Kiến thức cơ bản bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác

Tác phẩm vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác là một văn bản thuộc chương trình ngữ văn 11. Tác phẩm thể hiện đời sống xa hoa của chúa Trịnh và thái độ khinh thường của tác giả. Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực đặc sắc. Để hiểu sâu hơn về bài học, mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây.


20220729_171858.jpg

I. Khái quát tác giả - tác phẩm

1. Tác giả Lê Hữu Trác
- Cuộc đời: Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, người làng Yên Xá (Yên Mĩ, Hưng Yên). Ông vừa làm nghề thầy thuốc, vừa dạy học. phần lớn cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn bó với quê ngoại Hà Tĩnh.
- Sáng tác:
+ Y học: ông có bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh" gồm 66 quyển, vừa có giá trị về y học lẫn văn học
+ Văn học: ông có “Thượng kinh kí sự” hoàn thành năm 1783, nằm ở cuối bộ “Hải Thượng y tâm tông lĩnh”, miêu tả cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh mà chính ông được tận mắt chứng kiến, từ đó thể hiện thái độ coi thường danh lợi, phẩm cách trong sạch, thanh cao của tác giả.

2. Tác phẩm
- Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nói về việc Lê Hữu Trác lên kinh, được đưa vào phủ chúa để khám bệnh cho Trịnh Cán.
- Bố cục:
+ Từ đầu cho đến “không có dịp”: Quang cảnh phủ chúa.
+ Còn lại: nhân cách của Lê Hữu Trác.

3. Thể loại: ký (ghi lại những sự việc có thật)

II. Tìm hiểu văn bản

1. Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh

a. Quang cảnh
- Đường vào phủ: Mấy lần cửa, mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, ai ra vào phải có thẻ. Con đường đi là những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Vườn hoa trong phủ cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương

- Trong phủ: Nhà Đại Đường, Quyển bổng, Gác tía với đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, sập thếp vàng, võng điều, mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ.

- Nội cung: 5 - 6 lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, giữa phòng có một cái sập thếp vàng, ghế rồng, nệm gấm, đèn sáp, hương hoa ngào ngạt.

=> Ấn tượng về phủ chúa là chốn thâm nghiêm, kín cổng cao tường, vô cùng xa hoa tráng lệ. Màu sắc chủ đạo là màu đỏ, vàng, rực rỡ đua nhau lấp lánh. Cuộc sống trong phủ chúa là cuộc sống hưởng lạc của vua chúa với cung tần, mỹ nữ, cảnh đẹp, món ngon. Không khí trong phủ chúa là một không khí ngột ngạt tù đọng, chỉ thấy hơi người, phấn sáp, đèn nến, “hương hoa ngào ngạt” mà thiếu hẳn sự thanh thoát của khí trời.

b. Cung cách sinh hoạt
- Đến phủ chúa phải có thánh chỉ, có thẻ mới được vào. Để dẫn người vào phủ có một tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường, lính đem cáng đón người thì chạy như ngựa lồng khiến người ngồi trong cáng dù được đón khám bệnh mà như chịu cực hình bị xóc một mẻ khổ không nói hết.

- Phủ chúa có cả một guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập. Những người giữ cửa quyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi, vệ sĩ canh giữ cửa cung, quan truyền chỉ chuyên việc truyền mệnh…Các danh y của sáu cung, hai viện được tiến cử từ mọi nơi ngồi chờ đợi, túc trực ở phòng trà, các phi tần chầu chực xung quanh thánh thượng, người hầu đứng xung quanh thế tử, trong màn là che ngang sân là các cung nhân đứng xúm xít.

- Phủ chúa là nơi quyền uy tối thượng, bởi vậy tất cả những lời xưng hô, bẩm tấu đều phải rất kính cẩn, lễ phép. Trong phủ còn có lệ kị húy rất đặc biệt, kiêng nhắc đến từ thuốc,….

- Khám bệnh cho thế tử phải tuân theo một loạt các phép tắc. Bắt đầu là Tôi nín thở đứng chờ ở xa. Rồi thầy thuốc phải quỳ bốn lạy theo lệnh của quan chánh đường. Lại theo lệnh quan, thầy thuốc già yếu được phép ngồi bắt mạch,…

=> Phủ chúa quả thực không chỉ đẹp lộng lẫy, thâm nghiêm mà còn là chốn uy quyền tối thượng với cung cách sống lễ nghi, khuôn phép tạo nên không khí trang nghiêm, kính cẩn đến ngột ngạt. Tất cả những gì thường chỉ thấy xuất hiện trong cung vua thì nay xuất hiện trong phủ chúa. Chúa được gọi là Thánh thượng, lệnh chúa được gọi là Thánh chỉ,…=> uy quyền lấn lướt vua của chúa Trịnh Sâm.

