• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Kỷ Niệm Giải Phóng Miền Nam - Thống Nhất Đất Nước

Hide Nguyễn

Du mục số
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
(30/4/1975)




Những ngày đầu chiến dịch


schcdcx.jpg


Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, hội nghị Bộ chính trị ngày 31/3/1975 xác định "Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu". Các nghị sĩ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Việt Nam.


Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" với tốc độ "một ngày bằng 20 năm". Ngày 14/4/1975 Bộ chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là "Chiến dịch Hồ Chí Minh", phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.

kpctd.jpg


Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân nhân du kích, dân công và Thanh niên xung phong, những ngả đường tấp nập..., cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại.

ctccnqsg.jpg


Đầu tháng 4/1975 Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị cho quân dân Nam bộ và Nam Trung bộ (B2) hãy "táo bạo đánh các điểm theo chốt... khi có thời cơ". Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn quyết định mở chiến dịch chia cắt địch trong toàn B2 để bao vây cô lập dịch ở Sài Gòn. Điện của Bộ chính trị và Quân ủy trung ương nhắc nhở cần chuẩn bị thêm trước khi làm ăn lớn. Chỉ thị của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn căn dặn phải biết tập trung lực lượng đầy đủ vào các trận then chốt.


Ngày 8/4/1975, ta cho ném bom Dinh Độc Lập¹ . Ngày 9/4/1975 ta tiến đánh địch ở Xuân Lộc. Ngày 16/4/1975 ta đập tan phòng tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang. Ngày 17/4/1975 Phnôm-pênh giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Campuchia đã kết thúc thắng lợi. Trong khi đó ở Lào chính phủ liên hiệp đóng cửa sứ quán ngụy Sài Gòn và ngụy Phnôm-pênh, sau đó vua Lào ra lệnh giải tán quốc hội, cuộc đấu tranh của quân và dân Lào bước hẳn sang thời kỳ chính trị hiệp thương để giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 18/4/1975 tổng thống Mỹ. G.Ford ra lệnh di tản người M ² khỏi Việt Nam. Ngày 20/4/1975 Mỹ buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp chính phủ Nam Việt Nam. Ngày 24/4/1975 Mỹ - Hương đề nghị xin ngưng bắn... Diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cách quân gồm 270.000 bộ đội chủ lực và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.


ddhltmtd.jpg


17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng kích đáng chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch "người liều mạng" để di tản. Các tướng tá quân đội Sài Gòn từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin "bàn giao chính quyền", các đại diện Mỹ, Pháp tìm kế hoãn binh... Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong "trận đánh cuối cùng" để kết thúc chiến tranh 30 năm.



bd10266_1.gif
Diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh tại Sài Gòn


qdcctdcc.jpg


Tại Sài Gòn, sáng ngày 30 tháng 4, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (tướng Vĩnh Lộc tổng tham mưu trưởng đã bỏ chạy) và Nguyễn Hữu Có, lên gặp Dương Văn Minh báo cáo tình hình quân sự, đã thúc đẩy Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu (thủ tướng) đi đến quyết định đơn phương ngừng bắn, chờ "bàn giao trong vòng trật tự". Dương Văn Minh họp bộ hạ và đưa ra ý kiến "tuyên bố thành phố bỏ ngỏ". Sau khi bàn luận, Vũ Văn Mẫu viết bản tuyên bố kêu gọi đơn phương ngưng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Bản tuyên bố được phát trên đài phát thanh Sài Gòn lú 9 giờ 30 phút.



cbtlcsqg.jpg


Trên tất cả các hướng vào Sài Gòn, quân ta tiếp tục tiến công theo mệnh lệnh của Bộ Chính trị "tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống đối của chúng".


Địch dùng pháo từ phía Đông xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa bắn ra cắt đội hình lữ đoàn xe tăng 20. Một phân đội của lữ đoàn rẽ vào đánh diệt chúng ở liên trường Thủ Đức (ở Cây Mai). Tại đây chiếc xe 707 đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. 9 giờ 30 phút đoàn xe tăng tiến thuận lợi qua cầu Rạch Chiếc do Z23, lữ đoàn 316 đặc công biệt động đang chiến giữ. Phía trước là cầu Sài Gòn, ở đây tiểu đoàn 4 Thủ Đức đã chiến đấu quyết liệt, giằng co với địch từ đêm 29 rạng 30 tháng 4, đến 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4 mới chiếm lại được đầu cầu phía Đông. Đoàn xe tăng lữ đoàm 203 đến đầu cầu Sài Gòn, 2 xe dẫn đầu đội hình tăng tốc vượt qua được nửa cầu thì bị xe tăng địch ở phía Tây vòm cầu bắn cháy. Đội hình xe tăng ta phải dừng lại ở đầu cầu phía Tây. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng Ngô Văn Nhỡ cầm cờ hiệu và điện đài chỉ huy tốp xe dẫn đầu vượt cầu lại bị trúng đạn địch và hy sinh trên tháp pháo. Lữ đoàn phó Trần Minh Công lên chỉ huy vượt cầu. Địch tiếp tục bắn hỏng thêm 2 xe tăng. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận và chính trị viên Vũ Đặng Toàn chỉ huy đại đội 4 vượt qua cầu. Địch lui về ngã tư Hàng xanh, ta bám sát và bắn cháy một xe tăng của chúng tại đây. Các lực lượng tại chỗ bao vây, vận động vô hiệu hóa một số xe khác. Địch ở cầu Thị Nghè ngoan cố chống cự, ta bắn cháy thêm 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp.

btdhcttn.jpg


Qua cầu Thị Nghè, nữ chiến sĩ liệt động Nga (lữ đoàn 16) lên xe tăng cùng Phạm Duy Đô làm nhiệm vụ dẫn đường. Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc Lập theo đường Hồng Thập Tự và Đại lộ Thống Nhất do xe tăng 483 của trung úy Bùi Quang Thận dẫn đầu. Một số chiến sĩ biệt động đã có mặt trước dinh Độc Lập. Trong Dinh cũng đã có mặt một số cán bộ tình báo đường dài của ta: Tô Văn Cang, Vũ Ngọc Nhạm một cơ sở binh vận (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh). Chiếc xe tăng 843 húc cánh cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào cửa Dinh. Ngay tức khắc chiến sĩ lái xe Jeep Bùi Ngọc Vân cầm cờ chạy lên tầng 2 phất mạnh trước dân chúng đang reo vui ở cổng Dinh Độc lập. Trong lúc đó, Bùi Quang Thận nhảy ra khỏi xe, cùng một số chiến sĩ tiến thẳng lên ban công thượng của tòa nhà, giật bỏ lá cờ vàng 3 sọc và kéo cờ giải phóng lên cột cờ cao nhất của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Đại đội trưởng Phạm Duy Đô chạy thẳng vào trong Dinh quan sát và trở ra báo cáo ngay với trung tá chính ủy lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng xác nhận sự có mặt của tổng thống và nội các ngụy quyền tại Dinh. Trung tá lữ trưởng Nguyễn Tấn Tài lệnh điều chỉnh đội hình xe tăng bao vây Dinh đề phòng địch phản kích, đồng thời phái một bộ phận ra đánh chiếm cảng Sài Gòn.


Đại úy trung đoàn phó trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ ta được Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đường tiến thẳng vào phòng khánh tiết gặp Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu. Tiếp đó, các đồng chí Bùi Văn Tùng và Nguyễn Tấn Tài vào phòng khánh tiết. Hai cán bộ tình báo của ta cũng đã có mặt tại đây từ sáng với tư cách là người của lực lượng thứ ba đến vận động Dương Văn Minh sớm đầu hàng: Vũ Ngọc Nhạ, Tô Văn Can. Dương Văn Minh đứng dậy nói: "Chúng tôi đang đợi các ông để bàn giao". Ta tuyên bố: "Các ông đã bị bắt làm tù bình, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao".

cgaltbdh.jpg


Dương Văn Minh chấp nhận, trao khẩu súng ngắn cho đại úy Phan Xuân Thệ và đến đài phát thanh đọc bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời chấp nhận đầu hàng của Dương Văn Minh.


Từ sáng ngày 30 tháng 4 cho đến lúc này tại trung tâm Sài Gòn đã có 34 điểm nổi dậy của quần chúng và lực lượng tại chỗ.

Sau 11 giờ 30 phút ở 41 điểm chủ lực ta chưa tới, quân chúng và lực lượng tại chỗ tiếp tục nổi dậy.

Ở quận 3, tại phường cư xá Đô Thành, lúc 12 giờ ngày 30 tháng 4 khi lực lượng võ trang ta tiến công quận 3, anh Tư và anh Công, người địa phương, cùng một cán bộ biệt động của Z15 (lữ đoàn 316) dùng loa hô hào nhân dân nổi dậy giành chính quyền, kêu gọi sĩ quan và binh lính địch nộp vũ khí đầu hành. Ngay chiều 30 tháng 4 hàng trăm đồng bào xin nhận công tác theo yêu cầu của cách mạng, hàng trăm người khác tự động ra đường thu gom vũ khí, quân trang, quân dụng của địch. Đồng bào treo đầy cờ giải phóng trước nhà riêng, công sở và tự nguyện góp cấp thời lương thực thực phẩm cho bộ đội.

Tại phường Bàn cờ quận 3, các đông chí cơ sở mật của ta: Chị Bảy, anh Châu, anh Ba Đông, phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, chiếm giữ các kho tàng của địch, giữ gìn trật tự, an ninh, làm vệ sinh đường phố. Đồng bào thu gom được 3.000 súng các loại đem nộp cho cách mạng. 16 giờ ngày 30 tháng 4, phường Bàn Cờ tổ chức mít tinh, có 13.000 người dự lễ mừng chiến thắng và giới thiệu những người tốt vào chính quyền mới. Đến 17 giờ, thành lập xong các bạn phụ trách phường, khóm và tổ chức chuyên việc đăng ký ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện.

Ở hướng xa lộ Biên Hòa, Z27 sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiếm giữ cầu Rạch Chiếc cho lữ đoàn 203 đi qua, theo lệnh trên, tiến chiếm nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy Zetcô (nay là liên hợp công trình 4) và giữ nhà máy điện Thủ Đức. Nhờ đó, điện ở thành phố chỉ gián đoạn có vài giờ trong ngày 30 tháng 4.

cdttnq.jpg


Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, sau khi lữ đoàn 203 xe tăng qua cầu Sài Gòn tiếp tục tổ chức đánh chiếm các đồn bót địch trên trục lộ 33 đoạn từ ngã ba Bình Trưng đến ngã ba Phú Hữu, cùng cán bộ địa phương phát động quần chúng nổi dậy trừng trị ác ôn, giải phóng hai xã Bình Trưng và Phú Hữu.


Tại nhà máy nước Thủ Đức, từ những ngày 27 và 28 tháng 4, nòng cốt công nhân đã lập đội bảo vệ nhà máy. Hàng trăm công nhân và kỹ sư liên tục bám giữ máy, không cho địch phá, bảo đảm cung cấp đầy đủ nước cho thành phố cả nước và sau khi giải phóng. Ngày 30 tháng 4, khi xe tăng ta tiến gần đến, đồng chí Muống, đứng đầu ủy ban khởi nghĩa nhà máy, lãnh đạo công nhân tung tin hù dọa địch và tự mình leo lên nóc nhà máy treo một lá cờ lớn. Địch ở đây rất đông: thường xuyên có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 đại đội bảo an và ngày 30 tháng 4, còn kéo về đây thêm khoảng 40 xe tăng và thiết giáp... nhưng trước thế tiến như vũ bão của ta và khí thế công nhân tại chỗ, tất cả địch ở đây đã phải bỏ chạy.

Toàn bộ lực lượng địch ở Thủ Đức tan rã. Quần chúng xông vào chiếm giữ các căn cứ quân sự của địch, tiến chiếm trụ sở quận. Toàn bộ ngụy quyền quận bỏ chạy.

Với mọi chuẩn bị từ trước, khi đại quân ta tiến vào Sài Gòn, cơ sở cách mạng và quần chúng lao động nội thành kịp thời nổi dậy chiếm lĩnh, làm chủ và bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị văn hóa quan trong, bảo đảm mọi sinh hoạt bình thường của một thành phố mới giải phóng.

Ở nhà máy điện Chợ Quán, ngay lúc địch đang tồn tại và thiết quân luật, công nhân đã thay phiên nhau đi sửa chữa đường dây, ổn định dòng điện. Anh em kêu gọi binh lính ngụy quay về với chính nghĩa, ủng hộ hành động nổi dậy của công nhân.

Tại xưởng Ba Son, công nhân tháo gỡ hết chất nổ địch gài, bảo vệ nguyên vẹn nhà máy.

Ở các hãng Esso, Shell, công nhân thành lập các ủy ban công nhân võ trang bảo vệ kho xăng Nhà Bè.

Công nhân các xí nghiệp Vimytes, Sicovina, Vinatexco, Biopharma và hàng loạt hãng, xưởng khác bất chấp công an, mật vụ, đã nổi dậy chiếm xưởng bảo vệ máy móc.

Các cơ sở cách mạng và quần chúng nổi dậy chiếm lĩnh, cắm cờ trụ sở khóm hai phường Huyện Sĩ, ngã ba Thủ Khoa Huân, đường Lê Thánh Tôn, chợ Bến Thành, cư xá Đô Thành, ty cảnh sát quận 3, sở văn hóa... Một trí thức, cơ sở của ta, đã giữ gìn và trao lại nguyên vẹn cho cách mạng toàn bộ phòng báo chí Phủ tổng thống ngụy của Hoàng Đức Nhã (đặt tại số 116 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai).

xthdccdd.jpg


15 giờ ngày 30 tháng 4 tất cả cán bộ Thành ủy cánh A (luồn vào từ đêm 29 tháng 4) đã có mặt trong thành phố, tập kết nhận nhiệm vụ kế tiếp tại khu trường Pétrus Ký.


Cán bộ, chiến sĩ cánh B của Thành ủy có mặt cùng nhân dân thực hiện nổi dậy giành chính quyền, giành quyền làm chủ từ ấp, xã đến thị trấn ngoại thành, cũng đã hội tụ về nhận nhiệm vụ tại dinh tỉnh trưởng Gia Định.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn - Gia Định đã diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở tề... thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện là 40 vạn và số công an cảnh sát là 10 vạn.

17 giờ ngày 30 tháng 4, tiếng súng đã thực sự chấm dứt ở "thủ đô" ngụy quyền, trừ một số mục tiêu quân sự. Thành phố hơn 3 triệu dân vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm, vẫn nguyên vẹn đã chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt: nước vẫn chảy đều trong các đường ống; dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ rồi mọi nhà lại sáng; công nhân nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy; chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở; đường phố vẫn đông người, xe cộ... Người dân Sài Gòn - Gia Định náo nức cắt dàn cờ hoa để xuống đường ngày 1-5 mừng cuộc toàn thắng và chờ đêm hội pháo hoa.


bd10266_1.gif
Chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử


cqvtnd.jpg


Sài Gòn là đô thị lớn nhất Việt Nam, nằm giữa miền Trung và miền Đông Nam Bộ, là trung tâm các đầu mối giao thông chiến lược cả về đường bộ, đường thủy và đường không. Các vùng nông thôn rừng núi, trung du đồng bằng và ven biển bao xung quanh thành phố có mối quan hệ mật thiết về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong thành phố, nhà cửa san sát với những cao ốc nhiều tầng, dân cư đông và tập trung ở mật độ cao. Những đặc điểm nêu trên làm cho Sài Gòn giữ một vị trí địa lý đặc biệt quan trọng.


