Chia Sẻ Địa Lý Du Lịch -Tài liệu môn học

Hide Nguyễn

Du mục số
Vùng du lịch Bắc Bộ


Phần 1: Vị Trí Địa Lý Vùng Tự Nhiên

1.Giới thiệu chung về vùng du lịch Bắc Bộ

Khi nhìn quả địa cầu tròn trịa, tại vùng Đông Nam Châu Á, Việt Nam chúng ta khiêm tốn một dải đất hình chữ S ôm lấy, che chở bán đảo Đông Dương lưng quay ra biển Đông. Từ lâu thế giới đã biết đến Việt Nam, bằng chứng là các hoạt động thương mại diễn ra tại Hội An những năm thế kỷ XVI-XVII. Thời gian này Việt Nam chỉ được biết đến như là một nơi có thể tìm được những sản vật quý hiếm. Suốt 90 năm (1885-1975), thế giới biết đến Việt Nam như là một biểu tượng bất khuất của các dân tộc bị áp bức trên thế giới đã kiên cường chống lại những đế quốc hùng mạnh trên thế giới.

Ngày nay, Việt Nam ngày càng trở nên nổi bật trên trường quốc tế về khả năng phát triển mạnh về mọi mặt, trong đó du lịch là một lĩnh vực được dành nhiều ưu ái. Với lợi thế thiên nhiên cùng những cảnh quang độc đáo và các di tích khảo cổ đặc sắc đã và đang thu hút du khách vào Việt Nam ngày càng đông.

Vị trí địa lý cùng với sự phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã tạo cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích đất liền là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp và tập trung chủ yếu ở phía Bắc Việt Nam. Trong số những đỉnh núi cao của Việt Nam có đỉnh Fansipan (Lào Cai) cao nhất 3.143m được mệnh danh là nóc nhà của Đông Dương.

Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ (tả ngạn sông Hồng) có các nếp núi uốn dạng hình cánh cung bao quanh khối núi vòm sông Chảy, mở rộng về phía Tây Bắc quay mặt lồi về hướng Đông, một đầu chụm lại ở Tam Đảo. Các cánh cung đó là Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều. Địa hình toàn khu vực co hướng nghiêng là Tây Bắc-Đông Nam. Phía tây Bắc giáp biên giới Việt Trung có một số đỉnh núi cao trên 2.000m như Tây Côn lĩnh cao 2.431m, Kiều Liên Ti cao 2.403m, Pu Ta Ca 2.274m. Vùng du lịch Bắc bộ có những núi non hùng vĩ, những cánh rừng bạt ngàn với những rừng nhiệt đới nguyên sinh nổi tiếng - xa là dãy Hoàng Liên Sơn, gần hơn là Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), Cúc Phương (Ninh Bình). Rừng đặc biệt phong phú về chủng loại động và thực vật, trong đó có nhiều loại quý hiếm, được ghi vào sách đỏ của thế giới.

Gắn với rừng là vùng hang động Karstơ, cũng là một đặc trưng của vùng du lịch Bắc Bộ. Hang động có rất nhiều ở các vùng núi đá vôi rất nổi tiếng và có ở nhiều tỉnh như vùng hang động tỉnh Ninh Bình (Bích Động, Địch Lộng..) Hà Tây (Hương Sơn), Phú Thọ (Xuân Sơn), Lạng Sơn (Nhất, Nhị, Tam Thanh) vùng hang động trên các đảo đá vôi vùng Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà (Hải Phòng) cũng nổi tiếng.

Cùng với cảnh đẹp núi rừng, hang động, khí hậu vùng du lịch Bắc Bộ cũng rất đặc biệt, quanh năm ánh nắng chan hoà, với ba mùa (Xuân, Hè và Thu).

Hiện nay song song với việc phát triển nền công nghiệp thì du lịch cũng được xem là nghành kinh tế mũi nhọn. Vùng du lịch Bắc Bộ ngày nay được chia thành 5 vùng du lịch chính của các tỉnh phía Bắc:

_Vùng du lịch trung tâm (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình).
_Vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng).
_Vùng du lịch miền núi Đông Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn).
_Vùng du lịch miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Phú Thọ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La).
_Vùng du lịch Nam Bắc Bộ (Nam Định, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam).
 
2-Cơ Cấu Tài Nguyên Tự Nhiên​


2.1-Tiểu Vùng du lịch trung tâm (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình).

Có lẽ không một ai trong chúng ta dù ở bất cứ địa phương nào lại không có cảm giác thân thuộc khi nói đến vùng đồng bằng trung tâm Bắc Bộ, nhũng cảnh vật của đồng bằng đó đã đến với chúng ta qua từng bài học. Những cánh đồng rộng rãi, những làng mạc nằm sau lũy tre, những cây đa cổ thụ đứng một mình nơi cổng làng quanh năm che chở tỏa bóng mát cho bao người dừng chân. Đây là miền đất được giành giật từ biển do sức lao động bồi đắp cần cù nhẫn nại của sông Hồng qua hàng triệu năm cùng với bàn tay lao động của con người. Vùng du lịch Bắc Bộ gắn liền với vùng tam giác châu thổ sông Hồng - Thái Bình - một vùng văn hoá lúa nước nổi tiếng của Việt Nam và vùng biển rộng với nhiều hải cảng tốt, bãi biển đẹp và tài nguyên biển phong phú. Đây là nơi tập trung nhiều nhất các giá trị văn hóa, những dấu tích xưa còn lưu lại nơi hoàng thành Thăng Long, những làn điệu dân ca quan họ vùng Bắc Ninh tiêu biều cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ như mời gọi níu chân du khách.

2.1.1-Hà Nội

Tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên ở phía bắc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở phía tây. Hà Nội có khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30km. Ðiểm cao nhất là núi Chân Chim: 462m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc phường Gia Thụy (quận Long Biên) 12m so với mặt nước biển.Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước

2.1.2-Vĩnh Phúc

Là tỉnh thuộc miền núi trung du Bắc bộ, cách thủ đô Hà Nội 60km về phía bắc, tiếp giáp các tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên về phía bắc; phía đông và đông nam giáp Hà Nội, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía nam và tây nam giáp Hà Tây.

Nền kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây đã dần đi vào ổn định. Năng suất cây trồng khá, chăn nuôi gia súc, thủy sản phát triển ở hầu hết các địa phương của tỉnh. Thiên nhiên đã tạo cho Vĩnh Phúc nhiều cảnh quan kỳ thú như Tam Đảo, Tây Thiên, hồ Đại Lải... trong đó vùng núi Tam Đảo khí hậu mát mẻ, là nơi nghỉ mát

2.1.3-Bắc Ninh

Là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ. Phía bắc giáp Bắc Giang, phía đông và Dông Nam giáp Hải Dương, phía Tây giáp Hà Nội, phía Nam giáp Hưng Yên.

2.1.4-Hải Dương

Là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, phía bắc và tây bắc giáp Bắc Ninh và Bắc Giang, phía đông giáp Hải Phòng, Quảng Ninh, phía tây giáp Hưng Yên, phía nam giáp Thái Bình

2.1.5-Bắc Giang

Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía tây và tây bắc giáp Hà Nội, Thái Nguyên, phía nam và đông nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh

2.1.6-Thái Bình

Thái Bình là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, là một trong những vựa lúa của miền Bắc. Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Hải Dương và Hải Phòng, phía đông giáp biển Đông, phía tây và tây bắc giáp Hà Nam và Hưng Yên, phía nam giáp Nam Định.

2.1.7-Dân tộc

Việt (Kinh), Sán Dìu, Sán Chay, Tày, Hoa, Nùng, Mường, Dao, Thái, Ra Glai.......

2.2 Tiểu Vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng)

Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Trước đó Hạ Long đã hấp dẫn biết bao du khách từ khắp nơi trên thế giới. Hiện nay cùng với khu du lịch đảo Tuần Châu, vịnh Hạ Long đang đón lượng khách du lịch đáng kể trở thành một điểm đến, một chặng dừng không thể thiếu của du khách.

2.2.1-Quảng Ninh

Phía bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 132,8km và tỉnh Lạng Sơn. Phía tây giáp Bắc Giang, Hải Dương, phía nam giáp Hải Phòng. Phía đông nam giáp biển Ðông với 250km bờ biển.

2.2.2-Hải Phòng

Thành phố biển Hải Phòng, một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, nằm bên bờ biển Đông - Thái Bình Dương; phía bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Thái Bình.

2.2.3-Dân tộc:

Việt (Kinh), Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Hoa, Tày, Nùng...

2.3.Tiểu Vùng du lịch miền núi Đông Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, lạng Sơn, Bắc Cạn)

2.3.1-Thái Nguyên

Là tỉnh miền núi và trung du nằm ở phía đông bắc Việt Nam. Phía bắc giáp Bắc Kạn, phía tây và tây nam giáp Tuyên Quang và Vĩnh Phúc, phía đông và đông nam giáp Lạng Sơn và Bắc Giang, phía nam giáp Hà Nội.

Thành phố Thái Nguyên nằm trên quốc lộ số 3 (Hà Nội - Cao Bằng). Đường sắt từ đây nối liền với hệ thống đường sắt của cả nước. Thành phố Thái Nguyên cách trung tâm Hà Nội là 80km.

2.3.2-Hà Giang

Phía bắc tỉnh Hà Giang giáp Trung Quốc (chiều dài đường biên 274km), phía đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp Yên Bái và Lào Cai, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang.

2.3.3-Cao Bằng

Là một tỉnh miền núi ở phía bắc Bắc bộ. Phía bắc và phía đông Cao Bằng giáp Trung Quốc, phía tây giáp Tuyên Quang và Hà Giang, phía nam giáp Bắc Kạn và Lạng Sơn.

2.3.4-Lạng Sơn

Là một tỉnh nằm ở biên giới phía bắc có đường biên giới với Trung Quốc dài 253km. Phía bắc Lạng Sơn giáp tỉnh Cao Bằng, phía nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía tây, tây nam giáp tỉnh Bắc Cạn và Thái Nguyên.

2.3.5-Bắc Cạn

Bắc Cạn là tỉnh thuộc miền núi và trung du,phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông Nam giáp Lạng Sơn, phía Tây giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Thái Nguyên.

2.3.6-Dân tộc:

Việt (Kinh), Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao, Sán Chay, H'Mông

2.4. Tiểu Vùng du lịch miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Phú Thọ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La)

Những người dân ở đồng bằng khi ngồi trên xe lửa từ Hà Nội lên Lào Cai, dù không biết rằng mình đang đi dọc theo rìa phía Đông của miền Tây Bắc thường vẫn thấy mặt trời lặn thật nhanh trên những đỉnh núi cao dốc đứng phía Tâ, không để hoàng hôn có thì giờ nhường chỗ cho đêm đến. Nhưng dù vậy bầu trời vẫn còn đủ sáng lờ mờ để hình dáng những dãy núi cao đồ sộ và im lìm in trong mắt du khách. Bên kia dãy núi ấy là Tây Bắc. Ngày xưa vùng Tây Bắc là nơi hoang vu ít người đến, chính người Pháp cũng công nhận miền này là nơi sự thống trị của Pháp lỏng lẻo nhất, nhưng cũng chính tại đây, họ đã điên cuồng bám giữ một thung lũng trong tuyệt vọng tại một cứ điểm mang tên: Điện Biên Phủ.

Ngày nay du khách đến miền Tây Bắc không chỉ tìm về nơi chiến trường xưa mà còn để khám phá nét độc đáo của lãnh thổ này: những tiếng gầm thét hung hãn nhưng bất lực của dòng thác muốn vượt qua ngưỡng đá trên song, cảnh quang thay đổi liên tục và thường là đột ngột trên đường đi.

2.4.1-Hoà Bình


Là một tỉnh miền núi, cách Hà Nội trên 70km về phía tây nam theo quốc lộ 6. Phía bắc Hoà Bình giáp Phú Thọ và Hà Tây, phía nam giáp Ninh Bình và Thanh Hoá, phía đông giáp Hà Tây và Hà Nam, phía tây giáp Sơn La.

Sức hấp dẫn du khách của Hoà Bình, một vùng đất đa dân tộc, là giá trị nhân văn đa dạng, phong phú của cộng đồng cư dân.

Du khách sẽ được thưởng thức món ăn dân tộc, đặc sản cơm lam, thịt nướng rượu cần và xem các tiết mục cồng, chiêng, trống đồng, hát ví Mường, hát Khắp Thái, hòa nhập vào đêm Hội xòe, ngủ nhà sàn dân tộc, mua hàng dệt thổ cẩm và các lâm thổ sản quý... tại những bản Thái cổ

2.4.2-Phú Thọ

Là tỉnh thuộc miền núi trung du Bắc bộ. Phía bắc giáp Tuyên Quang và Yên Bái; phía đông giáp Vĩnh Phúc; phía đông nam giáp Hà Tây; phía tây giáp Sơn La; phía nam giáp Hoà Bình.

2.4.3-Điện Biên

Là tỉnh được tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ, nằm ở phía nam sông Đà. Địa hình Điện Biên có nhiều dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam. Lòng chảo Mường Thanh ở Điện Biên lớn nhất vùng Tây Bắc. Phía bắc Điện Biên giáp tỉnh Lai Châu, phía đông nam giáp Sơn La, phía tây bắc và tây nam giáp Lào.

Tỉnh có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là cụm di tích lịchsử Điện Biên Phủ, với chiến thắng chấn động địa cầu năm 1954.

Từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ, nếu đi đường không, chỉ sau một giờ bay, bạn đã có mặt ở Điện Biên. Nếu đi theo đường bộ, bạn sẽ đi hàng trăm ki lô mét đường đèo dốc và nhất thiết phải vượt đèo Pha Đin dài 32km. Với độ cao trên 1.000m, khi lên dốc, lúc xuống dốc, con đường ngoằn ngoèo, chênh vênh, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm, lại nhiều "cua tay áo" hiểm trở. Vượt đèo Pha Đin là cuộc hành trình lý thú cho du khách trên vùng núi non hùng vĩ.

2.4.5-Lào Cai

là một tỉnh vùng cao biên giới, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía nam giáp Yên Bái và Sơn La.

2.4.6-Yên Bái

Là tỉnh nằm sâu trong nội địa nhưng lại là cửa ngõ của miền Tây Bắc, là đầu mối giao thông giữa đông bắc và tây bắc, giữa cửa khẩu Lào Cai và Hà Nội. Phía bắc tỉnh Yên Bái giáp Lào Cai, Hà Giang, phía tây nam giáp Sơn La, phía đông giáp Tuyên Quang, phía nam giáp Phú Thọ.

2.4.7-Sơn La

Sôn La nằm ở phía tây bắc Việt Nam, có nhiều núi cao, phía bắc giáp Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, phía tây giáp Điện Biên, phía đông giáp Phú Thọ và Hoà Bình, đông nam giáp Thanh Hoá và Hoà Bình, phía nam giáp Lào. Thị xã Sơn La cách Hà Nội 328km theo quốc lộ 6.

2.4.8-Dân tộc

Việt (Kinh), Mường, Thái, Tày, Dao, Sán Chay, H'Mông

2.5. Tiểu Vùng du lịch Nam Bắc Bộ ( Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hóa)

2.5.1-Nam Định

Là một tỉnh phía nam châu thổ sông Hồng. Phía bắc và đông bắc giáp Hà Nam, Thái Bình, phía tây giáp Ninh Bình, phía đông nam giáp biển Đông với bờ biển dài 72km.

2.5.2-Ninh Bình

Là tỉnh ở phía nam của vùng đồng bằng Bắc bộ, nơi tiếp giáp và ngăn cách miền Bắc với miền Trung bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ. Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Hòa Bình và Hà Nam, phía nam giáp tỉnh Thanh Hoá và biển Đông, phía đông giáp tỉnh Nam Định, phía tây giáp Thanh Hóa.

2.5.3-Hà Nam

Là tỉnh ở phía nam châu thổ sông Hồng, cửa ngõ phía nam của thủ đô Hà Nội. Phía bắc tỉnh Hà Nam giáp Hưng Yên và Hà Tây, phía đông giáp Thái Bình, phía tây giáp Hoà Bình, phía đông nam và nam giáp Nam Định và Ninh Bình.

2.5.4-Thanh Hóa

Đất đai Thanh Hóa ít đồng bằng nhưng nhiều rừng núi, chia tỉnh thành từng vùng. Núi rải rác khắp nơi, độ cao từ 200-1.300m(3,900ft). những dãy núi đáng kể: dãy núi Tam Điệp chạy dài phía Bắc, giáp ranh giới với Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình và Nam Định; dãy núi Pulông phía Tây, dãy núi Quỳnh Lưu phía Nam, phía Đông có núi Lao, Ba Làng.

2.5.5-Dân tộc


Việt (Kinh), Tày, Mường, Hoa, Sán rìu, Nùng,...
 
PHẦN 2 :TÀI NGUYÊN DU LỊCH CỦA VÙNG


I.Tài Nguyên Tự Nhiên


1.1Tiểu Vùng du lịch trung tâm (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình).

1.1.1-Địa hình du lịch của vùng.

Vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ gồm các tỉnh Hà Nội,Hải Dương,Hưng Yên,Thái Bình,Bắc Ninh,Bắc Giang,Hà Tây,Vĩnh Phúc. Đây là tiểu vùng du lịch thuộc đồng bằng sông Hồng. Địa hình của vùng nhìn chung thuộc kiểu địa hình vùng đồng bằng và đồi núi thấp.

1.1.1.1-Địa hình đồng bằng

Đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của các con sông đặc biệt là 2 con sông lớn:sông Hồng và sông Thái Bình.

Nhìn chung các tỉnh vùng trung tâm Bắc Bộ có địa hình đồng bằng khá bằng phẳng. Độ cao trung bình từ 5-20m so với mực nước biển(Hà Nội),từ 2-3m (Hải dương,Thái bình,Vĩnh phúc,Bắc ninh). Địa hình của vùng nghiêng và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam theo hướng chung của địa hình và cũng theo hướng của dòng chảy sông Hồng. Địa hình bằng phẳng đất đai màu mỡ do lớp bồi tích phù sa của sông Hồng và các phụ lưu nên rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển các loại cây nông nghiệp.

Cùng nằm trong vùng trung tâm như Hà tây, Hưng yên,Bắc giang thì địa hình đồng bằng không bằng phẳng và có những đặc điểm phân dị khác nhau theo từng khu vực. Ơ Hưng yên độ dốc trung bình là 8 cm/1km.

1.1.1.2-Địa hình đồi núi

Phần lớn các tỉnh trung tâm Bắc Bộ có địa hình đồi núi thấp và trung bình như dãy Sóc Sơn với đỉnh cao nhất là Chân Chim-462m Ba vì(Hà tây). Đặc biệt ở tỉnh Hải Dương phần đồi núi thấp có diện tích 140 km2, thuộc 2 huyện Chí linh và Kinh môn. Độ cao trung bình 1000m. đây là khu vực được hình thành trên miền núi tái sinh có nền địa chất trầm tích trung sinh. Tiêu biểu là dãy núi Huyền Đỉnh với đỉnh cao nhất là Dây diều 618m,ngoài ra có Đèo Chê-533m,núi Đai-508m,dãy Yên phụ chạy dài 14 km vớiđỉnh cao nhất là Yên phụ –246m. ở Vĩnh phúc có dãy núi Tam đảo với đỉnh cao 1591m dài khoảng 60km với khu nghỉ mát cùng tên nổi tiếng nằm ở độ cao 879m. địa hình đồi núi thấp phù hợp với việc trồng các loại cây công nghiệp.

1.1.1.3-Địa hình Karsto

Vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ chỉ có duy nhất tỉnh Hà Tây là mang rõ nét nhất kiểu địa hình karsto,nhưng cũng chỉ chiếm diện tích nhỏ chừng 60 km2 so với diện tích toàn tỉnh. Địa hình karsto của tỉnh Hà tây thuộc các huyện Chương Mỹ và Mỹ Đức. Tuy chỉ chiếm diện tích nhỏ nhưng khu vực núi đá này rất nổi tiếng về du lịch và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng. Địa hình karsto ở đây chia làm 2 dải ,một từ miếu môn đến chợ Bến,hai là dải đá vôi Hương Sơn. Địa hình karsto ở Hương Sơn kéo dài từ Đục khuê đến chùa Thiên Trù,động Hương tích với các chỏm núi có dạng tháp,dạng nón điển hình cho karsto của nhiệt đới,trong đó có nhiều hang động kỳ thú. Nổi tiếng nhất là động Hương tích cửa động rộng 33,6m. trong hang rất nhiều các dạng tích tụ măng đá,mành đá,chuông đá rất đẹp như “Đụn gạo”,”Cây vàng”…hang chùa Giải oan rộng 9,2m dài 7m cao 7m trong hang có giếng Tiên sâu 1,2m. ngoài ra còn có hang Thiên sơn, hang nước.
Các đỉnh núi đá vôi có độ cao sàn sàn,đỉnh cao nhất ở núi Thiên trù-378m. trong khu vực địa hình karsto rất phát triển các cánh đồng và thung lũng karsto. Các cánh đồng karsto đáng kể là cánh đồng Vĩnh Lăng,đục khuê,Hồi xá. Các cánh đồng ngày thường lầy thụt rất khó qua lại.

1.1.2-Sinh vật

Nhìn chung thảm động thực vật của vùng trung tâm Bắc Bộ không nhiều song nếu biết bảo tồn và khai thác bảo vệ hợp lý thì đây cũng sẽ là cái nôi cung cấp cho ngành du lịch nói riêng và 1 số các ngành kinh tế khác một khối lượng nguồn tài nguyên sinh vật tương đối lớn cụ thể là. Hiện nay ở nội thành Hà nội đã có hệ thống cây xanh với 46 loài khác nhau như:sấu,phượng,hoa sữa,bằng lăng,xà cừ…trồng trên khắp các đường phố. hà nội có 48 vườn hoa,công viên với tổng diện tích 138,3 ha và 377 ha thảm cỏ. Ơ Hà nội còn có các làng hoa và cây cảnh như Nghi tàm, Ngọc hà,Quảng bá …vốn rất nổi tiếng.

Ơ Hà tây tập trung vùng đồi gò và khu vực núi Ba vì với gần 2000 ha rừng tự nhiên 7800 ha rừng trồng. Rừng Hà tây có nhiều loài chim, thú và có nhiều loại cây gỗ quý đặc biệt tập trung ở vườn quốc gia Ba vì.

Ơ Hải Dương nguồn tài nguyên sinh vật quan trọng nhất của tỉnh là rừng Chí Linh với diện tích 1800 ha. Đây là kiểu rừng ẩm thường xanh ở đai núi thấp. Thành phần loài ở rừng Chí Linh khá phong phú và đa dạng gồm:117 họ,304 chi, 400 loài thực vật (103 loài cây cho gỗ như lát hoa,lim xanh,tán mật,128 loài cây dược liệu, 9 loài thực vật quý hiếm,13 loài cây làm cảnh) rừng Chí Linh còn có một số loài động vật quý hiếm: Gà tiền mặt vàng, Sáo mỏ gà, Cu ly lớn, Ech xanh, Tắc kè, Kỳ đà hoa, Chăn mốc.

Đặc biệt ở Vĩnh Phúc có vườn quốc gia tam đảo với trên 620 loài thân gổ và thân thảo có cả gỗ quý như pơ nu, nhiều loại cây thuốc và một số loại rau có giá trị. Động vật hoang rã trên núi tam đảo có rất nhiều loại: chim có tới 120 loài( Vàng anh, sơn tiêu trắng, sơn tiêu đỏ, gà tiền, gà nôi, họa mi, khiếu, bách thanh, đa đa, phượng hoàng đất) thú rừng có khoảng 45 loài( báo gấu vượn nai, hoãng, sơn dương …) đáng chú ý có một số loài thuộc diện quý hiếm trên thế giới như cầy mực, sóc bay, vượn…

1.1.3-Khí hậu:

Nhìn chung vùng trung tâm bắc bộ khí hậu của vùng mang nét chung nhất của khí hậu miền bắc Việt Nam: nhiệt đới ẩm, gió mùa , có mùa đông lạnh điển hình. Khí hậu có hai mùa rõ rệt: mùa đông gió lạnh, khô hanh kéo dài 4 –5 tháng ( từ tháng 10- 4). Thời tiết vào mùa này khá lạnh, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là tháng 1 với 16 độ C, đồng thời cũng là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất 16 – 18 mm, độ ẩm đạt 81%. Mùa hạ từ tháng 5 – 10 nóng ẩm mưa nhiều với gió chủ yếu hướng đông nam. Vào mùa này nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là tháng 7 sấp sỉ 29 độ C. Mưa nhiều chiếm tới 85% lượng mưa toàn năm. Mưa lớn nhất vào tháng 8 lượng mưa trung bình 300 –350mm, gây ngập lụt ở vùng đồng bằng và sói mòn rửa trôi mạnh ở vùng đồi núi thấp. Nhiệt độ trung bình năm của vùng đạt từ 23 – 24 độC tổng nhiệt độ hàng năm là 8500 –8700 độC. Độ ẩm trung bình năm giao động 80 – 90% và cũng ít thay đổi theo các tháng thường chỉ giao động trong khoảng 81 –86 %. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1600 –1800mm, số giờ nắng khoảng 1700- 1800 giờ/năm.

Một nét đặc biệt về khí hậu của vùng chung tâm bắc bộ nói riêng và khí hậu của toàn miền bắc nói chung là khí hậu được chia làm bốn mùa rõ rệt:

+Mùa xuân ( tháng1-3) có mưa phùn, thời tiết khá đẹp thuận lợi cho việc phát triển du lịch và tổ chức các lễ hội thu hút khách du lịch.

+Mùa hạ ( tháng 4-7) mưa lớn thời tiềt nóng phát triển các hoạt động du lịch như tắm biển du lịch trên núi…

+Mùa thu ( tháng 8-10) thời tiết mát mẻ.

+Mùa đông (tháng 10- 12) nhiệt độ thấp khô hanh phát triển du lịch trên núi
Như vậy so với chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người thì khí hậu ở vùng trung tâm Bắc bộ khá thuận lợi để thu hút ru khách trong và ngoài nước với các hoạt động du lịch phong phú đa dạng. Mặt khác với điều kiện khí hậu như vậy rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển các loaị cây nông nghiệp và công nghiệp trong vùng.

1.1.4-Tài nguyên nước

1.1.4.1-Sông


Vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2 hệ thống sông lớn là sông Hồng và sông Thái Bình .Sông Hồng chảy qua hầu hết các tỉnh thuộc vùng du lịch trung tâm Bác Bộ . Ngòai 2 hệ thống sông chính là sông Hồng va sông Thái Bình còn có các con sông nhỏ va phụ lưunhư : sông Cầu , sông Thương ( chảy qua Bắc Ninh , Bắc Giang ), sông Dáy , sông Cà Lồ(chảy qua Vĩnh Phú), sông Tích , sông Tô Lịch chảy quaHà Tây , Hà Nội … .Các coin sông này có tác dụng rất lớn đến việc phát triển kinh tế của từng tỉnh . Sông không chỉ cung cấp nước tưới , nước sinh họat cho nhân dân mà hàng năm còn cung cấp một lượng phù sa lớn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp , trồng các lọai cây hoa màu mang lại sản luợng lớn cho họat động sản xuất nông nghiệp của vùng

Mặt khác với hệ thống sông ngòi dày đặc còn là cầu nối cho các tuyến giao thông đừơng thủy tạo thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh

Chế độ nước của vùng phân phối thành 2 mùa rõ rệt : mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 10, tập trung 70 đến 80 %tổng lượng nước cả năm . Cao điểm cuả mùa lũ thường vào tháng 7 tháng 8. Mùa cạn từ tháng 10 đến tháng 5

1.1.4.2-Hồ

Nhìn chung các tỉnh của vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có một lượng lớn về hồ. Đặc biệt là Hà Nội , Vĩnh Phúc . Hà Nội được xem là thủ đôcó nhiều hồ trên thế giới với 3600 ha hồ , đầm , trong đó có 27 hồ , đầm lớn như Hồ Tây , Trúc Bạch , Giảng Võ , Hòan Kiếm , Thủ Lệ.

Hồ Tây

Ở Vĩnh Phúc có hồ Đại Lải hình thành trên cơ sở một hồ chứa nước nhân tạo , để đảm bảo nước tưới cho gần 3000 ha đất canh tác xung quanh sườn phía Nam của chân núi Tam Đảo . Hồ rộng 525 hamặt hồ có độ cao trung bình là 21,5 m chứa đựơc 30,4 triệu m3. Khi mực nước hạ thấp trong lòng hồ xuất hiện nhiều đảo nhỏ. Hồ Đại Lải là một trong những điểm du lịch thu hút du khách đặc biệt là du lịch cuối tuần cho người dân thủ đô .

Ngòai một số hồ lớn thì trong vùng còn có những hồ nhỏ như : hồ Bến Tắm (35 ha),hồ Tiên Sơn (50 ha) ỏ tỉnh Hải Dương , hồ Suối Hai , Hồ Đồng Mô thuộc tỉnh Hà Tây…

Ngòai nguồn nước mặt dồi dào của các sông hồ , một số tỉnh trong vùng còn có nguồn nước ngầm phong phú thuận tiện cho việc phát triển công nghiệp và đô thị như ở Hà Nội , Vĩnh Phúc , Hà Tây . Nhũng tỉnh này có nguồn nứơc ngầm có tiềm năng lớn , trữ lượng khai thác hàng triệu m3. Đặc biệt ở tỉnh Thái Bình có nguồn nước khóang thiên nhiên ở độ sâu 450m , trữ lượng lớn thuộc huyện Tiền Hải . Ở đây đã xây dựng nhà máy nước khóang đóng chai Vital. Ngòai việc khai thác phát triển kinh tế , nguồn nước khóang này có thể trở thành nơi nghỉ dưỡng , chữa bệnh thu hút khách du lịch trong và ngòai nước

1.1.5-Tác động thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên tự nhiên

1.1.5.Thuận lợi

Vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có rất nhiều cảnh đẹp . Cảnh thiên nhiên ở đây không có vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh núi rừng như ở thị trấn Sapa ở độ cao 1500m , nhưng cảnh thiên nhiên ở đây rất thơ mộng tĩnh mịch trong các cánh rừng già nguyên sinh như ở vườn Quốc Gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì ở Hà Tây với hệ sinh thái rừng ngập nhiệt đới rất điển hình có thể làm thỏa mãn trí tò mò của các du khách va lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học . Cảnh đẹp của vùng không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp thơ mộng , tĩnh mịch mà vẻ đẹp còn mang nét bí hiểm ,lạ mắt bởi kiểu địa hình Karsto của hang động Hương Sơn ( Hà Tây) được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động “, khiến khách du lịch ai mà chả muốn đến dù chỉ là một lần .