- Có những chi tiết trong tác phẩm tưởng thoáng qua như ghi chép khách quan đơn thuần song lại bộc lộ một nhãn quan ký sự sâu sắc của tác giả:

+ Chi tiết về nội cung thế tử: đường đi tối om, mấy lần trướng gấm, quang cảnh xung quanh phòng: phòng rộng, giữa là sập thếp vàng,…=> Những chi tiết đó đã nói lên nguồn gốc, căn nguyên của căn bệnh, đồng thời tự nó cũng phơi bày trước mắt người đọc sự hưởng lạc, ăn chơi của phủ chúa.

- Chi tiết thầy thuốc già yếu trước khi khám bệnh được truyền lạy thế tử để nhận lại một lời khen tặng từ một đứa trẻ năm, sáu tuổi: Ông này lạy khéo. Chi tiết này cùng lời chú thích về phòng trà của tác giả dường như thoáng chút hài hước. Người ta khoác cho một đứa trẻ con những danh vị, uy quyền của chốn phủ chúa, song câu ban tặng cho thấy mối quan tâm của thế tử chỉ là lạy khéo mà thôi – vì đó chỉ là một đứa trẻ và tất cả biến thành trò hề.

- Chi tiết Thánh thượng đang ngự, xung quanh có phi tần chầu chực, có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít… tự nó phơi bày hiện thực hưởng lạc nơi phủ chúa mà không cần thêm một lời bình luận nào.

=> Viết kí mà chân thực như viết sử.

2. Thái độ và tâm trạng tác giả khi vào phủ chúa Trịnh

a. Cách nhìn, thái độ của tác giả đối với cuộc sống chốn phủ chúa:
- Thể hiện gián tiếp qua việc miêu tả, ghi chép đầy đủ, tỉ mỉ con đường vào phủ, từ lúc được lệnh truyền cho đến khi y lệnh về chờ thánh chỉ. Sự xa hoa trong bức tranh hiện thực được miêu tả tự nó phơi bày ra trước mắt người đọc.

- Thể hiện trực tiếp qua cách quan sát, lời bình, những suy nghĩ của tác giả. Từng là con quan, biết đến chốn phồn hoa, đô hội, vậy mà tác giả ko thể tưởng tượng được mức độ của sự tráng lệ, xa hoa nơi phủ chúa. Ông nhận xét: “Cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Tác giả còn làm một bài thơ miêu tả sự rực rỡ sang trọng với lời khái quát cuối bài: Cả trời Nam sang nhất là đây. Quan Chánh Đường mời ăn cơm ở điếm Hậu mã là dịp để tác giả mục sở thị sự ăn nơi phủ chúa – toàn của ngon vật lạ, mâm vàng chén bạc lấp lánh sáng: Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.

=> Nhận xét:

+ Ngạc nhiên trước vẻ đẹp cao sang quyền quý.

+ Thờ ơ, dửng dưng với những quyến rũ vật chất, không đồng tình với cuộc sống no đủ nhưng thiếu khí trời và tự do

b. Tâm trạng của tác giả khi kê đơn cho thế tử:
- Hiểu rõ căn bệnh của thế tử
- Bắt được bệnh rồi nhưng chữa thế nào đây lại là một cuộc đấu tranh giằng co bên trong con người Hải Thượng Lãn Ông:

+ Người thầy thuốc hiểu rõ bệnh của thế tử và tìm cách chữa từ cội nguồn gốc rễ. Nhưng nếu chữa khỏi sẽ bị danh lợi ràng buộc, ko thể về núi.

+ Ông nghĩ đến phương thuốc hòa hoãn, chữa bệnh cầm chừng vô thưởng vô phạt.

+ Song y đức, trách nhiệm nghề nghiệp, lương tâm, tấm lòng đối với ông cha và phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã lên tiếng => Ông dám nói thẳng và chữa thật căn bệnh của thế tử => Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của chính mình mặc dù ko thuận với số đông.

- Những phẩm chất tốt đẹp của Lê Hữu Trác

+ Đó là một người thầy thuốc giỏi, già dặn kinh nghiệm, có lương tâm và đức độ.

+ Một nhân cách cao đẹp, khinh thường danh lợi, yêu thích tự do.

III. Tổng kết

1. Nội dung
- Vẽ lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của phủ chúa Trịnh
- Thái độ coi thường danh lợi của tác giả

2. Nghệ thuật
- Tài năng, sự quan sát tinh tế
- Ngòi bút ghi chép chân thực, chi tiết, sắc sảo

3. Ý nghĩa
Đoạn trích phản ánh quyền lực to lớn của Trịnh Sâm, cuộc sống xa hoa trụy lạc trong phủ chúa, đồng thời bày tỏ thái độ khinh thường của tác giả.

Sưu tầm
 
Sửa lần cuối:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top