Đối với địch, nhất là trong chiến tranh xâm lược của Mỹ, Sài Gòn là thủ đô, trung tâm, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả miền Nam. Nơi đây là sào huyệt của tổ chức chính quyền trung ương ngụy và các đảng phái chính trị, tôn giáo, văn hóa, nơi tập trung cơ cấu chỉ đạo, chỉ huy quân sự của toàn bộ cuộc chiến tranh với từng vùng chiến trường, nơi phát ra và chỉ đạo thực hiện các chủ trương chiến lược, các kế hoạch, biện pháp và thủ đoạn chiến lược, chiến thuật trên toàn chiến trường miền Nam và Campuchia. Chúng tập trung ở Sài Gòn và vùng phụ cận một bộ phận quan trọng lực lượng, sinh lực và phương tiện chiến tranh lớn cùng hệ thống phòng thủ nhiều tầng, từ xa, tập trung các cơ sở kinh tế công nghiệp, thương mại, đáp ứng phần lớn âm mưu cướp vét sức người sức của "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; đồng thời xây dựng, bố trí các cơ sở dự trữ vật chất, phương tiện chiến tranh lớn nhất ở Đông Dương. Đối phó với phong trào cách mạng quần chúng, ngoài mạng lưới kềm kẹp đồ sộ và nghiêm ngặt, địch tiến hành đánh phá thường xuyên và ác liệt, tinh vi trên mọi phương tiệnc hính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế, nơi chúng thực hiện một cách tập trung, đầy đủ nhất chủ nghĩa thực dân kiểu cũ (từ năm 1945 đến năm 1954) và kiểu mới (từ năm 1945 đến năm 1975). Thành phố Sài là nơi thực dân Pháp nổ súng tiến công mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược và là nơi đế quốc Mỹ cố giữ đến phút cuối cùng của cuộc chiến tranh, là điểm mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc Pháp và Mỹ trong 30 năm qua.


gpsscnnl.jpg


Đối với ta, thành phố Sài Gòn là nơi tập trung số lượng dân cư đông đảo nhất ở miền Nam, nơi có lực lượng học sinh sinh viên, nhân sĩ trí thức, tư sản dân tộc và đặc biệt là lực lượng công nhân công nghiệp (vốn có quan hệ huyết thống gần gũi với nông dân vùng nông thôn Nam Bộ và với công nhân các đồn điền cao su). Nhân dân Sài Gòn có truyền thống yêu tự do, bất khuất chống ngoại xâm rất sâu sắc và liên tục trong suốt lịch sử 300 năm của thành phố. Mọi biến động ở thành phố Sài Gòn, do vị trí trung tâm của nó, đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình toàn miền Nam, cả nước và trên thế giới. Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của cả miền Nam trong cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là địa điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc chiến tranh cách mạng xét về mặt mục tiêu cơ bản của công cuộc giải phóng hoàn toàn đất nước của dân tộc ta.

Những đặc điểm nêu trên tác động sâu sắc đến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến diễn ra trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Tiếng súng gây hấn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là hành động kết thúc quá trình chuẩn bị trở lại xâm lược Đông Dương của giới tư bản quân phiệt Pháp từ khi nước Pháp còn bị phát xít Đức chiếm đóng. Chuẩn bị và xác định ngay từ đầu quyết tâm kháng chiến, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã đứng dậy tiến hành cuộc đấu tranh toàn dân chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đồng thời nỗ lực đặt nền móng và phát triển mọi nhân tố của một Nhà nước Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập. 15 tháng đầu kháng chiến của quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vào Nam Bộ, Nam Trung Bộ đã giáng một đoàn phủ đầu vào dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, làm xáo trộn kế hoạch chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng, tạo ra khoảng thời gian quý báu để nhân dân cả nước có điều kiện xây dựng lực lượng mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài diễn ra trên phạm vi toàn quốc.

ubqqtpsg.jpg


Từ đầu năm 1947, trong điều kiện Sài Gòn bị chiếm đóng hoàn toàn, "được bình định, ổn định" và ngày càng trở thành trung tâm chiến lược xây dựng Nam Bộ thành hậu phương dự trữ của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã từng tiếp tục xây dựng lực lượng mọi mặt, xây dựng các loại lực lượng vũ trang thích hợp, mở rộng phong trào chiến tranh du kích, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, đưa cuộc kháng chiến phát triển thành cao trào vào năm 1950.

Sau năm 1950, được sự chi viện của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp ra sức bình định Nam Bộ, trọng tâm là Sài Gòn, Chợ Lớn - Gia Định, đẩy phong trào cách mạng vào thời kỳ khó khăn kéo dài. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định năng động tổ chức lại chiến trường, bố trí lực lượng, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, vượt qua nhiều khó khăn nhằm khôi phục, giữ vững và phát triển phong trào trong điều kiện bị địch bao vây và đánh phá ác liệt. Hoạt động kháng chiến ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã làm suy yếu địch từ trong hậu phương của chúng, cầm chân địch tại chỗ, tạo điều kiện cho quân và dân toàn miền đẩy mạnh đợt hoạt động hưởng ứng chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Từ sau Hiệp định Genève 1954, đế quốc Mỹ gạt Pháp và các thế lực thân Pháp, từng bước nắm quyền thống trị miền Nam Việt Nam, xây dựng ngụy quân quyền, thi hành chính sách thực dân mới. Sài Gòn trở thành thủ đô của ngụy quyền miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã phát động phong trào đấu tranh chính trị tiến công địch ngay từ đầu, phát triển phong trào bảo vệ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Genève, đưa Sài Gòn trở thành trung tâm đấu tranh chính trị của toàn miền Nam. Vượt qua khó khăn thử thách trong những năm tiếp sau, đặc biệt trong các năm 1957 - 1958 - 1959, nhân dân Sài Gòn - Gia Định vẫn bền bỉ bảo tồn, gầy dựng và duy trì phong trào đấu tranh chính trị liên tục, nhằm bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ, chống chính sách tố cộng diệt cộng, từng bước xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang ở vùng nông thôn Gia Định, phối hợp đấu tranh liên kết giữa đô thị và nông thôn nội ngoại thành, đưa dần đấu tranh chính trị phát triển lên đấu tranh chính trị có tự vệ vũ trang hỗ trợ, tiến đến thực hiện nổi dậy từng phần, giành quyền làm chủ ở một số vùng nông thôn ven sát sào huyệt địch (1960 - 1961)

Chuyển sang thời kỳ chiến tranh cách mạng, chống chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy, quân và dân Sài Gòn - Gia Định bám sát đường lối chủ trương và phương châm chiến lược đấu tranh cách mạng của trên, phát huy tính năng động cách mạng, đề ra phương thức tổ chức và hình thức đấu tranh cụ thể cho các vùng hoạt động (nội đô, ven đô, nông thôn, ngoại thành), trong xây dựng các loại lực lượng và kết hợp sử dụng các hình thức đấu tranh thích hợp ở từng vùng trong thừng thời kỳ lịch sử nhất định. Các tầng lớp quần chúng nhân dân ở nội ngoại ô thành phố đều được huy động vào mặt trận đấu tranh chống Mỹ và ngụy quyền tay sai (đặc biệt lực lượng học sinh sinh viên và quần chúng lao động, phật tử) đưa phong trào cách mạng phát triển lên thế chủ động tấn công địch, góp phần làm khủng hoảng sâu sắc chế độ chính trị ngụy quyền và cùng với lực lượng nhân dân ở vùng nông thôn làm phá sản quốc sách ấp chiến lược của chúng, Giữa năm, 1965, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Quân và dân Sài Gòn - Gia Định xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, hình thành mặt trận chống Mỹ cứu nước ngày càng rộng lớn ngay tại Sài Gòn - Gia Định. Cao trào đấu tranh chính trị chống Mỹ cùng với những trận tập kích quân sự vang dội trong nội đô và sự phát triển tiến công của Quân giải phóng ở các hướng xung quanh thành phố đã góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 - 1967 của Mỹ ngụy. Bước sang năm 1968, ngay tại sào huyệt địch, các lực lượng cách mạng Sài Gòn - Gia Định đã tích cực chuẩn bị táo bạo cùng lực lượng toàn miền thực hành tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, đánh vào nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng bậc nhất của Mỹ ngụy, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, góp phần cùng cả nước làm suy sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Paris.

Sau đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, dù trong điều kiện bị địch phản kích đánh phá khốc liệt, lực lượng bị tiêu hao giảm sút, cơ sở bị bể vỡ nhiều, nhưng quân và dân Sài Gòn - Gia Định vẫn vững tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, kiên trì bám trụ địa bàn, chịu đựng gian khổ hy sinh, khéo léo chuyển hướng và phương pháp đấu tranh, quay về khôi phục xây dựng cơ sở, thực lực, giữ vững và tiến tới đẩy mạnh cao trào đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức ở nội đô, kiên cường đánh địch càn quét, liên tục chống phá chương trình bình định nông thôn của địch, giành lại và mở nhiều lõm làm chủ, giải phóng, phát triển hệ thống thông tin giao thông liên lạc ở vùng ven, tạo lại thế tiến công mới cho đến Hiệp định Paris.

Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, quân và dân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đề phòng và uốn nắn những biểu hiện hòa bình chủ nghĩa sau ngày ký Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ, tiếp tục phát triển thực lực cách mạng, tạo thế tạo lực mới. Từ cuối năm 1974, khi thời cơ cách mạng chúng bắt đầu xuất hiện, đã tích cực xây dựng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, phát huy hiệu lực ở cả ba mũi chính trị, quân sự, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch trên khắp nội ngoại ô thành phố, góp phần thúc đẩy tính thế cách mạng nhanh chính chín muồi. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Gia Định kịp thời đón nhận thời cơ, tham gia tổng tiến quân và nổi dậy trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tạo điều kiện cho các binh đoàn chủ lực tiến vào thành phố, đập tan bộ máy ngụy quân ngụy quyền từ cơ sở tới trung ương, làm chủ mọi sinh hoạt của thành phố ngay từ giờ phút đầu giải phóng.

Ba mươi năm chiến tranh ròng rã, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã hoàn thành vẻ vang sứ mạng mà lịch sử giao phó "đi trước về sau", cùng quân và dân cả nước lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trải suốt những năm chiến tranh tàn khốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định một lòng son sắt với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ, kiên cường chịu đựng và vượt qua mọi gian lao thử thách, kiên cường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Cả trong những ngày cam go nhất của buổi đầu kháng chiến, giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, giai đoạn năm 1957 - 1958 - 1959, những ngày địch khủng bố ác liệt sau Tết Mậu Thân, dân và quân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vẫn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lần hồi gầy dựng cơ sở (có khi đi trở lại từ con số không), sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì sự nghiệp chung, lòng không hề vướng bọn mảy may lợi ích riêng tư của bản thân mình. Trên mảnh đất Củ Chi, có những căn nhà được dựng đi dựng lại không dưới mươi lần trên nền đất cũ, có những người mẹ chít ngang đầu 8 vành tang trắng. Hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ trải hết các nhà tù, nếm đủ các đoàn tra tấn dã man và thâm hiểm nhất mà kẻ thù có thể nghĩ ra vẫn một lòng trung trinh với sự nghiệp cách mạng. Không thể nào ghi lại được đầy đủ chiến công và sự hy sinh của toàn thể dân, quân, cán bộ, đảng viên Sài Gòn - Gia Định những chiến sĩ anh hùng cách mạng. Máu của họ thấm đẫm trên mọi góc phố, cửa ô, mọi nẻo đường, làng xóm, vườn tược. Khôn thể nào nhắc lại được đầy đủ lịch sử các địa danh Vườn Thơm, Láng Le, Bàn Cờ, Bình Mỹ, Khu 5 Hóc Môn, Rừng Sác, Bưng Sáu Xã, Tám Giác Sắt, Củ Chi... những mảnh đất mà tên gọi và sự tích chắc chắn sẽ lưu lại mãi mãi trong lịch sử cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta.

Thắng lợi của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc trong cuộc chiến tranh 30 năm vừa qua, một cuộc chiến tranh "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ hai mươi, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời sự sâu sắc" (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần IV)

Ba mươi năm, xương máu, mồ hôi của hàng vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ thành phố đổ xuống đã vun tưới thêm truyền thống chống ngoại xâm vốn được tinh cất trong suốt chiều dài lịch sử ba trăm năm của cư dân vùng đất Bến Nghé này. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu độc lập tự do, là lòng trung thành vô hạn và ý nguyện dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là ý chí bất khuyất và năng động trước mọi ngăn trở của hoàn cảnh, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường và trí tuệ mưu lược thấm đẫm tinh thần thượng võ, nghĩa hiệp, là phẩm chất cần cù lao động sáng tạo xây dựng cuộc sống mới. Đó chính là tinh thần đoàn kết gắn bó, là tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, là lối ứng xử bặt thiệp, hào hiệp, nhân nghĩa, có thủy có chung.

tldmct.jpg


Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được vinh dự mang tên Bác Hồ - Thành phố Hồ Chí Minh. Quân và dân thành phố lại tiếp tục bước vào cuộc đấu tranh mới: khắc phục hậu quả chiến tranh, sửa đổi lệch lạc trong bước đi, đổi mới sự lãnh đạo, khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất mới, từng bước đưa thành phố tiến lên theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh, đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường và củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Hàng ngàn người con của thành phố đã lên đường chiến đấu anh dũng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế trên đất nước Campuchia.

Lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài gần một phần ba thế kỷ đang lùi xa vào quá khứ. Nhưng những giá trị quyền thống và bài học lịch sử của nó thì còn lại mãi mãi với các thế hệ cư dân chủ nhân của thành phố Hồ Chí Minh - thành phố anh hùng


( ¹) Người ném bom Dinh Độc Lập là Nguyễn Thành Trung, người cán bộ nội tuyến binh vận của ta được cài vào trong lực lượng không quân quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 8.4.1975, anh đã lái máy bay F.5 xuất phát từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom trúng dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Sự kiện này góp phần gây hoang mang cực độ trong giới đầu sỏ ngụy quyền Sài Gòn.

pcnttsk.jpg


Ngày 28.4.1975, không đầy 10 phút sau khi tướng Dương Văn Minh thay Thiệu nhậm chức Tổng thống, Nguyễn Thành Trung đã dẫn đường cho 4 chiếc A.37 do Mỹ chế tạo từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang), lượn vòng trên bầu trời Sài Gòn. Lúc 17 giờ 40 phút phi đội của Nguyễn Thành Trung đã ném bom và bắn đạn DK.28 vào sân bay Tân Sơn Nhất khiến 3 máy bay AC.119 và nhiều chiếc C.47 bị phá hủy. Hai trái bom nổ giữa trung tâm điều khiển và vọng kiểm soát. Máy bay phản kích của địch bay mò vì trạm hướng dẫn đã bị hỏng. Cuộc oanh tạc táo bạo, bất ngờ làm tiêu tan hy vọng "thương lượng" của "tân tổng thống" lẫn Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự hoang mang và hỗn loạn của địch.


(²)
Trong "cơn lốc kinh hoàng" của cuộc tháo chạy mệnh danh "người liều mạng" rồi "móng quặp chặt", hàng ngàn người tranh nhau bám càng trực thăng trong cơn hoảng loạn, mặc dù từ ngày 10 tháng 4 năm 1975 Bộ chỉ huy quân Giải phóng đã tuyên bố: "Quân giải phóng lúc nào cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho cố vấn Hoa Kỳ rút về nước bình an vô sự".

ctccmn.jpg


Ngày 3 tháng 4, sau những cơn giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Kissinger ở Washington vì sự nấn ná quá đáng của Đại sứ Martin ở Sài gòn để cố tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Ford ra lệnh dứt khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy nhiên, lệnh không thi hành được.


4 giờ 20 phút, tiếp tục cuộc tháo chạy, một máy bay CH-53 đổ xuống lầu thượng tòa Đại sứ, Martin lại nhận được điện của Nhà Trắng: "Tổng thống ra lệnh đại sứ phải đi chuyến này". Martin vẫn chậm chạp. Một nhân viên cấp dưới tỏ vẻ bực tức: "Lệnh là lệnh, đại sứ phải lên. mà lên ngay, vì quân đội Bắc Việt Nam đã ở dưới đường. Họ sẽ nổi giận và bắn chúng ta nếu họ thấy chiếc máy bay để ở đây lâu quá".

Nhà Trắng lại có lệnh rõ ràng: "Cầu hàng không ngừng lúc bản thân Martin đã đi".

Nhưng chiếc CH-53 chở Martin đã rời sân thượng, tòa Đại sứ Mỹ vẫn còn 5 nhân viên, 4 lính thủy đánh bộ người Mỹ và ngót 420 người Việt Nam phần đông là nhân vật cao cấp của Thiệu, nhân viên Sứ quán Nam Triều Tiên, đứng đầu là 1 thiếu tướng... Tất cả những người này chấp nhận bỏ hành lý để thoát cho được.

Moorefield, người được Martin chọn "giúp cai trị" ở toà Đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4. Ông ta kể lại cảnh tượng Sài Gòn lúc đó, nhìn từ bầu trời xuống: "Bình yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đàng xa..."

Tom Polgar, nhân viên cao cấp ở tòa Đại sứ "Người nguy hiểm nhất đối với Martin" vì những nhận định, báo cáo lên Nhà Trắng cứ trái ngược, nhưng rất "hợp Martin" ở chỗ "chống cộng kịch liệt và ham thích nghiên cứu", cùng ngồi với Martin trên chiếc CH-53 trong cuộc tháo chạy tán loạn, đã ghi lại nhận xét của mình ngày hôm ấy: "Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải nhắc lại lịch sử".

(Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến 1945-1975. NXB TP.HCM)
Nguồn : hochiminhcity.gov.vn/
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Sài Gòn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc



Từ đấu tranh chính trị đến phát động chiến tranh nhân dâ n


ndsgdt.jpg


Hiệp định Genève về Đông Dương ký kết (tháng 7/1954) lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở công nhận nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Việt Nam, Campuchia và Lào.