Khí hậu của vùng ấm áp trong lành , rất thích hợp với mọi họat động du lịch và có thể khai thác được quanh năm . Mùa hè nóng bức thích hợp cho dòng người đi du lịch nghỉ mát , tắm biển …. Mùa đông hấp dẫn du khách bởi các họat động du lịch dã ngọai , leo núi.

Hơn nữa với hệ thống sông ngòi dày đặc mà vùng có được là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán , trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh trong vùng
Đặc biệt vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có số lượng dầm hồ lớn nhất cả nước . Đây là một lợi thế của vùng và quan trọng hơn là nhiều hồ trong vùng là những điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia.

Hồ Tây là một hồ tự nhiên hình thành từ một khúc uốn của sông Hồng trước đây. Hiện nay hồ Tây như là một lá phổi của thủ đô Hà Nội bởi cảnh quan ở đây rất đẹp : mặt hồ khi thì phẳng lặng như mặt gương , khi tjì phủ kín sương mù , khi thi nổi sóng to . Nhờ có mặt nước rộng , Hồ Tây có tác dụng điều hòa khí hậu : mùa hè bớt nóng nực , mùa đông như ấm áp hơn. Hồ tây là khu vui chơi giải trí rất thuận lợi cho nguời dân thủ đô và khách du lịch.

Hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc ) có phong cảnh thiên nhiên đẹp , khí hậu rất thuận lợi : mùa hè mát mẻ , mùa đông ấm áp , lượng mưa hàng năm thấp , khỏang 1300- 1400 mm , số ngày mưa ít phù hợp với nhiều loại hình du lịch trong suốt cả năm.hơn nữa hồ Đại Lải có vị trí rất thuận lợi cho du khách đi từ Hà Nội và các vùng phụ cận, chỉ cách Hà Nội có 50 km và rât gần sân bay Quốc tế Nội Bài , rát thuận lợi cho phát triển du lịch và thu hút khách du lịch quốc tế.

Hồ suối hai (Ba vì – Hà Tây) cũng là điểm du lịch hết sức lí tưởng đây là hồ nhân tạo,trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ diện tích khoảng 90 ha.Ở ven hồ có nhiều cây xanh,vườn cây ăn quả.Hồ rộng nước sạch,có nhiều bãi tắm dẹp nên được khách du lịch rất ưa thích.Hệ sinh thái vùng hồ được bổ xung thêm các đàn chim trời như lele,két , vịt trời………… làm cảnh quan thiên nhiên thêm phong phú sinh động và hấp dẫn và thu hút nhiều du khách.Ngoài ra điểm du lịch trung tâm Bắc Bộ còn có hệ thóng nước ngầm rất lớn thuận lợi phát triển Công Nông nghiệp va đô thị.

1.1.5.2-Khó khăn:

Mặc dù tài nguyên tự nhiên của vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ rất phong phú và đa dạng để phát triển du lịch song việc khai thác và sử dụng cũng như việc bảo vệ như thế nào của vùng cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Phần lớn địa hình của vùng là đồng bằngvà đồi núi thấp nên ít tạo được lực hấp dẫn đói với du khách vì ngoại hình rất đơn điệu không thích hợp cho việc tổ chức một số loại hình du lịch thám hiểm thể thao……

Tài nguyên tự nhiên trong vùng thì đa dạng , phong phú nhưng con người lại chưa khai thác hết tiềm năng để phục vụ du lịch.Huặc nhiều khi có khai thác nhưng lại khai thác không hợp lý, không vì mục đích du lịch mà vì mục đích riêng tư cá nhân đây là một khó khăn lớn trong việc khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày nay, nạn chặt phá rừng nan săn bắn các loài động thực vật quý hiếm ngày càng nhiều dẫn đến ảnh hưởng tới việc phát triển du lịch sinh thái của rừng.Ý thức của người dân không cao, con người không biết giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên tự nhiên xung quanh mình.Chính các bãi biển Hồ Đầm, các khu rừng nguyên sinh……lẫn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, chúng cung cấp nước cho sự sống của con người, hơn nữa chính nơi đây đã làm nên cảnh quan,tạo nên nhưng khu nghỉ mát nghỉ dưỡng cho con người.Vậy mà con người lai “ vô tình”tàn phá,hủy diệt nó khiến cho nạn ô nhiễm du lịch ngày càng tăng cao.ví dụ như bãi tắm bến bị ô nhiễm rác rưởi dòng người thi tới nhiều trong khi đó khả năng phục vụ của nó thì có giới hạn làm cho điểm du lịch bị xuống cấp nhanh chóng.
Một vấn nạn nữa trong thời đại công nghiệp hóa như hiện nay đang có ảnh hưởng rât lớn tới tài nguyên thiên nhiên của vùng đo là các nhà máy xí nghiệp, các nhà cao ốc mọc lên nhiều lấn chiếm nhiều điểm du lịch mà nếu con người biết cách khai thác thì cũng sẽ là những điểm đến lý tưởng cho các du khách,ví dụ như các làng trồng hoa, cây kiểng ở vùng ngoại thành Hà Nội như Nhật Tân ,Nghi Tâm < Ngọc Hà……….phần lớn diên tích ở những nơi đây hiện nay dã bị thay đổi bởi những khách san , tòa nhà lớn……Trồng Hoa như vậy , việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý và bảo vệ các nguồn tài nguuyên thiên nhiên đang là yêu cầu cấp bách đối với con người.

Mỗi người cần phải coi việc bảo vệ môi trường tự nhiên là nhiệm vụ của mình.Có như vậy các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng mới thu hút được các nhà đầu tư để trở thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách.
 
1.2-Tiểu Vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng)

1.2.1-Địa hình vùng:

Vùng duyên hải Đông Bắc không phải là dải đất cuối cùng của miền Đông Bắc nhìn thẳng ra biển khơi. Một vòng cánh cung khác gồm hơn nghìn đảo lớn nhỏ sắp thành 2 hàng nối đuôi nhau chạy từ mũi Ngọc- Bán đảo lớn nhất địa đầu phía bắc của Tổ quốc- đến Hòn Gai ở phía nam

Địa hình của Hải Phòng thay đổi rất đa dạng, phản ánh một quá trình địa chất lâu dài và phức tạp

Phần Bắc Hải Phòng có dáng dấp một vùng trung du với những đồng bằng ven đồi trong khi phần phía Nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần tuý nghiêng ra biển.

Đồi núi của Hải Phòng chỉ chiếm 15% diện tích chung của thành phố nhưng lại chiếm hơn ½ phần Bắc thành phố từng dải liên tục theo hướng Tây Bắc- Đông Nam có quá trình phát sinh gắn liền với hệ núi Quảng Ninh thuộc khu đồng bằng Bắc bộ về phía nam. Có 2 dải núi chính: dải đồi núi từ An Lão đến Đồ Sơn nối tiếp không liên tục, kéo dài khoảng 30km có hướng Tây Bắc- Đông Nam; dải Kỳ Sơn-Tràng Kênh và An Sơn- Núi Đèo.

Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải. Hơn 80% đất đai là đồi núi - hơn hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi. Có thể thấy các vùng địa hình sau đây:

1.2.1.1-Vùng núi chia làm hai miền:

- Vùng núi miền đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu, Quảng Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507m) - Cao Xiêm (1.330m) chiếm phần lớn diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Quảng Hà, dãy Ngàn Chi (1.166m) ở phía bắc huyện Tiên Yên.

- Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông Triều với đỉnh Yên Tử (1.068m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094m) trên đất Hoành Bồ.

1.2.1.2-Vùng trung du và đồng bằng ven biển:


Gồm những dãy đồi thấp bị phong hóa và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên, Quảng Hà và một phần Móng Cái. Ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Quảng Hà, nam Móng Cái, tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh.

1.2.1.3-Vùng biển và hải đảo:


Là một vùng địa hình địa hình độc đáo. Hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/2779). Đảo trải dài theo các đường ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu, Bane Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng đại hình Karst bị nước bào mòn, tạo nên muôn nghìn hình dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn có những bãi cát trắng làm nguyên liệu cho công nghệ thủy tinh (Vân Hải), có nơi thành bãi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vùng…)

Địa hình đáy biển Quảng Ninh không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m. Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng của các rặng san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao thông đường thủy rất lớn

1.2.2-Khí hậu:

Khí hậu ở vùng duyên hải Đông Bắc cũng lạnh không kém gì vùng Cao- Lạng. Điều kiện khí hậu ở đây không thuận lợi lắm cho một số hoạt đông kinh tế.

Ơ Hải Phòng, do nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa Châu Á, sát biển đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa.

Mùa gió Bấc( mùa đông) lạnh và khô héo kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4.
Mùa gió Nồm( mùa hè) mát mẻ, nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-1800mm.
Bão thường xảy ra vào tháng 6 đến tháng 9.
Thời tiết Hải Phòng có 2 mùa rõ rệt, khí hậu tương đối ôn hoà. Do nằm sát biển, về mùa đ6ng, Hải Phòng ấm hơn 10C, về mùa hè mát hơn 10C so với Hà Nội.

Nhiệt độ trung bình hàng tháng: 200C- 230C
Nhiệt độ cao nhất có khi lên tới 400C, nhiệt độ thấp nhất ít khi dưới 50C
Độ ẩm trung bình hàng năm là 80-85%, cao nhất là 100% vào những tháng 7,tháng 8, tháng 9; thấp nhất là tháng 12, tháng1.

Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới - gió mùa. Mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, gió là gió đông bắc.

Nằm trong vùng nhiệt đới, Quảng Ninh có lượng bắc xạ trung bình hàng năm 115,4 Kcal/cm2. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm trên 21OC. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm trên 21OC là 84%. Từ đó lượng mưa hàng năm lên tới 1.700 - 2.400 mm, số ngày mưa hàng năm từ 90 - 170 ngày. Mưa tập trung nhiều vào mùa hạ (hơn 85%) nhất là tháng 7 và 8. Mùa đông chỉ mưa khoảng 150 - 400mm.

So với các tỉnh Bắc Bộ, Quảng Ninh chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc mạnh hơn. Đây là nơi “đầu sóng ngọn gió”. Gió thổi mạnh và so với các nơi cùng vĩ độ thường lạnh hơn từ 1-3OC. Trong những ngày gió mùa đông bắc, ở vùng núi cao Bình Liêu, Quảng Hà, nhiệt độ có khi xuống dưới 0OC. Quảng Ninh cũng chịu ảnh hưởng lớn của bão tố. Bão thường đến sớm (các tháng 6,7,8) và có cường độ khá mạnh, nhất là ở vùng đảo và ven biển.

Tuy nhiên do diện tích lớn lại nhiều vùng địa hình khác nhau. Huyện địa đầu Móng Cái lạnh hơn lại mưa nhiều: nhiệt độ trung bình năm là 22OC, lượng mưa trung bình năm tới 2.751 mm. Huyện Yên Hưng ở tận cùng phía nam, nhiệt độ trung bình năm là 24OC, lượng mưa trung bình năm là 1.700 mm. Vùng núi cao Hoành Bồ, Ba Chẽ khí hậu khá khắc nghiệt, mỗi năm thường có 20 ngày sương muối và lượng mưa hàng năm thấp. Cũng là miền núi nhưng Bình Liêu lại có mưa lớn (2.400 mm) và mùa đông kéo dài tới 6 tháng. Vùng hải đảo lại không phải là nơi mưa nhiều nhất, chỉ từ 1.700 đến 1.800 mm/năm, nhưng lại là nơi rất nhiều sương mù về mùa đông

1.2.3. Thuỷ văn:

Ở vùng này, trong mùa hè có nhiều khi xảy ra mưa đá, còn mùa đông thi rất nhiều khả năng có sương muối.
Ngoài ra các sông ở đây có những đặc điểm rất chú ý. Các sông chảy trong các miền đất bằng giữa núi nhiều khi có thể gọi là lớn, còn các sông chảy ra biển gần như bao giờ cũng vấp phải những ngưỡng đá chắng ngang ở ngay cửa sông .

Hải Phòng có nhiều sông. Từ Hải Phòng đi các tỉnh bạn, hoặc từ nội thành ra ngoại thành, từ huyện này sang huyện khác đều phải qua sông. Bao quanh Hải Phòng là những dòng sông khá lớn như sông Đá Bạc, dông Kinh Thầy ở phía Bắc; sông Luộc, sông Hoá, sông Thái Bình ở phía Tây và phía Nam. Chảy qua địa phận Hải Phòng có các sông Đa độ, Văn Úc, Lạch Tray, Cửa Cấm. Đây là điều kiện thu6ạn lợi để Hảo Phòng phát tiển ngành giao thông đường thuỷ.

Hải Phòng là một trong những đầu mối giao thông đường thuỷ với các nước trên thế giới và với các tỉnh trong cả nước. Điều này rất thuận lợi trong việc giao lưu, phát triển kinh tế- văn hoá- du lịch với hầu khắp các tỉnh thành của Việt Nam và nhiều quốc gia tên thế giới.

Nằm trong ba trung tâm du lịch lớn ở miền Bắc Việt Nam là Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long. Hải phòng có khu nghỉ mát với những bãi biển lượn quanh bán đảo Đồ Sơn, vươn ra biển Đông tới 5km

Quảng Ninh có nhiều sông suối nhưng các sông đều ngắn, nhỏ, độ dốc lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa. Mùa đông, các sông cạn nước, có chỗ trơ ghềnh đá nhưng mùa hạ lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu lượng mùa khô 1,45 m3/s, mùa mưa lên tới 1.500 m3/s chênh nhau 1.000 lần.

Về phía biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn nhưng kín lại có nhiều lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Bộ. Chế độ thủy triều ở đây là nhật triều điển hình, biên độ tới 3-4m. Nét riêng biệt ở đây là hiện tượng sinh “con nước” và thủy triều lên cao nhất vào các buổi chiều tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ có những dòng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 13OC.

1.2.3.1- Nước và nước khoáng

Quảng Ninh có tài nguyên nước khá phong phú và đặc sắc: Nước mặt chủ yếu là nước sông hồ. Các sông lớn là sông Ka Long (đoạn chủ yếu là đường biên giới quốc gia giáp Trung Quốc), sông Hà Cối, sông Đầm Hà, sông Tiên Yên, sông Phố Cũ, sông Ba Chẽ, sông Diễn Vọng, sông Trới, sông Míp, sông Uông, sông Đạm, sông Cầm và ranh giới phía nam tỉnh là sông Kinh Thầy nối với sông Đá Bạch chảy ra sông Bạch Đằng. Tổng trữ lượng tĩnh các sông ước tính bằng 175 triệu m3 nước.

Trong tổng số 72 hồ đập có 28 hồ lớn với tổng dung tích là 195,53 triệu m3 nước. Lớn nhất là hồ Yên Lập ngăn cửa sông Míp (còn gọi là sông Đồn, sông Yên Lập), dung tích 118 triệu m3. Hồ Khe Chè (Đông Triều) dung tích 6,43 triệu m3. Sau đó là các hồ Khuật Đông, Trúc Bài Sơn, Khe Táu, Đoan Tĩnh, Khe Ươn, Khe Chếnh, Yên Trung, Bến Châu, Trại Lốc, Rộc Cả, An Biên đều có dung tích trên 1 triệu m3. Nước ngầm Quảng Ninh khá phong phú. Ngay trên các đảo lớn đều có nguồn nước ngầm có thể khai thác. Hiện nay chưa thăm dò hết, tại 13 khu vực đô thị và công nghiệp đã khảo sát và ước tính có thể khai thác tại đây 64.388 m3/ngày.

Quảng Ninh có nhiều điểm nước khoáng uống được ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu). Nước khoáng uống được tập trung ở khu vực km 9 (xã Quang Hanh, Cẩm Phả) hiện nay có 15 lỗ khoan thăm dò và tính sơ bộ trữ lượng là 1.004 m3/ngày, trong đó 4 lỗ khoan đã đưa vào khai thác (đóng chai và nạp thêm khí cacbonic) và đã trở thành hàng nước uống được ưa chuộng. Nước khoáng Quang Hanh trong suốt, không màu, không mùi, có vị hơi mặn, độ khoáng hóa từ 3,5 đến 5,05g/l. Thành phần vi lượng chủ yếu là: Na, Ka, Ca, Mg, Cl, SO4, H2CO3 hàm lượng thay đổi tùy vị trí lỗ khoan. Với các vi lượng này, nước khoáng Quang Hanh rất có lợi cho giải khát và tiêu hóa. Nước khoáng không uống được tập trung ở khu vực km 11 và km 12 Cẩm Phả và ở xã Tam Hợp (cũng thuộc thị xã Cẩm Phả). Loại nước khoáng này có nồng độ khoáng khá cao, nhiệt độ trên 35OC nên có thể tận dụng điều trị một số bệnh.

1.2.4-Tài nguyên động thực vật:

Tài nguyên rừng phong phú, có một số động thực vật quý như khỉ vàng, vec đầu bạc, không còn thấy có trên thế giới. Ven bờ biển, đặc biệt là trên các bãi phù sa biển, sú vẹc mọc thành dải dày đặc, xen lẫn những cây mắm và trang cao 3-4 m không những có tác dụng bảo vệ bờ khỏi sức công phá của sóng mà còn là một vùng cung cấp gỗ quan trọng cho nhân dân địa phương.

Ỏ Hải Phòng tài nguyên rừng phong phú, đa dạng. Từ đất liền hay Đồ Sơn bằng tàu thường hay cao tốc, du khách có thể tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà, vịnh Hạ Long hay Bái Tử Long. Quần đảo Cát Bà, nằm kề bên vịnh Hạ Long với hàng trăm núi , đảo lớn nhỏ nổi lên giữa biển cả mênh mông. Đảo lớn Cát Bà có vườn quốc gia Cát Bà rộng 600ha được thành lập từ ngày 23/5/1983, bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh với hơn 600 loài thực vật với những vạt rừng nguyên sinh nhiệt đới tồn trữ nhiều loại cây rừng như Báng, Gội Nếp, Săng lẻ, Kim Giao cùng nhiều loại động vật rất có giá trị như: khỉ mặt đỏ, khỉ mặt vàng, sơn dương, hoẵng, rái cá, sóc đuôi đỏ, sóc bụng đỏ, mèo rừng, nhím… đặc biệt là khỉ voọc đầu trắng sống từng đàn, là loài thú quý hiếm trên thế giới chỉ mới thấy ở Cát Bà và các loại chim như: hoạ mi, khiếu, vẹt, đa đa, đại bàng, hải âu, én…. Những núi đá vôi ẩn chứa trong lòng nhiều hang động kỳ thú; những bãi tắm thiên tạo, nước biển trong xanh bên những vùng biển tĩnh lặng nằm giữa các đảo đá; những con suối tuôn chảy trên các triền núi rồi cả hồ trên núi, Cát bà là vùng đất trù phú, đã được khai phá từ lâu đời. Ơ đây đã phát hiện được nhiều di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ đồ đá mới. Ngoài khơi xa là đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa vịnh Bắc Bộ. Ngoài ra còn có bãi biển Đồ Sơn ở ngoại thành Hải Phòng. Ưu thế nổi bậc của Đồ Sơn là rất gần thành phố Hải phòng(18km) và cách thủ đô Hà Nội không xa nên bân cạnh loại hình nghỉ mát, tắm biển còn có điều kiện thuận lợi để phát tiển các loại hình nghỉ ngắn ngày, hội nghị, thể thao để có thể tận dụng khả năng khai thác phục vụ du lịch quanh năm.

Quảng Ninh là vùng đất đa dạng về địa hình, khí hậu thổ nhưỡng nên hệ sinh thái cũng phát triển đa dạng và phong phú về chủng loại.

Động vật: trước hết là gia súc có trâu, bò, lợn, dê, gà, chó, mèo, thỏ, ngan, ngỗng, vịt… Chăn nuôi đại gia súc khá phát triển ở miền núi. Đáng chú ý là Quảng Ninh có giống lợn Móng Cái nổi tiếng vì dễ nuôi, chóng lớn, nạc nhiều, sinh sản tốt. Các huyện miền Đông còn nuôi nhiều ngan lai vịt, tiếng địa phương gọi là “cài sáy” thịt ngon, chóng lớn.

Quảng Ninh cũng là nơi nhập nhiều giống ngoại: trâu Mu-ra Ấn Độ, bò Sinnơ Ấn Độ, bò sữa Hà Lan, ngựa, cừu, dê Mông Cổ. Tuy nhiên có một số giống không thích nghi được chỉ phát triển một thời. Nay trong gia súc có thêm hươu sao. Động vật hoang dã xưa có nhiều. Xa xưa có cả voi, tê giác, gần đây có hổ, báo, gấu, chim công, chim yến, bồ nông… Nay đáng chú ý là có khỉ vàng, nai, hoẵng, chim trĩ, đại bàng, lợn rừng, nhiều loại chim di cư (như sâm cầm, chim xanh), và tắc kè, tê tê, rùa gai, rùa vàng… nhưng số lượng giảm nhiều.

Động vật thủy sinh ở Quảng Ninh rất phong phú, ở vùng nước ngọt, ngoài các loài cá, tôm, cua, ốc vùng Đông Triều còn có con rươi, con ruốc nối theo mùa.

Nhưng đáng chú ý nhất ở Quảng Ninh là các loài hải sản. Do địa hình vùng biển và đáy biển đa dạng, chỗ là dòng chảy, chỗ là vùng kín gió lặng sóng, đáy biển chỗ là cồn đá, chỗ là bờ bãi phẳng, chỗ là rạn san hô mênh mông nên Quảng Ninh có hầu hết các chủng loại thủy sản của nước ta. Ở đây có nhiều đàn cá lớn và có nhiều giống cá quý như song, ngừ, chim, thu, nhụ… Trong các loài tôm có các giống tôm he núi Miều đứng hàng đầu về chất lượng tôm Việt Nam. Ngoài biển có nhiều loại đặc sản như trai, ngọc, bào ngư, đồi mồi, tôm hùm, ven bờ có sò huyết, ngao, ngán, hàu, rau câu, sái sùng ven bờ biển và trên vịnh đang phát triển các loại hải đặc sản. Ngư trường rộng và sự đa dạng về chủng loại thủy sản vẫn luôn luôn là nguồn lợi quan trọng, một thế mạnh của kinh tế biển Quảng Ninh.

Thực vật: ở Quảng Ninh có thế mạnh ở rừng và đất rừng. Đất canh tác hẹp và kém phì nhiêu nên sản lượng lúa, ngô, khoai, thấp song bù lại là tiềm năng trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và nhiều loại cây công nghiệp. Hiện nay Quảng Ninh đang mở rộng diện tích cây ăn quả, trong đó có vùng vải thiều Đông Triều 3.000 ha đã cho thu hoạch. Vùng chè Quảng Hà đã cho chè búp chất lượng tốt.

Trước đây Quảng Ninh có nhiều giống gỗ tốt, nhiều nhất là lim, táu, nay diện tích lớn nhất là trồng thông vừa lấy nhựa vừa lấy gỗ. Rừng bạch đàn, keo cũng đang mở rộng để vừa phủ kín đất trồng, vừa lấy gỗ cho công nghiệp mỏ (chống lò). Vùng núi Quảng Ninh đang phục hồi và phát triển những giống cây đặc sản như quế, hồi, trẩu, sở và những cây dược liệu. Trong đó ở Quảng Ninh có cây ba kích nổi tiếng. Với 3/4 diện tích tự nhiên là rừng và ít rừng, nếu được bảo vệ và trồng thêm nhiều, rừng Quảng Ninh sẽ phát huy thế mạnh và là một nguồn lợi lớn của Quảng Ninh.

Nhận xét:

Nhìn chung Quảng Ninh là một tỉnh có điều kiện tự nhiên đa dạng phong phú về nhiều mặt. Đó là những tiềm năng to lớn để Quảng Ninh phát triển một nền kinh tế khá toàn diện từ sản xuất công, nông, ngư nghiệp đến phát triển thương mại, dịch vụ. Đặc biệt là Quảng Ninh có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Chính vì vậy mà Quảng Ninh đang là một trung tâm, một trọng điểm, một chân kiềng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, trước hết là một tỉnh trong vùng tam giác kinh tế phía bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
 
1.3- Tiểu Vùng du lịch miền núi Đông Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn)


1.3.1-Về địa hình:

Hầu hết các tỉnh miền núi Đông Bắc có điạ hình đồi núi cao, phức tạp và hệ thống sông ngòi dày đặt. Địa hình thay đổi từ nơi này đến nơi khác. Nơi cao nhất có hình thái núi trung bình là khu vực vòm sông chảy.

Những nhân tố ảnh hưởng đến địa hình ở đây là các đá kết tinh. Vận động kiến tạo khá mạnh và lượng mưa lớn. Độ cao cùng với lượng mưa lớn dẫn đến xâm thực theo chiều sâu diễn ra dữ dội, đa số thung lũng có dạng hẻm vực, đồng thời sự tỏa mạnh của mạng lưới xâm thực đã chia cắt khoảng rộng đường phân thủy ra thành nhiều mảnh.

Vì vậy hầu hết các tỉnh ở đây có hình thể phức tạp như tỉnh Tuyên Quang có nhiều dãy núi cao, ngăn cách nhau bởi lưu vực của bốn con sông chính chảy qua tỉnh giữa sông Hồng Hà và sông Chảy là dãy núi Côn cao 800m. Kế tiếp là dãy mỏ Rô và Sáu Tàu rồi đến những ngọn núi thấp dần.

Giữa sông Chảy vàsông Lô là núi Khánh. Dãy núi ngăn cách sông Chảy với thung lũng sông Bách . Núi Nùng, núi La cao 1000 – 1100m và núi Bách Kha là những núi cao có rừng rậm bao phủ, có nhiều vách đá ăn thẳng ra bờ sông Lô… Hay địa thế của Lạng Sơn cũng có độ cao thay đổi từ 100 – 1009m. Phía Đông và Bắc thành phố Lạng Sơn là dãy núi Mẫu Sơn cao 1500m chế ngự cả thung lũng sông Kỳ Cùng.

Phía Đông Nam cũng có một dãy núi trung bình cao 700m. Phía Tây- Tây Nam có dãy núi Cao Kinh cao 600m. Phía Đông và phía Bắc là những dãy núi đá bao trùm thung lũng Thất Khê và làm thay đổi hướng sông Kỳ Cùng.

Giáp với tỉnh Lạng Sơn là tỉnh Bắc Cạn thì địa hình cũng chủ yếu là đồi núi, trung du, hệ thống sông ngòi dày đặc. Hà Giang và Cao Bằng là 2 tỉnh đầu của đất nước, địa hình khá phức tạp. Nơi đây có những ngọn núi lưng chừng trời và có rất nhiều sôn suối. Như vậy vùng nuí Đông Bắc rất phát triển địa hình Cacxtơ.

Đây là loại địa hình khá đặc biệt với địa hình này nó cũng mang nhiều ý nghĩa thực tiễn như địa hình này có phong cảnh đẹp. Có nhiều hang động kỳ thú, nhiều điểm du lịch hấp dẫn, Đây còn là vùng có khí hậu ôn đới.

1.3.2-Về khí hậu:

6 tỉnh miền núi Đông Bắc nằm trong vùng núi phía Đông Bắc do nằm ở vị trí tương đối cao nên mang sắc thái ôn đới chia làm 2 mùa: mùa mưa và mùa khô hay mùa nóng và lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng từ 240C- 260C. Vào mùa đông nhiệt độ ở đây rất lạnh. Có lúc xuống đến -50C ( Hà Giang). Tuy nhiên do nằm trong nền khí hậu đa dạng của Việt Nam nên khí hậu cũng bị thay đổi theo mùa và theo độ cao. Như khí hậu của tỉnh Tuyên Quang rất ẩm thấp và không trong lành nhất là vào mùa mưa bị ảnh hưởng của rừng rậm, thung lũng sông Đáy có nước độc và sương mù dày đặc. Nhưng ỡ những vùng có độ cao 400-800m thì nhiệt độ lại trong lành hơn. Ơ vị trí cao hơn Cao Bằng có khí hậu mát mẻ quanh năm. Và được chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Phong cảnh thiên nhiên rất hữu tình thích hợp cho việc nghỉ ngơi, du lịch. Mùa mưa được tính từ tháng 11-4 năm sau. Còn mùa khô từ tháng 5 đến tháng 10. Như vậy nhìn chung nhiệt độ vùng núi Đông Bắc tương đối thuận lợi, rất thuận lợi cho việc tổ chức du lịch vào mùa đông.

1.3.3-Động – Thực Vật :

- Hiện nay mức sống của con người ngày càng cao thì nhu cầu nghỉ ngơi tham quan du lịch và giải trí, trở thành nhu cầu cấp thiết. Thị hiếu về du lịch ngày càng đa dạng và phong phú ngoài một số hình thức truyền thống như tham quan phong cảnh. Các di tích văn hoá lịch sử của loài người, đã xuất hiện rất lớn khách du lịch. Đó là du lịch các khu bảo tồn thiên nhiên với đối tượng là các loài động vật, thực vật, việc tham quan du lịch trong thế giới động vật, hài hoà trong thiên nhiên làm cho con người yêu thêm cuộc sống.

- Tài nguyên thực- động vật ở vùng bắc bộ rất phong phú và đa dạng với động vật bao gồm những loài thú quí hiếm: hưu, chim, các loài bò sát quí hiếm … có giá trị kinh tế cao trong đó có một số loài động vật được ghi vào sổ đỏ góp phần cho sự đa dạng về động vật thu hút sự tham quan nghiên cứu tạo điều kiện phát triển cho vùng bên cạnh động vật thì hệ thực vật ở đây rất đa dạng gồm các loài như: Đinh, Liêm, Sếu, Tàu, Gõ …tạo điều kiện cho các ngành khai thác và chế biến lâm sản là nơi cư trú an toàn cho các loàiđộng vật mang lại nền kinh tế cap như vậy tài nguyên động, thực vật ở đây co ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành du lịch Bắc Bộ.

1.3.4-Tài nguyên nước :

Tài nguyên nước bao gồm nước chảy trên mặt và nước ngầm. Đối với du lịch Bắc Bộ thì nguồn nước có ý nghĩa rất lớn. Nước không những cung cấp cho tưới tiêu, thuỷ điện mà nước được dùng cho các nhà tắm, nhằm mục đích du lịch. Nước được sử dụng tuỳ theo nhu cầu cá nhân theo độ tuổi, và theo nhu cầu quốc gia.

- Taì nguyên nước không chỉ có tác dụng phục hồi trực tiếp mà còn ảnh hưởng đến các thành phần khác của môi trường sống, đặc biệt nó làm dịu khí hậu quen bờ.

