác lại cho rằng, Đế chế La Mã không hẳn đã suy tàn vào năm 476 SCN, bởi nửa phía đông của đế chế này vẫn tồn tại thêm một nghìn năm nữa dưới tên gọi Đế chế Byzantine. Dù những câu hỏi về việc Đế chế này sụp đổ như thế nào và vào lúc nào vẫn đang là đề tài tranh luận, một vài giả thiết nổi bật nhất đã lý giải về sự suy yếu và tan rã của Đế quốc Tây La Mã. Cùng tìm hiểu 8 lý do dưới đây để biết tại sao cuối cùng một trong những đế chế huyền thoại nhất trong lịch sử lại suy tàn.

Cuộc xâm lăng của các man tộc

Giả thuyết xác đáng nhất cho sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã gắn với một chuỗi những lần thất trận khi chống lại các thế lực bên ngoài. Cuộc đấu tranh giữa Rome với các bộ tộc Germanic (Giéc-manh) kéo dài hàng thế kỷ, nhưng tới những năm 300, các “man tộc” như người Goth đã tràn sâu vào trong biên giới của Đế quốc Tây La Mã. Vào cuối thế kỷ thứ IV, người La Mã đã chế ngự được cuộc nổi dậy của người Germanic, nhưng đến năm 410, vua Alaric của Visigoth đã tổ chức thành công một cuộc cướp phá thành Rome. Trong vài thập kỷ sau đó, Đế quốc Tây La Mã liên tục phải gánh chịu sự đe dọa trước khi “Thành phố Vĩnh hằng” (Eternal City) này bị tấn công lần nữa bởi người Vandal vào năm 455. Cuối cùng, đến năm 476, người đứng đầu tộc Germanic là Odoacer đã tiến hành một cuộc nổi loạn và truất ngôi Hoàng đế của Romulus Augustulus. Kể từ đó trở về sau, không còn vị Hoàng đế La Mã nào giành lại được quyền cai trị ở Italia, dẫn tới việc nhiều người trích dẫn năm 476 là thời điểm Đế quốc Tây La Mã sụp đổ.

Những khó khăn về kinh tế và sự quá lệ thuộc vào lao động nô lệ
Trong khi bị các thế lực từ bên ngoài tấn công, Rome cũng bị mục ruỗng từ bên trong do xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Những cuộc chiến liên tiếp xảy đến cùng với bội chi dẫn đến tình trạng ngân khố hoàng gia bị thâm hụt nặng, ngoài ra, sưu cao thuế nặng và tình trạng lạm phát đã làm gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Với hi vọng trốn thuế, nhiều người thuộc tầng lớp giàu có đã bỏ trốn tới vùng quê và lập nên các thái ấp độc lập. Cùng thời gian này, Đế chế còn bị lung lay do thiếu lao động. Nền kinh tế của Rome phụ thuộc vào nô lệ trong hoạt động cày cấy, làm nghề thủ công, và sức mạnh quân đội thường mang lại những tù binh mới để phục vụ lao động. Thế nhưng, quá trình mở rộng lãnh thổ chững lại trong thế kỷ thứ II khiến nguồn cung ứng nô lệ của Rome và các chiến lợi phẩm bắt đầu cạn kiệt. Một tai ương khác ập tới vào thế kỷ thứ V khi người Vandal chiếm được khu vực Bắc Phi và trở thành cướp biển tại vùng biển Địa Trung Hải khiến hoạt động giao thương của đế chế bị gián đoạn. Với tình hình kinh tế chao đảo, sản xuất nông nghiệp và hoạt động thương mại giảm sút, Đế quốc Tây La Mã bắt đầu mất đi vị thế của mình ở châu Âu.