Nhưng ngay tức khắc, đế quốc Mỹ ra sức phá hoại việc thi hành hiệp định Genève.

ndmnmt.jpg


Đế quốc Mỹ đặc biệt chú trọng xây dựng và củng cố Sài Gòn (hiện nay bao trùm cả Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định với số dân hơn 3 triệu người) thành thủ đô của cái gọi là "Việt Nam cộng hòa". Về chính trị, Sài Gòn là nơi tập trung bộ máy đầu não của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, trong đó có đại sứ quán Mỹ, các cơ quan cố vấn cao cấp Mỹ, các cơ quan trung ương của cái chính phủ bù nhìn tay sai Mỹ. Về quân sự, Sài Gòn trở thành một căn cứ quân sự khổng lồ với một hệ thống đồn bót dày đặc, một lực lượng quân đội rất lớn (gần 40% tổng số quân địch). Đế quốc Mỹ đã xây dựng quân cảng Sài Gòn, các căn cứ không quân Vũng Tàu, sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa thành căn cứ không quân chiến lược loại lớn ở Đông Nam Á. Để bảo vệ Sài Gòn, đế quốc Mỹ xây dựng một vài đai quân sự từ Vũng Tàu, qua Phú Mỹ, Biên Hòa, Xuân Lộc, Tân Uyên, Bình Dương, Bến Cát, Phước Vĩnh, Củ Chi, Đức Hòa, Bến Lức, đến Cần Giuộc, Gò Công. Về kinh tế, Sài Gòn tràn ngập hàng hóa thừa ế của đế quốc Mỹ và của các nước phe Mỹ. Đời sống của nhân dân rất khó khăn. Nạn thất nghiệp thường xuyên đe dọa nhân dân lao động. Về văn hóa, lối sống cao bồi, du đãng và sinh hoạt đồi trụy thối tha của Mỹ và phương Tây tràn vào Sài Gòn. Cùng với nhân dân miền Nam, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn lại bắt đầu một giai đoạn đấu tranh mới: giai đoạn đấu tranh chống Mỹ cứu nước.

dchmtri.jpg


Mười ngày sau khi Hiệp nghị Genève được ký kết, phong trào hòa bình Sài Gòn, Chợ Lớn ra đời. Đây là một phong trào do một số trí thức yêu nước sáng lập nhằm đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước. Do đó bọn Mỹ - Diệm thẳng tay khủng bố, bắt nhiều người cầm tù. Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, một trong những người lãnh đạo phong trào này đã chết trong nhà giam.

Sau phong trào bảo vệ hòa bình ở Sài Gòn một phong trào đã thu hút được hầu hết các tầng lớp nhân dân Sài Gòn tham gia. Đó là phong trào cứu tế, xây cất lại nhà cửa, quyên góp quần áo chăn màn cho bà con sau khi Ngô Đình Diệm, vì xung đột với Bình Xuyên đã đốt sạch hằng mấy vùng liền lưng với nhau giữa Sài Gòn và Chợ Lớn.

Ngày 10 tháng 7 năm 1955, nhân dân Sài Gòn trong đó phần đông là công nhân và lao động đình công, bãi công, bãi chợ họp mít tinh... đòi Mỹ - Diệm phải nhận hiệp thương với miền Bắc để tổ chức tổng tuyển cử, hòa bình thống nhất nước nhà. Mỹ - Diệm thẳng tay đàn áp bắt bớ sát hại nhiều người, trong đó có nữ giáo sư Nguyễn Thị Diệu đang có mang 4 tháng.

dbsgmt.jpg


Gần đến ngày 20 tháng 7 năm 1956, ngày mà Hiệp nghị Genève đã qui định có cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền Nam - Bắc, phong trào đấu tranh chính trị ở Sài Gòn lại lên mạnh. Đi đầu là phong trào công nhân: 5 ngàn công nhân xe lửa bãi công cả tháng; 5 ngàn rưỡi công nhân của 20 kho, cảng Sài Gòn đình công; công nhân Nhà máy đèn Chợ Quán bãi công 3 ngày liền... Những cuộc đấu tranh đó đã lôi cuốn hàng vạn quần chúng các tầng lớp khác xuống đường tham gia đấu tranh.


Trước khí thế đấu tranh của nhân dân Sài Gòn, các đô thị khác và vùng nông thôn, bọn Mỹ - Diệm đã dùng mọi hình thức, thủ đoạn đàn áp rất dã man như "quốc sách chống cộng" luật 10-59, nhưng càng áp bức bao nhiêu thì đấu tranh lại càng có điều kiện để chuyển lên mạnh bấy nhiêu.

nddkpacl.jpg


Năm 1960 với cuộc đồng khởi long trời chuyển đất của nhân dân miền Nam đã bước vào một thời kỳ đấu tranh mới: kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.

Năm 1960, ở Sài Gòn có 1.500 cuộc đấu tranh của công nhân dưới nhiều hình thức khác nhau và rất nhiều cuộc đấu tranh của bà con dân nghèo thành thị, trí thức học sinh, tiểu chủ, tư sản dân tộc, văn nghệ sĩ, ký giả v.v...

dbsgpdcs.jpg


Ngày 20 tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời và công bố bản Tuyên ngôn và Chương trình 10 điểm. Toàn thể nhân dân miền Nam vô cùng phấn khởi đón mừng sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng đó. Trong ngày 2-1-1961 nhân dân Sài Gòn và ngoại ô đã bãi chợ, không chạy xe, thuyền, đóng cửa tiệm vài giờ... để họp mít tinh hoan nghênh Mặt trận.



bd10266_1.gif
Chống chiến tranh đặc biệt



apcluoc.jpg


Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc "chiến tranh đặc biệt" vào giữa năm 1961 cũng không thể ngăn cản được phong trào đấu tranh của nhân dân Sài Gòn ngày một phát triển. Trên cơ sở lực lượng chính trị, tại các nhà máy, các xóm lao động đã phát triển các đội tự vệ vũ trang.



ptdtcmn.jpg


Năm 1962, có nhiều cuộc đấu tranh đáng chú ý: cuộc đấu tranh của 5 vạn công nhân cao su kéo vào thành phố. Cuộc đình công của một vạn công nhân xích lô, của một ngàn công nhân ô tô buýt và tắc xi; cuộc biểu tình của công nhân hãng dệt Việt - Mỹ "Vi-mi-tếch"; cuộc bãi công kéo dài 17 ngày của công nhân hãng cầu đường Ep-phen; công nhân làm đồ điện Vi-đê-cô bãi công chiếm xưởng... Phong trào học sinh cũng đặc biệt sôi nổi, đã được Chủ tịch Đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, quyết định tuyên dương ngày 20-12-1962.



n511965.jpg


Bên cạnh những cuộc đấu tranh chính trị, xuất hiện ngày càng nhiều những tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ trong các khách sạn, câu lạc bộ, trại lính, nhà cố vấn Mỹ... Từ tháng 1 đến tháng 9-1962 ở Sài Gòn có tới 86 vụ "cố vấn" Mỹ bị tiêu diệt. Tháng 9-1963, quan và dân ta thắng lớn trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) ngay sau đó nhân dân Sài Gòn, mà ngòi pháo là sinh viên, học sinh đã tổ chức mít tinh, biểu tình hưởng ứng. Đến đây Sài Gòn lại sôi nổi thêm phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo. Cuộc biểu tình của đồng bào Phật giáo trong hai ngày 7 và 8 tháng 5-1963 đã bị Mỹ - Diệm thẳng tay khủng bố. Ngày 21-5-1963, 600 nhà sư biểu tình đi từ chùa Ấn Quang đến chùa Xá Lợi để phản đối Mỹ - Diệm. Ngày 30-6-1963 hàng ngàn sư sãi Sài Gòn bắt đầu tuyệt thực để ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo ở Huế. Hôm sau, các nhà sư Sài Gòn có sự hưởng ứng ủng hộ của học sinh, sinh viên đã kéo đến biểu tình ngồi trước trụ sở quốc hội Ngô Đình Diệm. Ngày 11-6-1963 trước hàng ngàn sư sãi và hàng vạn nhân dân, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Năm ngày sau, ngày hỏa táng cho Hòa thượng, 70 vạn nhân dân Sài Gòn đã xuống đường biểu tình.
Cảnh sát của Diệm dùng súng, lựu đạn đàn áp

.
atvdang.jpg


Quần chúng biểu tình dùng đá, gậy gộc đánh lại kịch liệt.


Tình hình Sài Gòn căng thẳng. Biểu tình luôn luôn diễn ra. Mỹ - Diệm thẳng tay khủng bố bắt 2.000 sư sãi, 4.000 học sinh, sinh viên, giết chết và làm bị thương 200 người. Ngày 7-9-1963 nữ sinh Gia Long dùng guốc, bàn, ghế, lọ mực đánh lại bọn cảnh sát dã chiến.

dksbrink.jpg


Ngày 1-11-1963, Mỹ tổ chức cho tay sai làm cuộc đảo chính, giết anh em Diệm - Nhu và đưa Dương Văn Minh rồi đến Nguyễn Khánh lên nắm chính quyền ở Sài Gòn. Ngày hôm sau, gần một triệu đồng bào Sài Gòn - Gia Định tổ chức thành 20 đoàn biểu tình đi qua các phố với khẩu hiệu "Đánh đổ chế độ độc tài phát xít", "Phải thực hiện tự do dân chủ!", "Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam"... Đế quốc Mỹ ra lệnh đàn áp. Nhưng lính ngụy không tuân lệnh. Đoàn biểu tình tiến vào trụ sở "quốc hội", bộ công dân vụ, nha thông tin ngụy phá các bót cảnh sát Lê Văn Ken, quận 2, Chương Dương, Ký Con; xé báo phản động, lùng bắt ác ôn... Lực lượng cách mạng phát triển mạnh. Các đội biệt động, tự vệ vũ trang hình thành ngày càng nhiều. Ngay tại Sài Gòn, bên cạnh những cuộc đấu tranh chính trị, đã xuất hiện ngày càng nhiều những cuộc đấu tranh vũ trang. Hai hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang xen kẽ nhau, nương tựa vào nhau và thúc đẩy nhau phát triển.


Năm 1964 năm Mỹ bắt đầu ném bom, bắn phá miền Bắc, Sài Gòn có một số cuộc đấu tranh và trận đánh làm nức lòng quần chúng cả nước.

Trận nổ bom ở sân bóng rổ trong khu vực Tân Sơn Nhất (9-2-1964), trận tập kích rạp chớp bóng Kinh Đô giành riêng cho Mỹ (16-2-1964) làm chết và bị thương 150 tên Mỹ.


cnxduong.jpg


Ngày 2-5-1964, đánh chìm hàng không mẫu hạm Ca-đơ trọng tải 15.000 tấn tại bến Sài Gòn diệt 55 Mỹ và 19 máy bay.


Từ 15 đến 22-5 liên tục có những cuộc biểu tình với khẩu hiệu "Đả đảo Mỹ - Khánh", "Đế quốc Mỹ cút đi!... Ngay sau đó có cuộc đập nát tượng Ken-nơ-đy tại Quảng trường Hòa Bình (7-6-1964).

Ảnh hưởng của trận đánh mìn nhà ăn đường Nguyễn Minh Chiếu (1-8) gần sân bay Tân Sơn Nhất diệt 10 Mỹ chưa dứt thì lại tiếp luôn trận đánh sập tầng gác thứ 5 khách sạn Ca-ra-ven, làm chết và bị thương gần 100 Mỹ (25-8). Cũng trong ngày này 10 vạn học sinh, sinh viên và đồng bào Sài Gòn xuống đường biểu tình đòi lật đổ Nguyễn Khánh và đòi tống cổ đế quốc Mỹ.

Ngày 31-8, một quả lựu đạn nổ ở ngã tư Đồng Khánh - Chu Văn Tiếp làm 8 Mỹ chết.

cnbtcadt.jpg


Trước phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của Sài Gòn lên mạnh, Nguyễn Khánh tuyên bố "tình trạng khẩn cấp" và đưa ra sắc luật 18-64 cấm biểu tình, đình công, hội họp; bóp nhẹt báo chí hạn chế hoạt động nghiệp đoàn. Ngay tức khắc 20 vạn công nhân các ngành dệt, vận tải, điện nước, xăng dầu, xích lô, tắc xi, xe buýt, cảng... xuống đường tỏ thái độ phản đối Nguyễn Khánh (21-9). 6 vạn công nhân cao su tuyên bố sẽ tiến về Sài Gòn ủng hộ yêu sách của anh em cùng giai cấp mình. Nguyễn Khánh buộc phải cho đại diện ra tiếp đoàn đại biểu công nhân, hứa tôn trọng quyền tự do hội họp, hứa thu nhận lại những công nhân của hãng Vi-mi-tếch bị sa thải,...


Ngày 7-10-1964, đặc công đánh 3 tàu chở xăng của Mỹ ở sông Nhà Bè thiêu hủy 70 vạn lít. Ngày 18-11 đánh mìn câu lạc bộ hàng không ở sân bay Tân Sơn Nhất diệt 77 Mỹ.

ndsgpkts.jpg


Trong tháng 11-1964, thanh niên học sinh liên tục đấu tranh. Mỹ - Ngụy bắn chết em Lê Văn Ngọc (25-11-1964). Ba ngày sau, 2 vạn học sinh xuống đường phản đối. Mỹ - ngụy khủng bố bắn chết chị Loan, nữ sinh trường Gia Long.


Chấm hết năm 1964 là trận đánh khách sạn Bơ-rin-cơ kỳ diệu, một tòa nhà 6 tầng ngay trung tâm thành phố, diệt 155 sĩ quan Mỹ, trong đó có 2 đại tá, 9 trung tá, 5 thiếu tá, phá hủy 24 xe quân sự.

Cũng trong năm 1964 một sự kiện làm xúc động lòng người, và mãi mãi còn in đậm nét trong lòng người dân Sài Gòn là sự hy sinh cao cả của người thợ điện anh hùng Nguyễn Văn Trỗi.

lsnhtho.jpg


Anh Trỗi là một thanh niên quê ở Quảng Nam, vào Sài Gòn trước đó vài năm để sinh sống. Vì không chịu được cảnh sống ngột ngạt giữa một thành phố mà người công nhân điện không có điện dùng, người thợ nề không có nhà ở, còn lũ giặc cướp Mỹ thì phè phỡn, nghênh ngang hống hách, anh Trỗi đã gia nhập hàng ngũ cách mạng và nhận nhiệm vụ trừng trị tên "hung thần chiến tranh" Mắc-na-ma-ra khi hắn đến Sài Gòn. Nhưng nhiệm vụ chưa thành thì anh Trỗi bị bắt và ngày 15-10, đúng 9 giờ 59 phút, chúng đã sát hại anh tại Khám Chí Hòa. Cả Sài Gòn đều sôi sục phẫn nộ.


9 phút cuối cùng của anh Trỗi cũng là 9 phút anh tiến công quyết liệt kẻ đã gây ra tộc ác đối với đồng bào ta. Anh nói: "Còn giặc Mỹ là không ai có hạnh phúc được". Bọn ác ôn xô đến bịt mắt, nhưng anh đã giựt phăng miếng vải đen, phóng tầm mắt ra xa như muốn ôm trọn cả thành phố, nơi đây đồng bào, anh chị em, đồng chí và người vợ yêu thương của anh đang sống và chiến đấu.

Tiếng nói cuối cùng của anh cũng là lời nhắn nhủ đồng bào và người thân:

"Hãy nhớ lấy lời tôi:"
"Đả đảo đế quốc Mỹ!"
"Việt Nam muôn năm!"
"Hồ Chí Minh muôn năm!"

Và, Nguyễn Văn Trỗi đã hiên ngang đi vào lịch sử!

Sau đó đúng ngày cúng anh, theo tập quán dân tộc, đồng bào Sài Gòn đã dựng lên 4 đài kỷ niệm Nguyễn Văn Trỗi ở ngay 4 góc nhà lao Chí Hòa. Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay trên đỉnh cao các đài ấy.


bd10266_1.gif
Chống chiến tranh cục bộ



h3vdsg.jpg


Năm 1965 đánh dấu một chuyển biến mới: "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ đã bị phá sản hoàn toàn; ngụy quân, ngụy quyền đang đứng trước sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi. Để cứu nguy, đế quốc Mỹ, một mặt điên cuồng tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc; mặt khác, chuyển từ "chiến tranh đặc biệt" sang một hình thức khác "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Nhưng càng vào nhiều thì chúng càng chết nhiều. Trên đà chiến thắng, nhân dân Sài Gòn - Gia Định tiếp tục giáng vào đầu quân Mỹ - ngụy những đòn đích đáng. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ và rộng khắp chung quanh thành phố và ngay cả nội thành. Nhiều cơ quan chỉ huy và căn cứ quan trọng của Mỹ - ngụy liên tiếp bị quân và dân Sài Gòn - Gia Định đánh phá, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề như Sở chỉ huy phái đoàn MAAG, sứ quán Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất, khách sạn Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn, tổng nha cảnh sát ngụy. Khách sạn Mê-tơ-rô-pôn, đồn lính gác cầu Tân Thuận và các đồn cảnh sát quận 6 và quận 7, cơ quan tình báo quân sự của lục quân Mỹ, v.v...