- Ngoài ra nước còn cần thiết cho đời sống để uống, vệ sinh, và các nhu cầu hàng ngày. Đáp ứng cho những nhu cầu này đòi hỏi phải có nuồn nước ngọt dồi dào.

- Khi nhắc đến tài nguyên nước đặc biệt là vùng Bắc Bộ thì không thể nào không nhắc đến một loại tài nguyên nước rất quí đó là tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh. Với những ưu thế và sự ưu đãi của tự nhir6n ban tặng cho vùng thì tài nguyên nước đã góp phần vào sự phát triển kinh tế của vùng mà đặc biệt là du lịch.

Nguồn Tài Nguyên Tự Nhiên Ảnh Hưởng Đến Du Lịch :​


Thi Nguyên là địa phương có truyền thống cách mạng, có nhiều di tích lịch sử như di tích núi Văn, núi V, di tích ATK Định Hóa, di tích đền Đuổm... Tỉnh có nhiều thắng cảnh đẹp như hồ Núi Cốc, chùa Hang, hang Phượng Hoàng... rất hấp dẫn khách du lịch.

Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh cao tới 2.419m, có nhiều khu rừng nguyên sinh, rừng có nhiều gỗ quí, có tới 1.000 loại cây dược liệu quí hiếm. Động vật có hổ, công, trĩ, phượng, tê tê... và hàng trăm loại chim thú khác. Hà Giang có cao nguyên Đồng Văn nên thơ hùng vĩ, có chợ tình Khu Vai hấp dẫn du khch trong v ngồi nước. Đến với Hà Giang, du khách được tiếp cận với những sản phẩm kết tinh từ truyền thống văn hoá độc đáo của cư dân miền núi, đó là các loại khăn thêu, túi vải, áo váy với các loại hoa văn rực rỡ, tinh tế. Du khách có dịp tham dự những phiên chợ vùng cao của cư dân địa phương và khám phá nhiều điều mới lạ.

Nhìn chung khí hậu Cao Bằng mát mẻ quanh năm lại có nhiều núi cao, phong cảnh thiên nhiên hữu tình rất thích hợp cho nghỉ ngơi, du lịch.

Lễ hội truyền thống của tỉnh Cao Bằng là nét đặc trưng của các dân tộc sinh sống trong vùng đặc biệt là lễ hội Lồng Tồng. Tỉnh cũng có nhiều di tích thắng cảnh như di tích Bắc Bó, khu di tích Kim Đồng, hồ trên núi Thang Hen, thác Bản Giốc (huyện Trùng Khánh) là một thác nước vào loại đẹp nhất ở Việt Nam...
 
1.4 Tiểu Vùng du lịch miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Phú Thọ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La)​


1.4.1.Địa hình

Chủ yếu là núi rừng, cao nguyên hùng vĩ, xen kẽ với các sườn núi là các thung lũng hẹp

Địa hình Lo Cai kh phong ph gồm nhiều loại hình, cĩ địa hình thung lũng, cĩ địa hình vng ni thấp, địa hình vng ni cao v cc đỉnh núi rất cao như đỉnh Phanxiphăng – nóc nhà của tổ quốc cao 3.143m...

Giá trị về du lịch :

 Du lịch thám hiểm
 Du lịch thể thao
 Du lịch nghỉ dưỡng
 Du lịch nguyên cứu khoa học địa chất, địa hình
 Du lịch hang động

1.4.2.Khí hậu :

Nóng ẩm, nhiệt độ trung bình khỏang 210C-250C.Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:mùa đông rét lạnh và khô, ít mưa; mùa hè mưa nhiều ,không có bão, khí hậu mát mẻ.

Tác động của khí hậu đến khai thác các loại hình du lịch
 Du lịch tắm biển, nghỉ mát:
o Số ngày nắng nhiều
o Số ngày nắng trên ngày
o Nhiệt độ trung bình của khí hậu và nước
(20-250C)
 Du lịch leo núi
 Du lịch nghỉ dưỡng :Ở đây có thể khai thác được nguồn nứơc khoáng theo các mạch nước suối tự nhiên hay nằm sâu trong lòng đất, được chế biến làm nứơc giải khát hoặc để chữa bệnh, đủ sức thỏa mãn mọi nhu cầu của khách du lịch . Như nguồn nứơc khoáng Kim Bôi (Hòa Bình ) đạt tiêu chẩn chất lượng cao và có thể khai thác tốt.

ANH HƯởNG CủA NƯớC TRONG DU LịCH VÙNG.​


Tài nguyên nước có vai trò rất lớn trong đời sống con người, trong du lịch cũng vậy.
Tài nguyên nước trong du lịch bao gồm đại dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, karto, thác nước, suối phum…

+ Ở Lào Cai có thác bạc, nằm bên quốc lộ 4D, cách thị xã Sa Pa trên đoạn vắt qua dãy Hoàng Liên Sơn rất thuận tiện cho khách đến chiêm ngưỡng. Từ trên khe núi cao dòng nước ầm ầm đổ xuống, bọt tung trắng xoá, vừa hoang dã vừa huyền bí.

+ Ngoài ra Yên Bái còn có hồ Thác Bà. Hồ đước tạo nên khi ngăn sông chảy tại Thác Bà chừng 23 000 ha. Hồ chứa khoảng 2,9 tỷ m3 nước. Độ sâu trung bình là 15-20 m chỗ sâu nhất tới 40m. Nước hồ rất trong xanh, in bóng những vạt rừng già bao quanh hồ. Nơi đây có hàng trăn loại cá, cung cấp thực phẩm cho cả vùng. Hồ Thác Bà là tháng cảnh đẹp, nơi đang có kế hoạch phát triển thành trung tâm du lịch sinh thái, kết hợp giữa giải trí trên hồ và leo núi, thám hiểm rừng.

+ Lào Cài còn có nước khoáng Tắc Kô, là mạch nước ngầm trong vắt, nằm ở địa phận miền Tiên. Nước ở đây rất ngọt và mát, có tác dụng giải khát va chữa bệnh. Mạch nước khoáng Tắc Kô là nguồn nguyên liệu sản xuất tự nhiên dồi dào, phục vụ khách nghỉ dưỡng ở Sa Pa.

+ Hồ Pá Khoang ở Lai Châu.

Hồ thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng hơn 20 km. Nguyên xưa là con suối lớn thu nhận nước từ trăm khe đổ về, sau khi xây dựng với hệ thống đập tràn, đập chắn, cống dẫn để điều hoà nước. Phục vụ nhu cầu sống và canh tác ở lòng chảo Mường Thanh, nơi đây trở thành hồ nước hiền hoàvà thơ mộng.

Diện tích mắt hồ khoảng 400-500 ha (tuỳ theomua) nằm giữa cánh rừng đại ngàn soi bóng xuống mặt hồ trong xanh.

+ Suối nước nóng Bản Mòng ( Sơn La ).

Thuộc xã Thea La, thị xã Sơn La, nước khoáng ở đây có nhiệt độ 35-400C. Rất thịch hợp với việc chữa trị và dưỡng bệnh.
+ Đầm Ao Châu ở Phú Thọ.

Ao Châu là một hồ nước lớn diện tích khoảng 2 km2, nằm ở địa phận ba xã Am Thượng (cũ), Am Hạ và Y Sơn thuộc huyện Hạ Hoà cách thành phố Việt Trì 70 km. Du khách có thể đi bằng đường bộ, đường sắt hoặc đường thuỷ đến Ao Châu đều thuận tiên.

Đầm Ao Châu có hình dạng như đầu của con trâu, có hai sừng choải về phía sông Thao và sông Chảy. Mặt đầm trải rộng mênh mông, phẳng lặng, nước hồ trong xanh quanh năm. Vào những đêm trăng sáng Đầm Ao Châu trông giống như bức tranh thuỷ mạc với rừng cọ, đồi chè, đồi mơ, đồi vải soi bóng lung linh trên mặt nước. Đầm có 99 ngáchnày được ví như 99 con giao long đang trườn vào đầm ngập nước.

+ Suối nước nóng Kim Bôi.( Hoà Bình )

Từ thị xã Hoà Bình đi 30 km đến nhà nghỉ mang tên một người bản Mường là nhà nghỉ mỏ đá Kim Bôi . Nhà nghỉ được xây ở bên cạnh nơi có mạch nước khoáng lớn nhất, vì vậy ngồi trong phòng vẫn nghe thấy tiếng nước phun lên ào ào vô tận. Nước phun lên luôn luôn ở nhiệt độ 360C. Qua kiểm nghiệm nguồn nước khoáng Kim Bôi có đủ tiêu chuẩn dùng làm nước uống, ngâm mình chữa các bệnh về khớp, đường ruột, dạ dày, huyết áp…

Nước suối Kim Bôi dã được đóng chai làm nước giải khát, nó cùng loại với nước khoáng Thạch Bích ở Quảng Ngãi, Kum-dua ở Nga và Pa ven Bảbia của Hung gải.

+Công trình thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà. (Hoà Bình)

Từ Hà Nội theo Quốc Lộ 6 đi 70Km đến thị xã Hoà Bình, đi tiếp về phía thượng lưu sông Đà 1.5 Km là đến nhà máy thuỷ điện Hoà Bình lớn nhất Việt Nam, công suất 1,92 triệu KW. Điện năng hàng năm đạt gần 8 tỷ KW/h.

Hồ chứa nước của nàh máy còn là hồ nuôi cá, cải tạo môi sinh, hồ du lịch.

Khi mức sống của con người ngày càng nâng cao dẫn đến nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan du lịch đa dạng và phong phú.

Du lịch các khu bảo tồn thiên nhiên với đối tượng là thực vật và động vật, đã trở nên hấp dẫn du khách, bên cạnh đó có một số hình thức truyền thống như tham quan phong cảnh,Di tích Văn hoá Lịch sử của loài người.

Do biết tận dụng khai thác các tiềm năng thiên nhiên, là nguồn Tài nguyên động thực vật với quang cảnh hài hoà của nó nên một số các nước trên lục địa Châu Phi, Đông Nam Á đã thu hút được lượng khách du lịch đông đảo.

Thực vật có các khối rừng tự nhiên và các khu rừng nhân tạo, có tác dụng làm sạch không khí, cản gió, tăng độ ẩm.

Hệ thực vật ở Phan Xi Phăng khá phong phú có tới 1680 loại cây chia làm 679 chi thuật nhóm có loại quý hiếm. Đây còn là nơi thu hút khách du lịch ưa mạo hiểm.

Rừng Xuân Sơn (Phú Thọ) có loài cây lạ, trong một ngày thay đổi màu lá tới 4 lần. Có nhièu động vật quý hiếm như Cầy bay, Sóc bay.

+ Cao Nguyên Mộc Châu (Sơn La) trên độ cao hơm 1000m so với mặt biển cách Hà Nội 199 Km theo Quốc Lộ 6 lớn dài 80 Km rộng 25 Km. Có 14.000 ha đông cỏ để chăn nuôi đai gia súc, trồng chè, cây công nghiệp khác còn là nơi sản xuất, xuất khẩu chè, là nơi cung cấp sản lượng sữa tươi lớn. Đang là điểm thu hút khách du lịch bởi không khí trong lành.

+ Khu du lịch Suối Ngọc – Vua Bà (Hoà Bình) cách Hà Nội xấp xỉ 40 Km . Đây là một quần thể du lịch sinh thái mới ra đời với diện tích 300 Ha. Rừng cây xanh với nhiều cây ăn quả. Tại đây có thể mắc võng nằm dưới tán cây rừng ngủ.

Bên cạnh thảm thực vật dày có động vật cạn phong phú. Chính vì vậy nó đã tạo cho du lịch nhiều loại hình du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái.
- Du lịch xanh, du lịch dã ngoại.
- Du lịch trên sông, hồ, biển.
- Du lịch tự nhiêu, miệt vườn.
- Du lịch mạo hiểm, du lịch môi trường.

+ Tự nhiên thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên của vùng tạo được nhiều loại hình du lịch sinh thái, hấp dẫn du khách khai thác được tài nguyên thiên nhiên.

+ Khó khăn và tồn tại:

- Mặc dầu như vậy cần khai thác và bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên, môi trường và du lịch đang sử dụng.
- Nâng cao ý thức để nhận rõ đặc điểm môi trường thiên nhiên, khi du khách đang hoà mình vào đó.
- Không săn bắn và đàu tư vào đó hợp lý để tạo thêm điểm du lịch mới.

Yên Bái là tỉnh có nhiều dải rừng lớn. Rừng có nhiều gỗ quí như pơmu, lát hoa, chị chỉ... Nhiều cy dược liệu và nhiều loại động vật quí hiếm. Sản vật của tỉnh Yên Bái là quế Văn Yên, chè Suối Giàng, nếp Tú Lệ. Yên Bái có mỏ đá quí nổi tiếng Lục Yên.Thành phố Yên Bái là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Tỉnh Yên Bái có nhiều di tích lịch sử văn hóa đặc biệt là hồ Thác Bà, một trung tâm sinh thái, giải trí, leo núi, khám ph rừng tự nhin. Thắng cảnh Yn Bi cịn giữ được nhiều vẻ hoang sơ, môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm rất hấp dẫn đối với khách du lịch.

Sơn La, một địa bàn lý tưởng để chăn nuôi bị sữa trn cao nguyn Mộc Chu, pht triển cy du, nuơi tằm, ươm tơ dệt lụa, là vùng đất có nhiều ưu thế phát triển cây cà phê, cây chè và nhiều loại cây ăn quả. Một vùng đất có thể phát triển công nghiệp khai khoáng, chế biến chè và nông, lâm sản khác.

Sơn La có lễ hội Hoa ban của dân tộc Thái, có bản Hìn, danh thắng Yn Chu, hang Thẩm Tt Toịng.
 
1.5.Tiểu Vng du lịch Nam Bắc Bộ(Nam Định, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam):


1.5.1-địa hình

Tương đối phức tạp đa dạng :

 Đồng bằng : Có những thềm phù sa cổ đôi chỗ còn là thềm hỗn hợp, không phải hòan tòan đồng nhất. Tùy theo từng khu vực lại có những quá trình địa mạo chủ yếu. Đó là quá trình châu thổ, ở khu vực tiếp giáp với bờ biển, là họat động bồi tích phù sa của các dòng sông, là quá trình xâm thực ở rìa đồng bằng, giáp núi, khu vực phía Đông giáp với bờ biển là khu vực nhỏ nhất về mặt địa chất và địa hình. Tính chất bằng phẳng của bề mặt phù sa bị các dãy cồn cát ven biển phá vỡ, các dãy cồn cát trước kia đã ngăn những đầm phá bên trong cách ly với biển bên ngòai và bây giờ là những dạng địa hình cao. Sự chênh lệch cao thấp thật ra không nhiều lắm nhưng đã ảnh hưởng quan trọng đến tình hình phân bố độ ẩm. Những cánh đồng cao thường được trồng hoa màu, những ruộng trung bình có thể trồng lúa 2 vụ.

Còn những vùng chiêm trũng bị úng vào mùa mưa chỉ lấy được một vụ. Gần rìa đồng bằng còn xuất hiện những đồi núi lửa niên cổ bên dưới. Xen lẫn đó có nhiều nhánh sông.

Đặc biệt ở đây có diện tích nhỏ, đường viền núi ở gần, bề mặt phù sa hẹn chế, do kém bằng phẳng, nhiều đất cao, lắm đồi núi rải rác, cồn cát ven biển phát triển nhiều thềm phù sa cổ. Phía trong các dãy cồn đều có ruộng sâu ngập nước. Phía ngòai sắp hàng trên bờ biển là những hòn núi đá Granit, với cấu trúc địa hình này sự chuyển típ sang dãy đá ven biển miền trung đã bắt đầu.

 Núi :

Trong khu vực có nhiều mảnh nền cổ nhiều địa máng, nhiều đứt gãy có nhiều ngọn núi khá cao, các núi còn tiếp tục chạy qua tỉnh Sầm Nưa của Lào về đến Thuận Du Thanh Hóa. Các con sông Mã Schu ở vùng này thường phải luồn trong những hành lang khúc khủyu. Núi hạ thấp đột ngột thành những đồi chạy ra tận bờ biển.

 Khu vực bờ biển : Là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển, là quá trình bồi tụ của sông ngòi và các quá trình địa mạo do sóng thủy triều, hải lưu ngòai ra ở đôi nơi có thêm sự tham gia của sinh vật, của gió. Các con sông Mã, sông Cỏ Cồn, tương đối lớn và các châu thổ của chúng còn khá rộng nhưng sông đá ít phù sa, các đồi núi đã nhiều lên và ra sát biển (Thanh Hóa) ta đã bắt đầu thấy các mũi và vũng xuất hiện, nhiệt độ trung bình 23 – 240c, chia làm hai mùa : mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa từ tháng 5 tháng 10.

1.5.2- Khí hậu :

Khí hậu ở đây chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió mùa là những hệ thống thời tức từ xa đưa đến theo từng đợt. Tùy theo sự dẫn biến từng năm của gió mùa Đông Bắc cũng như gió mùa Tây Nam mà khí hậu diễn biến thất thường. Có năm gió mùa Đông Bắc mạnh đem lại một mùa đông rét và kéo dài nhưng có năm gió mùa Đông Bắc lại yếu thời tiết nóng đến sớm bất thường. Gió mùa Tây Nam cũng có năm mạnh gây mưa nhiều và lũ lớn có năm lại họat động yếu gây ra hạn hán trong mùa hè. Như vậy tính chất thất thường thể hiện có trong chế độ nhiệt và chế độ mưa.

Tính chất thất thường trong chê độ nhiệt thể hiện ở sự dao động của nhiệt độ tháng ở sự dao động của ngày bắt đầu và kết thúc của các mùa nóng lạnh. Nguyên nhân của tính chất thất thường này là do sự dao động chỉ đáng kể trong các tháng mùa đông. Như vậy, nhiệt độ tháng 1 của 1 năm nào đó có thể nóng hơn hoặc lạnh hơn nhiệt độ trung bình.

Tính chất thất thường trong chế độ mưa, thể hiện ở sự biến trọng của lượng mưa hằng năm, từng mùa và mỗi tháng. Có năm mưa nhiều mưa trung bình, nhưng vài tháng nào đó lại mưa ít, thì vẫn xảy ra hạn hán.

1.5.3- Ảnh hưởng của nước trong du lịch :

Vùng có hệ thống thủy văn phong phú như Sông Mã, S. chu, S. Cả … cung cấp 1 lượng nước lớn cho vùng. Bên cạnh đó còn có hệ thống hồ và nước ngầm cung cấp, lượng nước kể, hồ có nhiều tác dụng trước hết là điều hòa dòng chảy tiêu úng sau để nuôi thảy sản phát triển thủy điện, thủy lợi làm nơi nghĩ ngơi du lịch. Hồ nhỏ được hình thành từ lâu, nước ngầm có tác dụng trong sinh hoạt hằng ngày, cung cấp thức ăn, nước tưới, nước cho công nghiệp và cả nước dùng để trị bệnh. Tuy nhiên, nước ngầm cũng có tác hại nhất định như làm cho đất bị muối hóa và trở nên cằn cõi. Lượng nước ngầm ở nước ta cũng phong phú đủ để duy trì nước cho sông ngòi và cho cây rừng trong mùa khô. Vì lượng nước mùa mưa khá lớn ngoài ra điều kiện thấm nước cũng thuận lợi. Nơi có nguồn nước ngầm phong phú là các đồng bằng phù sa tập trung nhất tại các bậc thềm phù sa cổ và các cồn các duyên hải.

- Chế độ thủy triều ở đây là nhật triều điều hành, mỗi ngày chỉ có 1 lần nước lên và 1 lần nước xuống, số ngày ngập triều chiếm 95%. Mực nước đạt tối đa 2  3 ngày sau khi mặt trăng có độ xích vỹ lớn nhất, đó là thời kỳ nước lên đầy và nước xuống kiệt. Mức nước xuống, mức tối thiểu 2, 3 ngày sau khi độ xích vỹ của mặt trăng nhỏ nhất. Đó là thời kỳ nước kém, nước lên xuống rất ít, nhưng lại có 1 hiện tượng rất đặc biệt là thêm 1 lần thủy triều lên xuống nữa, gọi hiện tượng nước sinh con, chế độ thủy triều trở thành bàn nhật triều, độ cao của thủy triều có sự thay đồi theo các tháng trong năm, các tháng có thủy triều lớn nhất là tháng 10, 11, 12 và 5, 6, 7, các tháng có thủy triều thấp nhất là 3, 4 và 8, 9. ngoài ra vào mùa hạ thủy triều lên cao nhất vào buổi chiều còn trong mùa đông thủy triều lên cao vào buổi sáng.

1.5.4. Tài nguyên động thực vật :

Vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên ở đây có những nét hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng, khung cảnh tĩnh mịch trong ánh rừng giả nguyên sinh như ở các vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) với hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới rất điển hình, hoàn toàn làm thỏa mản trí tò mò các du khách và lòng say mê nghiên cứu của các nhà kho học. Cùng với các loại dược liều lạ như câm nhung, tam thất …

Thiên nhiên ở vùng này cũng vô cùng phong phú trong rừng có những động vật của vùng nhiệt đới như sáo, vẹt, voi, bò tót … dưới nước có nhiều lọi hải sản và là những món ăn ngon cho du khách như tôm hùm, sò, huyết, cua, bào ngư …

1.5.5. Tác động thuận lợi khó khăn của việc khai thác TNTN :

* Khó khăn :

Sự suy thoái thiên nhiên rừng : thảm rừng, một tài nguyên vô giá, một nhân tố cơ bản của chất lượng môi trường sống đã bị suy tàn quá mức cho phép và đang tiếp tục giảm sút nhanh chóng. Mất rừng không chỉ mất một nguồn tài nguyên động thực vật quý giá, một lượng sinh khối lớn mà còn nguy hiểm chung cho cả môi trường sinh thái Việt Nam. Tỷ lệ che phủ hiện tại không dưới 30% không đủ đảm bảo an toàn sinh thái cho môi trường sống, dẫn theo hàng loạt hậu qủ khác.

Sự thoái hoá vô hoang hóa đất đai do tác động hủy hoại của con người đã làm cho đất ngày càng xấu đi, hiện tại có khoảng 10 triệu ha đất trồng, đồi núi trọc, quá trình xói mòn đang bồi lấp lòng sông, hồ, ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy sông ngòi làm nguy cơ hạn hán và lũ lụt ngày một tăng.

- Sự giảm sút giới động vật hoang dã theo sau sự thu hẹp diện tích rừng làm mất đi một nguồn sinh khối lớn và nguồn gen động vật quý hiếm đặc trưng cho vùng nhiệt đới.

- Vấn đề ô nhiễm môi trường đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, các khu đông dân cư.
- Việc khai thác không có ý thức của con người làm cạn kiệt nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động du lịch.
 
2-TÀI NGUYÊN NHÂN VĂN

2.1-Di Tích Lịch Sử-Văn Hóa

Do địa hình vùng du lịch vùng du lịch miền Bắc với nhiều đồi núi, đồng bằng và hang động nên trong suốt quá trình lịch sử chiến đấu lâu dài dành độc lập của dân tộc từ xưa đến nay, nhân dân luôn chọn nơi đây là căn cứ địa trọng yếu . Vì thế, đã để lại trong vùng đất này rất nhiều di tích mà ngày nay đã trở thành minh chứng lịch sử cho một thời đại, một dân tộc.

Để hôm nay, trong cảnh hoà bình , trên đà phát triển về mọi mặt của kinh tế – chính trị – xã hôi, tiến đến công nghiệp hóa – hiện đại hóa để sánh vai ngang tầm với cường quốc năm châu theo nguyện vọng của Bác, thì khi trở lại nơi đây, đối với người xưa chốn cũ thật không khỏi bồi hồi xúc động, nhớ những ngày tháng đấu tranh gian khổ những người đã anh dũng nằm xuống để cho bao đời tiến lên, họ đã bỏ lại sau lưng những khát vọng đời thường của con người để rồi ra đi trong êm đềm, nhẹ nhàng không tiếc nuối.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời .
….
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Tây Tiến – Quang Dũng

Còn thế hệ sau, khi đến đây không khòi tự hào về ông cha đã anh hùng dũng cảm như thế nào để từ đó mà sống sau cho xứng đáng.

Bên cạnh ý nghĩa lịch sử to lớn đó, còn thể hiện nét văn hóa, tín ngưỡng riêng của từng dân tộc, cùng với những nét đẹp hoành tráng, cổ kính mang đầy chất nghệ thuật, chứa cả hồn dân tộc mà được các nghệ nhân thực hiện chủ yếu bằng thủ công.
 
CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ – VĂN HÓA TIÊU BIỂU:

2.1.1-TIỂU VÙNG DU LỊCH TRUNG TÂM:

Di tích thành Xương Giang

Thành nằm ở phường Thọ Xương,cách thị xã Bắc Giang 4 km,bên cạnh quốc lộ 1A đi Lạng Sơn.Thành này do nhà Minh xây dựng vào thế kỷ 15 để trấn giữ nơi cửa ngõ rút quân phía Bắc.Nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi do tướng Trần Nguyên Hãn chỉ huy sau gần 1 năm vây hãm,đánh chiếm thành Xương Giang trước khi viện binh của quân Minh qua ngả biên giới Lạng Sơn kéo xuống nước ta.Chính tại nơi đây đã diễn ra trận đánh lịch sử thắng 10 vạn quân Minh.Hệ thống thành Xương Giang hiện nay vẫn còn dài khoảng 600m,có 4 cổng chính,diện tích khoang 27 ha.

Đền Bà Chúa Kho

Từ Hà Nội theo quốc lộ 1A qua ga Thị Cầu,rẽ trái đi thêm chừng 500m là đến làng Cổ Mễ,phường Vũ Ninh,thị xã Bắc Ninh,nơi có đền thờ Bà chúa Kho.Tương truyền rằng đó là một người phụ nữ Việt Nam đã khéo tổ chức sản xuất,tích trữ lương thực,trông nomkho tàng quốc gia trong và sau khi chiến thắng Như Nguyệt(1076) .Khi Bà qua đời,năm 1077, nhân dân đã lập đền thờ để ghi công ơn của Bà.

Đền thờ Bà ngày nay được xây dựng mang kiến trúc thời Nguyễn ,theo kiểu tam ban.Ban hạ kiến trúc kiểu tiền kê,hậu bẩy;ban trung theo kiểu thượng chồng rường,hạ kê trong;ban thượng dựng kiểu chồng rường,giá chiêng.

Đền Bà Chúa Kho hiện nay được tu sửa khang trang.Thường vào cuối năm và đầu năm (ngày lễ chính 10/1 âm lịch) thu hút rất nhiều khách từ Bắc đến Nam về dâng hương,cầu phúc,cầu tài,cầu may mắn…

Chùa Dâu

Chùa ở thôn Khương Tự (còn gọi là làng dâu) ,xã Thanh Khương,huyện Thuận Thành ,cách Hà Nội chừng 30km.

Chùa được dựng vào đầu thế kỷ thứ 3 ở vị trí là giao điểm những con đường lớn,nơi tiếp thu đạo Phật và trở thành trung tâm Phật giáothời bấy giờ.Trong Phật điện chính có pho tượng lớn nữ thần Pháp Vân (nữ thần Mây) ngồi trên toà sen,vì vậy chùa còn được gọi là Pháp Vân tự.

Trong khuôn viên chùa có ngọn tháp nổi tiếng,xây dựng thé kỷ 6,với ý nghĩa như một thạch trụ ngăn cản làn gió nghiệp chướng .Vì vậy tháp mang tên Hoà Phong.

Chùa Bút Tháp

Chùa có tên chữ là Ninh Phúc tự,toạ lạc ở phía tây thôn Bút Tháp,xã Đình Thổ,huyện Thuận Thành ,cách Hà Nội khoảng 30 km.Chùa được dựng vào thời Hậu Lê thế kỷ 17,theo kiểu “nội công ngoại quốc” ,ngoài cùng là tam quan,tiếp đó là gác quan hai tầng 8 mái,tiền đường ,thiêu hương,thượng điện,cầu đá,tích thiện am,nhà trung,phủ thờ và kết thúc là tháp đáTôn Đức. Tại chùa có thờ các bộ tượng Tam Thế,Tam thân,tượng phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cao 3,7m có 11 đầu, gần 1000 tay,1000 mắt đặt trên toà sen do rồng đội,bên dưới là các hình trang trí sóng nước,tôm ,cua,ốc,rùa….bốn góc bệ là 4 pho tượng lực sĩ trông rất sống động.Trong chùa còn có tháp “cửu phẩm liên hoa” bằng gỗ,cao 8m,nhiều cổ vật quí,tháp đẹp.nổi tiếng nhất là tháp Báo Nghiêm,nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hành,vị tổ thứ 2 của chùa .Chùa được trùng tu nhiều lần .Chùa Bút Tháp là một trong những ngôi chùa danh tiếng vào bậc nhất ở Việt Nam.
Chùa Phật Tích

Chùa được khởi dựng vào khoảng thế kỉ 7-10 ở sườn núi Lạn Kha(rìu mục), xã Phật Tích, huyện Tiên Du. Đến thời Lý, chùa được trùng tu với qui mô lớn. Năm 1057, vua Lý Thánh Tôn cho dựng cây tháp báu và đúc pho tượng mình vàng. Năm 1947, chùa bị hỏng nặng. Năm 1991 chùa được trùng tu theo kiến trúc như xưa. Một số di vật quí hiện còn lại ở chùa như: tượng Phật A Di Đà tạc bằng đá khối ngồi trên toà sen cao 1,87m(cả bệ cao gần 3m); 32 ngôi tháp; nhiều hình chạm đá nhạc cong, vũ nữ; tượng nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết…

Đình làng Đình Bảng

Thuộc huyện Từ Sơn, cách Hà Nội 20 km. Đây là một ngôi đền cổ kính nổi tiếng nhất ở Kinh Bắc. Đình được xây dựng năm 1700-1736 mới được hoàn thành. Đình thờ 3 vị thành hoàng: Cao Sơn Đại Vương(thần đất), Thuỷ Bá Đại Vương(thần nước) và Bach Lệ Đại Vương( thần trồng trọt).

Toà bái đường của đình nền hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14m chia làm 7 gian, 2 chái. Nền cao bó vỉa đá xanh có bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng và những cột lim hiếm thấy ở những ngôi đình khác. Có khoảng 60 cột lim lớn nhỏ, đường kính từ 0,55-0,65m. Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, trau chuốt, hài hoà.Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng. Trong đình có bức chạm nổi “bát mã quần phi” với đường nét tài hoa phóng khoáng diễn tả các cảnh sinh hoạt vô cùng sống động. Đình Đình Bảng là ngôi đình cổ, đẹp nên rất hấp dẫn khách du lịch.