Sự trỗi dậy của Đế quốc Đông La Mã

Số phận của Đế quốc Tây La Mã phần nào được định đoạt vào cuối thế kỷ thứ III, khi Hoàng đế Diocletian chia cắt Đế chế La Mã thành hai phần lãnh thổ – Đế quốc Tây La Mã nằm ở thành phố Milan, Đế quốc Đông La Mã nằm ở Byzantium, sau này được gọi là Constantinople. Bằng cách phân chia này, việc cai trị trở nên dễ dàng hơn trong ngắn hạn, nhưng hai vùng bắt đầu trở nên cách xa nhau theo thời gian. Đế quốc Đông và Tây La Mã không còn đồng lòng hợp tác trong cuộc chiến chống lại những mối đe dọa bên ngoài, và hai bên còn thường tranh cãi nhau về các nguồn lực và việc hỗ trợ quân sự. Khi sự khác biệt ngày càng lớn, Đế quốc Đông La Mã – quốc gia phần lớn nói tiếng Hy Lạp đã phát triển hưng thịnh, trong khi Đế quốc Tây La Mã nói tiếng La-tinh lại rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế. Quan trọng hơn cả, sức mạnh của Đế quốc Đông La Mã đã khiến các cuộc xâm lược của các man tộc chuyển sang phía Tây. Các hoàng đế như Constantine luôn đảm bảo rằng thành phố Constantinople được đặt dưới sự bảo vệ kỹ càng và kiên cố, còn Italia và Rome – nơi chỉ có giá trị biểu trưng đối với nhiều người ở phía Đông – lại trở thành khu vực dễ bị tổn thương. Cuối cùng, cơ cấu chính trị của Đế quốc Tây La Mã tan rã vào thế kỷ thứ V, trong khi đó, Đế quốc Đông La Mã tồn tại thêm một nghìn năm nữa trước khi bị Đế chế Ottoman lấn át vào những năm 1400.

Mở rộng quá mức và ‘vung tay quá trán’ vào quân sự

Trong thời kỳ đỉnh cao, Đế chế La Mã trải dài từ Đại Tây Dương tới sông Euphrates ở Trung Đông, nhưng việc bành trướng này có thể cũng là dấu chấm hết của một đế chế. Với việc cai quản một vùng đất rộng lớn như vậy, đế chế phải đối mặt với một cơn ác mộng về hành chính lẫn hậu cần. Ngay cả với các hệ thống đường sá có chất lượng cũng không thể giúp người La Mã di chuyển đủ nhanh và hiệu quả để quản lý lãnh thổ của mình. Rome gặp khó khăn trong việc tập hợp đủ số lượng binh lính và nguồn lực nhằm bảo vệ biên giới trước các cuộc nổi loạn địa phương và các cuộc tấn công từ bên ngoài, và vào thế kỷ thứ II, Hoàng đế Hadrian buộc phải dựng lên bức tường thành nổi tiếng của mình tại Anh chỉ để cách ly kẻ thù. Khi số tiền đế chế dùng để duy trì quân đội ngày càng lớn, tốc độ phát triển về tiến bộ kỹ thuật theo đó chậm lại, và các cơ sở hạ tầng dân dụng rơi vào tình trạng xuống cấp.

Tham nhũng trong chính phủ và bất ổn chính trị

Nếu như quản lý một vùng lãnh thổ rộng lớn đối với Rome là khó khăn, thì sự lãnh đạo không nhất quán và kém hiệu quả càng khiến cho vấn đề thêm trầm trọng. Ngôi vị Hoàng đế La Mã luôn là công việc đặc biệt nguy hiểm, và trong bối cảnh rối ren của thế kỷ thứ II và thế kỷ thứ III, vị trí này gần như trở thành bản án tử. Cuộc nội chiến đã đẩy đế chế vào tình trạng hỗn loạn, chỉ trong vòng 75 năm đã có hơn 20 người lên ngôi hoàng đế, thường là sau khi sát hại người tiền nhiệm. Ngay cả đội Hộ vệ có nhiệm vụ canh gác và bảo vệ hoàng đế cũng ra tay ám sát và tùy ý tấn phong các hoàng đế mới, thậm chí còn bán đấu giá vị trí này cho ai trả giá cao nhất. Sự mục nát về chính trị còn lan cả sang Viện Nguyên Lão (Roman Senate), nơi cũng không thể kiểm soát được số lượng của các hoang đế do nạn tham nhũng cũng như năng lực yếu kém của cơ quan này. Khi tình hình xấu đi, niềm tự hào của công dân suy giảm, nhiều công dân La Mã mất đi lòng tin vào giới lãnh đạo.