Với những thành tích xuất sắc nói trên, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam "tuyên dương công trạng" (25-12-1965) và tặng thưởng 3 huân chương quân công giải phóng hạng nhì, 5 huân chương quân công hạng ba, 4 huân chương chiến công giải phóng hạng nhất, 8 huân chương chiến công giải phóng hạng nhì.


dbd11bb4.jpg


Trên cơ sở những thành tích lớn lao đó, Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã quyết định tặng thưởng Huân chương Thành đồng hạng nhất cho quân và dân Sài Gòn - Gia Định.


Cùng với những chiến công vang dội của nhân dân miền Nam anh hùng, nhân dân Sài Gòn - Gia Định liên tiếp lập được những thành tích xuất sắc, góp phần đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) của đế quốc Mỹ.
Trong hai năm 1966 - 1967, nhiều cơ quan chỉ huy và căn cứ quan trọng của Mỹ, ngụy tiếp tục bị đánh phá dữ dội và bị tổn thất nặng nề. Nhiều tên sĩ quan Mỹ bị trừng trị, trong đó có cả cấp tướng và rất nhiều cấp tá, cấp úy. Nổi bật là những trận đánh vào trụ sở bộ tổng tham mưu ngụy (tháng 2-1966), tòa nhà 6 tầng Vích-tô-ri-a, nơi ở của bọn sĩ quan cao cấp Mỹ (tháng 4-1966), đánh chìm hàng chục tàu vận tải có cả loại trọng tải 10.000, 12.000 tấn và tàu vớt mìn trên sông Lòng Tàu (tháng 6 và 8-1966, tháng 1, 2 và 4-1967), đốt cháy một kho quân sự lớn của quân Mỹ ở Nhà Bè (tháng 9-1966), đánh đồn Phú Lâm (tháng 10-1966), phá sập chiếc cầu dài 100 mét cách Sài Gòn 7km (tháng 10-1966), đánh cuộc diễu binh trong ngày "Quốc Khánh Cộng hòa" (1-11-1966) bắn súng lớn vào sân bay Tân Sơn Nhất (tháng 12-1966, tháng 4-1967), tiến công sở chỉ huy chiến tranh tâm lý của lục quân Mỹ (tháng 12-1966), sở chỉ huy tiểu đoàn Mỹ (thuộc lữ đoàn 199) ở tại Long Thới cách Sài Gòn 6km về phía Nam (tháng 5-1967), phá hủy trung tâm thông tin quân sự Mỹ (26-10-1967).

Song song với phong trào đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn - Gia Định trong những năm này cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh và phong trào trí thức đòi hòa bình, đòi quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Bọn Mỹ, ngụy mở rộng chiến tranh, hạ giá đồng bạc gây khó khăn cho đời sống của công nhân và lao động, đa đưa đến những cuộc đấu tranh của công nhân đòi đế quốc Mỹ cút đi, đòi lật đổ ngụy quyền bán nước Thiệu Kỳ nổ ra liên tục. Nhiều cuộc đấu tranh lớn đã nổ ra trong các xí nghiệp thuộc các ngành chiến lược của địch như hãng thầu quân sự RMK - BRJ, các hãng dầu Sen, Can-tếch, Eét-xô và bến cảng Sài Gòn. Riêng cuộc đấu tranh của công nhân hãng thầu quân sự RMK - BRJ kéo dài đến 4 tháng (5-9-1966). Trong cuộc biểu tình của công nhân cảng Sài Gòn tháng 12-1966, quần chúng đã trang bị dao, gậy gộc chiếm bến tàu, kịch liệt chống lại bọn cảnh sát đến đàn áp.


nnloanbc.jpg


Phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh cũng tiến lên mạnh mẽ. Các cuộc hội thảo của học sinh, sinh viên vạch mặt bọn phát xít, bóp nghẹt dân chủ của Mỹ, Thiệu, Kỳ liên tiếp diễn ra. Cuộc đấu tranh chống bắt lính trong giáo sư và sinh viên, tố cáo chính sách bắt lính tăng cường chiến tranh của Mỹ, Thiệu, Kỳ của sinh viên trường Đại học Nông Lâm Súc và Kỹ thuật Phú Thọ đã lôi cuốn được nhiều giáo sư và chuyên viên cao cấp của Mỹ, ngụy tham gia.


Nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ rầm rộ có từ hàng ngàn đến hàng chục vạn người gồm công nhân, lao động, thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp khác đã nổ ra rất quyết liệt như những cuộc biểu tình 10.000 người đòi hành hình bọn Thiệu, Kỳ, Có (31-3-1966); 15.000 người diễu hành đi suốt đêm 2 rạng 3-4-1966 thét vang những khẩu hiệu "đả đảo Mỹ", "Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam" và bao vây đài phát thanh Sài Gòn; 100.000 người bao vây "dinh thủ tướng" của Nguyễn Cao Kỳ với khẩu hiệu "Lật đổ ngụy quyền Thiệu, Kỳ" (8-4-1966): 300.000 người kéo đi khắp các đường phố lớn đòi lật đổ bọn Thiệu, Kỳ bán nước (14-4-1966) và cuộc xuống đường của 4 vạn công nhân lao động ngày 1-5-1966 đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hạ giá sinh hoạt, đòi Mỹ cút đi. Đặc biệt là cuộc đấu tranh chống trò hề bầu cử gian lận của bọn Mỹ - Thiệu - Kỳ ngày 3-9-1967 của nhân dân Sài Gòn - Gia Định. Nhiều cuộc mít tinh lớn tố cáo mánh khóe gian lận của bọn Thiệu, Kỳ và tẩy chay cuộc bầu cử gian lận đó.

Những cuộc đấu tranh của các nhà báo đòi bãi bỏ chế độ kiểm duyệt. Những tổ chức như "lực lượng bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên", "hội bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm phụ nữ", "lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc", "Ủy ban xây dựng kinh tế tự chủ" lần lượt được thành lập và tiến hành đấu tranh chống bọn Thiệu, Kỳ.

Phong trào đấu tranh trên đây đã có tiếng vang lớn và đã có ảnh hưởng mạnh mẽ trong quần chúng, được các tầng lớp nhân dân Sài Gòn nhiệt liệt ủng hộ. Đây là một phong trào đậm nét dân tộc, dân chủ, kích thích tinh thần yêu nước chống xâm lược Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam.

Các cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã được đông đảo anh em binh sĩ đồng tình và ủng hộ. Chính hãng thông tin Mỹ UPI đã than phiền "binh sĩ Việt Nam (ngụy) đã cung cấp các phương tiện truyền tin, phóng thanh cho các cuộc biểu tình". Số binh sĩ bỏ ngũ ngày càng nhiều.

Bọn Mỹ, Thiệu, Kỳ hết sức hoang mang, lo sợ trước phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt của nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định. Chúng điên cuồng khủng bố, dùng những biện pháp hết sức trắng trợn, dã man: thẳng tay đàn áp và bắt bớ quần chúng biểu tình, ra "lệnh khẩn cấp chống biểu tình và mít tinh" trên đường phố, dựng thêm nhiều hàng rào dây thép gai, dựng cả "pháp trường cắt" ngay giữa chợ Bến Thành, rải quân đội, cảnh sát khắp đường phố và đe dọa sẽ dốc toàn lực ra đối phó mạnh hơn nữa.

Nhưng, bất chấp khủng bố và đe dọa, nhân dân Sài Gòn vẫn tiếp tục đấu tranh chống Mỹ, ngụy ngày càng quyết liệt. Các cuộc đấu tranh toàn diện và mạnh mẽ trong những năm này đã thực sự chuẩn bị một bước nhảy vọt kỳ diệu cho phong trào Sài Gòn - Gia Định trong Tết Mậu Thân (1968).

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đưa chiến tranh vào đô thị của nhân dân miền Nam anh hùng trong Tết Mậu Thân là một đòn trời giáng đánh vào đầu Mỹ, ngụy khiến cho chúng thất điên bát đảo, không phương chống đỡ, bị tổn thất cực kỳ nghiêm trọng.

Riêng ở Sài Gòn - Gia Định bão lửa dữ dội vào đầu Mỹ, ngụy hai đợt: đợt 1 từ đêm 30 rạng 31-1 đến giữa tháng 2; đợt 2 từ đêm 4 rạng ngày 5-5 đến 31-5. Trong cả hai đợt, Quân giải phóng đã cùng với các lực lượng vũ trang của nhân dân và những người yêu nước trong quân đội ngụy quyền Sài Gòn nổi dậy dồn dập tiến công nhiều cơ quan đầu não và căn cứ quan trọng của bè lũ Mỹ, ngụy ngay giữa thành phố Sài Gòn - Gia Định cùng với nghĩa binh yêu nước đánh phá sứ quán Mỹ, bộ tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy đài phát thanh Sài Gòn, trại huấn luyện Quang Trung, "dinh độc lập", tổng nha cảnh sát, bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, bộ chỉ huy hải quân và nhiều căn cứ khác, tiến công tiêu diệt các trân địa pháo, các bãi để xe tăng ở Trại Phù Đổng, Cổ Loa và nhiều kho xăng dầu, đạn dược, trong đó có những kho lớn như Long Bình, Hạnh Thông Tây. Nhiều giặc Mỹ, binh lính và cảnh sát ngụy kể cả lính dù, lính thủy đánh bộ bị diệt và bị bắt. Nhiều cơ quan và căn cứ của địch bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đặc biệt là sân bay Tân Sơn Nhất bị đánh hàng chục lần trong hai đợt và riêng trong đợt 1 đã bị quân giải phóng chiếm khu vực phía Bắc và phía Tây. Cũng trong đợt 1, bộ tổng tham mưu ngụy bị Quân giải phóng chiếm hoàn toàn.

Nhân dân nhiều nơi trong thành phố đã xuống đường phối hợp với Quân giải phóng và các lực lượng du kích đánh phá các đồn bốt, quét bộ máy ngụy quyền, bắt trừng trị bọn phản cách mạng ác ôn, kêu gọi binh sĩ ngụy mang súng trở về với nhân dân, làm chủ nhiều khu vực trong thành phố (quận 5, 6, 7, 8 và phần lớn quận 3, 4) và nhanh chóng mở rộng lực lượng. Ở những nơi nhân dân làm chủ, hàng ngàn thanh niên Sài Gòn đã nô nức cầm súng đứng vào hàng ngũ các lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu chống địch; hàng trăm đơn vị dân quân du kích và các đoàn thể chính trị, cách mạng đã nhanh chóng thành lập và sôi nổi hoạt động, nhiều nơi đã lập tòa án nhân dân xử tội bọn ác ôn ngoan cố. Trước khí thế đồng khởi mãnh liệt của nhân dân, nhiều binh sĩ ngụy đã vác súng tham gia hàng ngũ cách mạng, nhiều đơn vị quân ngụy đã giao súng cho nhân dân và cùng nhân dân đi đánh chiếm các đồn bót.

Tất cả các đường giao thông vận tải chạy về Sài Gòn đều bị băm nát, cắt đứt kể cả đường số 4, đường số 1, đường số 15 liên lạc giữa bọn Mỹ, ngụy ở Sài Gòn với các địa phương bị tê liệt.

Bị thua một vố đau nhưng Mỹ, ngụy vẫn rất ngoan cố, liều mạng đến cùng. Chúng cố gắng tập trung lực lượng chống lại một cách điên cuồng, dùng cả xe tăng, đại bác, máy bay bắn và thả bom bừa bãi xuống nhiều nơi trong thành phố, phá hủy nhiều nhà cửa và tài sản của nhân dân, giết và làm bị thương nhiều người kể cả những người già cả, phụ nữ, trẻ em.

Các chiến sĩ cách mạng kiên cường của Sài Gòn - Gia Định vừa chiến đấu quyết liệt với địch, vừa tận tình giúp đỡ đồng bào thành phố, cứu chữa những người bị thương, dập tắt các đám cháy do bom đạn Mỹ và Thiệu, Kỳ gây ra, hướng dẫn đồng bào đào hầm hố, công sự, tổ chức đội ngũ chiến đấu để bảo vệ khu phố. Đồng bào thành phố đã hết lòng ủng hộ các chiến sĩ vũ trang cách mạng. Đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên cả nam lẫn nữ đã ra tận chiến hào tiếp tế lương thực cho các chiến sĩ và tiếp tay với quân cách mạng lùng diệt bọn tay sai ác ôn ngoan cố.


dksvitor.jpg


Việc ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình giữa thành phố Sài Gòn rực lửa là thêm một đòn đau cho Mỹ, ngụy.


Qua hai đợt của Liên minh tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 47.000 tên địch (có gần 20.500 tên Mỹ và chư hầu), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội Mỹ, ngụy và chư hầu, bắn rơi và phá hủy gần 500 máy bay các loại, phá hủy 1.480 xe quân sự (có gần 630 xe tăng và xe bọc thép), 45 kho bom đạn, xăng dầu, đánh chìm và bắn cháy hàng chục tàu (có nhiều tàu trọng tải 10.000 đến 13.000 tấn), đánh sập 29 cầu, tiêu diệt, bức rút, bức hàng 150 đồn bót.

Với những chiến thắng hết sức to lớn đó, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã vinh dự được Uủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tuyên dương công trạng và tặng thưởng 2 huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng nhất và hai huân chương Quân công giải phóng hạng hai.

Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân nhân dân Sài Gòn - Gia Định lại trải qua nhiều đợt giành giật ác liệt với quân thù. Ở vùng nông thôn ven thành phố về phía Đông Bắc, phía Tây Nam, đồng bào đã chịu đựng hàng chục trận ném bom tọa độ của máy bay B. 52 và hàng trăm cuộc rải chất độ hóa học đã hủy diệt hầu hết các vườn hoa quả nổi tiếng của miền Nam như chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài, cam, chuối... Mỹ ngụy còn rải thảm bom bi, mìn nổ chậm hòng ngăn cản việc đi lại của du kích. Nhưng Sài Gòn vẫn vững chãi lớn lên.

Tháng 6-1969, một sự kiện lịch sử quan trọng đã làm nức lòng nhân dân miền Nam, đó là việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tiếp theo đó, Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn - Gia Định được thành lập là một trong những đơn vị chính quyền được hình thành sớm nhất ở miền Nam.


bd10266_1.gif
Đu tranh chống Việt Nam hóa chiến tranh



Sau chủ trương "Phi Mỹ hóa chiến tranh" của Johnson (từ giữa năm 1968), ngày 7 tháng 4 năm 1968, Nixon (Tổng thống Mỹ tiếp sau Johnson) chính thức tuyên bố bắt đầu Việt Nam hóa chiến tranh theo kế hoạch 3 giai đoạn, trong đó quyết đâm của giai đoạn 3 là hoàn thành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, củng cố thành quả đã đạt được, đối phương suy yếu và chiến tranh tàn lụi dần.. Báo cáo trước ủy ban quân lực thượng nghị viện Mỹ, Melvin Laird, bộ trưởng quốc phòng Mỹ tuyên bố: "Chính sách Việt Nam hóa có nghĩa vừa kết thúc vừa mở đầu... kết thúc sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam, mở đầu một chính sách mới của chúng ta về việc họ phải tự lực, tự dựa vào bản thân họ...".

Từ tháng 10 năm 1968 đến tháng 1 năm 1969, địch "bình định cấp tốc", tháng 1 năm 1969 bắt đầu bình định "xây dựng".

Từ tháng 1 năm 1969 (trước cả tuyên bố của Nixon) đến tháng 2 năm 1972 là thời kỳ mà 3 vấn đề trung tâm được triển khai thực hiện.

Trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, ngoài 3 tuyến phòng thủ (tập trung 47% quân chiến đấu Mỹ, 37% quân chủ lực ngụy so với toàn Miền), đã hình thành từ giữa năm 1968, ở nội thành Sài Gòn, địch tổ chức 9 quận thành 11 đặc khu, bổ nhiệm sĩ quan cấp trung tá là đặc khu trưởng, tăng cường cho mỗi đặc khu một đại đội đặc vụ (công an đặc biệt), hai đại đội cảnh sát dã chiến và từ 1 đến 2 đại đội tuần cảnh. Để kiểm soát chặt chẽ nội thành hơn, các phường, khóm lại được chia nhỏ, nâng số phường từ 56 lên 72, số khóm từ 861 lên 1100. Địch lại bắt đầu đổi thẻ căn cước, người tập kết, gia đình theo Việt cộng, chỉ cần có một người tố cáo là có thể bắt ngay không cần chứng cứ.