Đình Cổ Mễ

Thuộc làng Cổ Mễ phường Vũ Ninh, thị xã Bắc Ninh là 1 ngôi đình lớn được dựng năm 1681. Đình được dựng theo kiểu chữ nhất với 5 gian, 2 vì. Đình thờ Trương Hống, Trương Hát và những anh hùng có công giúp Triệu Quang Phục( 549-570) chống giặc Lương.

Các mảng chạm khắc gỗ trong đình Cổ Mễ rất đẹp, thể hiện nội dung theo các đề tài “long vân đại hội”, “ngũ hổ tranh châu”.

Kiến trúc đình Cổ Mễ mang những nét rất tiêu biểu cho mô típ đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ, của làng quê Việt Nam.

Di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt

Di tích lịch sử này thuộc thôn Thọ Đức, Tam Đa, huyện Yên Phong. Ngày xưa tại Thọ Đức, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng nhiều trợ quân lớn hiện vẫn còn dấu tích trong lòng đất: trại Chỉnh, trại Chùa, trại Quýt, trại Mái Am.Trên khu vực Bãi Miễu, Lý Thường Kiệt cho xây dựng 1 phòng tuyến lớn chặn giặc ở cửa sông Thọ Đức. Xung quanh là các khu hậu cần: kho Dốc Gạo, kho Cung và gò Cung, kho Gươm và Gò Gươm.

Trong kháng chiến chống Tống 1077, khu vực Thọ Đúc được xây dựng thành phòng tuyến kiên cố trong hệ thống phòng tuyến sông Như Nguyệt. Cánh quân đóng ở đây có nhiệm vụ chặn mũi tiến quân của giặc từ phía núi Tiêu Lát tràn sang và làm nhiệm vụ ứng cứu cho 2 cánh quân ở khu vực Như Nguyệt và Thị Cầu. Cùng với 2 cách quân này đã tạo nên chiến thắng vang dội của quân dân nhà Lý năm 1077, đập tan nạn xâm lăng của nhà Tống.

Toàn bộ khu vực Thọ Đức ngày nay vẫn nằm trên 1 dọi đất cao so với xung quanh. Đình, đền, chùa Thọ Đức cũng là những di tích lịch sử nằm trong hệ thống phòng tuyến Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống(1077).

Di tích núi Dinh

Núi Dinh còn có tên gọi là núi Thanh hay núi Pháo Đài, nằm trên đất của 2 phường Thị Cầu và Đát Cầu, thị xã Bắc Ninh. Trong lịch sử các cuộc kháng chiến chống xâm lược, núi Dinh luôn là điểm nóng, là phòng tuyến và cũng là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch.

Tại núi Dinh, trong cuộc kháng chíên chống Tống thế kỉ 11, Lý Thường Kiệt cho quân và dân xây dựng phòng tuyến sông cầu thành 1 phòng tuyến chống giặc vững chắc. Dưới sự chỉ huy tài tình của ông, đại quân đóng ở núi Dinh đã tổ chức phòng ngự và tấn công đánh bại đạo quân chủ lực của Quách Quỳ.

Thế kỉ 13, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn cũng cho xây dựng hệ thống phòng thủ ở Xương Giang và Thị Cầu.

Đầu thế kỷ 15,quân Mimh sang xâm lược và đã đóng quân ở đây(thành Thị Cầu) .Tháng 3/1427 toàn bộ quan Minh đóng ở thành Thị Cầu đã kéo nhau ra đầu hàng.

Thời Tây Sơn ,khu vực núi Dinh –thành Thị Cầu cũng là nơi đóng quân của nghĩa quân.Tại đây đã xảy ra cuộc giao chiến ác liệt giữa quân ta do tướng Phan Văn Lân chỉ huy với quân xâm lược Mãn Thanh.

Tháng 3/1946 ,núi Dinh là nơi tiếp đón chủ tịch Hồ Chí Minh khi người về thăm Bắc Ninh.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,trận địa pháo cao xạ đóng trên núi Dinh cùng với các trận địa xung quanh đã bắn rơi 5 máy bay Mỹ.

Núi Dinh là một di tích lịch sử,một điểm tham quan của du khách khi tới thăm vùng đất kinh Bắc thơ mộng.

Đình Diềm

Ngôi đình thuộc thôn Viêm Xá(Diềm) ,xã Hoà Long,Yên Phong,Bắc Ninh ,là một trong số những ngôi đình nổi tiếng còn lại ở làng quê Việt Nam .Đình thờ Trương hống, Trương Hát ,có công đánh quân xâm lược nhà Lương.Đình được xây dựng vào đời Lê Hy Tông(1692).Làng Diềm là một làng cổ,nằm trên núi Quả Cảm và Sông Cầu,tạo nên vẻ đẹp “sơn thuỷ hữu tình”.

Đình nằm ở đầu làng ,tiếp đến là một sân gạch rộng,rồi 3 khối kiến trúc:đại đình,ống muống và hậu cung.

Đại đình được dựng trên nền cao bó đá xanh,4 cột cái cao to đỡ bộ khung nâng mái.Nổi bậc nhất trong toà đại đìmh là tấm võng lớn,kiểuhình hộp lồng vào nhau,sơn son thếp vàng rực rỡ ,dày đặc các hoạ tiết trau chuốc,tỉ mỉ và sinh động.Tấm cửa võng án ngữ hết chiều rộng phía trên gian giữa từ thượng lương buông xuống và lùi dần về phía sau tới 2 cột cái ở trong rồi chuyển thành 3 mảng diềm bọc lấy khung cửa cấm .Ngoài những hình trang trí thường gặp như;rồng,phượng,mây,núi,hoa,lá,muông thú…còn có những hình thiếu nữ trong tư thế cưỡi rồng duyên dáng.Trong đình còn có đôi phỗng bằng gỗ hình thù kì dị ,khuôn mặt rất hài hước;có chiếc độc bình gốm lớn ,trang trí hổ phù ,rùa phun nước,rồng phượng chầu mặt trời…

Tại đây hàng năm làng tổ chức lễ hội.Đình Diềm là một di tích kiến trúc nghệ thuật đã được nhà nước xếp hạng.

Làng tranh Đông Hồ

Đây là một làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam ,tên là làng Đông Hồ,huyện Thuận Thành.

Nghề vẽ tranh dân gian của làng Đông Hồ đã có từ rất lâu đời.Trước đây họ vẽ tranh phục vụ tết Nguyên Đán.Ngày nay tranh Đông Hồ có thể phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng .Nguyên liệu để vẽ tranh là giấy dó(giấy được làm bằng cây dó giã nhỏ,lọc và cán mỏng),màu ve lấy từ chất liệu thiên nhiên như gạch non,lá cây,rễ cây ,đốt thành than,mài ra.Muốn có màu nền lấp lánh,họ phải dùng vỏ sò ,nghêu(còn gọi là điệp) nung lên thành vôi,giã nhỏ, trộn với nhựa cây, phết đều lên giấy dó để tạo ra sự độc đáo. Hầu hết tranh Đông Hồ đều phản ánh ước nguyện hoà bình, hạnh phúc, ấm no. Có 1 số tranh vẽ về động vật như bò, lợn, chó, mèo đều là những con vật gần gũi với người nông dân. Đặt biệt một số tranh với mảng đề tài “hứng dừa”, “đám cưới chuột”, “đánh ghen” rất hấp dẫn khách trong và ngoài nước. Hiện nay, người làng tranh Đông Hồ còn làm thêm đồ hàng mã để phục vụ việc tế, lễ.
Hàng năm, chợ tranh được họp vào dịp tết Nguyên Đán tại đình Đông Hồ.

Khách ở quanh vùng và ở các tỉnh xa nô nức về chợ để mua tranh. Hội thi đồ mã cũng được tổ chức tại đình từ chiều 14 tháng 3 đến ngày 18 tháng 3 âm lịch hằng năm. Chợ tranh và hội thi đồ mã được tổ chức hằng năm phần nào phản ánh được nét đặc thù trong hoạt động kinh tế-văn hoá của người dân làng Đông Hồ.

Làng nghề Đại Bái

Đại Bái thuộc huyện Gia Bình là địa phương chuyên sản xuất các sản phẩm bằng đồng(đồng gò, đồng đúc). Ngày trước ở đây hình thành các phường thợ, xóm Tây là phường sản xuất mâm; xóm Ngoài là phường sản xuất nồi; xóm Giữa là phường sản xuất ấm siêu và xóm Sôn là phường sản xuất chậu. Ngoài ra còn 1 phường chuyên tổ chức khâu tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên vật liệu, gọi là phường chợ.

Lễ giỗ tổ nghề của người thợ đồng Đại Bái được tổ chức vào ngày 29 tháng 9 âm lịch, đó là ngày mất cuả vị tổ sư Nguyễn Công Truyền. Lệ ở đây quy định tất cả những người đến tuổi 49 năm đó(tuổi ra lềnh) đều phải đến thắp hương ở đền thờ tổ. Nếu ai ở xa không về được thì có thể gửi hương nhờ bạn cùng lứa tuổi thắp hộ.

Đình Long Phúc

Được xây dựng vào thời Lê cách thị xã Bắc Giang 8 km về phía nam.

Đình thờ 6 vị Đại Vương và Anh Tôn Công chúa là những người có công lớn với dân với nước.

Toà đại đình gồm 5 gian ,2 chái ,mái lợp ngói mũi hài.Đình có kết cấu độc đáo ,vì chèo chồng rường ,giá chiêng và 7 hiên ,gỗ làm đình là gỗ lim với những mảng chạm khắc tinh vi,mang đậm màu sắc dân tộc.

Hiện nay đình còn lưu giữ một số tài liệu và hiện vật có giá trị nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống đó là các bức đại,hương án,đoò thờ cúng,1 bài vị bằng đá,1 bài vị bằng gỗ sơn son tư thếp vàng,1 ngựa gỗ,2 câu đối….

Tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc)

Tháp nằm gần kề với chùa Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc địa phận thôn Bình Sơn, xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch. Tháp được xây dựng vào thời Lý-Trần.

Tháp Bình Sơn cao khoảng gần 16m. Tháp có 11 tầng, mỗi tầng có mái lượn cong. Lòng tháp rỗng, bệ tháp hình vuông mỗi cạnh dài 4,45m và được thu nhỏ dần đến đỉnh. Tầng trên cùng của tháp mỗi cạnh dài 1,55m. Tháp được xây bằng gạch đất nung già, màu đỏ sậm, rắn chắc như sành, móng tháp được xây bằng gạch vồ, sâu tới hơn 1m. Mặt ngoài các tầng tháp được ốp gạch mịn mặt, màu đỏ sậm, có hoa văn trang trí với đường nét cầu kì tinh xảo, hài hoà giữa các tầng tạo thành 1 khối kiến trúc hoàn hảo ở mỗi góc độ.

Trải qua nhiều thế kỉ, tháp đã bị nghiêng lệch và sụt lỡ một số chỗ và đã được trùng tu năm 1972, nền tháp được tôn cao 4m bằng 1 bệ bê tông, kiến trúc được bảo tồn như cũ.

Tháp Bình Sơn là một di sản của nghệ thuật kiến trúc độc đáo đời Lý-Trần còn được bảo tồn nguyên vẹn cho tới ngày nay.

Danh thắng Tây Thiên (Vĩnh Phúc)

Quần thể di tích Tây Thiên bao gồm: đền Chân Suối, đền Dầu, đền Cả, đền Thỏng, đền Cô, đền Cậu, chùa Đổng Cổ và đền Tây Thiên thuộc địa phận xã Đại Đình, huyện Tam Dương. Đền Tây Thiên ở độ cao 600m, thờ Nữ Chúa Tam Đảo Năng Thị Tiêu. Tục truyền Bà là một trong 7 tiên nữ được Ngọc Hoàng phái xuống hạ giới để chữa bệnh, cứu độ chúng sinh. Bà đã kết duyên cùng vua Hùng Vương thứ 6(Lang Liêu) và Bà đã có sắc phong là Quốc Mẫu Tây Thiên.

Đường lên đền Tây Thiên phải vượt qua nhiều khe, suối sâu, sườn núi dốc, rừng rậm. Cách Tây Thiên khoảng 500m gần Tháp Bạc(cùng tên với Tháp Bạc ở Tam Bảo) là động Sách Hoa.Đi theo hướng Tây khoảng 1km có chùa Đồng Cổ, đang lưu giữ hai pho tượng đồng quí.

Đến Tây Thiên, là chuyến hành hương, leo núi, vãn cảnh. Khu danh thắng này đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 1991.


Đình thuộc làng Phú Mỹ, huyện Mê Linh. đình thờ vợ chồng Hùng Thiên Bảo-Trần Hang, hai tướng của Hai Bà Trưng.

Đình Phú Mỹ là 1 công trình kiến trúc mang đậm phong cách thế kỉ 18.

Đại đình gồm 5 gian hai chái có chuôi vo theo kiểu “tàn đao lá mái” .Các đầu cong vút,bang đao bịt gỗ thành nhiều lớp tạo thành hoa văn lá sồi. Kiến trúc của đình nổi thiêng về điêu khắc và trang trí.Các đầu tư, đầu bảy, câu đầu, ván giỏ được chạm nhiều đề tài:tam đa, người giao đấu với rồng,người cưỡi rồng ,mây, tứ linh…Đình còn rất nhiều bức chạm mang phong cách kiến trúc thế kỷ 18.

Đình Hương Canh (Vĩnh Phuc)

Thuộc huyện Bình Xuyên,được xây dựng vào đời Vĩnh Thịnh(1705-1719),kiến trúc theo kiểu chữ công gồm nhiều phương đình,thượng điện và hậu cung .

Trong đình có nhiều bức cham trổ tinh vi với các chủ đề “tứ linh”, “tứ quý” ở các bức cốn,cửa võng…mang đậm phong cách nghệ thuật điêu khắc thời hậu Lê.

Đình Hương Canh là một di tích văn hoá đã được xếp hạng.

Đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc)

Đình thuộc xã Thổ Tang,huyện Vĩnh Tường,được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17. Đình Thổ Tang với kiến trúc cổ truyền phản ánh tư duy dân dã của người nông dân bằng các bức chạm trổ thể hiện cảnh sinh hoạt của người nông dân,cảnh trai gái tình tự,đá cầu, đánh thổ, đánh vật, chuốc rượu…Đình Thổ Tang là một đình cổ.

Chùa Đức La ( Bắc giang)

Chùa có tên chữ là Vĩnh Nghiêm tự,cách Hà Nội 80km về phía Bắc,chùa toạ lạc trên thôn Quốc Khánh,xã Trí Yên,huyện Yên Dũng.

Chùa được xây dựng vào đầu đời Trần,nằm trên một khu đồi thấp sau lưng là dãy núi cô Tiên,bên trái sát bờ sông Lục.Trước mặt là những cánh đồng rộng ,xen kẽ xóm làng ,mờ xa là dãy núi Nham Biền nên thơ.

Kiến trúc chùa Đức La gồm có 4 khối chính. Khối thứ nhất gồm có chùa Hộ, toà Thiêu Hương, chùa Phật. Chùa Hộ có bài trí nhiều tượng. Toà Thiêu Hương lộng lẫy với 3 lớp hoành phi và cửa võng thếp vàng ,gian thứ hai bày nhiều tượng phật và tượng các vị la hán. Chùa Phật là thế giới của tượng phật, mang dấu ấn kiến trúc thời Lê. Khối thứ hai là nhà Tổ đệ nhất.Kiến trúc đơn giản,đặc biệt có tấm hoành phi “Trúc Lâm hội thượng vpí 3 pho tượng Trúc Lâm Tam tổ.Khối thứ ba là gác chuông cao 2 tầng mái và khối thứ 4 là nhà Tổ đệ nhị,có 2 pho tượng Tổ tiêu biểu cho nghệ thuật tạc tượng thời Nguyễn.

Trải qua thời gian,cả 4 khối kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn.Chùa từng là nơi thuyết pháp của Trúc Lâm Tam tổ(Trần Nhân Tông,Pháp Loa,Huyền Quang) và là nơi dịnh chức danh cho các tăng sĩ thời Trần,chùa đã được trùng tu nhiều lần.

Chùa Bổ Đà (Bắc giang)

Chùa thuộc xã Tiên Sơn,huyện Việt Yên là trung tâm phật giáo thời nhà Lê,vốn có nguồn gốc từ thời Lý thế kỷ11.

Chùa nằm trong một khuôn viên rộng có cảnh núi non đẹp, hấp dẫn du khách.Hiện nay chùa Bổ Đà vẫn là nơi huấn luyện tăng ni,phật tử của hội Phật giáo tỉnh.

Đình Lỗ Hạnh (Bắc giang)

Đình ở xã Đông Lỗ,huyện Hiệp Hoà ,là công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng từ thời nhà Mạc,thế kỷ 16(1576).

Lúc đầu đình Lỗ Hạnh chỉ là một toà đại đìmh hình chữ “nhất”.Năm 1850,đình được sữa chữa thêm hậu cung thành chữ “công” và 2 dãy tả hữu vu phía trước. Đình gồm 5 gian,2 chái 48 cột.Chu vi cột cái 1,42m,cao 4,61m.Nền đình dài 23,5m,lòng đình rộng 12,3m.Các vì gian giữa kết cấu theo kiểu chồng rường-giá chiêng;vì gian bên kiểu ke chuyền-giá chiêng ,các xà ngang liên kết với các vì chuyền vươn xa đưa đầu mái vượt ra không gian khá lớn.Nhìn chung kiến trúc đình Lỗ Hạnh trông đồ sộ mà không nặng nề nhờ các bờ cong của 4 mái tương phản với mặt sân rộng trong điểm trung tâm của làng xã.

Đình Lỗ Hạnh đến nay vẫn còn giữ được nhiều di vật khác:bộ tranh gỗ phủ sơn đầu thế kỷ18-19 vẽ cảnh Bát Tiên dài 2,23m,cao 1m;đôi nghè gỗ thế kỷ 17 sơn son thếp vàng,tượng bà Chúa Tiên Dung cùng bài vị Cao Sơn Đại Vương,thần Thành Hoàng làng.

Đình Thổ Hà (Bắc giang)

Đây là ngôi đình được dựng vào thời Lê Hy Tông trên khu đất rộng 3000m2 có nhiều cây cổ thụ thuộc làng Thổ Hà,huyện Việt Yên.

Đình được dựng theo kiểu chữ công,toà bái đường dài 27 m ,rộng16m,dựng trên nền cao 0,5m xung quanh có bó đá tảng xanh chia làm 3 cấp,mái đình lợp ngói mũi hài to bản,4 góc là những đầu đao cong vút.Đầu bờ nóc uốn quanh hình lưỡi liềm,góc mái có gắn nghê,thú nhỏ bằng sành nung già lửa đỏ tía.Có tất cả 22 đầu bẩy lực lưỡng,chạm rồng,nghê,mây,thú rất trau chuốt.Bái đường chia làm 7 gian,48 cột lim,bộ khung mái chạm trổ tinh vi,nhiều cảnh trí sinh động.Đặc biệt có khá nhiều hình thiếu nữ mặc váy dài ,yếm,tóc búi trần hoặc chít khăn với nét mặc rạng rỡ trong tư thế cưỡi phượng,đè rồng,hoặc đang nhảy múa giữa các lớp mây bồng bềnh.Lòng bái đường lát đá xanh nhẵn bóng.Bức cửa võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính.

Theo tấm bia cổ để lại,đình Thổ Hà là công sức đóng góp của toàn thể dân làng Thổ Hà.Ngôi đình là công trình thể hiện niềm tự hào của các thế hệ người dân Thổ Hà.

Di tích cách mạng Hoàng Vân (Bắc giang)

Di tích thuộc huyện Hiệp Hoà ,được goi là ATK, là căn cứ chuẩn bị cho công cuộc giành độc lập,nơi ở của các đồng chí lãnh đạo trung ương Đảng thời kỳ tiền khởi nghĩa(1940-1945) .Nơi đây có 7 di tích được công nhận là di tích lịch sử cách mạng như đình Hoàng Vân,đình Vân Xuyên,Nghè Sư,đình Xuân Biểu,xóm Đá….
 
2.1.2-VÙNG DU LỊCH DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC:

Chùa thuộc huyện Hồ Nam, quận Lê Chân, cách trung tâm Hải Phòng 2 km về phía Tây Nam .Chùa được xây dựng vào đời Tiền Lê (980-1009). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) vị vua mộ đạo phật đã từng đến giảng đạo tại Phúc Lâm Tự . Chùa được trùng tu nhiều lần.Ngày nay,chùa Dư Hàng được xếp hạng là một di tích lịch sử .Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý:tượng phật,đỉng đồng,chuông,khánh,đặc biệt là bộ sách Kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lí đạo Phật.

Đình Hàng Kênh:

Đình được dựng vào thế kỷ thứ 17-18 ,đến năm 1905 được mở rộng như ngày nay.Đình còn có tên là đình Nhân Thọ.

Đình Hàng Kênh là một công trình có giá trị lớn về điêu khắc gỗ.Trong đình có 156 mảng chạm khắc ,con rồng là đề tài chính .Toàn bộ công trình chạm khắc tới 308 hình rồng to,nhỏ khác nhau .Trong đình có tượng vua Ngô Quyền và kiệu bát cống là hiện vật có giá trị mỹ thuật cao.

Hàng năm từ ngày 16 đến 18/2 âm lịch ,đình mở hội có tế lễ,diễn chèo,tuồng,ca trù,chầu văn và các trò chơi cờ tướng,đấu vật,chọi gà… thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Khu di tích thuộc thôn Trung Am ,xã Lý Học ,Vĩnh Bảo,Hải Phòng ,gồm 89 hạng mục:tháp bút Kinh Thiên;đền thờ dựng khi cụ mất (1585) với ba gian tiền đường ,hai gian hậu cung ,phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất ,bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”;nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm,phần mộ cụ thân sinh ở phía sau đền ;tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá cao 5,7 m ,nặng 8.5 tấn;hồ bán nguyệt rộng khoảng 1000 m2;chùa Song Mai;Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt ,vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân,nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện”.

Ngày nay khu di tích đã dược xây dựng khang trang,trở thành điểm du lịch văn hoá lớn của khu vực ,là nơi tổ chức các lễ hội lớn kỉ niệm danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm .

Đền Nghè :

Đền nằm ở trung tâm thành phố ,cách Nhà hát thành phố chừng 600 m về phía Tây- Nam.

Đền thờ bà Lê Chân,một nữ tướng của cuôc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỉ thứ I(40-43),người lập ra làng An Biên ,tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này .

Lúc đầu,đền là một miếu nhỏ .Năm 1919,toà hậu cung của đền được xây dựng,năm 1926 toà tiền bái được xây dựng.Đây là một tổng thể di tích văn hoá-kiến trúc gồm voi đá,ngựa đá,sập đá,bia đá….

Đình Nhân Mục:

Đình ở làng Nhân Mục ,xã Nhân Hoà ,huyện Vĩnh Bảo,được xây dựng vào thế kỉ 17.Đình đã được trùng tu nhiều lần.Lần trùng tu cuối cùng vào năm 1941.

Đình gồm 5 gian tiền đường,dài 15 m,rộng 5m.Hậu cung dài 9m,rộng 1m.Đình lợp ngói mũi hài .Ngôi đình nay còn giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thế kỉ 17 .Đao đình là sự tiếp nối của bờ xối kết hợp với mái tàu .Đặc biệt đình có bộ khung sườn bằng gỗ tứ thiết được liên kết bằng vì kèo xà với kỹ thuật sâm mộng.

Đình Nhân Mục có nhiều cổ vật quý được gìn giữ như kiệu bát cống thế kỉ 17,bia đá cao 1,8m,dài 0,26m là tác phẩm chạm khắc tuyệt vời vào năm 1694,bình pha trà gốm men ngoc thế kỉ 14.Đình Nhân Mục còn là nơi bảo lưu các sinh hoạt văn hoá cổ truyền của dân tộc.Hàng năm tại đây trong ngày hội có nghệ thuật múa rối nước rất độc đáo của vùng.

Chùa Phổ Chiếu:

Chùa được xây dựng năm 1953 do sư Ngô Chân Tử kiến lập và trụ trì,ở phường Dư Hàng Kênh,Quận Lê Chân.

Lúc đầu,chùa thờ Tam Giáo đồng nguyên.Đến năm 1954,một hoàthượng thuộc phái Lâm Tế về trụ trì,trùng tu và mở rộng ngôi chùa ,thờ Phật,đổi tên chùa là Phổ Chiếu.

Chùa hiện còn giữ một số di vật bằng đất nung và đá cổ ,các mảng trang trí ở tháp cổ Tường Long,những tháp đất nung cổ,4 tầng ,có 4 cạnh ,cao 0,35m.

Cụm di tích lịch sử văn hóa Yên Tử

Vị Trí: Tại khu vực x Thượng Yên Công, thị x Uơng Bí, tỉnh Quảng Ninh (cch trung tm thị x Uơng Bí 20km về phía Bắc).

Đây là một hệ thống di tích lịch sử,văn hoá gồm 11 ngôi chùa, nhiều am tháp và bia tượng; được xây dựng từ thời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Cha Yn Tử nằm trn dy ni cng tn, được xếp vào hàng danh sơn của đất nước có đỉnh cao nhất là 1068m. Đây là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ, một thiền phái Phật giáo mang đậm màu sắc dn tộc Việt Nam do vua Trần Nhn Tơng sng lập từ thế kỷ 13. Du khách đến thăm Yên Tử, ngoài việc đi bộ leo núi trên con đường hành hương truyền thống cịn cĩ thể được thưởng ngoạn phong cảnh núi rừng Yên Tử bằng hệ thống cáp treo hiện đại từ chân núi đến cha Hoa Yn. Lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch, kéo dài trong suốt cả mùa xuân.

Cụm di tích núi Bài Thơ

Vị trí: Phường Bạch Đằng - trung tâm thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; là một quần thể di tích lịch sử ,văn hoá bao gồm: núi Bài Thơ, chùa Long Tiên và đền thờ Trần Quốc Nghiễn.

Núi Bài Thơ: Cao khoảng 200m, tựa như một ngọn tháp khổng lồ bên bờ vịnh Hạ Long. Trước đây núi có tên gọi là Truyền Đăng. Năm 1468 vua Lê Thánh Tông trong một lần tuần du ở vùng biển An Bang (Vịnh Hạ Long ngày nay) đ ứng tc một Bi Thơ và cho khắc vào vách núi phía Nam. Từ đó núi mang tên là núi Đề Thơ, sau gọi là Bài Thơ. Ngoài Bài Thơ của vua Lê Thánh Tông, hiện nay trên vách núi phía Đông Nam cịn cĩ Bi Thơ họa của chúa Trịnh Cương (năm 1729) và chùm Bài Thơ của một số danh nhân thời Nguyễn .

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, núi Bài Thơ cịn gắn liền với những sự kiện lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân vùng mỏ. Ngày 1.5.1930 lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên đỉnh núi, mở đầu giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vùng mỏ dưới sự lnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Bài Thơ là trạm gác phịng khơng, hang tr ẩn cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện chính của Bưu Điện tỉnh Quảng Ninh.

Đền thờ Trần Quốc Nghiễn: Nằm ở phía Tây chân núi Bài Thơ. Đền thờ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng nhà Trần có công đánh giặc bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc.

Cha Long Tin: Nằm ở phía Bắc chân núi Bài Thơ. Chùa được xây dựng năm 1941 để thờ Phật là chính, ngoài ra cịn thờ đức thánh Trần và thánh Mẫu. Đây là trung tâm Phật giáo lớn của thành phố Hạ Long. Lễ hội nơi đây diễn ra vào ngày 24.3 âm lịch hàng năm

Đình Quan Lạn:

Nằm trong cụm di tích Đình,Chùa ,Miếu,Nghè thuộc xã đảo Quan Lạn,huyện Vân Đồn,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật số 575 QĐ ngày 14/7/1990 .

Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê(khoảng thế kỷ 17) và được sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn để thờ Thành Hoàng làng là các vị tiên công đã có công tạo ra xã Quan Lạn và thờ Trần Khánh Dư ,người có công lớn trong trận đánh thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn-Cửa Lục góp phần quan trọng vào đại thắng Bạch Đằng năm 1288.

Đình Quan Lạn xây theo kiểu chữ công gồm 5 gian ,2 chái tiền đường ,3 gian ống muống và 1 gian 2 chái hậu cung .Đề tài trang trí ở đây chủ yếu là hình tượng rồng ,phượng và hoa lá ,được thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cốn ,đầu bẩy , đầu dư ,câu đầu,cửa võng …Hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ lại ở đình là pho tượng Trần Khánh Dư và 18 sắc phong của các vua triều Nguyễn phong cho thành hoàng làng Trần Khánh Dư.

Đến thăm đình Quan Lạn ,ngoài việc thưởng thức các giá trị văn hoá ,du khách còn được thoả sức đùa giỡn cùng sóng biển với 2 bãi cát dài phẳng mịn (bãi trước,bãi sau).

Lễ hội ở đây diễn ra vào ngày 18/6 âm lịch nhưng không khí của lễ hội thì kéo dài trong suốt tháng 6.

Bãi cọc Bạch Đằng

Nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc xã Yên Giang,huyện Yên Hưng,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công hận là di tích lịch sử (số 191 VH/QĐ ngày 22/3/1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng.Bãi cọc Bạch Đằng tồn tại cung thời gian là chứng tích trong lịch sử chống giặc ngoại xâmcủa dân tộc ta.Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng dân tổcTrần Quốc Tuấn ở thế kỷ 13.

Vào thế kỷ 13 ,sau 2 lần tiến quân xâm lược Việt Nambị thất bại thảm hại(1258,1285) năm 1288 quân Nguyên-Mông quyết tâm xâm lược nước ta lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đường bộ và dường thuỷ .Trước sức mạnh đó vua quan nhà Trần đã thực hiện kế hoạch rút lui chiến lược,xây dựng chiến tranh du kích để tiêu hao sinh lực địch.Sau một thời gian bị tiêu hao sinh lực ,mệt mỏi vì khí hậu,hơn nữa đoàn thuyên lương của Trương Văn Hổ đã bị quân của Trần Khánh Dư đánh chìm nagy khi vào đến Vân Đồn Cửa Lục,buộc quân địch phải rút lui .Biết trước được âm mưu đó,Trần Quốc Tuấn đã dựa vào chiến thuật cắm cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 và kết hợp với 2 dải đá ngầm ở ghềnh Cốc và ghềnh sông Chanh tạo thành phòng tuyến chặn đường rút lui của quân giặc.

Ngày 9/4/1288 khi đạo binh của Ô Mã Nhi vào đến cửa sông Bạch Đằng,Trần Quốc Tuấn đã cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến ,khi nước triều rút,các cánh quân mai phục từ các nhánh sông mới lao ra quyết chiến làm cho quân địch không trở tay kịp,kết hợp với chiến lược hoả công chỉ trong vòng 1 ngày hơn 3 vạn quân của Ô Mã Nhi và gần 400 chiến thuyền đã bị quân dân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống.