Người Huns xuất hiện và sự di cư của các man tộc

Các đợt tấn công của các man tộc vào Rome một phần xuất phát từ việc người Huns xâm chiếm châu Âu và gây ra cuộc di cư ồ ạt vào cuối thế kỷ thứ IV. Khi các chiến binh Á – Âu này càn quét tới Bắc Âu, họ đã đánh đuổi nhiều bộ tộc Germanic tới biên giới của Đế chế La Mã. Người La Mã bất đắc dĩ để người của bộ tộc Visigoth băng qua phía nam sông Danube và đến khu vực an toàn thuộc lãnh thổ của đế chế La Mã, nhưng họ lại đối xử rất thô bạo với người Visigoth. Theo nhà sử học Ammianus Marcellinus, nhiều viên chức La Mã thậm chí còn buộc những người Goth đói khát phải bán con làm nô lệ để đổi lấy thịt chó. Do đối xử tàn ác với người Goth, người La Mã đã tạo ra kẻ thù nguy hiểm ngay trong chính biên giới của mình. Khi sự áp bức trở nên quá sức chịu đựng, người Goth nổi dậy và họ cuối cùng đã đánh tan quân đội La Mã và giết Hoàng đế Valens của Đế quốc Đông La Mã trong cuộc chiến Adrianople vào năm 378 SCN. Trước cú sốc ấy, người La Mã đã thương thuyết một hòa ước tạm thời với các man tộc, nhưng thỏa hiệp ngừng chiến bị đổ vỡ vào năm 410 khi vua Alaric của Goth kéo quân về phía tây và chiếm đóng Rome. Với sự suy yếu của Đế quốc Tây La Mã, các bộ tộc Germanic như Vandals và Saxon đã có thể tràn qua biên giới của đế quốc này và chiếm Anh, Tây Ban Nha và Bắc Phi.

Thiên chúa giáo và những giá trị truyền thống bị đánh mất

Sự suy tàn của Rome đi đôi với sự nở rộ của đạo Thiên chúa, và một số người cho rằng sự trỗi dậy của đức tin mới này cũng góp phần vào sự sụp đổ của đế chế. Sắc lệnh Milan đã hợp pháp hóa Thiên chúa giáo vào năm 313 và biến nó trở thành quốc giáo vào năm 380. Những sắc lệnh này đã chấm dứt nhiều thế kỷ của tình trạng đàn áp Thiên chúa giáo, nhưng chúng cũng đã làm xói mòn các hệ giá trị La Mã truyền thống. Thiên chúa giáo thay thế Đa thần giáo La Mã, thứ vốn coi hoàng đế như thần thánh, đồng thời chuyển sang tôn thờ Chúa trời độc tôn thay vì nhà vua như trước đây. Cùng với đó, Giáo hoàng và những người đứng đầu giáo hội cũng đóng vai trò lớn hơn trong các vấn đề chính trị, càng làm cho việc cai trị trở nên phức tạp hơn. Nhà sử học thế kỷ XVIII Edward Gibbon là người đề xướng nổi tiếng nhất của giả thiết này, nhưng kể từ đó, quan điểm của ông đã gặp nhiều chỉ trích. Tuy việc truyền bá Thiên chúa giáo có thể đã đóng một vai trò nhỏ trong việc làm xói mòn phẩm chất công dân La Mã, nhưng đa phần các học giả ngày nay cho rằng, ảnh hưởng của nó bị lu mờ nếu so với những yếu tố về hành chính, kinh tế và quân sự.

Sự suy yếu của quân đoàn La Mã

Mặc dù phần lớn ghi chép trong sử sách đều nói Rome sở hữu quân đội đáng ghen tị trong thế giới cổ đại, nhưng trong giai đoạn suy tàn, hình ảnh của những quân đoàn La Mã hùng dũng bắt đầu có sự đổi khác. Khi không còn khả năng tuyển đủ binh lính từ dân chúng, các vị hoàng đế như Diocletian và Constantine tiến hành thuê các đội quân đánh thuê từ nước ngoài nhằm củng cố quân đội. Hàng ngũ quân đoàn La Mã cuối cùng đã đầy những người Goth và các man tộc khác, nhiều tới nỗi người La Mã phải dùng từ La-tinh “barbarus” (“người mọi”) thay cho “soldier” (binh lính) để gọi họ. Dù các binh lính gốc Germanic này đều là các chiến binh hung bạo, nhưng họ lại rất ít hoặc không hề trung thành với đế chế, những viên chỉ huy đói khát quyền lực người Germanic thường trở mặt với những ông chủ La Mã của mình. Trên thực tế, nhiều người trong các man tộc cướp phá thành Rome và lật đổ Đế quốc Đông La Mã từng có hàm tước khi còn phục vụ trong các quân đoàn La Mã.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top