Sau các sắc lệnh tổng động viên, địch quân sự hóa học đường, quân sự hóa phường, liên gia, công tư sở, công tư chức, ra sắc lệnh cấm hội họp, biểu tình, đình công. Thực hiện tuyên bố: "Bắn bỏ ngay tức khắc bất cứ ai đòi hỏi hòa bình".

Lực lượng nhân dân tự vệ được đặc biệt coi trọng phát triển không chỉ để đôn quân, bắt lính mà còn để mỗi người dân thành một người lính địch. Chúng thành lập ở mỗi phường một ban và ở mỗi khóm một tiểu ban quân sự.

Nhân dân tự vệ được trang bị súng, phải làm nhiệm vụ canh gác, lùng sục, gây không khí căng thẳng triền miên ở trong dân chúng. Chỉ riêng quận 7 đến cuối năm 1969, địch đã tổ chức trên 6000 nhân dân tự vệ thuộc lứa tuổi từ 14 đến 50, trang bị 2433 súng. Công an, cảnh sát, nhân dân tự vệ... kết hợp liên tục lùng sục, vây ráp trong nội thành gây cho ta rất nhiều khó khăn. Tại Sài Gòn năm 1969 có trên 7000 cuộc hành quân cảnh sát và có đêm như đêm 20 tháng 1 năm 1969 trên 9.700 người bị khám xét, bị bắt giam. Nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, nhiều đảng viên, cán bộ bị bắt. Các căn cứ Rạch Bà Tàng, Hố Bần, Bến Đá, Cầu Sập, Phú Định, Hàng Thái, Chánh Hưng, Rạch Ông, Rạch Cát... bị đánh phá chà đi xát lại liên miên. Đời sống nhân dân lao động điêu đứng, đi lại, làm ăn khó khăn. Trong lúc đó phim ảnh, sách báo Mỹ, văn hóa đồi trụy, dâm dật, tràn ngập đang đầu độc tầng lớp thanh niên, học sinh, gieo rắc tâm lý hưởng thụ, sống gấp, không cần biết lý tưởng, không cần biết tương lai.

Ở ngoại thành, quân Mỹ vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ lá chắn, đẩy lùi chủ lực ta ra xa hơn, đại bộ phận quân ngụy làm nhiệm vụ càn quét với mật độ lớn hơn các năm trước nhằm triệt phá các nhóm căn cứ, các bàn đạp, làm bật gốc các lực lượng ta ra khỏi ven đô.
Tiếp sau phong trào chống lệnh động viên, quân sự hóa học đường, đòi hòa bình, tháng 4 năm 1969, đội vũ trang tuyên truyền học sinh đột nhập trường Huỳnh Khương Ninh kêu gọi học sinh vùng lên lật đổ Thiệu, Kỳ, gia nhập các lực lượng vũ trang cách mạng.
Vào dịp lễ Phật Đản năm 1969, "Ủy ban thanh niên học sinh, sinh viên tranh thủ dân chủ và hòa bình" được thành lập, phối hợp cùng các giới khác lên án Mỹ ngụy tiến hành chiến tranh hủy diệt, đòi vãn hồi hòa bình.

Nguyễn Văn Thiệu cấm tổ chức lễ Quốc tế Lao động ngày 1 tháng 5 năm 1969, nhưng hơn 500 đại biểu của 118 nghiệp đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn bất tuân lệnh, cứ tổ chức ngày hội lớn của giai cấp công nhân, vạch mặt Thiệu và tay sai, đòi tự do nghiệp đoàn, đòi hòa bình, lập lại quan hệ bình thường Nam - Bắc.

Tháng 5 năm 1969, Đại hội đại biểu các lực lượng thành phố bầu ra Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố do giáo sư Nguyễn Văn Chì làm chủ tịch.

Sau đợt tiến công tháng 5 trên chiến trường, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam họp trong các ngày 6, 7, 8 tháng 6 năm 1969 quyết định thành lập chế độ cộng hòa, bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hội đồng cố vấn Chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, làm Chủ tịch và luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Uủy ban Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam làm Phó Chủ tịch. Đại hội ra đời hiệu triệu quân và dân miền Nam tăng cường đoàn kết, ra sức chiến đấu đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Vào lúc này ở Sài Gòn, Gia Định xuất hiện hai phong trào mới: phong trào các nghiệp đoàn nông dân, tá điền và phong trào lực lượng quốc gia tiến bộ. Các nghiệp đoàn nông dân và tá điền ở các tỉnh lân cận Sài Gòn, từ trước năm 1968 đã đấu tranh chống dự luật của Hạ nghị viện ngụy về nông dân, nay lại kéo về thành phố tiến hành đại hội.
Lực lượng quốc gia tiến bộ do luật sư Trần Ngọc Liễng làm chủ tịch, với nội dung đấu tranh từ cứu giúp nạn nhân chiến cuộc, tiến lên đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh: tờ nội san Hòa Giải của lực lượng không chỉ phát hành nội bộ mà còn phát hành công khai, đòi hòa bình, lên án chiến tranh.

Tháng 7 năm 1969, công nhân ngành xe buýt đấu tranh chống chủ trương của Mỹ - ngụy, giải tán việc công quản xe buýt để cho tư nhân tham gia đấu thầu, thực chất là chúng âm mưu sa thải những công nhân tích cực đấu tranh, chuyển việc quản lý xe buýt cho những tên tay chân của ngụy quyền, ngụy quyền để dễ bề nắm giữ, thao túng. Toàn thể công nhân xe buýt kiên quyết giữ vững vị trí, dũng cảm chống lại lực lượng cảnh sát dã chiến ngụy đến đàn áp, kiên trì giữ vững yêu sách đòi chính quyền phải hủy bỏ chính sách đấu thầu xe buýt. Cuộc đấu tranh kéo dài trong nhiều tháng, được đại biểu của 118 nghiệp đoàn ra tuyên bố ủng hộ. Công nhân các ngành dầu hỏa, bến cảng, hóa phẩm, các hãng ESSO, Silico, Mic, xưởng Caric, bệnh viện Đồn Đất, các hãng pin Quang Minh, Con Ó, cơ quan USAID... đồng tình hưởng ứng. Một số đồng bào ở các chợ mang cơm gạo, bánh mì, thực phẩm đến tiếp tế cho công nhân xe buýt.

Các lực lượng vũ trang nội thành đẩy mạnh hoạt động trừ gian, trừng trị nhiều tên tay sai quan trọng như Lê Minh Trứ, tổng trưởng văn hóa giáo dục và thanh niên (ngày 6 tháng 1 năm 1969), Lê Diệu Luận, phó chủ tịch nhân dân tự vệ khóm 24 phường Chợ Quán, Trưởng văn phòng đặc vụ Đài Loan (ngày 6 tháng 4 năm 1969) Văn Diễn Quang, nghị viện đô thành (ngày 19 tháng 6 năm 1969), Hà Thành Tín phụ trách Phân cục cảnh sát quận 6 (tháng 7 năm 1969)... Biệt động đã tấn công Phân cục cảnh sát ngụy trên đường Nguyễn Tri Phương, quận 10, Phân cục cảnh sát quận 5.

Các xe quân sự Mỹ liên tục bị tấn công, chúng buộc phải tổ chức yểm trợ các cuộc di chuyển quân sự trong thành phố. Một lực lượng đáng kể binh lính địch bị trói chân vào công việc canh gác ở đường phố.

Nhân dân Củ Chi có câu "giết một thằng bình định bằng giết ba thằng Mỹ", bọn tâm lý chiến được xếp vào hàng đầu trong số này. Du kích Tân Thạnh Tây, một lần đột nhập ấp chiến lược Tân Quy diệt một đội bình định 7 tên.

Vào khoảng tháng 8 năm 1969, trước tình thế khó khăn, huyện chủ trương cử một trung đội nữ du kích Củ Chi về hoạt động bên trong các ấp chiến lược, vào các tổ du kích mật và bổ sung một số chỉ em cho biệt động thành. Lực lượng này thật sự trở thành lực lượng biệt động tại chỗ, tấn công địch bất kỳ nơi nào: quán nước, nhà ăn, trụ sở... Các khẩu cối 82 ly phân tán cho du kích giấu dưới địa đạo, khi cần lấy lên sử dụng ngay.
Các công trường xã tiếp tục duy trì, phát triển, du kích nghĩ ra nhiều loại mìn gạc, mìn hóa học, "mìn chĩn mắm", mìn nylon... chống được máy dò của địch. Những bãi mìn, trái lớn hình thành, có những bãi dài đến hàng nghìn mét như ở Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Thái Mỹ. Bãi ở An Nhơn Tây gài đến 900 trái các loại. Có nhiều người rất thành thạo trong sản xuất vũ khí như: Tô Văn Đực, Phạm Văn Cội, Nguyễn Văn An, Lê Văn Đạm...
Ở Thủ Đức, Gò Vấp, Hóc Môn, lực lượng võ trang tập trung chia nhỏ ra thành từng phân đội cùng du kích bám địa bàn, bám địch, đánh tiêu hao ở các khu vực Bình Trung, Phước Long, Long Trường, Tăng Nhơn Phú, Long Thạnh Mỹ, An Phú Đông, Thạnh Lộc, Quới Xuân, Nhị Bình, Tân Thới Hiệp, Đông Thạnh...

Ở Rừng Sác, đại hội Đảng Đoàn 10 lần thứ ba cuối mùa xuân 1969, diễn ra trong tình thế hết sức căng thẳng: Rừng Sác đang bị bao vây, đội 5 vào sinh ra tử quân cảng Nhà Bè trung bình tấn công hơn chục trận mà chỉ hy sinh 1 chiến sĩ, nhưng sau một trận đánh càn số quân còn một nửa, đánh đi đánh lại chỉ còn 9 tay súng. Các đội khác (cấp đại đội) còn 15, hai ba chục tay súng được coi là sung sức. Các chiến sĩ dùi đường về chiến khu Đ lần lượt hy sinh. Hàng loạt DK75, B40, B41 hết đạn. Lần lượt từ đại đội 2 trên sông Ông Kèo, đến các đơn vị khác bắt đầu ăn cháo rau kềm, có nơi luộc trái sú, vẹt ăn thay cơm. Đảng ủy lúc này gồm các đồng chí Bảy Ước (chính ủy), Cao Thanh Tao và đồng chí Hải lãnh đạo, chỉ huy đơn vị vượt thời kỳ khó khăn nhất.

Hàng loạt câu hỏi đặt ra: lấy gì đánh, lấy gì ăn, đánh rồi lui về đâu, hay tạm lui hết về đất liền?

Trong tình thế đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III của Đoàn 10 nêu rõ: "bất cứ giá nào cũng phải đứng tại Rừng Sác", bằng biện pháp và quyết tâm "Rừng Sác là nhà". Nghị quyết nêu thành khẩu hiệu lịch sử:

Rừng Sác là nhà.
Sông Lòng Tàu là trận địa.
Bến cảng, kho tàng, tàu địch là quyết chiến điểm.
Có lệnh là đi, hoàn cảnh nào cũng đánh thắng, đánh phải thắng.

Nghị quyết xuống các đơn vị kèm theo chỉ thị:

Bắt cá, mò cua.
Tại chỗ tùy cơ ứng biến - Nghe xã luận đài mà đánh...

Chỉ huy Đoàn nhận được những lá thư quyết tử bám trụ từ phía Tây sông Lòng Tàu. Lá thư viết bằng máu của đội 6: "Chúng tôi một tấc không đi, một ly không rời khi chưa có lệnh"; "còn người còn chiến đấu, còn người còn trận địa". Có biết bao tấm gương về những chiến sĩ Rừng Sác chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, hơi thở cuối cùng, về trận địa một người chống chọi hàng đại đội giặc. Trên một cù lao không tên, đồng chí Kiệt, một cán bộ đại đội là người còn lại cuối cùng, bị địch bắn gãy lìa một khúc chân, còn bò đi gom súng đạn của đồng đội hy sinh để lại, đánh gãy đợt xung phong tiếp của địch. Lịch sử Đoàn 10 đang trải qua những tháng năm gian khổ nhất gọi là thời kỳ "bắt cá - mò cua - mua gạo - cháo rau kềm". Gần 200 cơ sở quần chúng gắn bó với Đoàn tập trung lo tiếp tế gạo, thực phẩm thuốc men. Cán bộ chiến sĩ đội quân giới của Đoàn vào "chiến dịch"truy tìm bom pháo lép (tính đến năm 1971 lấy được 4275 kg thuốc nổ từ trái bom lép). Đội quân giới của đồng chí Tư Tiên và kỹ sư Mười Thiện đã sáng chế, cải tiến ra nhiều loại mìn trong đó có "bom bay" chế từ DKB đánh được tàu 10.000 tấn, mìn ngòi phèn chua thay mìn hẹn giờ Liên Xô...

Ngày 18 tháng 5 năm 1969, quyết lập công mừng sinh nhật Bác, trong vòng 30 phút trên sông Lòng Tàu, chiến sĩ Đoàn 10 bắn cháy 2 tàu dầu của giặc, một chiếc 7.000 tấn và một chiếc 12.000 tấn.

Thấy hiện tượng hoạt động của đặc công ta tăng lên, ngày 24 tháng 6 năm 1969, địch tổ chức trận càn Mỹ - Ngụy hỗn hợp quy mô lớn do lữ đoàn 199 Mỹ chủ công, lữ trưởng David chỉ huy, đánh vào khu vực sông Ông Kèo, nơi mà chúng đinh ninh có cơ quan chỉ huy của Đoàn 10.

Qua cơ sở quân báo, ta nắm được ý định của địch nên đã bố trí trận địa đánh địch từ Vàm Ông Kèo vào gồm các chốt: B40, B41, DKZ, mìn của đội 1, đội 2, các trận địa bộ binh đại đội 1, đại hội 2.

Chiến sự ác liệt diễn ra từ sáng sớm đến 15 giờ, phía sông Ông Kèo, ta loại đoàn tàu 10 chiếc của Mỹ, nhưng phía sau tiểu đoàn ngụy tràn qua được, gây thiệt hại cho đại đội 2. Ta giết, làm bị thương 200 tên Mỹ - Ngụy, bắn chìm cháy 10 tàu. Đặc biệt tại Vàm sông Ông Kèo, ta bắn rơi chiếc máy bay chỉ huy của tướng David lữ trưởng lữ 199, tên này bị thương.

Cũng tháng 6 năm 1969, đặc công Rừng Sác đã tổ chức vượt lên đất liền, liên tiếp pháo kích Bộ tư lệnh Hải quân ngụy và kho xăng Nhà Bè.

Giữa những ngày chiến tranh ác liệt, đêm 3 tháng 9 năm 1969, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi một tin đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi của dân tộc ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Không ai tưởng tượng một sự thật đau buồn như vậy có thể đến, dù đó là điều không thể tránh. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Người xây dựng nền Cộng hòa Dân chủ và Mặt trận thống nhất, là Bác Hồ, Người Cha thân yêu của dân tộc. Bác ra đi để lại cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân ta bản di chúc lịch sử. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn".

Sài Gòn - Gia Định đang trong những ngày khó khăn gian khổ nhất. Quân dân Sài Gòn - Gia Định nén đau thương, anh hùng phấn đấu, quyết tâm vượt lên, đạp bằng mọi trở lực, chông gai để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.
Với lòng tiếc thương vô hạn, nhiều đồng bào thành phố bất chấp sự theo dõi của địch đã tổ chức truy điệu Bác bằng nhiều hình thức công khai hoặc bí mật.

Công nhân xe buýt giành cả ngày và đêm 9 tháng 9 làm lễ truy điệu Hồ Chủ Tịch.
Trên 100 thanh niên, sinh viên thuộc đoàn văn nghệ học sinh, sinh viên Sài Gòn kính cẩn mặc niệm Bác trong tiếng hát trang nghiêm của bài "Hồn tử sĩ".

Tại nhà lao Chí Hòa, anh chị em tù chính trị để tang Bác 7 ngày. Suốt tuần lễ tang, sáng nào 600 anh chị em tù chính trị cũng hát Quốc ca và làm lễ tưởng niệm Người.

Tại Ngã Bảy, anh chị em công nhân và các nghiệp đoàn quanh vùng đó chiếm trụ sở Tổng liên đoàn lao động để tổ chức mít tinh, làm lễ truy điệu Bác.