Chiến thắng Bạch Đằng 1288 là một chiến công chói lọi đã ghi vào trang sử hào hùng chống giặc ngoại xâm mà bãi cọc hiện còn ở đầm Yên Giang là chứng tích hùng hồn của chiến công đó.
Chùa Quỳnh Lâm:

Nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đông Triều ,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật (số 2009 QĐ/VH ngày 15/11/1991).Phía trước là hồ nước lớn ,3 phía còn lại đồi núi bao bọc.Với thế đất này được gọi là thế ngai vàng,hay thế “rồng chầu hổ phục”.

Chùa được hình thành từ đời Tiền Lý (khoảng cuối thế kỷ 5,đầu thế kỷ 6) và được tu sửa qua các triều đại Đinh,Tiền Lê,Lý,Trần,Lê.Đặc biệt chùa được tôn tạo và hoàn chỉnh vào thời Lý,Trần.Trong các thế kỷ 11-14,thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17-18 Quỳnh lâm đều trở thànhtrung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.

Vào thời Lý,nhà sư Không Lộ đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao 6 trượng ,được coi là một trong những “An Nam tứ đại khí”(bốn báu vật cua Việt Nam) và tạc một tấm bia đá lớn cao 2,5 m ,rộng 1,5m với hình rồng uốn lượn mềm mại.Nhưng chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ 14 với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương,vị tổ thứ 2 của phái Thiền trúc Lâm.

Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ ,năm 1316 Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với một kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329,Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của An Nam”.Đây là nơi trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo phật, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội”Thiên phật bảy ngày ,bảy đêm”(1352)…

Trải qua thăng trầm của lịch sử ,các công trình kiến trúc cổ của chùa Quỳnh Lâm đã bị huỷ hoại ,nhưng nhiều hiện vật như tấm bia đá lớn thời Lý,khánh đá và vườn tháp…vẫn còn.

Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch,nhưng không khí lễ hội diễn ra trong suốt 3 tháng mùa xuân với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về dâng hương lễ phật.

Đền Cửa Ông (Đông Hải Linh từ):

Toạ lạc nằm trên ngọn núi trông ra vịnh Bái Tử Long thuộc phường Cửa Ông,thị xã Cẩm Phả,đã dược Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh.

Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 gồm 3 khu vực chính:đền Hạ,đền Trung và Thượng ,được phân bố ở 3 vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần.Đền Hạ thờ Mẫu ,khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng ,lăng Trần Quốc Tảng,đền Quan Châu,đền Quan Chánh và chùa .Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu,người anh hùng của địa phương,sau thờ Trần Quốc Tảng,con trai thứ 3 của Trần Quốc Tuấn,người có công trấn ải vùng cửa Suốt.

Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ công(I) gồm 3 gian tiền đường,2 gian ống muống và 3 gian hậu cung.Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay.Với 43 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu tỉ mỉ,sắc nét với tư thế ngồi trong ngai,khám,long đình rất cân đối mang giá trị nghệ thuật cao.Đó là tượng Trần Quốc Tuấn ,tượng Thánh Mẫu(vợ ông) ,2 công chúa(con ông),Trần Quốc Tảng,Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư,Yết Kiêu,Dã Tượng,Phạm Ngũ Lão,Lê Phụ Trần,Đỗ Khắc Chung…..và nhiều câu đối,đồ thờ tự khác.

Từ lâu,đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân tỉnh Quẩng Ninh,mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng lần lượt tìm đến để dâng hương,trẩy hội.Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng giêng âm lịch và kéo dài suốt 3 tháng xuân.

Làng nghề gốm sứ Hương Canh

“Ai về mua vại Hương Canh”

Câu ca dao còn lưu truyền đến ngày nay đã chứng minh được sức sống của làng nghề gốm sứ vốn đã nổi tiếng từ lâu đời của tỉnh Vĩnh Phúc,Hương Canh cách Hà Nội 52km.

Làng nghề gốm sứ Hương Canh ngày xưa chuyên sản xuất các loại sành sứ bình dân phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của tầng lớp nhân dân như vại,chum đựng nước,ấm đun nước,săc thuốc…Các mặt hàng của Hương Canh đều có mặt ở hầu hết các nơi trên đất nước bởi trình độ nung tốt cũng như kỹ thuật nào nặn và khuôn mẫu đạt đến độ tinh xảo.Khác với gốm sứ Bát Tràng là loại gốm sứ tráng men,còn gốm sứ Hương Canh chuyên về mộc nhưng vẫn đứng vững trên thị trường.

Ngày nay,sản phẩm của Hương Canh ngày càng đa dạng hoá,ngoài các mặt hàng sản phẩm truyền thống họ còn sản xuất thêm mặt hàng ngói lợp nhà và các loại bình,đồ giả cổ với chất lượng và mẫu mã đẹp.

Làng nghề gốm sứ Hương Canh đang ngày một phát triển giúp cho đời sống của người dân ở đây có công ăn việc làm và thu nhập khá.Làng nghề sôi động hẳn lên nhờ lượng khách đến tham quan và mua hàng.

Đình Trung Bản

Nằm trên gò đất thuộc Xóm Thượng, thôn Trung Ban, xã Liên Hoà, huyện Yên Hưng. Được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử số1548 QĐ ngày 30/8/1991 bổ sung cho di tích cọc Bạch Đằng.

Đình được xây dựng từ thế kỷ 15 và trải qua nhiều lần trùng tu,đến triếu vua Khải Định xây dựng nư ngày nay.Đình thờ Thành hoàng làng là vị anh hùng dân tổ Trần Hưng Đạo.

Đình Trung Bản kết cấu theo kiểu chữ đinh(J)gồm 5 gian tiền đường ,3 gian bái đường và 2 gian hậu cung.Hiện nay đình còn lưu giữ được một số hiện vật quý từ thời Hậu Lê,thời Nguyễn là những tác phẩm khéo léo của nghệ nhân thể hiện mang đậm phong cách cổ truyền Việt Nam như hai tấm bia đá(1460-1497),kiệu bát cống,sập chân quỳ,quán tẩy,hoành phi,câu đối và 6 đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Trần Hưng Đạo.Đặc biệt là tượng Trần Hưng Đạo ngồi long ngai với mái tóc để xoã sau lưng,áo ,mu,cân đai được chạm trổ công phu ,tỉ mỉ,sơn son thiếp vàng .Bức tượng được các nhà điêu khắc ,mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao và coi như một trong nhữngtượng mẫu chuẩn về Trần Hưng Đạo.

Hội đình Trung Bản diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch cùng với hội đình Yên Giang,đền Trần Hưng Đạo –miếu vua Bà ,đền Trung Cốc,bãi cọc Bach Đằng ,đó cũng là ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.

Di tích An Sinh

Thuộc xã An Sinh ,huyện Đông Triều gồm co đền thờ và lăng mộ của các vua Trần(1225-1400).

Mộ và đền thờ Trần Nhân tông(1279-1293):được dựng ở núi Ngọc Vân ,khoảng thời hậu Lê,gồm có 3 cấp.Trên cùng là am Ngọc Vân,giữa là tam quan Ngoạ Tự Vân,bên trái có miếu Thiên Sơn trong có bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 3(1707).Dưới cùng có 2 tháp Phật,lăng thờ vua Trần Nhân Tông và tháp Đoàn Nghiêm.

Mộ Trần Anh Tông(1293-1313): còn gọi là lăng Đồng Tâm ở đồi Tán Quỷ,xây dựng từ đời Trần .Hiện nay phần mộ này chỉ còn vết tích nền lăng ở đỉnh đồi với các bậc thềm đá và hai bên thềm là rồng đá mang phong cách nghệ thuật đời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định đây là lăng vua Trần Anh Tông.

Lăng Trần Minh Tông(lăng Đồng Mục) (1314-1329):nằm ở chân núi trước lăng Trần Anh Tông.Lăng được xây dựng từ thời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định lăng Trần Minh Tông.

Lăng Trần Hiển Tông (1329-1341):Gọi là Nghệ Sơn ,xây từ thời Trần.Vết tích còn lại là một số tượng chó đá,trâu đá,tượng quan hầu bằng đá chắp tay trước bụng .Có bia đá dựng năm 1840 xác định lăng Trần Hiển Tông.

Lăng Trần Nghệ Tông(1370-1372):

Ơ xóm Bãi Đá,còn gọi là khu Khe Nghệ xây dựng từ thời Trần.Tấm bia đá còn lại xác định là lăng Trần Nghệ Tông.

Đình Trà Cổ:

Được xây dựng vào năm 1511,thờ 6 vị Thành Hoàng có công dựng ấp, lập làng ở giữa nơi biển bao la .

Được dựng theo kiểu chữ công trển diện tích 400 m2.Toà bái đường 7 gian,bên trong gác dầm lát vát 48 cột gỗ lim,cột cái cao trên 4,5m,chu vi 1,5m.Bộ khung mái làm bằng gỗ quý chạm khắc công phu,tinh tế.Bốn đầu đao uốn cong gắn hình rồng ,những đầu bẩy lực lưỡng chạm rồng đỡ mái hiên làm cho ngôi đình trông bề thế,đồ sộ.Trong đìmh bên cạnh những bức hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng rực rỡ là bức cửa võng lớn chạm tiên cưỡi rồng vượt biển,lưỡng long chầu nguyệt.Nhiều nhà thờ bằng đồng có kích thước lớn ,đặc biệt có đôi hạc gỗ cao trên 1,5m hình hài rất sinh động.

Du khách tới trà cổ ,ngoài thú vui tắm biển còn có dịp viếng thăm đình Trà Cổ,một công trình kiến trúc lịch sử được xây dựng cách đây hàng trăm năm.

Chùa Vạn Linh Khánh (chùa Trà Cổ):

Chùa còn có tên khác là chùa Nam Thọ.Đây là ngôi chùa cổ ,được xây dựng khoảng 400 năm trước.Chùa toạ lạc trên khuôn viên có diện tích trên 5.0002.Trong chùa vẫn còn những cây chay cổ thụ,dấu tích của một rừng cgay mấy trăm năm trước.Trong chùa có trên 50 pho tượng đẹp.

Đây là ngôi chùa khá nổi tiếng của vùng biên giới Đông Bắc.Vào những ngày đầu tháng và rằm ,chùa đón tiếp rất đông người đến lễ bái và vãn cảnh chùa.

Đền Thiên Hậu Thánh Mẫu (đền Trà Cổ):

Đây là ngôi đền cổ, xuất hiện với đình Trà Cổ.Đền thờ tượng Bà Thiên Hậu Thấnh Mẫu, tương truyền là một pho tượng trôi từ biển vào.Lúc đầu đền chỉ là một lán nhỏ trong rừng chay,dần dần đền đã được tu bổ trở nên khang trang và toạ lạc trên một khu đất rộng.Trong đền có một cây chay cổ thụ có tuổi khoảng 700 năm.

Đền có tiếng là linh thiêng,bởi vậy lễ hội đền hàng năm rất đông người từ nhiều vùng đến tham dự (lễ hội ngày 23/3 âm lịch kéo dài 3 ngày).

Nhà thờ Trà Cổ

Mảnh đất Trà Cổ nhỏ bé ,dân cư thưa thớt nhưng lại có một ngôi nhà thờ khá lớn ,kiến trúc đẹp ,được xây dựng từ những năm 1880.Trong nhà thờ có một chuông cổ có từ 80 năm trước,sau một thời gian hư hỏng ,đến năm 1995 nhà thờ được sữa chữa lớn.Hàng trăm bức phù điêu được khôi phục,trả lại cho nhà thờ dáng vẻ cổ kính khi xưa.
 
2.1.3-TIỂU VÙNG DU LỊCH MIỀN NÚI ĐÔNG BẮC:

Khu Di Tích Pắc Pó

Thuộc xã trường hà thuộc Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, nằm sát biên giới Việt - Trung , cách thị xã Cao Bằng hơn 40 km. sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài ( 6 /1911). Người đã chọn Pắc Pó là nơi ở và hoạt động các mạng trong nhiều năm.

Tại đây, bác đã vạch ra nhiều chủ trương và quyết định quan trọng chuẩn bị cho cuộc Cách Mang Tháng Tám năm 1945.

Các di tích khác :

- Khu di tích cách mang Nà Sác.
- Di tích nhà ông Mã Văn Hản
- Di tích Hang Bó Tháy
- Di tích Kéo Quảng
- Ngôi nhà ông Lã Văn Ho
- Di tích Vườn Cam
- Nhà ông Hoàng Văn Thông và ông Nông Văn Lường
- Tượng đài Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Di Tích Tích Lưu Niệm Hoàng Đình Giong

Làng Nà Toàn , xã Đề Thám, huyện Hoà An - Cao Bằng.
Là người dân tộc Tày, sinh năm 1904 tại làng Thôm Hoáng là một trong những Đảng viên Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng và cũng là người trực tiếp rèn luyện và xây dựng Đảng bộ Cao Bằng.

Lúc còn niên thiếu ông đã sớm tham gia cách mạng khi hoạt động bí mật trong và ngoài nước, đấu tranh trong các nhà tù đế quốc, đấu tranh giành và giữ chính quyền đến lúc hi sinh đều thể hiện ý chí cách mạng rất oanh liệt.

Khu Di Tích Kim Đồng

Làng Nà Mạ , xã Trường Hà, huyện Hà Quảng quê hương Kim Đồng .
Ngày 15/5/1941 Kim Đồng vinh dự được gặp Bác Hồ tại hang Nộc Én ở trên núi sau làng Mà Mạ. Bác khen ngợi đội trưởng Kim Đồng mưu trí nhanh nhẹn, dũng cảm. Bác khuyên Kim đồng cùng đội viên hãy giúp đỡ tích cực bảo vệ Cách mạng, vừa hoạt động vừa học văn hoá, chính trị để sau này nước nhà giành được độc lập góp phần xây dựng đất nước.

5 giờ sáng ngày 15/2/1943 trong lúc đang làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh khi phát hiện giặc lùng sục đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mang, địch nổ súng anh bị trúng đạn và đã hi sinh, khi đó Kim Đồng vừa tròn 14 tuổi (1929- 1943).

Di Tích Kéo Lứng

Tại núi Kéo Lứng, năm 1932 đồng chí Hoàng Đình Giong đã tổ chức cuộc họp chỉ đạo thành lập báo Cờ Đỏ, ngày 11/8/1943 , tổ chức cuộc Tuần Thị và nhiều cuộc họp bàn chống địch khủng bố , tổ chức mitting, tổ chức các hội cứu quốc.

Di Tích Tích Kéo Oai ( Kéo Vai) Thôn Lam Sơn

Đây là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng thường xuyên mở các lớp huấn luyện , tổ chức các hội cứu quốc trong những năm 1941 – 1943. Đồng thời nơi đây là trạm giao liên do đồng chí Kế Hùng phụ trách. Tại Bó Kéo Oai , 10/1941 thành lập đội Việt Minh Châu, thành lập đội võ trang của tỉnh và là trạm chờ nhận nhiệm vụ của các đồng chí cán bộ Trung Ương , địa phương.

Hang Rỏong Thốc

Từ năm 1936- 1938 tại hang này các đồng chí Hoàng Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Lê Quảng Ba tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng như bàn cũng cố Đảng , đấu tranh đòi cơm áo, gạo , tiền; tổ chức các cuộc họp phụ nữ . Cũng tại đây, tháng 2/1942 đã tập trung học sinh du học hải ngoại .

Cốc Phát( Gốc Nhối)

Từ năm 1941- 1944, tại Góc Nhối là họp thư bí mật của Đảng ta, đồng thời là trạm giao liên quan trọng giữa hai khu vực thị xã với Hoà An và Hoà Quảng, Thông Nông , Nguyên Bình .

Đỉnh Núi Khâu Cải

Trong suốt thời kỳ 1941 – 1943, Khâu Cải là bãi tập quân sự của đội võ trang dưới huấn luyện của đồng chí Cáp( tức Lý), đồng chí Trung…

Ngườm Hoài Xã Lam Sơn( Hoà An)

Là nơi họi họp thường xuyên của tổ chức quần chúng những năm 1941 – 1943 như họp Phụ Nữ, Thanh Niên, Nông Dân Cứu Quốc.
Năm 1941 đồng chí Phạm văn Đồng tổ chức cuộc họp phụ nữ. 1942 Tổng Bộ Việt Minh tổ chức họp ngũ tự kinh. Cũng trong năm 1942 đã tổ chức đi Thanh niên Nam tiến.

Người Đán Đeng

Tháng 8/1940 mở cuộc họp của xứ uỷ Bắc Kỳ . 1942 đồng chí Phạm Văn Đồng từ thôn Hào Lịch lên đây tổ chức, huấn luyện, đào tạo cán bộ để phát triển cơ sở Việt Minh.

Lũng Diển

Là trụ sở của báo Việt nam độc lập, được chuyển từ Lũng Tàn về để thận tiện cho việc phát hành và bảo đảm bí mật.

Lũng Tàn

Thuộc xã Minh Tâm huyện Nguyên Bình , là nơi in ấn và phát hành báo Việt Nam độc lập do đồng chí Phạm Văn Đồng tổ chức. Đồng thời là nơi diễn ra hội nghị thành lập các ban chấp hành cứu quốc và cử ra ban chấp hành Việt Minh Châu do đồng chí Xích Thắng làm chủ nhiệm, ngày 7/11/1942.

Đền Ong Búa

Đây là nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng Sản của mỏ thiếc Tĩnh Túc vào ngày 21/10/1930, tổ chức Đảng cộng sản đầu tiên ra đời trong khu công nghiệp có đông công nhân, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giành chính quyền sau này .

Hang Ngườm Hoài

Thuộc xã Nam Tuấn , huyện Hoà An nơi thành lập mặt rận Việt Minh xã 7/1942.

8/1942 tại đây đã diễn ra cuộc triển lãm tranh ảnh với mục đích tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng.

Xưởng Quân Giới Lê Tổ

Ơ Ngườm Bốc – Lam Sơn xã Hồng Việt , huyện Hoà An , là nơi sản xuất vủ khí của Liên Tỉnh uỷ Cao –Bắc - Lạng thành lập tháng 3/1949 .


Di Tích Nặm Lìn

Thuộc thôn Hào Lịch xã Hoàng Tung huyện Hoà An. Đây là nơi làm lễ thành lập chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng 1/4/1930.

Sau khi được thành lập đồng chí Hoàng Văn Nọn đã tuyên bố:” đây là tổ chức cộng sản , là chi bộ đầu tiên của địa phương đồng thởi cũng Tỉnh uỷ lâm thời”.

Chi bộ đã nhất trí bầu đồng chí Hoàng văn Nọn làm bí thư.

Hang Tốc Rù

Thuộc xã Hồng Việt huyện Hoà An là địa điểm in báo Cờ Đỏ, cơ quan tuyên truyền Đảng bộ Cao Bằng.

Hang Bó Hoài

Thuộc xã Hồng Việt huyện Hoà An là nơi in báo Việt Nam Độc Lập . là cơ quan của liên tỉnh uỷ Cao – Bắc – Lạng và là nơi đồng chí Vũ Anh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đang ta lúc bấy giờ.

Địa Điểm Vách Núi Lũng Sa

Thuộc xã Hồng Việt ,huyện Hoà An là nơi diễn ra hội nghị Cao – Bắc – Lạng vào 13/8/1944.Nội dung hội nghị bàn về chủ trương phát động khởi nghĩa vũ trang tại liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng.

Chùa Hang

Chùa thuộc huyện Đồng Hỷ,cách thành phố Thái Nguyên 2km về phía tây bắc. Chùa được xây dựng trong hang núi. Trong chùa có một tấm bia khắc vào đá có tên Tiên Lữ Đông Lâu,với nội dung ca ngợi chùa Hang có núi cao trăm trượng .cỏ cây chen lá đá chen hoa,là nơi du khách thường xuyên viếng thăm. Bia khắc vào thời Lê Hồng Đức năm thứ 27(1487).Tấm bia này là hiện vật lịch sử ghi dấu một thời vua sáng tôn hiền.

Chùa Cao

Chùa còn được gọi là Đôi Cao ở xã Tân Hương,huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.Chùa được dựng vào thời Hậu Lê và được trùng tu nhiều lần,được xây dựng hoàn chỉnh vào năm 1992.Trong khuôn viên chùa còn giữ một số tháp cổ,bia cổ và cột đá. Trong đó đáng chú ý là tấm bia dựng vào thế kỉ 17.Điện Phật còn rất nhiều tượng.

Đình Phương Độ

Thuộc xã Xuân Phong, huyện Phú Bình cách thành phố Thái Nguyên 30km về phía đông nam.Đây là di tích ,kiến trúc nghệ thuật đình làng,một trong những kiến trúc đặc trưng của Việt Nam.Đình có ba gian.hai chái, mái lợp ngói múi, bốn góc mái bằng gỗ cong vút các cột trạm trổ các bộ tứ linh ( long, lân, qui, phụng) rất khéo léo công phu. Đình thờ Thành Hoàng của Làng là Cao Sơn Quý Minh Đại Vương – tức Dương Tự Minh( một phò mã thời nhà Lý ).

Người có cônglớn trong việc giữ gìn đất nước và phát triển kinh tế phủ Phú Lương xưa. Phía sau đình có chùa tạo nên một quần thể văn hoá tín ngưỡng của nhân dân. Cảnh quan xung quanh đình cũng rất đẹp, có sông cầu làm án, cây đa cổ thụ toả bóng mát u tịt thâm nghiêm. Xuân thu nhị kỳ nhân dân quanh vùng Phương Độ tổ chức vào rằm thánh giêng rước kiệu thánh , khao vọng tế thần và 10/10 lễ hội lớn hơn có rước kiệu thánh , rước bánh dày, hoa quả và nhiều đồ tế lễ khác.

Di Tích Khảo Cổ Học Thần Xa

Thuộc huyện Vô Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 40 km theo quốc lộ IA rẽ trái.

1972 khoa sử của trường Đại Học Sư Phạm Việt Bắc kết hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam khảo sát một số hang Động của vùng Thần xa , Xẻng Mộc, Thương trung và khai quật hang Phiêng Tung (Thần Xa). Kết quả cho nhận định về quá trình phát triển của con người ở vủng này từ trước thời văn hoá Bắc Sơn.

Năm 1973 viện bảo tàng Lịch sử Việt nam và công ty văn hóa Thông Tin Bắc Thái tiếp tục điều tra khu vực Thần Xa và có thêm một bộ sưu tập mới về Hang Phiêng Tung.

Năm 1980 kết hợp với khoa bảo tàng Trường Cao Đẳng Nghiệp Vụ Văn Hoá( nay là trường ĐH Văn Hoá Hà Nội). Tiếp tục nghiên cứu và tìm thấy thêm Hang Miệng Hổ và một số di chỉ khác.

Những di chỉ khảo cổ về con người sống cách chúng ta từ 2 – 3 vạn năm được phát hiện ở di chỉ Phiêng Tung , Ngườm, Thẳm Choong, Nà Ngườm đã chứng minh rằng tại đây tồn tại một nền Văn Hoá cổ gọi là Văn hoá Thần Xa . Đây là nền văn hoá cổ nhất đượcbiệt đến ở Việt Nam và ở cả vùng Đông Nam Á cho tới nay.

Khu Di Tích Núi Văn - Núi Võ

Nằm dưới chân núiTam Đảo thuộc hai xã Vân yên và Kỳ Phú huyện Đại Từ, cách thành phố 30 km về phía tây. Đây là di tích gắn liền với tên tuổi một danh tường của nghĩa quân Lam Sơn tên Lưu Nhân Chú. Người này từng dự thề Lũng Nhai năm 1416, kết nghĩa anh em với Lê Lợi và các chiến hữu khác mưu khởi nghĩa chống quân Minh. Năm 1425, ông cùng Nguyễn Xí mang quân đánh úp Tây Đô. Năm 1426 chỉ huy chiền dịch giải phóng một vùng đồng bằng rộng lớn từ Sông Hồng đến tận Lạng Sơn . năm 1427 ông cùng Lê Sát chỉ huy quân quyết chiến ở ải Chi Lăng , chém tướng giặc Liễu Thăng và đánh tan hoàn toàn 10 vạn viện binh ở trận Xương Giang. Ong cùng Hoàng tử Tứ Tế ( con cả Lê Lợi) xây thành Đông Quan và chính bản thân ông đã làm “con tin “ đàm phán buộc Vương Thông rút về nước để Đại Việt ta “ mở nên thái bình muôn thuở”. Năm 1485, Lê Thánh Tông truy phong ông chức tước Thái Phó Vinh Quốc Công.

Khu Di Tích Lịch Sử ATK Định Hoá

ATK là tên gọi tắc là an toàn khu là trung tâm lãnh đạo của kháng chiến chín năm chống thực dân pháp xâm lược . Chủ tịch HCM các đồng lãnh đạo của Đảng nhà nước, các cơ quan của Trung ương Đảng và chính phủ đã làm việc ở nơi đây từ năm 1947- 1954 .

Trung tâm ATK cũng là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nơi đây cũng có nhiều dấu tích về nơi ở và làm việc của Bác Hồ , các đồng chí lãnh đạo Đảng.

Bên cạnh các di tích lịch sử ATK còn nhiều địa danh đã đi vào sử thi như : Núi Hồng, Đèo Pe( xã Phú Đình), đồi Khau Tý…

Di Tích Lịch Sử Làng Quặng

Thuộc xã Định Biên huyện Định Hoá cách thành Phố Thái Nguyên 60kmlà nơi gắn liền với lịch sử trưởng thành của quân đội nhân dân Việt Nam.

Di Tích Lịch Sử Nhà Tù Chợ Chu

Do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1916 để giam giữ những người yêu nước và các chiến sĩ cách mạng. Di tích còn tương đối nguyên vẹn có giá trị nghiên cứu tham quan, giáo duc truyền thống cho các thế hệ mai sau .

Di Tích Đền Đuỗm

Đều nằm ở chân núi Đuỗm, xã Động Đạt, huyện Phú Lương sát ngay quốc lộ 3, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 24 km về phía Tây Bắc. Đền được xây dựng từ thời nhà Lý, thờ Phò mã Dương Tự Minh và hai bà vợ là Diên Bình Công Chúa và Thiên Dung Công Chúa. Di tích này gồn đền thượng, đền trung và đền hạ, đến nay được sữa nhiều lần. Các đền của di tích đền Đuỗm được xây dựng trên một vùng thiên nhiên đẹp đây là nơi thác của Phò mã Dương TU&5 Minh khi về già. Xa chỏm núi ở giữa cánh đồng trông như những cánh nhạn bay. Đền dược xây ở pầhn lõm của ngọn núi phía trứớc. Phía trước đền là cánh đồng rộng có sông Phú Lương chảy qua và xa xa là những dãy núi đất trùng điệp.

Đây vừa là di tích lịch sử vừa là thắng cảnh của thiên nhiên.

Bảo Tàng Văn Hoá Các Dân Tộc Việt Nam

Được xây dựng vào năm 1960 trên một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ của ttại trung tâm thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng có diện tích là 28.000 m2 với hơn 3000 m2 sử dụng cho việc trưng bài khu bảo quản hiện vật và các hoạt động khác. Bảo tàng đã trưng bài giới thiệu được di sản văn hoá truyền thống của đại gia đình các dân tộc Việt Nam

Hiện nay bảo tàng lưu giữ hơn 10.000 đơn vị tài liệu hiện vật thuộc di sản vănhoá của 54 dân tộc Việt nam hệ thồng trưng bày gồm: 6 phòng sử dụng gần 2000 tài liệu khoa học.

Phòng mở đầu: khái quát đặc trưng vănhoá các dân tộc Việt nam.
Phòng Việt – Mường gồm dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt.
Phòng tày – Thái gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Thái , Lào , Lự, Sán Chay, Bố Y

Phòng Mông – Dao và nhóm nam á khác gồm dân tộc: H’Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.

Phòng Môn – Khmer gồm các dân tộc:Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khmer, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, H’rê, M’Nông, Xtiêng, Bru – Vân Kiều, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Mạ, Co, Tà Oi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm.

Phòng Hán – Hoa, Tạng Miến, Mạ, Ô - pô - li- nê – di gồm các dân tộc:Hoa, Ngái, Sán Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Shila, Giarai, Eđê, Chăm, Raglai, Chu-Ru.

Bảo tàng đã thu hút rất nhiều khách trong nước và ngoài nước,kiều bào đến tham quan, tìm hiểu bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

Đền Kì Cùng

Sát cây cầu Kì Lừa bắc qua sông Kì Cùng, đường Trần Đăng Ninh.Thờ thần sông Kì Cùng,con sông chảy ngược lên Trung Quốc.

Đền Tả Phủ

Gần chợ Kì Lừa, thờ Tả Đô đốc Thân Công Tài, vị tướng thời Hậu Lê có công mở mang chợ Kì Lừa thế kỉ 17.

Động Và Chùa Tam Thanh

Cách trung tâm thị xã chừng 3km, đi theo đường Tam Thanh.

Đứng trước cửa động nhìn qua ngọn núi đối diệnbên kia đướng làHòn Vọng Phu, có tượng nàng tô Thị bồng con.

Trong động có chùa Phật, có tượng Phật chạm vào vách đá cao 2,2m.
Trên vách đá có bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780),quan trấn thủ Lạng Sơn vào triều Lê.Ong quan này có khắc thơ ởnhiều nơi khác, ở động Nhị Thanh, chùa Tiên…Phía trong động cò hồ nước nhỏ.

Thành Nhà Mạc

Gần động Tam Thanh.Hiện còn hai đoạn thành thời Mạc (thế kỉ 16), nối các mỏm đá vôi.

Động Nhị Thanh

Cổng vào ở đường Nhị Thanh. Động Nhị Thanh dài Xuyên qua núi, trong động có chùa tam Giáo, thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca. Cạnh đó có động Nhất Thanh,cửa động có tượng Ngô Thì Sĩ.

Thành Lạng Sơn (Đoàn Thành)

Phía nam sông Kì Cùng.Đi trên đường Nguyễn Thái Học sẽ qua cổng thành và một đoạn tường thành. Xây từ thời Trịnh sau được triều Nguyễn làm lại.

Chùa Tiên

Đi quá thánh Lạng Sơn vài trăm mét.Còn gọi lá Song Tiên Tự, hteo sự tích có hai ông tiên ngồi đánh cờ,mãi chơi quên về trời hoá thành đá.

Chùa trong hang đá, ở lưng chừng núi Đại Tượng.Trong chùa ngoài bàn thờ Phật có bàn thờ Trần Hưng Đạo và Thánh Mẫu.Có khối đá giống hình tiên, nhớ xoa vào chân tượng đề cầu phúc.Đứng từ động nhìn bao quát thị xã Lạng Sơn.

Đền Bắc Lệ

Thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, thờ bà chúa Thượng Ngàn – một trong 3 vị Mẫu vẫn được thờ phụng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.

Đền nằm trên đồi cao, dưới bóng những cây cổ thụ hàng trăm tuổi.Đền chính được dựng theo kiểu chữ đinh,gồm có tiền tế và hậu cung.Trên nóc mái nhà tiền tế có tượng long đầu lưỡng nghi, tượng trưng cho trời và đất, vain vật sinh sôi.Nhà bái đường gồm 6 gian, gian phía trong thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ong Hoàng Mười, Hoàng Bảy.Gian chính cung thờ Tam Toà Thánh Mẫu, hai bên có am thờ Trần Hưng Đạo và Chúa Sơn Trang.

Chùa được trùng tu vào năm 1922 và 1933 đây cũng là điềm thu hút du khách tới lễ mẫu và vãn cảnh.

Chùa Diên Khánh

Chùa nằm ở đầu cầu Kỳ Lừa, đồi diện bên kia sông là đền Kỳ Cùng, phía bắc thành phố Lạng Sơn.

Chùa được dựng vào thời Lê, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc” bao gồm: tiền tế , hậu cung , nhà tổ, nhà trai. Ban thờ có toà Cưủ Long , tượng Phật , tượng mười tám vị La Hán. Đặc biệt chùa có quả chuông do nhân dân địa phương và khắp buôn Trung Quốc cúng tiến vào năm 1671( thời Lê Huyền Tông ).

Di Tích Bắc Sơn

Bắc Sơn là một dãi núi đá vôi thuộc tỉnh Lạng Sơn, cách Hà Nội khoảng 200km. Đây là nơi phát hiện ra nhiều tư liệu khảo cổ xác định nền Văn Hoá “ bắc Sơn” thời kỳ đồ đá Sơ Kỳ. Các nhà khảo cổ dã tìm ra nhiều công cụ đávà nhiều di chỉ về sự cư trú của người Việt Cổ trong các hang động núi đá Đá vôi của Bắc Sơn .

Bắc Sơn còn là nơi diển ra cuộc khởi nghĩa vũ trang của quân du kích năn 1940, chống phát xít Nhật vào xâm chiếm Lạng Sơn. Cuộc khởi nghĩa đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, Khỡi nghĩa Bắc Sơn đã ghi vào lịch sữ Việt nam, một bài học về sức mạnh của sự đoàn kết của nhân dân đấu tranh giữ nước.

Ngày nay , di tích Bắc Sơn s đang được lưu giữ với tư cách một di tícch cách mạng của Vịêt Nam.

Thành Cổ Đoàn Thành

Được xây dựng từ lâu đời ở Lạng Sơn, là một trọng trấn án ngữ của ngõ phía bắc. Ngày xưa , thành được xây dựng với qui mô rất lớn. Bên trong thành có nhiều trãi binh lính , xung quanh thành là chợ và phố xá đông đúc như Kỳ Lừa, Trường Thịnh, đồng Đăng. Việc buôn bán giao lưu với Trung quốc diễn ra khá tấp nập. Thời Pháp có xây thêm nhiều trại lính, nhiều dinh thự trong thành .

Trãi qua thời gian Đoàn thành bị hủy hoại gần hết , dấu vết còn lại chỉ là một cổng thành cồ, cây cối mọc um tùm.

Thành Nhà Mạc

Dấu tích nằm cạnh ngọn núi có tượng nàngTô thị, cách động Tam Thanh không xa.
Bước theo những bật xây, du khách đặt chân lên vạt đất khá bằng nằn giữa hai quả núi. Hai phía khe núi được xây chặn bằng đá. Trên mặt tường thành cứ một đoạn phải có một ô trống, có lẽ là vị trí bắn cung hay đặt súng của các chiến binh xưa.

Do Mạc Kính Cung chỉ huy xây dựng vào thế kỷ 17 . đây là công trình kiến trúc còn lại ở lạng Sơn có vị trí rất hiểm yếu, nó kiểm soát con đường giữa Việt Nam và Trung Quốc thời đó .

Thành nhà Mạc có qui mô không lớn nhưng đây là chứng tích một thời “ huynh đệ tương tàn” giữa nhà Mạc và Lê – Trịnh.

Có giả thuyết cho rằng đây không phải là thành mà là” đấu đong quân”. Theo giả thuyết thì quân lính đuợc đưa về đây, cứ đầy long đấu thì sẽ biết được số quân hiện có là bao nhiêu.

Ai Chi Lăng

Là một vị trí hiểm yếu nhất trên con đường từ Pha Lũy đến Đông Quan , cách khoảng 60 km. Nằm trong một thung lũng nhỏ hình bầu dục dài khoảng 4km, chổ rộng nhất khoảng 1km. Phía tây là núi đá vôi vách dựng đứng bên dòng sông Thương. Phía đông là dãy núi Thái Hoà và baỏ đài trùng trùng điệp điệp .Một lòng chảo hẹp lại có năm ngọn núi nhỏ : Hàm Quỷ, Nà Nông, Nà Sảng, Kỷ Lân Và Mã Yên. Hai phía Bắc _ Nam mạch núi khép lại tạo thành hai của ải rất hiểm trở.

Với vị trí đó, ai đã bao lần làm mồi chôn quân giặc trong khánh chiến chống tốn đời lý , chống Nguyên Mông đời trần và trận tiêu diệt binh do Liễu thăng chỉ huy bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại ngày 10/10/1427( tức 20/9 Đinh Mùi).

Dinh Họ Vương

Tại huyện Đồng Văn xa sôi, hiện có một điểm du lịch lý thú đó là nhà họ Vương ( Vường Chí Sình) thộc địa phận xã Sà Phìn.
Đây là một công trình kiến trúc đẹp hiếm có và rất độc đáo của vùng cao nguyên này mặc dù qui mô không lớn. Toàn bộ cảnh trí toát lên vẽ thâm nghiêm trong khung cảnh tỉnh mịt nơi vùng cao biên giới. Là một nơi đáng để bạn dừng chân để quên đi mọi vất vả sau những chặn đường cheo leo hiểm trở.

Chùa Thạch Long

Nằm bên trong một hang đá vôi thuộc xã cao Kỳ huyện Chợ Mới. Hang dá này có kết cấu hai tầng thông vời nhau được gọi là tầng Thiên và tầng Âm. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp quân đôi ta sử dụng nơi này làm xưởng sản xuất vũ khí. Hiện này chùa là nơi sinh hoạt văn hóa tính ngưỡng của nhâ dân địa phương trong vùng, chùa thờ phật và thánh mẫu.

Chùa Đà Quận

Chùa ở làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, xưa là thộn Đà Quận (mang tên Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn – danh tướng nhà Mạc , xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm ).đối diện với chùa Viên Nghiêm ( chùa sáng lập vào thời nhà Mạc). Trong chùa có hai quả chuông cao bốn thước, năm tất, chu vi tám thước , chín tất ước tặng ngìn can. Mỗi kỳ tế lễ Xuân Thu thì gõ chuông , chuông vang như sấm, chấn động trăm dặm. Trên chuông thần có đúc bài Minh bằng chữ Hán ca ngợi vẻ đẹp của Châu Thạch Lâm lúc bấy giờ và sự phục hồi của Viên Minh sau khi nhà Lê khôi phục lại đất Cao Bằng. Hàng năm cứ đến 9/1 AL là nhân dân Cao Bằng đều đi trẩy hội ở chùa này…

Đền Thắm

Thuộc thị trấn chợ mới huyện chợ mới, được xây dựng một nửa gắn vào thân núi, một nửa lộ thiên .Trước đền là con sông cầu uốn khúc chảy lơ thơ tạo nên phong cảnh “sơn thuỷ hữu tình”. Đền cũng là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân trong vùng.

Di Tích Lịch Sử Pòkét

Thuộc xã văn học, huyện Na Rì,là một cơ sở của cách mạng, nơi ông Phùng Chí Kiên và các vị hoạt đông cách mạng của đảng thường dừng chân trện đường hoạt động suốt từ La Hiên – Văn Học – Ngân Sơn, vào thời kì 1931 – 1941.

Di Tích Hầm Bí Mật Dốc Tiệm Và Hội Trường Chữ U

Thuộc phường Phùng Chí Kiên, thị xã Bắc Cạn, là nơi 1947 trên đường đến công tác tại thị xã Bắc Cạn ông Trường Chinh nhờ hầm này mà thoát hiểm.
Nhà Hội Truờng Chữ U là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến và nói chuyện với đại biẻu của tỉnh Bắc Cạn về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền nam.

ATK (An Toàn Khu)

Thuộc thị trấn Bằng Lũng,huyện Chợ Đồn , là nơi cơ quan trung ương làm việc trong thời kháng chiến chống Pháp.
 
2.1.4-TIỂU VÙNG DU LỊCH MIỀN NÚI TÂY BẮC:

Bãi đá cổ Sapa:

Đây là một di tích bao gồm những tảng đá với nhiều lớp chạm khắc cổ nằm trong thung lũng Mường Hoa, rải rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào dân tộc thiểu số ở đây, rộng 8km2 . Di tích này đã được nghiên cứu lần đầu tiên vào năm 1925, gồm khoảng trên 200 hòn đá kích thước khác nhau, lớ nhất là Hòn Bố dài 15m, cao 6m. Các lớp chạm khắc trên đá gồm nhiều loại hình khác nhau như tranh vẽ tả thực, hoa văn trang trí, trong đó đáng chú ý nhất là các hình vẽ tả người, nhà sàn và các dấu hiệu có thể là một hình thức phôi thai của chữ viết đến nay vẫn chưa giải mã được. Trong di tích bãi đá cổ này, đáng chú nhất là tảng đá vợ, đá chồng, đàn hổ đá và tấm bia trên có khắc chữ mà theo truyền thuyết, đó chính là những câu thần chú của nhóm thợ đá để tiêu diệt đàn hổ đến quấy phá dân làng. Còn tảng đá vợ, đá chồng nói về mối tình chung thủy của đôi trai gái vượt lên mọi gian nan, mong tìm được hạnh phúc, cho dù họ có bị hóa đá vẫn hướng về nhau, hai tảng đá như vẫn lần tìm đến nhau. Khu di tích này đã được các nhà khảo cổ chứng minh có lâu đời và là một di sản của cư dân Việt cổ. Hiện nay, di tích này thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và đang đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Nước khoáng Tắc Kô nằm ở địa phận suối Mường Tiên, huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai là một trong những mạch nước ngầm trong vắt, ngọt và mát, hang thẩm Tét Toòng thuộc thị xã Chiềng An ,tỉnh Sơn la,hang dài 150m có nhiều chặng đừơng ghập ghềnh.

Khu du lịch núi Hàm Rồng:

Ở cách trung tâm thị trấn Sapa khoảng 2km. Ngay sau khách sạn Hàm Rồng có 1 dãy núi cao gần 2.000m, gồm nhiều dãy đá nhấp nhô mang nhiều dáng vẻ khác nhau, đó là núi Hàm Rồng. Cả dãy núi giống như một con rồng khổng lồ đang uốn khúc, nằm phục. Sự tích núi Hàm Rồng kể lại rằng: Từ xa xưa, mọi sinh vật đều sống hỗn độn. Một hôm, Ngọc Hoàng ban lệnh tất cả các sinh vật hãy lập lấy địa phận của mình, các sinh vật tranh nhau tìm chỗ trú ngụ. Lúc này ba anh em nhà Rồng đang sống trong hồ lớn, khi nghe tin vội chạy sang hướng Đông thì đã hết chỗ, họ bèn chạy sang hướng Tây. Hai người anh chạy nhanh hơn nên ở đó chờ người em. Người em chạy chậm đã lạc vào đám đông toàn sư tử,hổ,báo. Người em sợ quá rùng mình co người, há mồm đẻ tự vệ. Vừa lúc đó, lời ban của NgọcHoàng đã hết hạn. Thế là hai người anh nhà Rồng hóa thành đá quay về hướng Lào Cai, còn người em út hóa đá có dáng đầu ngẩng cao, mồm há to nhe răng nhìn về dãy Hoàng Liên Sơn, và được gọi là núi Hàm Rồng. Để lên được đỉnh núi đầu Rồng, du khách phải leo qua các khu vườn lan 1, 2, trạm vi ba, vườn hoa Sapa, cổng trời. Trên đỉnh núi Hàm Rồng, có nhiều cảnh quan đẹp, nhiều hang động, núi đá nhấp nhô rất ngoạn mục, lý thú. Hàm Rồng là điểm du lịch hấp dẫn của Sapa.

Lâu đài Hoàng Yến Chao:

Đây là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp phong cách phương Đông với phương Tây, được xây dựng ở thế kỷ 20. Lâu đài nằm trên địa phận bản Nà Hối Thổ, Bắc Hà (qua chợ Bắc Hà khoảng 300m là tới). Lâu đài được kiến trúc hai tầng, là nơi ở của Hoàng Yến Chao (tiếp nối sau này là con trai – Hoàng A Tưởng), đồng thời cũng là một pháo đài phòng thủ, nằm ở vị trí quan trọng, chi phối cả thung lũng Bắc Hà. Lâu đài có hệ thống lô-cốt, thành lũy kiên cố (vữa xây có mật mía) , hiện đã hư hại nhiều. Hệ thống lỗ châu mai tỏa ra bốn hướng. Từ xa, ta có thể nhìn thấy lâu đài màu trắng nổi lên giữa thung lũng rất ngạo nghễ, uy nghiêm.

Nhà tù và Bảo tàng Sơn La:

Nhà tù Sơn La do người Pháp xây dựng năm 1908 và được mở rộng vào những năm 1930 – 1945. Lúc đầu chỉ là một nhà tù nhỏ hàng tỉnh. Từ năm 1930 – 1945 trở thành nơi giam cầm hàng ngàn người Việt Nam yêu nước.

Đền Mẫu:

Được xây dựng từ đầu thế kỷ XVIII, thuộc địa phận làng Lão Nhai (nay là thị xã Lào Cai), ngay ngã ba sông Hồng và sông Nậm Thi. Đây là một công trình thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, đã có từ lâu, trên vùng đất biên cương của Tổ quốc.

Thành Bản Phủ:

Thành thuộc địa phận xã Nong Hẹt, huyện Điện Biên. Đây là một di tích về cuộc khởi nghĩa nông dân do Hoàng Công Chất lãng đạo (1759 – 1789). Nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ và ghi công ơn ông đã có một thới đánh giặc cứu nước.

Đền Thượng:

Cách đền Mẫu khoảng 300m, là một ngôi đền cổ nằm trong khuôn viên rộng hàng chục hécta. Đó là đền Thượng – thờ Trần Hưng Đạo, biểu tượng văn hóa là nơi thờ Cha. Đền được xây dựng đầu thế kỷ 19, đã trùng tu nhiều lần. Trong khuôn viên đền, một cây cổ thụ rất đẹp càng tôn thêm vẻ cổ kính, u tịch của khu đền.
 
2.1.5-TIỂU VÙNG DU LỊCH MIỀN NÚI NAM BẮC BỘ:

Miếu Tiên Công:

Nằm bên cạnh Uỷ ban nhân dân xã Cẩm La,huyện Yên Hưng,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử số 34 VH/QĐ ngày 9/1/1990.

Miếu được xây dựng từ lâu ,đến năm Gia Long thứ 3 (1804) thì xây dựng lại và được trùng tu sửa chữa nhiều lần về sau.Miếu xây dựng thờ các vị Tiên Công đã có công đầu tiên trong việc quai đe lấn biển,lập nên đảo Hà Nam với xóm làng trù phú gồm 7 xã như ngày nay.

Xưa kia Hà Nam là một trong bãi bồi ngập nước ở cửa sông Bạch Đằng .Năm1434 khi vua Thái Tông lên ngôi,cho mở mang kinh thành ,17 cụ quê ở phường Kim Hoa,phủ Hoài Đức,thành Thăng Long(trong đó có 4 cụ là Quốc tử giám sinh và 3 cụ là hiệu sinh) đã rủ nhau r a đây tìm đất mới.Các cụ đã dựa vào các đường đất cao ở bãi bồi này cùng với dân vạn chày ở đây quai đê lấn biển lập nên phường Bông Lưu(sau thành xã Phong Lưu gồm Cẩm La,Yên Đông,Phong Cốc).

Miếu kiến trúc theo kiểu chữ nhị gồm 3 gian,2 chái tiền đường và 3 gian hậu cung ,khám thờ bài vị ,bia đá, câu đối,đại tự được cham trổ ,điêu khắc mang đấu ấn thời Nguyễn. Lễ hội “miếu Tiên công”vào ngày 7 tháng giêng âm lịch hàng năm.

Chùa Phổ Minh

Ở thôn Tức Mặc, xã Lộc Vương ngoại thành Nam Định, cách thành phố khoảng 3km về phía Tây Bắc. Chùa được xây dựng từ thời Lý và được Vương triều Trần mở rộng vào năm 1262. đây là đây là một ngôi có quy mô to lớn. Trước cửa chùa có đỉnh đồng nặng trên 7 tấn. Qua nhiều lần tu sửa đến nay diện tích của chùa đã bị thu hẹp rất nhiều so với trước. Nhưng kiến trúc đời Trần còn lại khá nhiều gồm có 96 chan tảng đá chạm hoa sen, nhiều đôi sóc đá, hai đôi rồng chạm đá trước bái đường. Đặc biệt có tháp được xây dựng trước cửa bái đường vào năm 1305. trong chùa trước đây có khoảng trên 100 pho tượng nay chỉ còn 50 pho tượng trong đó có nhiều pho mang tính nghệ thuật cao.

Chùa Cổ Lễ

Thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Trựa Ninh. Từ thành phố Nam Định, qua cầu treo trên sông Đào, đi theo đường 21 khoảng 15km tới thị trấn Cổ Lễ. Sau đó đi qua cây cầu nhỏ rẽ phải khoảng 200m là đến chùa. Trước chùa có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa 12 tầng được xây dựng vào năm 1926-1927. Tầng đế tháp có 8 mặt, đặt trên lưng 1 con rùa lớn hướng vào chùa. Giữa sân chùa có chuông lớn nặng 9 tấn, cao 3,2m được đúc năm 1936. toà Thượng đện có tượng Phật thích ca cao 4m, rộng 3,5m, bằng gỗ sơn son thiếp vàng. Ngoài thờ Phật trong chùa còn thờ thiền sư Nguyễn Minh Không.

Chùa Vọng Cung

Nằm trong khuôn viên rộng gần 3000m2, xây dựng vào thời Gia Long (1802-1820). Xưa chùa là nơi đón tiếp nhà vua và các quan đi kinh lý. Chùa chính nằm trên gác hai rộng 5 gian với bàn tờ Phật trang nghi6m đặt ở hậu cung. Tượng htờ sơn son thiếp vàng mang dấu ấn hthời nhà Nguyễn. Tầng dưới chùa là nhà tổ, nhà trai, bên cạnh là nhà giảng rộng...

Đền Bảo Lộc

Thuộc làng Bảo Lộc xã Mỹ Phúc huyện Mỹ Lộc. Là quê hương của Trần Hưng Đạo. Để tưởng nhớ công ơn to lớn của ông, nhân dân đã lập đền thờ tại nơi ông sinh ra và gọi là đền Bảo Lộc. Đền được dựng vào năm 1928, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, đằng trước có dãy non bộ, tiền đường rộng 7 gian, hậu dường rộng 3 gian. Đền giữa thờ Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo. Bên trái là chàu thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau là đền Khải Thành thờ thân phụ Hưng Đạo Vương.

Cố đô Hoa Lư

Khởi lập năm 968 với triều vua Đinh Tiên Hoàng và kế là vua Lê; kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm trong lịch sử Việt Nam(968-110) trong đó 12 năm là triều đại nhà Đinh với tên nước là Đại Cồ Việt và 29 năm kế tiếp là triều đại nhà Lê (Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Lê Đại Hành). Vua Lê Đại Hành đã mở mang, xây dựng cung điện nguy nga, tráng lệ. Đến năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Cố đô hiện nay nằm trên vùng đất thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, có diện tích khoảng 300ha chia làm hai khu. Khu phía Đông gọi là thành ngoịa, là nơi xây dựng cung điện chính rộng khoảng 140ha, nằm trên hai thôn Yên Trường, Yên Thành. Khu phía Tây là Nội có diện tích tương đương, là nơi trẻ con và những người giúp việc sinh sông nay thuộc thôn Chí Phong.

Đền Thái Vi

Được xây dựng ở phía Tây thôn Văn Lâm, xã Hải Ninh ngày nay. Đền thờ vua Trần Thái Tông, và Hoàng Hạu Thuận Thiên là những người có công rất lớn đối với làng Văn Lâm. Trong cung giám của chính tẩm,ở giữa là tượng Trần Thánh Tông (con trưởng vua Trần Thái Tông). Bên trái là tượng Trần Thái Tông, bên phải là vợ vua. Ngoài ra trong Chính tẩm còn có bài vị thờ vua Trần Nhân Tông là con trưởng của vua Trần Thánh Tông, Trần Anh Tông là con trưởng vua Trần Nhân Tông. Vì thế đền Thái Vi thờ 4 đời vua Trần.

Đền nhà Lê

Còn gọi là đền Bố Vệ. Đền xây dựng vào thời Nguyễn, để hương khói phụng thờ các vua Hậu Lê, nên còn gọi là Thế Miếu nhà Lê. Các tượng thờ vua Lê ở Thăng Long, Lam Kinh cũng tập trung về đây. Ơ chính tẩm có tượng Lê Lợi bằng đồng, đúc năm 1935. hai bên có tượng Nguyễn Trãi, Lê Lai. Đáng chú ý là có những bức tượng gỗ cổ rất đẹp, tượng chân dung những vị trong hoàng tộc triều Lê.

Nhà thờ Phát Diệm

Được xây dựng từ năm 1875 đến 1898 thì hoàn thành. Khu nhà thờ rộng gần 22 mẫu tại xã Lưu Phương, thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, cách Hà Nội 120km. nhà thờ có nhiều hạng mục công trình được chia làm 2 khu vực chính: khu nhà thờ và khu nhà chung. Đây là quần thể kiến trúc phương Đông gồm có:ao hồ, phương đình, nhà thờ lớn với bốn nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá.

Nhà thờ chình toà xay dựng năm 1891, đây là hạng mục lớn nhất của công trình dài 80m, rộng 24m, cao 18m, bao gồm 48 cột lim,mỗi cột chu vi 2,4m.
 
2.1.2-Danh Lam Thắng Cảnh

1.1Tiểu Vùng du lịch trung tâm (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình).

Hà Nội-Trái tim Việt Nam:

Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa thương mại và du lịch của Việt Nam, nó còn là một thành phố cổ được xây dựng năm 1010 dưới triều vua Lý Công Uẩn. Theo dòng thời gian, Hà Nội đã nhiều lần được đổi tên từ Thăng Long, Đông Đô đến Hà Nội. Hiện nay, Hà Nội vẫn còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc cổ bao gồm các khu phố cổ và hơn 600 ngôi chùa.

Bên cạnh các công trình kiến trúc cổ này còn có nhiều các công trình khác như :Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô… cùng một hệ thống các bảo tàng và nhà hát phong phú và đa dạng. Hệ thống các hồ ở Hà Nội chiếm tới 10 hecta, nằm lẫn vào các khu phố ,trong số đó lớn nhất là các hồ Tây,hồ Hoàn Kiếm và hồ Bảy Mẫu. Tất cả hòa quyện vào nhau mang lại cho Hà Nội một vẻ đẹp thực sự thơ mộng. Hà Nội còn là thành phố có nhiều làng nghề truyền thống như: đúc đồng, khắc bạc, sơn, thêu ren… Nhiều hàng tiêu dùng,đồ thủ công và món ăn ở đây được du khách nhiều nước trên thế giới đánh giá cao.

Tới Hà Nội, du khách có thể tới thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hùa Một Cột (xây dựng năm 1049),Văn Miếu (xây dựng năm 1070), công viên Thống Nhất,công viên Thủ Lệ, viện bảo tàng Mỹ Thuật,bảo tàng Quân Đội…hay tham quan những điểm du lịch gân Hà Nội như chùa Tây Phương-ngôi chùa rất nổi tiếng với các pho tượng.

Khu du lịch Tam Đảo

Tam Đảo là một dãy núi lớn,rộng từ 10-15 km,dài khoảng 80km theo hướng tây bắc-đông nam,cách hà Nội 86km.Khu nghỉ mát Tam Đảo có diện tích 253 ha nằm trên đọ cao 900 m so với mặt biển.Đây là một trong những khu nghỉ mát giữa thiên nhiên,khí hậu rất hấp dẫn của Việt Nam.

Tam Đảo được biết đến từ thời Lý-Trần (thế kỉ 13) .Cho mãi đến đầu thế kỉ 20 (1904-1906) ,tam Đảo mới được người Pháp xây dựng thành khu nghỉ mát,với 200 biệt thự,khách sạn ,nhà hàng,sân chơi thể thao,bể bơi,sàn nhảy.Núi Tam Đảo có 3 đỉnh nổi lênnhw 3 hòn đảo:đỉnh giữa có tên là Bàn Thạch cao 1388m,bên trái là đỉnh Thiên Nhị(chợ trời) cao 1375m,trên có tháp truyền hình cao 93m,bên phải là đỉnh Phù Nghĩa cao 1400m.Thời tiết về mùa hè ở đây rất mát mẻ,trung bình thường từ 20-220C.

Tới đây du khách có dịp đi thăm Thác Bạc,viếng thăm đền Bà Chúa Thượng Ngàn,leo lên đỉnh núi Phù Nghĩa,cầu Đãi Tuyết,Am Gió,thang Mây,hồ Xạ Hương,đập làng Hà và rừng nguyên sinh cũng là những điểm tham quan và nghỉ ngơi lý thú ở Tam Đảo.

Vườn Quốc gia Tam Đảo có diện tích 36.883 ha.Thảm thực vật ở đây đăc trưng cho 5 kiểu rừng.Hệ thực vật có 904 loàithuộc 478 chi ,213 họ thực vật bậc cao,trong đó có 64 loài thực vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam.Động vật có 307 loài,trong đó 56 oài động vật quí hiếmcó tên trong Sách đỏ Việt Nam(gồm 22 loài thú,9 loài chim,17 loài bó sát,7 loài lưỡng cư và 1 loài côn trùng).

Tam Đảo đã và đang trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn.Vào mỗi mùa hè,điểm du lịch này thu hút hàng ngàn du khách tới nghỉ ngơi,dưỡng bệnh.
Hồ Đại Lãi

Đại Lãi là một hồ nước nhân tạo thuộc địa phận huyện Mê Linh,cách hà Nội khoảng 50km.

Diện tích hồ là 525 ha,trên mặt hồ có đảo chim rộng 3 ha,chổ cao nhất trên 23 m.Phía tây và tây nam hồ là núi Thằn Lằn,đứng trên đỉnh núi có thể quan sát được toàn cảnh khu vực hồ.Mặt hồ trong xanh,nhiều bãi tắm nhân tạo đẹp và bằng phẳng men theo những quả đồi lúp xúp.

Đại Lải là một điểm du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn và nổi tiếng của tỉnh Vĩnh Phúc.Khí hậu ở đây mùa hè mát mẻ,mùa đông ấm áp,phong cảnh thiên nhiên đẹp.Rừng Ngọc Thanh ở khu vực hồ có 500 ha rừng tự nhiên,300ha rừng mới trồng với hệ động thực vật phong phú.Đại Lải là một điểm du lịch thích hợp cho những ngày nghỉ cuối tuần,ngày càng nhiều du khách muốn đến đây nghỉ ngơi,thư giãn.

Hồ Cấm Sơn

Hồ nằm trong địa phận huyện Lục Ngạn giáp ranh với Lạng Sơn.Bình thường mặt hồ rộng 2600 ha nhưng đến mùa mưa ,lũ nhiều,nước dâng cao,lúc này mặt hồ có thể rộng tới 3000 ha,chiều dài hồ gần 30km,bề ngang nơi rộng nhất 7km,hẹp nhất 200m.

Xung quanh hồ là những dãy núi cao bao bọc,hay nói một cách khác bờ của hồ chính là những ngọn núi điệp trùng và cây cao bóng cả.

Với những dự án quy hoạch xây dựng xung quanh khu vực hồ Cấm Sơn, không bao lâu nữa , Cấm Sơn sẽ trở thành nơi tham quan nghỉ mát hấp dẫn cới nhiều loại hình du lịch: bơi thuyền,leo núi,câu cá,đi bộ vào các làng xóm của đồng bào dân tộc hay đi chơi rừng…

Đi ô tô từ Hà Nội qua Bắc Ninh (31km) qua Bắc Giang (51km) đến sông Hoá(98km) rồi rẽ vào Cấm Sơn.

Khu du lịch Khuôn Thần

Từ Bắc Giang đi ngược lên vùng Đông Bắc 40km(phố Chũ)rẽ trái 10km là tới khu du lịch Khuôn Thần thuộc địa phận huyện Lục Ngạn (nằm trong dự án đầu tư của nhà vua Thái Lan đang được triển khai).

Diện tích hồ 240ha,xung quanh là dãy núi được phủ xanh,chủ yếu là thông.Lòng hồ có 5 đảo nhỏ được trồng thông xanh có tuổi từ 15-20 năm.
Diện tích rừng Khuôn Thần khoảng 700 ha,rừng tự nhiên 300ha,rừng thông xanh 400ha.Xung quanh khu vực Khuôn Thần là vườn cây đặc sản:vải Thái Lan,vải thiều,hồng,na…

Tại khu vực này có đền Từ Mã ,thờ danh tướng thời Trần đã được Nhà nước xếp hạng di tích văn hoá.

Du khách đến đây có thể nghỉ ngơi ở những camping ,dạo chơi trên hồ bằng thuyền đạp chân hay thuyền máy.Bạn sẽ được thưởng thức các sản phẩm địa phương như mật ong,rượu tắc kè,hạt dẻ,….và tham gia các buổi sinh hoạt văn hoá với dân địa phươngnhw:hát soong hao của người Sán Chỉ,Cao Lan,Nùng,Tày.

Ba Vì-vùng đất huyền thoại

Sau khi vượt đường 1B và đường 18 đến viếng Yên Tử trên dãy núi Đông Triều hùng vĩ bằng xe hơi và gần 400km xe lửa lên Lào Cai dự lễ hội Đền Thượng bên dòng Nậm Thi thờ Đức Thánh Trần, rồi trườn lên 38 km đèo để đến Sapa,quay trở lại Hà Nội, dùng xe máy chạy theo đường 41 quen thuộc thời sơ tán chiến tranh,qua Cầu Diễn, Nhổn, Phùng ,Gạch đến thị xã Sơn Tây, chạy tiếp 16 km nữa là đến cổng Vườn quốc gia Ba Vì.