Tại vùng Hòa Hưng 200 Phật tử, nhân sĩ trí thức, sinh viên học sinh tập trung về chùa Khánh Hưng. Đúng 2 giờ chiều ngày 9 tháng 9 năm 1969, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau lễ tang truy điệu Bác Hồ ở quảng trường Ba Đình (Hà Nội), lễ truy điệu tại đây bắt đầu.

Thượng tọa Thích Pháp Lan đọc điếu văn ca ngợi công lao và đức độ Bác Hồ. Nhiều người không cầm được nước mắt. Bốn ngày sau, tổng nha cảnh sát gửi giấy mời thượng tọa Thích Pháp Lan đến thẩm vấn suốt từ 8 giờ đến 5 giờ chiều. Trước lý lẽ sắc bén của thượng tọa và khí thế của phong trào đấu tranh của thành phố, địch buộc phải thả thượng tọa. Trong khi đó, đồng bào ở hẻm 258/5/21A phường Phan Thanh Giản, quận 10 làm lễ truy điệu Bác và nghe đọc tiểu sử bác dưới hình thức một đám giỗ tại nhà chị Biểu. Ở quận 8, chi bộ phường Hưng Phú, sau khi tổ chức canh phòng chu đáo, tập trung đồng bào tại xóm Đầm để truy điệu Bác. Cảnh sát ngụy biết, nhưng không dám xúc phạm đến tình cảm của nhân dân.

Nhiều gia đình trong thành phố đốt nhang trên bàn thờ làm lễ tang Bác, đón nghe các buổi phát thanh về Bác trên đài Hà Nội, Giải phóng. Quân dân ngoại thành làm lễ truy điệu Bác ở nhà, ngoài căn cứ, dưới địa đạo. Có nơi cán bộ làm lễ truy điệu Bác dưới hầm bí mật.

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nguyện biến đau thương thành hành động cách mạng, thực hiện di chúc Bác để lại: "... Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn...".

Thực hiện chủ trương của Thành ủy, các đội biệt động tổ chức lại thành 3 cụm, mỗi cụm có nhiều đội, khẩn trương vừa củng cố vừa xây dựng và hoạt động theo phương châm kết hợp chặt chẽ chính trị với vũ trang, thực hiện "3 mũi giáp công" ở cơ sở.

Trong thời kỳ khó khăn này, tức mồng 3 Tết âm lịch, Đoàn Thị Ánh Tuyết cùng nữ biệt động Sáu Hạnh thực hiện cuộc tấn công Trung tâm Quốc gia báo chí, loại một số cố vấn tình báo Mỹ và 28 tên mật vụ, cán bộ bình định và sĩ quan tình báo Sài Gòn.

Cũng vào những ngày này, ta đánh chất nổ trong Tổng nha cảnh sát ngụy, do một nữ chiến sĩ an ninh thực hiện, nhiều tên chết và bị thương, phần lớn là thẩm viên cảnh sát, làm cháy trên 100 xe gắn máy. Địch huy động đến máy bay lên thẳng để chữa cháy, đem xe GMC đến lấy xác và đưa số bị thương đi cứu chữa. Trận này làm cho địch nghi ngờ lẫn nhau.

Với ý thức đánh địch để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, cuối tháng 1 năm 1970, nữ chiến sĩ Tư Kiên thuộc Lực lượng vũ trang Thành Đoàn, đang bụng mang dạ chửa tự nguyện xin "đi đánh trận nữa để cổ vũ phong trào rồi đi đẻ". Ngày 30 tháng 4 chị đã cùng các chiến sĩ Lê Phi Hùng, Phạm Văn Triệu thực hiện cuộc tiến công táo bạo vào cư xá Thái Lan thuộc sư đoàn Báo Đen ở phường Phan Thanh Giản (nay là công trình bưu điện II ở phường 14 quận 10) gây thiệt hại cho địch không đáng kể nhưng có ảnh hưởng ngay đến khí thế tiến công chính trị của sinh viên đang diễn ra tại khu vực Bàn Cờ. Cũng chính nơi này địch phát hiện chỗ đặt cối 60 li của biệt động Sài Gòn đích thân chỉ huy cuộc lùng sục. Đồng chí Thanh một mình chống chọi một đại đội địch từ 10 giờ tối đến 4 giờ sáng, hy sinh tại trận.

Tại đường Nguyễn Văn Thoại, chị Tám A và nữ đồng chí Ngoạn hy sinh trong trận dùng thuốc nổ đánh nơi tập trung binh lính Đại Hàn.

Theo phương hướng Nghị quyết Bình Giã IV, khẩu hiệu đấu tranh chính trị tập trung lúc này là đòi Mỹ rút hết quân, chống chính quyền phản động Nguyễn Văn Thiệu, đòi thành lập chính quyền tiến bộ, chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình, tận dụng các hình thức công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp của học sinh, sinh viên, của công nhân và lao động, của mọi ngành, mọi giới và các tầng lớp trung gian.

Nội dung và hình thức đề ra nói trên rất sát hợp yêu cầu và tình hình nhân dân Sài Gòn trong tình thế hiện tại.

Học sinh, sinh viên là lực lượng nắm bắt và khơi dậy ngay thành phong trào tiến đến cao trào theo phương hướng khẩu hiệu được phát động, đồng thời tạo được sự hỗ trợ mạnh mẽ của các ngành các giới, có liên kết các phong trào khác tạo thành sức mạnh tổng hợp của mặt trận chính trị thành phố.

Tháng 6 năm 1970, trong một cuộc biểu tình đòi trả tự do cho tất cả sinh viên, học sinh còn bị giam giữ tại nhà lao Chí Hòa, sinh viên, học sinh xung đột dữ dội với cảnh sát ngụy đến đàn áp, đốt cháy 1 xe, sau đó lại tấn công đốt cháy 1 xe cảnh sát và 1 xe quân cảnh Mỹ, đánh bị thương 2 tên Mỹ đi trên xe, thu cả súng đại liên, dùi cui và mũ sắt.

Phong trào học sinh, sinh viên từ Sài Gòn lan xuống Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Giờ, Châu Đốc, Rạch Giá, ra Đà Lạt, Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Huế... trở thành cao trào học sinh, sinh viên toàn miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Thiệu - Kỳ, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, tự do, độc lập và ngay người nước ngoài cũng đấu tranh kêu gọi hòa bình cho Việt Nam.

svhsdxmy.jpg


Cuối tháng 6 năm 1970, sinh viên liên viện đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ, Vạn Hạnh, tổ chức đại hội nhằm thống nhất khẩu hiệu và hành động của sinh viên trên toàn miền Nam. Một trong những khẩu hiệu hành động chung đó là: chống huấn luyện quân sự học đường với nội dung: không học, không thi, không đi quân trường.


Kết quả suốt các tháng 7, 8, 9 năm 1970, trong các trường đại học, phong trào chống quân sự học đường phát triển rất mạnh mẽ. Có đến 30.000 sinh viên không đi học quân sự, không thi môn quân sự học đường, 450 sinh viên đang học ở quân trưởng bỏ về. Sinh viên các trường đại học Y, Văn, Vạn Hạnh, Kỹ thuật Phú Thọ, đốt cháy các phòng huấn luyện quân sự học đường.

Đêm 17 tháng 7 năm 1970, học sinh, sinh viên tổ chức đêm văn nghệ "Năm châu đấu tranh cho hòa bình" tại số 240 đường Công Lý, đại diện sinh viên Việt Nam tặng cho phái đoàn sinh viên quốc tế 1 lá cờ có vẽ hình chim bồ câu trắng tượng trưng cho khát vọng hòa bình của nhân dân ta. Đáp lại, các sinh viên Mỹ rút thẻ quân dịch châm lửa đốt và dẫm nát dưới gót giày để biểu hiện tinh thần phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Tiếp theo, đêm văn nghệ "Năm châu đấu tranh cho hòa bình" là những đêm "Văn nghệ xung kích", những đêm "Đốt lửa căm thù", nhằm "đốt lửa lên để nhận mặt kẻ thù, đốt lửa lên để nung nấu ý chí căm hờn, đốt lửa lên soi sáng niềm tin hy vọng", để cùng nhau sát cánh đấu tranh.

Bài hát "Dậy mà đi" thôi thúc, giục giã lớp lớp người vùng dậy đấu tranh. Từ tháng 5 đến tháng 10 có đến 24 đêm biểu diễn văn nghệ tập trung, 27 buổi văn nghệ xung kích, 49 tổ báo sinh viên, 66 tập san học sinh, và 26 cuộc đi cắm trại. Hàng trăm đội xung kích thanh niên học sinh, sinh viên tỏa về các xí nghiệp, các chợ, các xóm lao động và các vùng nông thôn ngoại thành để nói "cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi nói" để "hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi cùng hát" nhằm tuyên truyền vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền sống, đòi hòa bình, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi lật đổ Thiệu, đòi Mỹ phải rút hết...

Ngày 18/3/1970 Mỹ cho tiến hành cuộc đảo chính lật đổ nền trung lập của Campuchia. Sau đảo chính, Mỹ tập trung dựng lên chế độ Lon Non làm tay sai và tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia. Ngày 29/4/1970 Mỹ ngụy Sài Gòn sử dụng 10.000 quân phiêu lưu đánh xuống khu vực phía Đông - Bắc Campuchia, giáp với miền Đông Nam Bộ của Việt Nam.

cnhpcodt.jpg


Từ giữa tháng 6/1970 quân dân miền Nam và liên quân Việt Nam - Campuchia đã phối hợp để đánh Mỹ ngụy Sài Gòn, ngụy Phnôm-pênh. Sau hai tháng phối hợp chiến đấu ta và bạn đã giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh và giải phóng phần lớn 6 tỉnh khác của Campuchia sát với vùng giải phóng của miền Nam Việt Nam. Tình hình khó khăn ở Campuchia được cải thiện rõ rệt, trong khi ấy ở Lào và ở miền Nam Việt Nam ta cũng tranh thủ đẩy mạnh hoạt động. Ở Lào, liên quân cách mạng Việt - Lào đã tấn công và giải phóng thị xã Xaravan (hạ Lào). Ở miền Nam ta mở đợt hoạt động Xuân - Hè trên toàn miền chống phá bình định của địch. Các đô thị miền Nam từ tháng 4/1970 đến tháng 6/1970 bùng lên nhiều cuộc đấu tanh của hàng vạn người chống Mỹ - Ngụy, đòi tự do, dân chủ, hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Đến giữa năm 1971 đã làm xuất hiện nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp chuẩn bị đưa đấu tranh chính trị ở miền Nam lên một cao trào mới. Sinh viên học sinh chống quân sự hóa họa được, những cuộc xuống đường của "Phong trào phụ nữ đòi quyền sống", "Uủy ban nhân dân tranh thủ hòa bình", "Ủy ban nhân dân đòi quyền sống", "Nghiệp đoàn 36 chợ đô thành", những cuộc tổng bãi công của 21 nghiệp đoàn chống thuế lương bổng, phong trào chống bắt thanh niên miền Nam Việt Nam đi làm bia đỡ đạn ở Lào và Campuchia... Đó là những trận đấu tranh rung chuyển phố phường và từ đó một "Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình" đã ra đời từ Sài Gòn lan nhanh khắp các thành thị miền Nam.


Đón trước thời điểm chính trị của nước Mỹ năm 1972, từ tháng 5/1971 Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã đề ra chủ trương "Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và cả trên chiến trường Đông Dương, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài".

Điều bất ngờ là hành động điên cuồng của Mỹ chỉ càng làm cho loài người tiến bộ, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ công phẫn, lên án và đòi chính quyền Nixon phải chấm dứt chiến tranh. Ngày 27/7/1972 tại hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân Việt Nam, 27 đoàn đại biểu các nước Đông Âu, Tây Âu, Bắc Âu đã ra "Tuyên bố Paris" kêu gọi "chính phủ Mỹ chấm dứt tức khắc các cuộc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... chấm dứt mọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, Lào và Campuchia".

svhssgbt.jpg


Mỹ không muốn chấp nhận việc ký kết hiệp định bất lợi cho Mỹ và Ngụy nên chủ trương đánh đòn quân sự để ép ta phải nhượng bộ chúng. Chúng cho rằng "đe dọa phải... kết hợp với hành động thực thì mới có hiệu quả thuyết phục đối phươn". Johnson năm 1965 đã dùng biện pháp leo thang đánh phá ra miền Bắc để thực hiện ý đồ chiến lược ở miền Nam; còn Nixon năm 1972 dùng biện pháp leo thang để gây một sức ép cuối cùng theo cách tính toán "được ăn cã, ngã về không". Ngay sau ngày thắng cử, Nixon cho đánh phá mạnh hơn nữa ở vĩ tuyến 20, ồ ạt tuôn đổ vũ khí và viện trợ cho ngụy, đốc thúc ngụy phản kích mạnh ở miền Nam, đòi ta sửa đổi 120 chỗ trong dự thảo hiệp định. Bộ Chính trị Đảng ta đã nhắc nhở "phải đề phòng Mỹ tăng cường hành động quân sự. Tuyệt đối ta không được lơ là mất cảnh giác".



mccrkmn.jpg


Trận chiến đấu của quân dân miền Bắc chống tập kích của không quân Mỹ bắt đầu từ 19 giờ 40 phút ngày 18/12/1972 và kéo dài suốt 12 ngày đêm sau đó. Chưa bao giờ và ở đâu có 1 chiến dịch phòng không như 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở miền Bắc; cũng chưa từng có trong lịch sử cảnh tượng B.52 của Mỹ cháy rụng đỏ mặt Hồ Gươm. Quân dân miền Bắc đã dám đánh và đã đánh thắng chúng. Phó tham mưu trưởng không quân Mỹ thú nhận "Bắc Việt Nam đã phát triển được các lực lượng phòng không dày dạn nhất thế giới .


mrvnn293.jpg


Bảy (7) giờ sáng ngày 30/12/1972 chính phủ Mỹ tuyên bố ngừng nén bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Mỹ muốn giáng cho đối phương một đòn quân sự mạnh thì lại gặp một trận "Điện Biên Phủ trên không"; muốn tỏ rõ sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của không quân chiến lược Hoa Kỳ thì những biểu tượng của sức mạnh răn đe bị mất uy thế. Tổng thống Nixon vừa tái đắc cử đã bị một trận "phản đòn", muốn đàm phán trên thế mạnh đã phải trở lại Paris khẩn cấp và "cần đạt được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe", chấp thuận tất cả những gì đã chối từ và chấp nhận cả kết quả đàm phán ngoài mong muốn.


bd10266_1.gif
Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris



Sau gần một năm phá hoại Hiệp định Paris, ngụy quyền đứng trước những khó khăn mới, quân số tụt giảm, viện trợ quân sự của Mỹ bị cắt bớt, kinh tế đình đốn, ngân sách ngụy quyền 1973 - 1974 hao hụt 266 tỉ (tiền Sài Gòn), lạm phát tới 200 tỉ, số người thất nghiệp lên tới 1 triệu 32 vạn. Trong thông điệp tháng 6 năm 1974, Thiệu đã phải kêu gọi binh lính "đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo". Trong khi đó cuộc thanh lọc và sa thải công nhân viên chức của Thiệu làm cho nội bộ ngụy quân, ngụy quyền càng lục đục gay gắt.

Nhưng tập đoàn tay sai Thiệu vẫn còn rất ngoan cố. Ngày 6 tháng 1 năm 1974, Thiệu trắng trợn tuyên bố"... không có hòa bình, không có tổng tuyển cử... "Y gào thét "phải đẩy mạnh tấn công ngay tại vùng cộng sản kiểm soát", "phải đánh trước"... và tiếp tục ráo riết thực hiện kế hoạch 2 năm 1973 - 1974, lần lượt tung xuống xã, ấp 40% công chức và 2400 sĩ quan để tăng cường bộ máy kềm kẹp tại cơ sở.

Đầu năm 1974, địch huy động lực lượng sư đoàn 25 mở cuộc hành quân đánh sâu vào các vùng căn cứ giải phóng Bắc Củ Chi, đồng thời sử dụng một bộ phận chủ lực còn lại kết hợp vào bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, cảnh sát và các đoàn bình định mở các cuộc hành quân bình định lấn chiếm vùng ven chung quanh Sài Gòn.

Trong tình hình trên, Hội nghị Thành ủy tháng 1 năm 1974 chủ trương: dưới khẩu hiệu trung tâm là hòa bình, độc lập, dân chủ cải thiện dân sinh, ở nội thành đẩy mạnh phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris , ra sức xây dựng lực lượng cơ sở, tạo điều kiện và thời cơ đi tới cao trào, phối hợp chặt chẽ với phong trào nông thôn và mũi tiến công của quân sự, tiến lên đánh đổ tập đoàn quân phiệt, phát xít tay sai phản động của đế quốc Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ.