Với diện tích 7377 ha,Vườn quốc gia Ba Vì có thảm thực vật hết sức phong phú, được nhà thực vật học người Pháp Balansa phát hiện từ quãng thời gian 1886-1891 với hơn 5000 tiêu bản mẫu vật. Cũng từ đây,du khách có thể theo các hướng đến những địa điểm có phong cảnh đặc sắc Đồng Mô, Ao Vua, Đường Lâm, Suối Hai hoặc thác Đa Đa…Lên đỉnh Ba Vì cao 1296m, nơi có đền thờ Thánh Tản Viên-nhân vật từ thuở Hùng Vương dựng nước trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh và đền thờ Hồ Chủ tịch được xây cất từ thập niên 1970.

Đường lên dốc mây, cảm nhận đầu tiên là đường lên núi Ba Vì cua gắt và dốc hơn rất nhiều so với đường lên Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, đèo Hải Vân, dốc Cun, Tam Đảo, đèo Khế núi Hồng (nơi ranh giới giữa tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang) hoặc Sapa.

Đến cote 400, khu nghỉ mát được xây dựng năm 1940, dạo quanh công viên khá đẹp bao quanh một hồ bơi rộng, chụp hình lưu niệm bên những cây đa, pơ mu… và ngồi ở nhà hàng kiểu nhà sàn của khu resort uống các món giải khát chế biến từ sữa bò nuôi dưới chân núi.Khí hậu thật tuyệt, mát dịu, gió nhẹ, những dải nắng vàng lung linh xuyên qua các khoảng trống của rừng cây có tới hơn 1700 loài cùng hàng trăm loài động vật có vú, chim, bò sát… Rải rác đây đó những biệt thự đổ nát từ thời chiến tranh chưa từng trùng tu hết.Tiếp tục chinh phục 800m độ cao còn lại,đường càng lúc càng cua gắt hơn. Có khúc vừa quẹo cua vừa leo dốc đến 45 độ mà một bên luơn là vực thẳm,lại thêm mây mù càng lúc càng đặc quánh.Tầm nhìn có lúc chỉ khoảng 10-15m,lên đến cote 1200m,bỏ xe lại vì đã hết đường cho xe chạy,ưu thế của người đi xe máy là có thể dừng xe thưởng ngoạn nhiều bông hoa rừng và vô số nhánh phong lan cộng sinh trên các thân cây ngay mép đường,bên những dòng suối trong mát chảy ra từ khe đá.

-Hào hứng trước cảnh quan ngoạn mục ,sương khói bảng lảng như chốn bồng lai,tiếp tục trèo 779 bậc đá phía Tây lên viếng Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và 225 bậc đá phía Đông lên đền thượng,nơi thờ Thánh Tản Viên rồi thêm mấy chục bậc nữa lên đến tận đỉnh Vọng Cảnh bốn bề mây mù dày đặc bao phủ.Lâu lâu trong ít giây phút,mây mù tản ra xa,một phần núi rừng và thung lũng ,sông hồ hiện ra phía dưới xen kẽ trong những dải mây bạc làm du khách nào cũng phải ngây ngất và bật lên cảm thán “tuyệt vời!”.Những ngày quang mây nắng đẹp ,khoảng 3-4h chiều,khi mặt trời chênh chếc hướng Tây,đứng đây có thể nhìn thấy toàn cảnh thủ đô.Trong đó nổi bật những khối nhà chung cư hiện đại Linh Đàm,Nhân Chính đến hàng loạt các cao ốc ở trung tâm.
 
1.2-Tiểu Vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng)

Hải Phòng-thành phố hoa phượng đỏ.

Hải Phòng-thành phố biển cách Hà Nội 102 km,một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam,nằm bên bờ biển Đông-Thái Bình Dương;phía Bắc giáp biển Đông,phía Tây giáp tỉnh Hải Dương,phía Nam giáp tỉnh Thái Bình.
Hải Phòng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,nhiệt độ trung bình 23-24 độ C,lượng mưa trung bình hàng năm 1600-1800 mm,quanh năm thời tiết ấm áp,bốn mùa cây trái xanh tươi.

Với di chỉ khảo cổ Cái Bèo(Cát Bà)chứng tỏ mảnh đất này cách đây trên 6000 năm đã có người sinh sống.Hiện nay,Hải Phòng còn giữ được nhiều di tích lịch sử,nhiều danh lam thắng cảnh,nhiều đền,chùa,lăng miếu,sinh hoạt văn hóa dân tộc ở từng làng xã.

Nằm trong tuyến du lịch Hà Nội-Hải Phòng-vịnh Hạ Long,Hải Phòng có khu nghỉ mát Đồ Sơn vươn ra tới biển tới 5 km.Từ Đồ Sơn bằng tàu cao tốc,du khách có thể tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà,thăm vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long.

Hải Phòng là một cảng biển lớn năm trên đường hàng hải quốc tế Đông-Tây,Bắc-Nam.Hải Phòng là một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thủy,bộ,đường sắt,hàng không trong nước và quốc tế.

Vịnh Hạ Long

Nằm ở vùng Đông bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị x Cẩm Phả v một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại gip đất liền với đường bờ biển dài 120Km, với tổng diện tích 1.553Km2 gồm 1.969 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo của vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông nam (thuộc vịnh Bái Tử Long) và vùng phía Tây nam (thuộc vùng vịnh Hạ Long) có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 - 280 triệu năm. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng là vùng trung tâm Di sản thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử Long. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 Km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam gic với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam), đảo Cống Tây (phía Đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng năm 1962.

Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh khổng lồ vô cùng sống động. Đi giữa Hạ Long, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá, đảo thì giống hình một người đang đứng hướng về đất liền (hình Đầu Người), đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hịn Rồng), đảo thì lại giống như một ông lo đang ngồi câu cá (hịn Ơng L Vọng), hịn Cnh Buồm, hịn Cặp G, hịn Lư Hương... Tất cả trông rất thực, thực đến kinh ngạc. Hình dng những đảo đá diệu kỳ ấy biến hoá khôn lường theo góc độ ánh sáng trong ngày và theo góc nhìn. Tiềm ẩn trong lịng cc đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, động Tam Cung... Không chỉ có vậy, Hạ Long ngày nay được các nhà khoa học chứng minh là một trong những cái nôi của con người có nền văn hoá Hạ Long từ Hậu kỳ đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng... Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới... Với hàng ngàn loài động, thực vật vô cùng phong phú trên rừng dưới biển, cá, mực... Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ cĩ ở nơi đây.

Với những giá trị đặc biệt như vậy, ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan, vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là Di sản thiên nhiên, khẳng định giá trị mang tính toàn cầu của Di sản thin nhin thế giới vịnh Hạ Long.

Từ trên cao nhìn xuống,vịnh Hạ Long như một bức tranh khổng lồ vô cùng sống động.đi giữa Hạ Long ta cứ ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá,đảo thì giống hình một người đang đứng hướng về đất liền (hòn Đầu Người), đảo thì giống một con rồng đang bay lượn trên mặt nước(Hồ Rồng),đảo thì giống như một ông lão đang ngồi câu cá (hòn ông Lã Vọng), hòn Cánh Buồm, hòn Trống Mái,hòn Lư Hương … Tất cả trông rất thực,thực đến kinh ngạc .Hình dáng nhưng đảo đá kỳ diệu ấy biến hoá khôn lường theo góc độ ánh sáng trong ngày và theo góc nhìn. Tiềm ẩn trong lòng các đảo ấy là những hang động tuyệt đẹp mhư động Thiên Cung , hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, động Tam Cung … Đó thực sự là những lâu dài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là Kỳ quan đất dựng giữa trời cao.Vịnh Hạ Long là nơi gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc với những địa danh nổi tiếng như:Vân Đồn-nơi có thương cảng cổ nổi tiếng một thời (1149),có núi Bài Thơ lưu bút tích của nhiều bậc vua chúa ,danh nhân xa hơn chút nữa là dòng sông Bạch Đằng – nơi đã từng chứng kiến 2 trận thuỷ chiến lẫy lừng của ông cha ta chống giặc ngoại xâm… Kông chỉ có vậy, Hạ Long ngày nay được các nhà khoa học chứng minh là một trong những cái nôi của con người có nền văn hoá Hạ Long từ Hậu kì đồ đá mới với những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới…Với hàng ngàn loài động, thực vật vô cùng phong phú trên rừng dưới biển, cá, mực… Có những loài động vật quí hiếm chỉ có ở nơi đây.
Với những giá trị đặc biệt như vậy, vịnh Hạ Long đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vào năm 1994.Đến năm 2000 lần thứ hai UNESCO lại công nhận Di sản Thế giới bởi giá trị địa chất, địa mạo của vinh Hạ Long.

Bãi Cháy

Bãi Cháy là địa danh nằm dọc bờ vịnh Hạ Long. Đây là khu du lịch quanh năm đón gió biển từ ngoài vịnh thổi vào. Đặc điểm địa hình là một dải đồi thấp chạy thoai thoải về phía biển, kéo dài hơn 2 km ôm lấy hàng thông cổ thụ, nằm xen là những khách sạn cao thấp lô nhô, những biệt thự nhỏ kiến trúc riêng biệt. Bên con đường trải nhựa là hàng cây xanh mát, những hàng quán nhỏ xinh ẩn mình dưới những tán phi lao, lưỡi cát trắng, khu công viên Quốc Tế Hoàng Gia. Tắm biển xong bạn có dịp thưởng thức các món đặc sản chế biến từ hải sản. Gío biển ở đây như bàn tay thần kì mơn man xua đi nỗi ưu tư, phiền muộn cho bạn.

Công viên Quốc Tế Hoàng Gia có nhiều dịch vụ, vui chơi, giải trí mới lạ,hấp dẫn,là trung tâm du lịch lớn nhất ở Quảng Ninh.

Núi Bài Thơ

Trước đây núi có tên là Truyên Đăng .Ngọn núi đá vôi cao 106m này nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long,kề ngay sát vịnh ,một nửa chân núi gắn với đất liền ,nởa kia ngâm trong nước biển.Đi thuyền trên vịnh Hạ Long chừng 300 m đã có thể nhìn thấy bài thơ khắc trên vách núi trong một khung hình vuông ,mỗi chiều dài 1,5m.

Năm 1468,vua Lê Thánh Tông cũng là nhà thơ nôỉ tiếng khi đi kinh lý vùng Đông Bắc ,đã dừng chân tại vịnh Hạ Long ngay dưới chân ngọn núi nên thơ này. Xúc cảm trước thiên nhiên hùng vĩ, nhà vua đã làm một bài thơ và truyền lệnh khắc vào vách núi. Từ đó có tên là núi Bài Thơ. An Đô Vương Trịnh Cương(1686-1730) cũng có 1 bài thơ ở núi này.

Leo núi Bài Thơ là 1 thú vui đầy hấp dẫn. Đứng ở lưng chừng núi phóng tầm mắt xa xa là biển xanh, đảo đá nhấp nhô, nhìn lên cao là trời mây bồng bềnh và xung quanh là cây, là hoa rừng, là những cánh chim ríu rít chuyển cành…

Hang Đầu Gỗ

Giữa non nước mây trời Hạ Long tuyệt mĩ, 1 hang đá mang tên vô cùng mộc mạc dân dã: hang Đầu Gỗ. Hang nằm trên đảo Đầu Gỗ, xưa đảo này có tên là đảo Canh Độc.

Sách Đại Nam Thống Nhất Chí có ghi: “Hòn Canh Độc lưng đảo có động rộng rãi có thể chứa vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn La…”. Sở dĩ gọi là hang Đầu Gỗ, theo truyền thuyết xưa kể rằng:trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo đã cho chuẩn bị nhiều cộc gỗ lim ở đây để cắm xuống lòng sông Bạch Đằng, có rất nhiều mẫu gỗ còn sót lại vì vậy động mang tên là hang Đầu Gỗ. Từ phía xa nhìn lại, cửa hang có màu xanh lam hinhg 1 con sứa biển, qua 90 bậc đá xây ta tới cửa động.Nếu động thiên cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Đầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng rất đồ sộ.

Cuốn Meivelle de Monde( kì quan thế giới) của Pháp xuất bản năm 1938 chuyên về du lịch giới thiệu về các danh thắng nổi tiếng thế giới đã mệnh danh hang Đầu Gỗ là Grotto des meivellis(động của các kì quan).Điều đó hoàn toàn chính xác. Hang được chia làm 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài có hình vòm cuốn tràn trề ánh sáng tự nhiên, trần hang là 1 bức “tranh sơn dầu” khổng lồ, trong đó vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, đó là những đàn voi đang đi kiếm ăn, những chú hươu sao ngơ ngác, chú sư tử lim dim ngủ… với những tư thế sinh động. Phía dưới là một chú rùa đang bơi giữa bể nước mênh mông, những rừng măng đá, nhũ đá nhiều màu với nhiều hình thù kì lạ tuỳ theo trí tưởng tượng phong phú của từng người.

Đứng dưới vòm hang ta có cảm gíac như đang đứng giữa một tòa lâu đài cổ kính, kiến trúc đồ sộ nhưng lại rất tinh tế. Chính giữa lòng hang là một cột trụ chống trời khổng lồ, nhiều người ôm không xuể, từ phía dưới chân cột lên trên được bàn tay điêu khắc tài tình của tạo hoá gọt giũa thành những hình mây bay, rồng cuốn, phượng múa, hoa lá, dây leo…Trên đỉnh cột, bất giác ta nhìn thấy một vị tu sĩ mặc áo choàng thâm, tay phải cầm gậy tích trượng trong tư thế tụng kinh, niệm.

Tận cùng hang là một cái giếng tiên 4 mùa nước ngọt trong vắt, chảy tràn trề quanh năm. Bất giác ta nhìn lên phía trên trong ánh sáng mờ ảo, sẽ nhận ra bốn xung quanh là bức thành cổ, trên đó đang diễn ra 1 trận hỗn chiến kỳ lạ, những chú voi đang gầm thét, người và ngựa chen chúc, gươm giáo mộc tua tủa, tất cả đang ở trong tư thế xông lên và bỗng dưng bị hoá đá chốn này. Năm 1917, vua Khải Định lên thăm hang Đầu Gỗ, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hoá, ông đã cho khắc 1 tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long và hang Đầu Gỗ. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động.

Hang Sửng Sốt

Nằm ở khu vực trung tâm của Di sản thế giới vịnh Hạ Long, hang Sửng Sốt trong đảo Bồ Hòn. Người Pháp đặt cho nơi này cái tên Grotto les suprices(hang của những sửng sốt).

Đây là 1 hang đá rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long. Mặt khác hang nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh Hạ Long(bãi tắm Ti Tốp-hang Bồ Nâu-động Mê Cung-hang Luồn-hang Sửng Sốt) và đây cũng là nơi tập trung nhiều đảo đá có hình dáng đặc sắc không nơi nào có được.Đường lên hang Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng ,những bậc đá ghép cheo leo,du khách vừa có được cái thú của người leo núi vừa có cái háo hức như đi trên trời vậy .Hang có kết cấu hai khoang lớn ,toàn bộ khoảng ngoài như một nhà hát lớn rộng mênh mông .

Trần hang được phủ bằng một lớp “thảm nhung”óng mượt ,vô số những “chùm đèn treo” bằng nhũ đá rực sáng long lanh,những tượng đá ,voi đá,hải cẩu,mâm xôi,hoa lá …tất cả dường như đang chuyển động trong một thế giới huyền ảo như thực như mơ.Chưa hếtd ngỡ ngàng trước vẻ đẹp huyền bí của taọ hoá ,ta bước vào khoang trong bằng một lối nhỏ.Một luồng ánh sáng ùa vào rực rỡ ,mở ra một khung cảnh mới hoàn toàn khác lạ ,rộng mênh mông nhưng có thể chứa được hàng ngàn người ,bên cạnh lối ra vào là một chú ngựa đá và một thanh gươm dài .

Truyền thuyết xưa kể rằng ,sau khi đánh tan giặc Ân,Thánh Gióng đã giúp dân chúng ở đây đánh đuổi yêu ma,xong việc Thánh Gióng bay về trời và để laị thanh gươm và con ngựa quý để trấn an dân chúng ,xua đuổi yêu quái .
Hiện nay trong hang còn nhiều hình ảnh tự nhiên dường như là những dấu tích của trận chiến ác liệt đó ,vết chân ngựa Gióng trở thành những ao hồ nhỏ xinh xinh cùng những tảng đá to vụn vỡ .Đi vào trong còn có nhiều cảnh trí kỳ lạ,nhũ đá hình cây đa cổ thụ tán sum xuê,chú gấu biển ,khủng long…Tới đỉnh cao nhất của hang,bất ngờ một “khu vườn Thượng uyển” mở ra trước mắt ,có hồ nước trong vắt ,phong cảnh sơn thuỷ hữu tình,muôn loài cây như si,vạn tuế,đa cổ thụ cùng nhiều loài chim sinh sống.Những ngày đẹp trời ,từng đàn khỉ kéo nhau xuống đây tìm trái cây làm náo động cả một vùng .

Hang Trinh Nữ-Hang Trống:

Hang Trinh Nữ nằm trên dãy đảo Bồ Hòn cùng với hệ thống hang Sửng Sốt ,hồ Động Tiên,hang Luồn…cách Bãi Cháy 15 km về phía Nam .Với người dân đánh cá ,họ coi hang Trinh Nữ là ngôi nhà thân yêu của họ,còn những đôi trai gái yêu nhau lại coi đây là biểu tượng ,nơi thề nguyền của tình yêu .Người Pháp xưa đặt cho hang cái tên La virgin(động của người con gái ).Truyền thuyết xưa kể rằng:xưa có một người con gái vạn chày xinh đẹp, nhà nghèo, gia đình cô phải đi làm thuê cho tên chủ cai quản vùng đánh cá. Thấy cô xinh đẹp, hắn ép bố mẹ cô gả cô làm vợ bé cho hắn, cô không chịu vì đã có người yêu, chàng trai đó đang ra khơi đánh cá để chuẩn bị cho ngày cưới của họ.Không làm gì nổi cô, tên địa chủ đã đày cô ra một đảo hoang nhằm khuất phục ý chí của cô, cô đói lả và kiệt sức. Trong một đêm mưa gío hãi hùng, cô gái đã hoá đá nơi đây.Đó cũng là đêm chàng trai biết tin cô gặp nạn, chàng mải miết bơi thuyền đi tìm cô. Đến đêm, giông bão ập đến thuyền chàng vỡ nát, chàng dạt lên một đảo hoang, trong ánh chớp, chàng nhìn ra phía xa và nhận ra cô gái nhưng những lời chàng gọi đã bị gió mang đi. Chàng dùng hòn đá đập vào vách núi báo cho nàng biết rằng chàng đã đến. Chàng gõ khi máu chân tay chảy đầm đìa, đến khi kiệt sức và chàng cũng hoá đá(hang Trống ngày nay).

Ngày nay, khi đến thăm hang Trinh Nữ, bức tượng cô gái nằm xoã mái tóc dài, đôi mắt đang nhìn về đất liền vẫn còn đó.

Đối diện với hang Trinh Nữ là hang Trống(còn được gọi là hang Con Trai). Bức tượng chàng trai hoá đá quay mặt về phía hang Trinh Nữ vẫn đứng đó, những tiếng gọi thiết tha cùng với tiếng gõ vào vách đá của chàng vẫn còn văng vẳng đâu đây. Những dấu tích của trận cuồng phong đêm đó vẫn còn đến ngày nay-đó là những đỗ vỡ của đất đá ngỗn ngang trong hang, tiếng gió gầm gào qua vách đá và những bọt sóng vẫn tung lên trắng xoá.

Động Thiên Cung

Trong những hang động đẹp nổi tiếng vịnh Hạ Long mới được phát hiện trong những năm gần đây phải nói đến động Thiên Cung. Động nằm ở phía Tây Nam vịnh Hạ Long cách bến tàu du lịch 4 km, trên đảo Đầu Gỗ ở độ cao 25m so với mặt nước biển, có toạ độ 105000’54"và 20054’78”.Đảo Đầu Gỗ xưa còn có tên là đảo Canh Độc có đỉnh cao 189m, dãy đảo như một chiếc ngai ôm trong lòng mình hai hang động đẹp.

Đường lên động Thiên Cung vách đá cheo leo, hai bên tán lá rừng che phủ um tùm, vào những đêm trăng, những chú khỉ tinh nghịch leo xuống tận đây kiếm hoa quả. Qua một khe cửa hẹp, lòng động đột ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130m. Càng vào trong ta càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của tạo hoá.

Động gắn liền với truyền thuyết về vua rồng xưa. Chuyện kể rằng sau khi vua rồng giúp dân ta đánh tan giặc giã, vua rồng trở về động của mình an toạ, năm ấy trời hạn hán nặng, dân tình mất mùa nhiều nên họ phải cầu cứu vua rồng ra tay làm mưa. Bao nhiêu người đã ra đi mà không có ngày trở về. Không sợ nguy hiểm gian nan, đôi trai gái quyết tâm cùng nhau đi tìm gặp vua rồng. Người con gái của họ được ra đời và đặt tên là nàng Mây. Nàng Mây lớn lên đã làm xao xuyến trái tim hoàng tử Rồng và tình yêu đã giúp họ tìm đến với nhau, đám cưới được tổ chức 7 ngày 7 đêm tại khu vực trung tâm động. Để chúc mừng đám cưới, những chú rồng bay lượn lúc ẩn lúc hiện trong rừng mây nhủ đá, những chú voi con cong kênh nhau lên nhảy múa, những con mảng xà lớn trường mình quấn quanh cây đa cổ thụ, hai chú sư tử đá nhảy múa bờm tóc tung bay, trên cao những chú đại bàng dang rộng cánh tay khổng lồ trên không trung…một chú voi lớn được trang trí diêm dúa công phu đang nằm phủ phục chờ cô dâu chú rễ bước xuống. Nam Tào, Bắc Đẩu tóc bạc như mây cũng đến dự tiệc vui, cảnh tượng tưng bừng náo nhiệt và vô cùng sống động. Tất cả những hình ảnh đó như vừa được hoá đá nơi này. Trên vách động phía đông là một bức tranh hoành tráng đồ sộ, trong đó chạm nổi những nhân vật trong chuyện cổ tích xưa, nết chạm khắc mềm mại uyển chuyển và vô cùng tinh tế, sắc sảo tới từng chi tiết nhỏ, những khối điêu khắc dù là đồ sộ hay nhỏ bé đều được bàn tay của tạo hoá trau chuốt tỉ mỉ.
Trung tâm động là 4 cột trụ to lớn lực lưỡng chống đỡ thiên đình. Từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kì lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người hoa lá cành…trên vách động phía bắc là cảnh một bầy tiên nữ đang múa hát chúc mừng đám cưới.

Dưới vòm động cao vút, từng chùm nhũ đá rủ xuống muôn màu tạo thành bức rèm đá thiên nhiên lộng lẫy. Đâu đó có tiếng trống bập bùng như trong đêm hội làng xưa. Đó chính là tiếng gió thổi qua kẽ đá. Đứng giữa vòm động cao vút, màu thạch nhủ xanh như giác ngọc ta ngỡ như đang đứng trong tiên cảnh bồng lai vậy.

Tới ngăn động cuối cùng những luồng ánh sáng trắng xanh đỏ xen lẫn phối màu tạo nên khung cảnh hoa lệ. Một vòi nước tự nhiên 4 mùa tuôn chảy róc rách, nơi đây có 3 chiếc ao, nước trong vắt. Đây là nơi nàng mây thường tắm cho 100 người con của mình và nuôi họ khôn lớn trưởng thành. Một con đường dẫn ra phía ngoài quanh co uốn khúc, đó chính là con đường mà nàng mây cùng năm mươi người con của mình ra đi khai phá vùng đất mới, năm mươi người con còn lại cùng với cha xây dựng quê hương, di vật mà người mẹ để lại là bầu vú tiên tràn trề sức sống.

Đảo Tuần Châu:

Đảo Tuần Châu, là khu du lịch độc đáo ở miền Bắc Việt Nam nay thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Khu du lịch quốc tế Tuần Châu bao gồm một tổ hợp du lịch, dịch vụ, vui chơi giải trí: bi tắm nhn tạo, nh biểu diễn đa năng 2500 chỗ ngồi, khu phố ẩm thực với phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam, khu biểu diễn động vật, khu chợ quê, hồ sinh vật biển, khu biệt thự chất lượng cao v nhiều loại hình dịch vụ khc. Đến đây du khách sẽ có cơ hội được tham quan, thưởng thức các loại hình dịch vụ du lịch hấp dẫn trên.

Hang Hanh

Cách thị xã Cẩm Phả 9km về phía tây,Hang Hanh là một hang đá đẹp và dài nhất so với các hang, động hiện có trên vịnh Hạ Long. Hang có chiều dài 1300m,chạy xuyên dãy núi đá Quang Hanh ra tới biển. Vì vậy, người Pháp còn đặt tên cho nó là Le tunel (đường hầm ).

Đến thăm hang có thể bằng thuyền,canô hoặc bằng xe ô tô, phải chọn lúc nước thuỷ triều xuống kiệt .Khi ấy cửa động mới lộ rõ.Bên cạnh một phiến đá bằng phẳng chắn ngang ở cạnh cửa phía động là miếu Ba Cô.

Truyền thuyết xưa kể lại rằng :xưa có ba cô gái đi biển ,gặp hôm trời mưa to ,ba cô vào hang trú mưa ,thấy cảnh sắc trong hang đẹp quá nên ba người càng mải miết ngắm cảnh,tới lúc nước triều dâng cao ba cô gái bị mắc kẹt bên trong và bỏ mình tại hang và hoá thành thuỷ thần.

Truyền thuyết là vậy thực tế Hang Hanh cũng rất đẹp .Con đò nhỏ dẫn du khách luồn lách qua từng khe đá quanh co dưới ánh đuốc bập bùng,từng chùm nhũ đá buông rủ xuống từ trần hang ánh lên những sắc màu kỳ diệu,dòng nước êm ả lững lờ trôi,không gian tĩnh mịch chỉ có tiếng mái chèo khua nước nghe rât quen mà như xa lạ.

Càng vào sâu,động càng đẹp ,dáng vẻ đơn sơ.Những chùm hoa đá rực rỡ,những trụ kim cương chợt ánh lên bao sắc màu óng ánh,kji ta chiếu đèn vào ,những mâm xôi đồ sộ ,chùm hoa mẫu đơn,giò phong lan cảnh …Tất cả đang ở tư thếvươn ra lay động rung rinh.Đâu đó có tiếng trống bập bùng như đêm hội từ xa vọng lại.Đó là tiếng sóng vỗ nhẹ vào vách đá tạo nên ,và còn nhiều nữa những hình ảnh và âm thanh kỳ lạ.

Cụm di tích núi Bài Thơ

Là một quần thể di tích lịch sử ,văn hoá. Nay ở Phường Bạch Đằng - trung tâm thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh bao gồm: núi Bài Thơ, chùa Long Tiên và đền thờ Trần Quốc Nghiễn.

Núi Bài Thơ: Cao khoảng 200m, tựa như một ngọn tháp khổng lồ bên bờ vịnh Hạ Long. Trước đây núi có tên gọi là Truyền Đăng. Năm 1468 vua Lê Thánh Tông trong một lần tuần du ở vùng biển An Bang (Vịnh Hạ Long ngày nay) đ ứng tc một Bài Thơ và cho khắc vào vách núi phía Nam. Từ đó núi mang tên là núi Đề Thơ, sau gọi là Bài Thơ. Ngoài Bài Thơ của vua Lê Thánh Tông, hiện nay trên vách núi phía Đông Nam cịn cĩ Bi Thơ họa của chúa Trịnh Cương (năm 1729) và chùm Bài Thơ của một số danh nhn thời Nguyễn .

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, núi Bài Thơ cịn gắn liền với những sự kiện lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân vùng mỏ. Ngày 1.5.1930 lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên đỉnh núi, mở đầu giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vùng mỏ dưới sự lnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Bài Thơ là trạm gác phịng khơng, hang tr ẩn cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện chính của Bưu Điện tỉnh Quảng Ninh.

Đền thờ Trần Quốc Nghiễn: Nằm ở phía Tây chân núi Bài Thơ. Đền thờ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng nhà Trần có công đánh giặc bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc.
Cha Long Tin: Nằm ở phía Bắc chân núi Bài Thơ. Chùa được xây dựng năm 1941 để thờ Phật là chính, ngoài ra cịn thờ đức thánh Trần và thánh Mẫu. Đây là trung tâm Phật giáo lớn của thành phố Hạ Long. Lễ hội nơi đây diễn ra vào ngày 24.3 âm lịch hàng năm.

Khu bảo tồn sinh quyển thế giới Cát Bà

Cát Bà là một quần đảo có 366 đảo lớn,nhỏ.Đảo chính là Cát Bà diện tích khoảng 100 km2. Cát Bà nằm về phía tây Nam Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long, cách hải Phòbg khoảng 60km. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Cát Bà nhiều cảnh quan đẹp,tài nguyên rừng và biển phong phú, một quần thể đảo và hang động trên biển làm mê hồn du khách.

Vườn quốc gia Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà , có diện tích được quy hoạch bảo vệ là 15200 ha, trong đó có 9800 ha rừng và 5400 ha biển. Địa hình rất đa dạng chủ yếu là núi đá vôi,nhiều hang động kỳ thú và xen kẽ là những bãi cát trắng phau, mịn màng như Cát Bà cò, Cát Dứa. Các núi đá vôi có đô cao trung bình 150m, cao nhất là đỉnh cao vọng với 322 mét so với mặt biển.

Thời tiết ở Cát Bà chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa, và mang tính chất hải dương.Về mùa hè khí hậu mát mẻ, dễ chịu, nhiệt độ trung bình năm khoảng 23-240C.

Tại vườn quốc gia Cát Bà,hệ động vật có 32 loài thú,69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư. Đặc biệt là loài vọc đầu vàng tìm thấy ở các vách núi đá cheo leo ven biển Cát Bà.Đây là loài thú quý được nghi vào danh mục cẩn bảo vệ , trên thế giới hầu như không còn loại này . Loài vọc đầu vàng đang được bảo vệ nghiêm ngặt và trở thành biểu tượng của vườn quốc gia Cát Bà. Tại đây còn có khỉ vàng ,sơn dương và nhiều loài chim đẹp như cao cát, bói cá,hút mật,đầu rìu …

Vườn quốc gia Cát Bà còn những cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới lớn. Theo điều tra bước đầu,ở đậy có 620 loài thực vật bậc cao gồm có 438 chi và 123 họ, trong đó có 350 loàii cây thuốc. Nhiều cây quý cần bảo vệ như chò đôi, trai lý,lát hoa,kim giao,cọ Bắc sơn ….