Phối hợp chặt chẽ với phong trào ở nội thành, ở nông thôn, phải tập trung chống phá bình định của địch, chống phá địa hình, chống phá càn quét, lấn chiếm, chống cướp lúa, gom dân, chống đôn quân bắt lính...

Hội nghị đề ra yêu cầu: phát triển các loại lực lượng lên từ 2 đến 3 lần ở cả thành phố lẫn nông thôn; tăng cường số lượng và chất lượng của lực lượng vũ trang đảm bảo tiêu diệt lực lượng ác ôn, kềm kẹp, lực lượng sùng lục, đánh bại lực lượng càn quét, lấn chiếm; đẩy mạnh đấu tranh phá lỏng kềm và giành quyền làm chủ của nhân dân; công tác xây dựng Đảng, xây dựng thực lực cách mạng đô thị phải đi sâu hơn nữa vào xí nghiệp, xóm lao động và các ngành trọng điểm.

Sinh khí mới về chính trị của các tầng lớp quần chúng sau Hiệp định Paris gặp sự khủng hoảng kinh tế của ngụy và thái độ hiếu chiến của Thiệu hợp thành một phát khởi mới trong phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị. Kinh nghiệm ngày một dày dạn, trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức của Thành ủy với phong trào ngày một chặt chẽ, sắc sảo hơn.

Ngày 14 tháng 2 năm 1974, Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris mà tiền thân của nó là Lực lượng quốc gia tiến bộ, do ông Trần Ngọc Liễng làm chủ tịch ra mắt. Hàng loạt tổ chức khác của các giới cũng được thành lập: Uủy ban chống sa thải, Uủy ban chống đàn áp, bất công, Mặt trận nhân dân cứu đói, Uủy ban bảo vệ các bạn hàng chợ, Uủy ban bảo vệ quyền lợi sinh viên, Uủy ban bảo vệ tự do báo chí...

Theo sự chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới, "lực lượng thứ ba" đang hình thành sau Hiệp định Paris bao gồm các nhân sĩ trí thức, binh sĩ, dân biểu, nhà báo, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng tá ngụy... có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hòa bình, độc lập, dân chủ; nổi bật là các nhân vật như: bà luật sư Ngô Bá Thành, ông Trần Ngọc Liễng, kỹ sư Dương Văn Đại, dân biểu Hồ Ngọc Nhận, dân biểu Lý Quý Chung, giáo sư Lý Chánh Trung, linh mục Phan Khắc Từ, thượng tọa Thích Pháp Lan, dân biểu Kiều Mộng Thu, ni sư Huỳnh Liên, nhà báo Nam Đình... Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris đóng vai trò nòng cốt trong hoạt động của lực lượng thứ ba. Cũng trong thời gian này Uủy ban Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và hòa bình khu Sài Gòn - Gia Định ra mắt bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức đã ra vùng giải phóng, do giáo sư Nguyễn Văn Chì làm Chủ tịch. Lực lượng thứ ba tiêu biểu cho xu hướng chính trị của giai cấp tư sản dân tộc, tuy còn những mặt hạn chế, nhưng hoạt động của lực lượng này làm cho đế quốc Mỹ và tập đoàn quan liêu quân phiệt, đại biểu cho giai cấp tư sản mại bản và phong kiến phản động, bị phân hóa, cô lập, tạo ra một thế rất tốt cho phong trào đô thị.
Tháng 4 năm 1974 tất cả các nghiệp đoàn ở Thành phố đã phát động một chiến dịch đấu tranh chống sa thải. Tiêu biểu là những cuộc đấu tranh của 1000 công nhân hãng MIC, của 1500 công nhân các hãng bột mì Sakibomi, Viphumico của 1000 công nhân bốc vác Khánh Hội và cuộc đấu tranh của 3000 công nhân Hàng không Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1974, đại diện 200 nghiệp đoàn họp Hội nghị chống sa thải, kêu gọi công nhân đòi Thiệu phải ban hành về lương tối thiểu, vãn hồi hòa bình.

Cùng với phong trào dân sinh dân chủ của công nhân và lao động, phong trào đấu tranh đòi trả tù chính trị cũng liên tục tiếp diễn đến cuối năm 1974. Tháng 10, tháng 11 có hai cuộc biểu tình hàng ngàn người ở Gia Định và ở Sài Gòn đòi thả tù chính trị, có đông đảo ni sư và phật tử tham gia.

Giới báo chí đã nhập cuộc và trở thành một mũi xung kích công khai chống chế độ độc tài Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 20 tháng 9 năm 1974 các chủ báo và ký giả họp mít tinh, diễu hành trước tòa soạn báo Điện Tín, một trong những tờ báo đối lập chế độ Sài Gòn và do ta chi phối, mở đầu cuộc đấu tranh chống sắc luật 007, sắc luật kềm kẹp báo chí của Thiệu.

Ngày 25 tháng 9 năm 1974 Ủy ban Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Khu Sài Gòn - Gia Định ra lời kêu gọi chống Thiệu, đòi hòa bình, tự do, dân chủ.
Đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị, ngày 22 tháng 9 năm 1974, Mỹ Thiệu vạch ra "Kế hoạch Sao chổi" nhằm "đàn áp cho kỳ được các phong trào này", "thanh toán toàn bộ phản
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris


Phải lấy ngọn cờ đại đoàn kết, không phân biệt quá khứ, không phân biệt quốc tịch, nhằm hướng về Tổ quốc đã độc lập thống nhất và tùy khả năng từng người, từng tập thể mà góp phần xây dựng đất nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".


Nguồn : Tuanvietnam.net

LTS: Cựu đại sứ Võ Văn Sung đã gắn bó phần lớn cuộc đời ngoại giao của mình với địa bàn Paris và Bắc Tây Âu. Trong cuốn sách với tựa đề: "Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris", ông đã dành một phần quan trọng kể lại những đóng góp quí báu, đáng trân trọng của bà con ta ở nước ngoài đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, hoà hợp dân tộc.

Để cùng hướng tới ngày "Hòa giải và yêu thương" do VietNamNet khởi xướng, chúng tôi xin trân trọng trích giới thiệu cuốn sách này - chương: "Chân trời 90", như một lời tri ân với kiều bào ta ở nước ngoài.

Tổ chức lại phong trào Việt kiều

Về mặt cơ sở vật chất của Đại sứ quán Việt Nam thống nhất, năm 1972 Thủ tướng chính phủ đã quyểt định xây dựng Đại sứ quán mới, trong năm 1973 đã mua đất và vận động giấy phép xây dựng, mùa hè năm 1974 đã thu xếp xong mặt bằng, như vậy là về cơ bản đã ổn, chỉ cần đẩy nhanh tiến độ thi công để có thể có trụ sở mới sau khi ta chính thức thống nhất về mặt nhà nước không lâu lắm.

Về mặt nhân sự của Đại sứ quán Việt Nam thống nhất, chúng tôi đã được trong nước phê duyệt danh sách cán bộ chuyển từ Phái đoàn thường trực Chính Phủ Cách mạng lâm thời sang Đại sứ quán Việt Nam thống nhất, bao gồm những cán bộ vốn là Việt kiều. Trong nước cũng thông báo nội bộ là sau khi chính thức thống nhất, anh Phạm Văn Ba sẽ về nước nhận nhiệm vụ mới và tôi sẽ ở lại làm Đại sứ của nước Việt Nam thống nhất tại Pháp và các nước đã kiêm nhiệm.

bieutinh3.JPG


Việt kiều trong biểu tình 1-5-1975 mừng Việt Nam thống nhất.
Bên phải: cụ Trần Văn Mạc - Chủ tịch Hội Phụ lão Việt Nam
(Ảnh tư liệu trong cuốn "Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris")

Vấn đề lớn nhất đặt ra lúc bấy giờ là tổ chức lại phong trào Việt kiều cho phù hợp với tính hình mới. Ban Cán sự Đảng và Ban chấp hành Nhóm Việt ngữ đã tổ chức một đợt nghiên cứu nội bộ về nhiệm vụ, về tổ chức của phong trào trong tình hình mới và nghiên cứu đề xuất với Chính phủ một số chính sách mới đối với Việt kiều. Về nhiệm vụ, chúng tôi nhất trí rằng thời kì từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất trở đi là phải huy động đến mức cao nhất trong cộng đồng người Việt Nam ở Pháp và các nước tôi kiêm nhiệm đại sứ, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong đó xây dựng kinh tế là trọng tâm và khả năng quý nhất của cộng đồng về mặt này là khoa học kĩ thuật.

Do vậy phong trào thời kì mới phải lấy ngọn cờ đại đoàn kết, không phân biệt quá khứ, không phân biệt quốc tịch, nhằm hướng về Tổ quốc đã độc lập thống nhất và tùy khả năng từng người, từng tập thể mà góp phần xây dựng đất nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Trên cơ sở đó phải ra sức tập hợp nhanh chóng lực lượng khoa học kĩ thuật trong cộng đồng, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của phong trào.

Về tổ chức: Liên hiệp Việt kiều trước đây là một tổ chức mạnh và có lịch sử hoạt động lâu, nhưng theo tôn chỉ ủng hộ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, ủng hộ cách mạng miền Nam, hoàn toàn giải phóng, tiến tới thống nhất nước nhà, do đó cũng có sự hạn chế, vì có một số đông Việt kiều còn phụ thuộc nhiều vào chế độ Sài Gòn về mặt quản lý hành chính, về mặt tiếp tế của gia đình, v.v ... rất dễ bị sức ép không dám tham gia Liên hiệp Việt kiều.
Một số khác còn hiểu sai về Đảng Lao động Việt Nam và còn e ngại Chủ nghĩa xã hội. Tổ chức mới phải tránh cho những người đó khỏi mặc cảm khi tham gia, vì vậy Hội Liên hiệp Việt kiều phải cải tổ để trở thành một mái nhà chung cho mọi nguời Việt Nam.

Chúng tôi đã chủ trương thành lập một tổ chức mới, thành viên gia nhập không kể quá khứ, không kể quốc tịch, không kể chính kiến, miễn là người có gốc Việt Nam; và tôn chỉ của tổ chức mới này là đoàn kết tương thân tương trợ, góp phần xây dựng Tổ quốc và góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Pháp (hoặc nước sở tại).

Chính sách trong nước đối với Việt kiều

Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy có một số chính sách mà trong nước cần xem xét ban hành để phù hợp với nguyện vọng của Việt kiều và phù hợp với tình hình mới; những vấn đề mà chúng tôi kiến nghị lúc bấy giờ là: trong nước coi cộng đồng người Việt ở nước ngoài là một bộ phận của dân tộc Việt Nam, không có sự phân biệt nào về quốc tịch và quá khứ, miễn là muốn đóng góp xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất; có chính sách khuyến khích trí thức Việt kiều đem tài năng giúp nước dưới mọi hình thức có thể làm được, có thể về nước hẳn hoặc có thời hạn để giảng dạy, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, v.v..; có chính sách cụ thể cho Việt kiều được về thăm gia đình dễ dàng, được hồi hương hẳn, được đối xử như đồng bào trong nước, không phân biệt và nếu có thể thì có những ưu đãi nhất định như nhà ở và tiền lương cho các trí thức về nước hẳn, dễ dãi để người về nước có thể chuyển tài sản về và đăng ký hộ khẩu, v.v..

Trên cơ sở những phân tích như trên, chúng tôi đã chủ trương xúc tiến chuẩn bị một Đại hội để thành lập Hội người Việt Nam tại Pháp và Liên hiệp Việt kiều tự hòa mình vào cuộc sống mới.

bieutinh2.JPG

Biểu tình 1-5-1975 mừng Việt Nam thống nhất (Ảnh tư liệu trong cuốn "Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Paris)

Chúng tôi chọn tên mới của Hội là có ý tránh cho những người trước đây không tham gia hoặc có thành kiến với Liên hiệp Việt kiều khỏi mặc cảm, mặt khác đây là tên của Tổ chức đầu tiên của người Việt Nam ở Pháp do Nguyễn Ái Quốc sáng lập,chỉ đổi chữ An Nam thành Việt Nam cho phù hợp và cũng không dùng hai từ "yêu nước" để tránh gây mặc cảm, phân biệt đối xử giữa kiều bào với nhau, giữa người trong Hội và người ngoài Hội.
Các Hội thành viên của Liên hiệp Việt kiều cũ sẽ lần lượt tiến hành đại hội trước hoặc sau Đại hội thành lập Hội người Việt Nam để định lại nhiệm vụ và nếu cần thì cũng đổi tên tổ chức, đồng thời cũng xúc tiến thành lập thêm những hội cần thiết nhưng chưa có và mời các tổ chức Việt kiều khác trước đây không thuộc Hội Liên hiệp Việt kiều tham gia Hội người Việt Nam tại Pháp.

Xúc tiến nhanh việc chia Liên hiệp trí thức ra ba tổ chức mới, trước hết là Hiệp hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tại Pháp để sớm tìm ra phương thức đóng góp về khoa học kỹ thuật cho xây dựng đất nước. Tiếp theo sẽ thành lập Hiệp hội Khoa học xã hội và Hội y học Việt Nam tại Pháp.

Cuối năm 1975 tôi xin phép về nước để báo cáo và xin chỉ thị về các chủ trương trên đây, tôi cũng xin được ở lại dịp Tết thăm bộ phận gia đình ở lại miền Nam sau 20 năm xa cách từ ngày tập kết ra Bắc năm 1955.

Về nước tôi đã báo cáo và làm việc với anh Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư, báo cáo với Trưởng ban Việt kiều Trung ương lúc đó là anh Trần Quang Huy. Ngoài ra, trong các dịp tôi được gặp các anh Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, v.v... tôi đều có báo cáo những đề xuất của chúng tôi về chính sách đối với Việt kiều.
Tôi rất mừng là các anh có trách nhiệm trực tiếp giải quyết cũng như các anh lãnh đạo khác đều có ý tán thành cách đặt vấn đề của chúng tôi và hầu hết các vấn đề đều được nhất trí, chỉ trừ vài vấn đề cụ thể được giao cho các cơ quan chuyên môn hữu quan nghiên cứu thêm.

Tôi còn nhớ anh Tố Hữu khi bàn bạc với tôi đã có hai câu nói mà tôi thấy thú vị. Về đề nghị đổi tên Hội người Việt Nam tại Pháp mà không gọi là Hội Việt kiều, bằng thứ giọng Huế của nhà thơ, anh nói: "Đổi tên như rứa là phải, sao lại cứ gọi là Việt kiều, mười lăm năm ấy thân Kiều đã khổ lắm rồi!".

Khi nói về việc không phân biệt quốc tịch, anh lại nói "Tịch là cái chiếu, chiếu thì mở ra cuốn lại lúc nào cũng được. Cái quan trọng không phải là quốc tịch, mà là quốc hồn". Nghe anh Tố Hữu nói, tôi đã liên tưởng tờ báo "Việt Nam hồn" của anh Nguyễn Ái Quốc năm xưa.

Riêng khi gặp anh Nguyễn Duy Trinh - Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao và anh Trần Quốc Hoàn - Bộ trưởng Công an, tôi có nói một điều tâm tư của tôi là đã chứng kiến nhiều trường hợp Việt kiều mà tôi biết rõ có nhu cầu bức xúc về nước gấp, mà phải chờ đợi thị thực quá lâu vì mỗi trường hợp Sứ quán phải báo cáo về nước, được Bộ Công an chấp thuận mới cấp thị thực.

Vì vậy tôi đã kiến nghị một cách hơi "táo bạo" là xin cho tôi được quyền cấp thị thực trước rồi báo cáo sau. Sau khi hai anh trao đổi đã nhất trí cho tôi quyền đặc biệt này và nhờ có việc này mà trong mấy năm ở Pháp nhiều trường hợp yêu cầu của Việt kiều về thị thực được giải quyết nhanh chóng và đã để lại trong kiều bào những cảm tưởng tốt đẹp, về sau bà con vẫn còn nhắc.

Ví dụ có một bác sĩ người Huế đến Sứ quán xin thị thực về nước vì được điện bố ốm nặng và được chúng tôi cấp thị thực ngay nên về đến nhà kịp lúc cụ thân sinh hấp hối đang chờ anh về để trăng trối.

  • Mời theo dõi phần 2: Chân trời 90 không mờ mịt
 
Từ ngày 19-4 đến 02-5 ,TP Hồ Chí Minh sẽ ngăn đường các ngả đường đi vào công viên 30-4 (án ngữ Dinh Độc Lập) để tổ chức mít tinh và các chương trình kỉ niệm đại thắng 30-4.


Thông tin của lễ kỉ niệm chưa có nhưng Hide căn cứ những năm trước thì tin rằng sẽ rất qui mô và đặc sắc.

Mời các bạn thành viên ở gần xa cùng Hide đi dự nhé !
 
Sài Gòn 1975 và những trung đoàn mất tên


Ai cũng biết để có những quân đoàn hùng mạnh phải có những người chiến sỹ. Họ chính là lực lượng chủ yếu quyết định chiến thắng cho sự kiện lịch sử ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên nóc dinh Độc lập, nơi hội tụ của năm cánh quân từ năm hướng tiến vào cũng không khác ngày quân ta từ 5 cửa ô vang ngân câu hát: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về, Như đài hoa đón mừng, nở năm cánh đào". Lịch sử có những trùng hợp thật diệu kỳ. Với bông hoa năm cánh ấy, đất nước mở sang trang mới, hòa bình độc lập ở Thủ đô Hà Nội.

Năm cánh sao đầu là một sự mở đầu cho lịch sử đánh bại quân xâm lược, là tiếng chuông báo hiệu chủ nghĩa thực dân cũ đã cáo chung. Năm cánh sao thứ hai lại là sự thất bại đau đớn của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Phải chăng hình tượng 5 cánh sao Việt Nam tượng trưng cho 5 yếu tố làm nên sự kỳ diệu của vũ trụ mà văn hóa phương Đông hay văn hóa Văn Lang đã đúc kết có sức mạnh long trời chuyển đất.

images9.jpg


Lính chiến ngoài mặt trận gian khổ cái sống cái chết cận kề nhưng những người lính huấn luyện gian khổ cũng không kém. Ảnh tư liệu

Tôi lần giở những trang sử vàng về 5 cánh sao ấy khi tiến về Sài Gòn càng thấy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân ở cái thời khắc lịch sử ấy thật là kỳ diệu. Không tự hào sao được khi sự lớn mạnh ấy như sức mạnh của Phù Đổng. Những Quân đoàn 1 (hướng Bắc), Quân đoàn 2 (hướng Đông Nam; Quân đoàn 3 (hướng Tây Bắc; Quân đoàn 4 (hướng Đông); Đoàn 232 (hướng Tây Nam), đó là những cánh sao của sức mạnh Việt Nam, của trí tuệ Việt Nam. Ai cũng biết để có những quân đoàn hùng mạnh làm nên sự kiện ngàyt 30 tháng Tư phải có những người chiến sỹ. Họ chính là lực lượng chủ yếu quyết định chiến thắng.

Những cánh sao trên thì ai cũng biết, ai cũng hiểu. Mọi người còn hiểu kỹ hơn, chi tiết hơn những đơn vị cấu thành "cơn lốc" ấy. Ngay cả những ai là tư lệnh, ai là chính ủy. Nhưng có điều này chắc còn ít ai biết, đó là một lực lượng đông đảo những người lính làm nên "cơn lốc" kinh thiên động địa mà kẻ thù phải bạt vía kinh hồn kia ở đâu ra, họ được huấn luyện như thế nào?

Hầu hết họ chính là những người lính ở hậu phương miền Bắc, những cô cậu học trò còn ngồi trên ghế nhà trường, là những chàng thanh niên chỉ mới bắt đầu chớm độ tuổi "bẻ gãy sừng trâu". Họ được tuyển vào những đơn vị địa phương với cái tên thật giản dị: Trung đoàn n. thuộc bộ chỉ huy quân sự tỉnh y. Đó chính là nơi cung cấp những chiến sỹ ưu tú làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Thời ấy mỗi tỉnh thành miền Bắc hầu hết như đều có một đơn vị chuyên làm công tác tuyển quân, huấn luyện và chi viện cho chiến trường. Đơn vị ấy là một Trung đoàn thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Bất kể Xuân, Hạ, Thu, Đông hễ chiến trường nào cần là các đơn vị đáp ứng.

Tôi là một cán bộ trẻ, thuộc Trung đoàn 14 Bộ chỉ huy quân sự Thanh Hóa như bao đơn vị của tỉnh, thành miền Bắc ngày ấy.

Chưa rời ghế nhà trường chúng tôi đã là người lính. Có chút văn hóa nên được đơn vị giữ lại làm cán bộ. Nhiệm vụ chính là đi tuyển quân, huấn luyện, chi viện cho chiến trường. Mỗi khóa huấn luyện chỉ có 3 tháng thế là lập tức lên đường. Cán bộ Trung đội mới được vinh dự cầm quân đưa chiến sỹ tới tận chiến hào cho những binh đoàn, những cánh sao của chúng ta.

Cuộc đời anh cán bộ huấn luyện cũng nhiều gian khổ. Lính chiến ngoài mặt trận gian khổ cái sống cái chết cận kề nhưng những người lính huấn luyện gian khổ cũng không kém. Đưa được đơn vị vào chiến trường là cả một chặng đường gian nan vất vả.

Phải tập cho anh em biết bắn súng, biết ném lựu đạn, đánh bộc phá, đó là ba môn bắt buộc. Rồi học chiến thuật từ tiểu đội đến đại đội. Nói nôm na là đánh đồn địch như thế nào, hợp đồng ra sao, cách mang bộc phá phá hàng rào kẽm gai, đánh lô cốt thế nào... tất tần tật là tất cả để chủ động giành chiến thắng.

408.jpg


Ai cũng biết để có những quân đoàn hùng mạnh giải phóng miền Nam phải có những người chiến sỹ. Họ chính là lực lượng chủ yếu quyết định chiến thắng. Ảnh tư liệu


Ngay cái chuyện tập hành quân cũng gian nan vất vả. Ngày ấy không chỉ con trai những "anh bộ đội" ra trận mà cả con gái "chị bộ đội" cũng ra trận. Đơn vị nào cũng có một Tiểu đoàn chuyên huấn luyện cho bộ đội nữ. Tập hành quân là phải đeo sọt rèn (thay cho ba lô). Trọng lượng thì cứ dần nâng lên cho đến khi cao hơn trọng lượng quân tư trang và súng ống mang theo vào mặt trận (gần 40 kg). Thương nhất là những hôm hành quân dài ngày gặp mưa, bão. Cánh con trai thì gian khổ không nói làm gì, cánh con gái thì...nhất là những ngày "của chị em" gian nan vất vả trăm bề. Nhiều lần gặp bão giữa rừng, đến khi về doanh trại thì trắng trời...con gái.

Ngày ấy bộ đội hành quân bộ từ Bắc vào Nam xuyên rừng Trường Sơn mà đi. Ròng rã sáu tháng trời đêm nghĩ ngày đi mới vào đến mặt trận. Sau năm 1972 được tàu, rồi là xe đưa vào tận Quảng Bình, từ đó bắt đầu một cuộc hành quân gian khổ theo các binh trạm để ra mặt trận. Nhiều cán bộ, những bạn bè tôi có đi mà không ngày trở lại bởi trên đường gặp máy bay, gặp giặc, có khi xe bị lật khi vượt đèo cao, suối sâu. Nghĩa là cái chết đến bất kỳ lúc nào.

Trong cuộc đời làm cán bộ huấn luyện, nhớ nhất là cái tiểu đội đầu tiên của tôi. Ngày ấy vào năm 1972. Đây là thời kỳ Tổng động viên. Tất cả cán bộ, sinh viên học sinh đều ra trận. Cái tiểu đội thân yêu đầu tiên của tôi lại toàn là cán bộ, các anh chị lớn tuổi. Có người đã là trạm trưởng một trạm Y tế địa phương. Đa phần đều là cán bộ các cơ quan trong tỉnh.

Cho đến bây giờ tôi không nghĩ, mặc dù ít tuổi nhất, là em út của tiểu đội nhưng lại là "thủ trưởng" của các anh và được các anh quí mến đến thế.

Trong Tiểu đội tôi có anh Tám, người sau này đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận. Tám không phải là người duy nhất trong đơn vị chưa một lần ra thăm Hà Nội. Tuy vậy ở Tám trái tim luôn hướng về Thủ đô. Chả là ngày còn công tác ở Nông trường Sao Vàng, Tám đã yêu một cô giáo người Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp đại học cô được phân công về Nông trường của Tám dạy học. Chuyện tình của họ cũng trầm bổng, lúc thăng, lúc giáng như bản nhạc nhưng chưa đạt đến cao trào. Cô trở về Hà Nội khi "giải yến chưa bắc xong cầu" để chàng được một lần về thăm. Tuy thế, dẫu xa cách nhưng trong tim họ vẫn luôn luôn hướng về nhau.

Đó là câu chuyện tình mà luôn ám ảnh và theo tôi suốt cuộc đời...

Và những ngày mùa xuân 1975 có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có cách huấn luyện "thần tốc" như vậy để chi viện cho chiến trường giành thắng lợi nhanh nhất. Đó là cách vừa đi vừa tập, vừa hành quân ra mặt trận vừa học kỹ, chiến thuật. Trên tấm bản đồ những gọng kiềm càng thít chặt thì chúng tôi những người lính càng khẩn trương tuyern quân huấn luyện và nhanh chonhg ra mặt trận. Chính lực lượng hậu bị này đã làm tốt nhiệm vụ giữ vững vùng giải phóng để lực lượng chính thần tốc, thần tốc tiến lên.

Bây giờ thì những tiểu đội, những con người như vậy, ngay cái cách huyến luyện như vậy chắc chẳng còn ai nhớ. Ngay cả tên Trung đoàn 14 hay Trung đoàn n nào đó của khắp các địa phương trên miền Bắc ngày ấy chắc chỉ còn lại trong ký ức những cựu binh như chúng tôi.

Sau giải phóng các Trung đoàn hầu hết đều giải tán hoặc được sáp nhập vào đơn vị khác. Và cũng không còn nơi để trưng bày những thành tích, những kỷ vật chiến tranh hay những gương mặt của đồng đội, những người có nhiều thành tích xuất sắc.

Thời khắc này chắc cũng chẳng còn ai là người tại ngũ bởi những chiến sỹ nếu nhập ngũ năm 1975 dẫu mang quân hàm đại tá cũng đã đến tuổi về hưu.

Viết những dòng này tôi chỉ muốn đồng đội tôi, những chiến sỹ thầm lặng trên một mặt trận thầm lặng an ủi một điều: Dẫu có người còn người mất, dẫu đơn vị không còn tên, hay không còn ai nhớ nhưng thế hệ các anh đã đóng góp máu xương để có được ngày hôm nay. Các anh mãi mãi mang tên "bộ đội cụ Hồ" những "chiến sỹ ngày ấy" thật bình dị mà cao cả.

Nguồn :Tuanvietnam.net
 
Ký ức tháng Tư và một người không về gõ cử


"Chắc ít hôm nữa sẽ có tin tức của cha con đấy. Cô Cần chiều nay khoe luôn với mẹ, chú Trưởng đi cùng với cha con vẫn còn sống". Tuổi 15, tôi đã nhận ra trong giọng nói của mẹ có điều gì khang khác mà không dám hỏi thêm.

Những ngày Tháng Tư năm 1975, tôi hồi hộp theo dõi tin chiến thắng từ chiếc đài Hồng Đăng cũ rích và cố đoán cha tôi đang ở trong đoàn quân trùng trùng điệp điệp ấy... Trảng Bom, Xuân Lộc, Nguyễn Thành Trung...Chúng tôi nghe thầy Hiệu trưởng phổ biến: Có lệnh của ban Giám Hiệu, tất cả các em phải có mặt đầy đủ tại trường bất kỳ giờ nào, vậy rồi bất ngờ hơn mọi hình dung, trưa 30/4, lũ chúng tôi vừa qua cổng trường, nghe loa phóng thanh rõ mồn một Dưong Văn Minh đang đọc lời đầu hàng, tôi ôm chầm đứa bạn gái thân thiết: Hoà bình rồi, cha mình sắp về rồi.

Tôi oà khóc trước lũ bạn rồi chạy một mạch về nhà, phi ngay chiếc xe Thống Nhất, kỷ niệm của cha để lại khi vào chiến trường B, sang nhà máy của mẹ. Trước cổng nhà máy, đội văn nghệ của các cô các chú đang đánh trống. Bài hát Như có Bác trong ngày vui đại thắng vang lên vui tuơi, náo nức rộn rã khắp nơi. Ngộ nhất là ở xưởng dệt, các cô chú lôi cả thùng phuy ra gõ phèng phèng... mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bụi bông bám đầy tay áo nhưng nụ cười tươi rói, rạng ngời.


VN-flag3.jpg


Ảnh: ST

Chiều ấy, tôi cũng lũ bạn đạp xe đi thông đến 10 giờ tối.Thành phố hồng hào, trẻ lại trong niềm vui thống nhất. Đi đến bất kỳ ngõ phố nào cũng vẫn là bài hát đó, dòng người đó, nụ cười rạng rỡ đó, mà mê say, mà như bay trong nắng gió, trong miệng cười mắt khóc. Rồi muôn ngả vẫn tụ hội về hồn thiêng của Thăng Long Hà Nội - Hồ Gươm lồng lộng cờ bay trên Tháp Rùa cổ kính.

Từng đám học trò bập bùng ghi ta trống phách, hát vang những bài ca chống Mỹ, tiếng hát lan trên sóng nước lung linh: Ta đi trên dường Hà Nội rực rỡ chiến công, đường thênh thang Ba Đình lịch sử đường tấp nập Hoàn Kiếm Đồng Xuân...Cứ như thế, đêm 30/4, Hà Nội hân hoan, vờ oà trong niềm vui bất tận...

Mẹ chờ tôi ở nhà, nhẹ nhàng bảo: "Chắc ít hôm nữa sẽ có tin tức của cha con đấy. Cô Cần chiều nay khoe luôn với mẹ, chú Trưởng đi cùng với cha con vẫn còn sống". Tuổi 15, tôi đã nhận ra trong giọng nói của mẹ có điều gì khang khác mà không dám hỏi thêm. Giường bên bà nội húng hắng ho, trở mình...

Rồi tôi cuốn đi theo những sáng, những chiều tập dượt nghi thức của khối học sinh rước cờ, chuẩn bị cho đại lễ mừng chiến thắng tại sân vận động Hàng Đẫy ngày 15/5, đôi chân nhỏ đi bộ mấy cây số mà như bay từ phố Bạch Mai lên Văn Miếu. Cả thành phố nhộn nhịp, nao nức, cả thành phố hối hả trong nhịp sống mới và chỉ lắng lại về đêm với những mong chờ, hồi hộp một tiếng gõ cửa, một con búp bê và ba lô sau lưng bộ quân phục giải phóng. Một tháng, hai tháng trôi đi, đôi mắt mẹ lặng im, và tôi nghe tiếng thờ dài nén lại của mẹ... không dám hỏi mẹ câu nào...


GDTT-GPMN.jpg


Tất cả ký ức vẫn như mới hôm qua, Ảnh tư liệu


Mùa hè của niềm vui đại thắng, của buồn vui học trò năm cuối cùng chia tay bạn bè bước vào kỳ thi đại học, của những nỗi buồn lo âu phấp phỏng đợi chờ, không dám gọi thành tên của bà, của mẹ, của tôi... Gần 30 năm sau, vẫn tháng Tư, trong khi dòng người cuồn cuộn đổ về đường Nguyễn Huệ, hân hoan chào mừng ngày thống nhất thì tôi đội nắng xuống nghĩa trang Liệt sĩ Bến Dược, rồi đi Cần Đước, Cần Giuộc. Không có gì khác ngoài những hàng bia mộ vô danh im lìm trong tiếng gió ù ù thổi thông thốc... và danh sách các liệt sĩ của địa phương.

Một bà má xã Long Sơn là cơ sở nuôi giấu bộ đội miền Bắc khẽ khàng khuyên tôi: Con à, những liệt sĩ có tên, các má đã báo cho xã đội hết rồi. có người ở Phú Thọ cũng vào đây đưa hài cốt liệt sĩ về. Những liệt sĩ vô danh hi sinh ở đây nhiều lắm, hài cốt các ảnh đều đã tập trung vào nghĩa trang của huyện rồi...

Tôi lặng lẽ trở lại thành phố Hồ Chí Minh... Những con đường đất đỏ năm xưa dẫn vào trung tâm, có biết bao liệt sĩ đã ngã xuống như cha tôi cho ngày thống nhất?Trên đầu tôi, trời phương Nam xanh ngằn ngặt, bỗng nhớ câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: "Thác mà ưng đình miếu để thờ/ Tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ". Đêm 30 /4 năm ấy, cả thành phố tưng bừng không ngủ, và tôi không ngủ nghe bác cả tôi rì rầm kể chuyện về cha tôi " Ngày xưa, bác hay cõng cha cháu đi xem thả diều trên đê... ai dè kẻ Bắc người Nam, thống nhất rồi mới biết tin cha cháu đã hi sinh".

Tất cả ký ức vẫn như mới hôm qua, khi hàng ngày, tôi nhìn ảnh cha trên bàn thờ, vẫn vành mũ bộ đội xanh lá cây gắn sao tròn và nụ cười bất tử.


Tuanvietnam.net
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top