Hoang sơ Cát Bà

Tin Ct B trở thnh khu dự trữ sinh quyển quốc tế khơng lm cho những du khch từng ghé thăm hịn đảo này phải ngạc nhiên. Từ lâu, Cát Bà đ l điểm dừng chân hấp dẫn du khách, bởi hầu như tất cả những gì m thin nhin tạo ra đều được giữ gìn nguyn vẹn.

Con đường độc đạo từ thành phố Hải Phịng ra đảo Cát Bà bị cắt bởi hai chuyến phà. Nếu bạn đang bận tối mặt với hàng núi công việc, cảm giác ngồi chờ phà cũng như qua phà mất hàng tiếng đồng hồ sẽ chẳng dễ chịu chút nào. Nhưng nếu không như vậy thì r rng chẳng cĩ gì đáng để băn khoăn: gió biển mằn mặn những ngày hè, hoa rừng nở trên vách đá v những bi ct vng dưới chân núi đ l lời hứa hẹn cho một chuyến đi thú vị. Bỏ lại phía sau thị trấn Cát Bà với nhấp nhô nhà hàng khách sạn và nhà dân, cùng một bến cảng nằm khuất sau những dy ni, du khch bắt đầu vượt qua một eo núi nhỏ để sang phía bên kia của đảo, phía hướng ra biển với những vách núi dựng đứng và từ đây bắt đầu khám phá vẻ đẹp bình yn của hịn đảo này.

Được xếp vào một trong những điểm nhấn của du lịch vùng Đông Bắc, Cát Bà có những nét duyên riêng so với các điểm du lịch khác. Không sang trọng và kiêu kỳ như người láng giềng Hạ Long, không có cái “khí thiêng” của Yên Tử hay dịch vụ đầy đủ của Tuần Châu, Cát Bà tự hào là một trong những nơi mà dấu ấn con người rất ít chạm tới. Và một trong những nét duyên riêng của Cát Bà chính l những bi ct nhỏ nằm rải rc giữa cc ngọn ni, để rồi giờ đây được cải tạo thành những bi tắm cĩ thể xếp vo loại đẹp nhất Việt Nam, cả về cát, nước và sóng. Thú vị hơn, để đến được những bi ct ny, ngồi đi thuyền, chỉ có thể đi men theo vách núi trên một hành lang hẹp bằng thép và gỗ được dựng lên dành riêng cho du khách. Đi theo hành lang này, có những lúc du khách sẽ cảm thấy như mình đang đi trong không trung, khi trước mặt là trời, dưới chân là bi đá ngầm trắng xoá sóng biển và sau lưng là ni rừng.

Nổi tiếng nhất trong cc bi ct ở Ct B l bi Ct Cị 1, 2, 3 - nơi đ được các nhà đầu tư chọn xây dựng các khu nghỉ dưỡng. Những công trình ny đang cung cấp thêm tiện nghi cho du khách khi khám phá hịn đảo này.

Và đón gió biển đêm

Nếu như ban ngày, Cát Bà hiện lên với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng thì về đêm, sự hấp dẫn của đảo lại đến từ biển cả. Địa hình tự nhin đ tạo cho Ct B những bi tắm sạch đẹp được che chắn bởi các vách núi nên sóng rất lặng. Về đêm, sóng vỗ nhè nhẹ, và đấy là lúc du khách có thể kéo ghế ra tận mép nước để thưởng thức gió biển và tiếng sóng. Sẽ tuyệt vời cho những ai lng mạn muốn kiếm tìm một cht ring tư. Đêm càng khuya, tiếng sóng càng như ru, như hát. Và để tận hưởng hết hương vị của biển đêm, du khách có thể thu lều ngủ ngay trn bi tắm thay vì khch sạn. Một hình thức khc, hơi mạo hiểm song rất thú vị và được khách du lịch nước ngoài yêu thích: chèo thuyền kayak. Đêm vắng, chèo thuyền ra giữa vịnh để hưởng một bầu không khí có phần hoang d cũng l một cch thử thch lịng can đảm và thú vui khám phá của mỗi người

Đêm Cát Bà cũng sẽ không kém thú vị nếu như du khách chọn các khu resort đầy đủ tiện nghi làm điểm dừng chân. Tại Sunrise Resort vừa được khai trương đầu tháng 3.2005, có thể tìm cho mình một phịng nghỉ đầy đủ tiện nghi để rồi mở rộng cửa sổ, đón gió biển và bình mình đánh thức du khách trong sảng khoái.

Tour du lịch đến Cát Bà hiện đ được nối với Hạ Long, Hà Nội bằng tàu và ôtô. Nếu không ra đảo bằng đường bộ và phà, du khách có thể chọn cách đi đơn giản và nhanh chóng hơn là tàu cánh ngầm cao tốc. Một số công ty tổ chức tour đi Cát Bà (khởi hành từ Hà Nội) kết hợp với các địa điểm khác ở Đông Bắc như Yên Tử, Quan Lạn, Hạ Long, Tuần Châu…

Khám phá đảo khỉ

Một trong những nt ring của Ct B là môi trường tự nhiên cịn được giữ gìn v bảo vệ nghim ngặt, nhờ đó mà các loài chim thú vẫn tồn tại được đến hôm nay. Nói theo sách vở thì Ct B l khu dự trữ sinh quyển, nơi có tới trên 2.000 loài động thực vật, trong đó có 282 loài động vật trên cạn. Nhiều lồi trong số ny thuộc loại quý hiếm trn thế giới như voọc đầu trắng, quạ khoang, khỉ vàng… Đến Cát Bà, du khách có thể nhìn thấy cc loại th ny trn vịm cy hay vch đá, và một trong số những điểm đến không thể bỏ qua là đảo khỉ.

Anh Nguyễn Nam Đảo, người đ gắn bĩ với đảo khỉ từ vài chục năm nay, cho biết trên đảo hiện có rất nhiều khỉ sinh sống, khỉ tại chỗ và khỉ đưa từ miền Nam ra. Trong số này, có khoảng hai chục con đ quen với người nên thường xuyên xuống “giao lưu” với du khách và cũng để kiếm thêm… thức ăn. Được du khách cho ăn uống, khỉ vui vẻ chén ngay tại chỗ và cũng vui vẻ biểu diễn leo trèo nghịch ngợm. Trên núi cịn rất nhiều khỉ quý hiếm ít khi xuất hiện, chỉ cĩ du khch no đi d ngoại xuyn đảo mới có thể gặp được. Ngoài khỉ, voọc cũng là loài linh trưởng có nhiều ở đảo. Voọc đầu trắng hiện đang được xếp vào Sách đỏ của thế giới và là đối tượng của một dự án bảo vệ cấp quốc tế. Theo anh Đảo, thỉnh thoảng du khách vẫn có thể bắt gặp voọc đầu trắng trên các hẻm núi.

Đảo khỉ nằm cách biệt với khu dân cư trên thị trấn Cát Bà. Để ra đảo, du khách phải vượt qua một qung đường biển bằng tàu. Vịnh Lan Hạ vào lúc nắng lên đẹp như bức tranh với màu nước trong xanh và gió lộng. Vịnh ngăn cách với khu dân cư nên môi trường được bảo quản tốt.

Sông Bạch Đằng

Sông Bạch Đằng ở phía đông bắc Hải Phòng cách trung tâm thành phố 20km. Bạch Đằng là con sông nổi tiếng với những chiến công vang dội trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam .

Năm 938, Ngô Quyền đã đánh tan các đạo thuỷ binh lớn của quân Nam Hán .
Năm 981 tướng Lê Hoàn (tức vua Lê Đại Hành ) cũng đã tiêu diệt các đạo quân thuỷ binh của quân tống trên sông Bạch Đằng.

Năm 1288, quân dân nhà Trần dưới sự lãnh đạo trực tiếp của trần Hưng Đạo đã nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền của quân Nguyên- Mông, bắt sống tướng Ô Mã Nhi ,chấm dứt âm mưu thôn tính Việt Nam của quân xâm lược Nguyên Mông.

Hàng năm trên dòng sông lịch sử này thường có các hội thi bơi truyền thống vượt sông Bạch Đằng.

Thắng cảnh Tràng Kênh

Tràng Kênh là một quần thể đồi núi đá vôi hang động , sông, nước với cảnh trí thiên nhiên nên thơ ,thuộc huyện Thuỷ Nguyên cách trung tâm TP Hải Phòng 20km về phía đông bắc.

U Bò là một ngọn núi trong quần thể đồi núi này , tương truyền đây là nơi Trần Hưng Đạo đã đứng để chỉ huy trận thuỷ chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông. Đứng trên núi U Bò , du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh sông Bạch Đằng. Sông núi tĩnh lặng , trời nước mênh mang với nhiều huyền thoại làm cho cảnh sắc nơi đây càng thêm hấp dẫn.

Quanh Tràng Kênh có nhiều động kỳ thú. Hang Vua thuộc xã Minh Tân, cao 18m, rộng 10m. trong hang có nhiều ngách , có suối nước quanh năm trong nác. Gọi la hang Vua vì tương truyền rằng Vua Hùng thứ 18 đã lập Ly cung ở đây .Đền thờ Vua Hùng được đặt ở chính giữa hang ,tượng vua được tạc bằng đá , trông rất sinh động .

Tràng Kênh đã được các nhà khảo cổ phát hiện ra nơi đây là xưởng chế tác đồ trang sức của người xưa ,cách nay trên 4000 năm. Trong cuôc kháng chiến chống Pháp ,đây còn là một căng cứ cách mạng của quân và dân Hải Phòng

Rừng cấm nguyên sinh Khe Gỗ

Thuộc xã An Lạc,huyện Sơn Đông,có diện tích 7153ha với hệ thống thực vật phong phú gồm 236 loài thực vật,cây lấy gỗ,255 loài dược liệu quý,37 loài thú,73 loài chim,18 loài bò sát,đặc biệt có 7 loài thuộc động vật quý hiếm.Trong rừng có nhiều dòng suối nước trong vắt,chảy quanh co uốn khúc.Đây là một khu rừng cấm nguyên sinh còn giữ được vẻ hoang sơ rất thích hợp cho du khách tham quan và nghiên cứu.

Biển Đồ Sơn

Thị xã Đồ Sơn cách trung tâm thành phố Hải Phòng 22 kmvề phía đông nam,nằm giữa hai cửa sông Lạch Tray và sông Văn Uc.Đây là một bán đảo với đồi núi,rừng cây nối tiếp nhau vươn ra biển đến 5km

Từ xưa,người Pháp đã xây dựng khu Đồ Sơn thành khu nghỉ mát dành cho quan chức Pháp và giới thượng lưu người Việt.Năm 1950,sân bay Đồ Sơn được xây dựng.

Bãi biển Đồ Sơn được chia thành ba khu,mỗi khu đều có bãi tắm,đồi núi,rừng thông yên tĩnh.Ở khu II có toà nhà nghỉ mát của Bảo Đại,ông vua cuối cùng cuả triều Nguyễn.Khu III có công trình kiến trúc nhỏ dáng dấp mô phỏng nhưngôi chùa nên từ lâu thành tên gọi là Pagodon .Đặc biệt cuối bán đảo là đồi đất cao trên đó có Hotel De La Pionte nay là khách sạn Vạn Hoa và khu vui chơi giải trí Casino.Đây là công trình kiến trúc đẹp nhất Đồ Sơn.Khu Casino Đồ Sơn liên doanh đầu tiên giữa chính phủ và một công ty ở Hồng Kông đã đi vào hoạt động từ năm 1994,thu hút được khá đông đảo khách nước ngoài đến với dịch vụ này

Núi Voi

Núi Voi là một quần thể thiên nhiên đa dạng,cách trung tâm thành phố Hải Phòng 20 km về phía tây nam.

Núi Voi là một ngọn núi cao nhất ở phía Bắc Kiến An,bên bờ sông Lạch Tray.Ngay dưới chân núi có động Long Tiên. trong đông thờ bà Lê Chân. Núi Voi có nhiều hang động đẹp:hang Họng Voi,hang Chiêng,hang Cá Chép,hang Bể….Phía nam núi Voi có động Nam Tào,phía Bắc có động Bắc Đẩu.Trong hang động co nhiều nhũ đá,măng đá với muôn hình kì lạ như rồng chầu ,hổ phục,đầu voi…Trên đỉnh Núi Voi có một khoảng đất tương đối bằng phẳng gọi là bàn cờ cõi tiên.Trên núi có nhiều dấu vết đền chùa và vết tích thành nhà Mạc được xây dựng vào thế kỉ 16.Đặc biệt các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều di vật của người xưa như: rìu,đục bằng đá,đồng cách đây gần 3000 năm.

Núi thiêng Yên Tử:

Giữa những núi cánh cung trùng điệp của miền đông bắc mênh mông,núi Yên Tử cao 1.068m,nổi lên trên thảm rừng xanh .Từ xa xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là ngoạn mục .Các triều đại vua chúa đã xếp Yên Tử vào hàng “danh sơn” của Việt Nam .Yên Tử trước đây có tên là núi Voi,bởi dáng núi giống như hình con voi quay đầu về phía biển.

Trong sử sách ,Yên Tử còn có tên gọi là Bạch Vân Sơn(núi mây trắng) bởi quanh năm núi chìm vào trong mây trắng .

Yên Tử đã đẹp ,lại còn nổi tiếng hơn từ khi các vua nhà Trần (thế kỉ 13) chọn núi rừng Yên Tử làm nơi tu hành ,lập nên phái thiền Trúc Lâm.Cũng từ đó hệ thống chùa tháp được xây dựng uy nghi suốt trên tuyến đường hàng chục km.Từ thị xã Uông Bí tới khu di tích chừng 15km.Yên Tử hiện có 11 cụm kiến trúc gồm chùa,am,tháp.Tính từ ngoài vào là chùa Lân(thiền viện Trúc Lâm) lên tới đỉnh núi là chùa Đồng .Nếu đi bộ qua tất cả các di tích ở dây nhanh nhất cũng phải mất một ngày,từ sớm tới tối mịt.Hiện tai cáp treo đã đưa du khách gần tới chùa Hoa Yên,thời gian lượt lên 6’,xuống mất 5’,đỡ được 1/3 quãng đường leo núi.

Vân Đồn:

Cách TP Hạ Long chừng 50km về phía đong nam là quần đảo Vân Đồn lịch sử,với hơn 600 đảo lớn nhỏ được dàn ra như bức trường thành ,một kỳ quan thiên nhiên,một thương cảng đầu tiên của Việt Nam từ thời Lý,Trần(thế kỷ11-13).

Tới Vân Đồn ta được tận mắt chững kiến sự giàu có phong phú đa dạng về hải sản của một vùng biển bạc:các đảo Quan Lạn,Minh Châu,Cô Tô…là nơi cư trú sinh sống của hàng ngàn loài cá ,trong đó có 730 loài đã được định tên.
Vân Đồn còn là một bảo tàng địa chất ngoài trời,một vườn bách thú, một thảo cầm viên.Từ xưa đến nay,Vân Đồn vẫn là nơi thu hút các nhà khoa học và du khách trong và ngoài nước.

Trà Cổ

Bằng canô hay tàu thuỷ chạy ven biển từ Hải Phòng đến Móng Cái 206km hoặc từ TP Hạ Long ,cách 132 km,hoặc theo đường 18 Hà Nội-Hạ Long đến Tiên Yên rồi rẽ đường số 4B đi thị xã Móng Cái sẽ đến bãi biển Trà Cổ.Đây là một trong những vùng biển đẹp nhất Việt Nam, rất gần thị xã Móng Cái, một thị xã cổ kính khá sầm uất ở sát biên giới với Trung Quốc.

Trà Cổ là bãi biển rộng và bằng phẳng,nền cát trắng mịn chắc,chạy dài tới 17km,tạo thành một bãi tắm lí tưởng.Bãi cát là rìa bên ngoài của một đảo bồi tự nhiên do tác động của sóng và dòng biển ven bờ tạo nên,Trà Cổ cách đồng bằng Móng Cái bằng một dãy phá hàng ngày có thuỷ triều ra vào. Hiện nay đã có hệ thống đê che ngăn và có đường nối đảo với đất liền nên rất thuận lợi cho việc đi lại.

Ven bờ biển là những cồn cát cao 3-4 m có làng mạc và dân cư đông đúc,chủ yếu sống bằng nghề nông và chài lưới. Sát bờ biển là các dải rừng phi lao chắn gió,giữ cát,gần đó còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Do cách xa các thành phố,khu công nghiệp,bến cảng nên Trà Cổ có khí hậu mát mẽ ,không khí trong lành, không gian tĩnh mịch.Nhiệt độ trung bình hàng năm 22,7 0C,có 4 tháng có nhiệt độ dưới 200C( tháng 12 đến tháng 3 năm sau) ,tháng nóng nhất từ 26-280C.

Trà Cổ rất thích hợp với các loại hình du lịch nghỉ ngơi,tắm biển ,thể thao dưới nước kết hợp tham quan.Trà Cổ vẫn còn rất hoang sơ,nếu có dịp thì dừng nên bỏ lỡ , đến với Trà Cổ sẽ có nhiều cảm xúc rất thực về thiên nhiên.
 
1.3. Tiểu vùng đông bắc

Hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà - tỉnh Thái Nguyên

Hai thắng cảnh này nằm trong quần thể đá vôi, rừng đặc dụng tốt tươi, kỳ vĩ của x Ph Thượng, huyện V Nhai, Thi Nguyn. Muốn lên hang, bạn phải men theo đường đá ngoằn ngoèo ngược dốc, nhiều chỗ đá tai mèo cứa vào chân ứa máu. Thách thức đó chính là sức hút của khu di tích này.

Nhưng cái mệt mỏi, vất vả của một giờ leo núi sẽ nhanh chóng biến mất khi bạn đến đích, vừa thưởng ngoạn cảnh vật trong hang, vừa được hưởng không khí trong lành, mát rượi. Ánh sáng từ hai cửa rọi sâu vào hang, chiếu lên các nhũ đá vôi thiên tạo, thỏa sức cho du khách ngắm nhìn no voi chầu, kỳ ln ma, mẹ bồng con, vũ nữ, bút tháp... Đáy hang có nước, cát mịn gợi mở không khí hoang sơ, thanh khiết lạ lùng.

Theo con đường lát đá, suối Mỏ Gà nằm cách chân hang Phượng Hoàng 150 m. Có lẽ phải gọi là hang suối Mỏ Gà mới đúng. Vì dịng nước trong lịng hang rộng chừng 10 m, sâu từ 2 đến 6 m. Chỗ sâu, nước trong veo mát rượi ngập tới thắt lưng, chỗ nông trên mắt cá chân có cả bi sỏi nhỏ trải di. Khơng ai biết hang suối di bao nhiu, chỉ vo đến 300-400 m bạn đ thấy cuốn ht m hồn. Những tảng đá như giường tiên, cột đá lô nhô phân cách các bi tắm, bi sỏi... để du khách nằm nghỉ tự nhiên sau những giờ leo núi, nhiều phiến đá to như cái phản, bàn uống nước nằm xen kẽ với các loài cây. Bên trong hang cịn cĩ 5, 6 thc nước cao 3-4 m tung bọt trắng xóa.

Du khách có thể dừng chân ở các nhà nghỉ và nhà sàn nhỏ với giá khá rẻ, từ 20.000-50.000 đồng/ngày. Cao hứng bạn có thể vào bản, mua thịt lợn về nướng chả uống với rượu nút lá chuối, cơm lam, tắm suối, rồi ngả lưng trên nhà sàn.

Hồ núi Cốc

Đến hồ Núi Cốc, nghe một chuyện tình được truyền tụng từ bao đời: "Một người đi nước mắt thành sông. Một người chờ tấm thân hoá núi". Khu du lịch hồ Núi Cốc. Hình tượng nàng Công, chàng Cốc.

Từ Hà Nội ngược theo quốc lộ số 3 hơn 60km, đến thành phố Thái Nguyên, rẽ về Đại Từ chừng 30km nữa là đến khu du lịch hồ Núi Cốc. Hồ Núi Cốc nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 15 km về phía Tây Nam. tạo, được khởi công xây dựng năm 1993, hoàn thành 1994. Hồ gồm một đập chính dài 480 mét và 6 đập phụ. Diện tích mặt hồ rộng 25km2. Trn mặt hồ rộng mnh mơng cĩ tới 89 hịn đảo, có đảo là rừng cây xanh, có đảo là nơi trú ngụ của những đàn cị… Lịng hồ su 23 mt, dung tích nước hồ là 175 triệu m3. Hồ có khả năng khai thác từ 600-800 tấn cá/năm.Hồ Núi Cốc có một công trình thủy lợi tưới tiêu cho các cánh đồng huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Định Hóa, Phú Lương… và là một thắng cảnh du lịch nghỉ ngơi.

Tạo hĩa ti tình cng với sức mạnh dời non lấp biển của ngn vạn thanh nin trn cơng trường hồ Núi Cốc những năm 1960 của thế kỷ 20, đ biến nơi đây thành một danh lam thắng cảnh "đông che hè thoáng" để có thể đón du khách đến nghỉ ngơi thăm thú quanh năm. Những năm gần đây, khu du lịch hồ Núi Cốc (thuộc x Tn Thi, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) đ khốc ln mình một diện mạo mới do bn tay của các nghệ nhân sáng tạo, nhằm thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, du khách ưa vẻ hoang d của tự nhin vẫn cĩ thể tìm cho mình một khoảng thin nhin khống đạt riêng để thả hồn vào huyền thoại chàng Cốc, nàng Công...

Vùng đất huyền thoại

Một phong cảnh sơn thủy phóng khoáng, nhuốm màu sắc huyền thoại hiện ra trước tầm mắt. Đó là cảm nhận đầu tiên khi bạn đặt chân tới nơi đây. Khu du lịch hồ Núi Cốc là một quần thể hài hịa giữa đất trời, mây nước, núi sông và những bản làng quê kiểng... Những ngôi nhà nghỉ, cửa hàng, quán giải khát...nằm rải rác thoắt ẩn thoắt hiện men theo những khúc đường quanh co uốn lượn quanh hồ. Bên những thân cây đại thụ bắt rễ dưới chân núi là những luống hoa, cây cảnh dẫn lối du khách men theo sườn núi. Min man theo những lối mịn dìu dặt ấy, du khch sẽ bắt gặp những ngơi nh nho nhỏ, lọt giữa những khuơn vin xinh xắn của cư dân vùng hồ.

Vùng đất in bóng núi Tam Đảo này đã lưu truyền một câu chuyện tình đẹp từ xửa xưa, mà minh chứng sinh động của nó chính là khu du lịch hồ Núi Cốc ngày nay. Điểm đến chinh phục du khách bắt đầu từ một huyền thoại quả là không nhiều! Người ta tới đây để chiêm ngưỡng, thăm thú cảnh núi non mây nước Việt Bắc, cịn những tm hồn đa cảm thì nhẩn nha gặm nhấm mối tình đẫm nước mắt của chàng Cốc, nàng Công.

Chuyện xưa kể rằng, có đôi trái gái yêu nhau tha thiết, thủy chung, nhưng vì chng trai qu ngho nn khơng được sự chấp thuận của cha mẹ cô gái vốn là một gia đình quan lang giu cĩ. Mọi sự ngăn cản, cấm đoán cũng chỉ khiến đôi trai gái thêm quyết tâm mong ngóng chờ đợi nhau. Tiếng sáo của chàng Cốc không cịn vọng đến nàng Công. Nước mắt nàng Công chỉ mình nng Cơng biết. Nhớ thương tuyệt vọng, chàng Cốc héo hon mà chết. Trời đất cảm thương hóa chàng thành một quả núi sừng sững giữa trời. Suốt bốn mùa, gió man mác trong cây lá như tiếng sáo xa xăm vọng về. Cịn nng Cơng, trong buồng giam nhớ thương chàng Cốc khôn nguôi. Nàng khóc ngày khóc đêm. Cho đến một ngày kia cả tấm thân nàng cũng hóa thành nước mắt. Những giọt nước mắt yêu thương thủy chung qua năm tháng thấm sâu vào đất, chảy thành dịng theo vết nứt tìm về ni Cốc. Mỗi năm khi mùa hè đến, trên núi Cốc và đôi bờ sông Công nở đầy loài hoa sim tím, như thầm nhắc thiên diễm tình thuở ấy. Nng Cơng quặn mình đau đớn, uất hận khao khát. Đó là những ngày mưa lũ, nước sông Công dâng ào ạt để gần núi Cốc hơn.

Một điều thật thú vị là nơi sinh ra huyền thoại chàng Cốc, nàng Công, chính là vùng chè Tân Cương thơm ngon nhất trên đất Thái Nguyên. Tại đây, du khách có thể ngắm nhìn trùng trùng điệp điệp những đồi chè xanh ngăn ngắt trổ đều từng búp lá non mỡ màng. Và thấp thoáng, vài cô gái đang chọn hái các nn ch bỏ vo chiếc gi đeo trước ngực. Các cụ già kể lại với hậu thế rằng, nước mắt nàng Công thấm vào rễ cây chè, tạo nên vị ngọt cứ lưu luyến, ngân nga, để người ta nhấp chén trà một lần rồi nhớ mi.

Nếu du khách có nhu cầu, chủ nhà sẵn sàng thu xếp một chỗ nghỉ ngơi để đêm ấy, bên bếp lửa bập bùng, vừa thưởng thức những đặc sản của núi rừng Việt Bắc, vừa nghe lại câu chuyện tình : "Một người đã nước mắt thành sông. Một người chờ tầm thân hoá núi…" do chính những người dân địa phương kể với một cảm xúc hào hứng vẹn nguyên...

Và đêm ấy, cho dù rượu cần có nồng nàn đến mấy, cho dù gió hồ có rười rượi bao nhiêu... du khách vẫn bồn chồn thao thức chờ tới sáng để được lên tàu, được bồng bềnh với trời mây sóng nước. 89 ngọn núi xưa kia nay đ thnh 89 hịn đảo nhỏ, cịn nguyn vẹn thảm thực vật v quần thể động vật hoang d sơ khai. Có lẽ vì thế m nhiều đảo mang những cái tên rất gợi cảm: Đảo Cị, đảo Dê, đảo Khỉ… Trên đó, du khách có thể cắm trại một vài ngày để đắm mình trong bầu khơng khí tinh khiết, tĩnh lặng, hoặc cĩ thể cuối ngy lại trở về khu khch sạn Bến Đợi. Đó là một khu nhà nổi giống như một quần đảo nhỏ giữa lịng hồ. Trn đó, ngoài những căn phịng sang trọng với những tiện nghi hiện đại cịn cĩ hng chục chiếc lều lm bằng tre giang, mi lợp l cọ trơng như những qun cĩc xiu xiu..

Điểm du lịch cuối tuần thú vị

Cch H Nội khoảng l00km, khu du lịch hồ Núi Cốc thực sự là một nơi khiến người ta có thể rũ bỏ mọi sự mệt mỏi. Muốn làm chủ một không gian rộng lớn, du khách sẽ được đi ca nô tới các hịn đảo như: đảo Cị dập dìu những đàn cị trắng, cị lửa, chiều về đậu rợp bóng cây; đảo Dê với hàng trăm chú dê nhởn nhơ trên những vách đá cheo leo kiếm ăn, rồi đảo Bồng Bồng, đảo Keo, núi Văn, núi V, đền thờ Bà Chúa Thượng Ngàn. Khung cảnh các hịn đảo ở đây dường như cịn giữ được vẻ hoang sơ vốn có của thiên nhiên. Do vậy, nó chiếm được rất nhiều cảm tình của du khách. Bên cạnh đó, du thuyền câu cá trên hồ cũng là một thú của du khách khi đến với hồ Núi Cốc. Lịng hồ cĩ cc loại c chp, m, trắm, cĩ con cn nặng tới 50kg.

Đặc biệt, việc xây dựng một “Huyền Thoại Cung” lộng lẫy, kỳ công rộng 2.000m2 và sự tôn tạo lại các cảnh quan, đ mang lại cho khu du lịch hồ Ni Cốc những thay đổi lớn, bắt nhịp được với cuộc sống hiện đại. Trước hết phải nói tới “Huyền Thoại Cung” được 50 nghệ nhân từ miền Hạ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định) chế tác. Có thể nói “Huyền Thoại Cung” là cả vùng non nước bao la sông Công, núi Cốc thu nhỏ và được bày trí một cách sống động từ ngọn núi, rừng cây, khe suối... Trên chiếc thuyền phao di dạo trên dịng sơng “Lười” - tượng trưng cho nước mắt của nàng Công, trong chốc lát, du khách như được chứng kiến tận mắt huyền thoại chàng Cốc, nàng Công được tái hiện trong “Huyền Thoại Cung”. Chắc chắn, đây là một đìểm thu ht trẻ em hơn cả, vì ngồi phong cảnh, du khch “nhí” cịn được nghe các nghệ sĩ kể câu chuyện tình huyền thoại đầy ly kỳ, hấp dẫn được dàn dựng công phu về âm thanh, ánh sáng, tiếng động, tiếng chim hót, tiếng nước chảy rì ro... Cch “Huyền Thoại Cung” khơng xa l một vườn bách thú thu nhỏ với hàng chục loài vật khác nhau như: khỉ, trăn, cá sấu, đà điểu,... Được biết, trong năm nay người ta cịn ti hiện lại sự tích “Ba cây thông” - ý tưởng cũng bắt nguồn từ một câu chuyện tình đầy thương cảm xảy ra ở vùng đất này. Và bây giờ, ba cây thông vẫn tươi xanh, tỏa bóng mát rượi, người dân vùng Phúc Tân, huyện Đại Từ trìu mến gọi l “Chợ tình ba cây thông”.

Ngoài ra, khách sạn hồ Núi Cốc cũng có nhiều cụm vui chơi giải trí như: Công viên nước có 8 đường trượt, bể bơi Hoàng Hôn rộng 300m2 trong khuôn viên 3,4 ha. Khuôn viên được tạo bởi những con đường duyên dáng trải sỏi, các luống cỏ được chăm sóc kỹ lưỡng nên có màu xanh mượt mà. Hai bi tắm Bình Minh v Thin Nga dnh cho những người ưa mạo hiểm. Một cây cầu nhỏ vươn ra hồ khiến du khách có cảm giác thật dễ chịu khi đứng ngắm hoàng hôn và những dãy núi xa xa…

Vườn lan rừng có địa thế đẹp, hướng ra hồ là nơi du khách có thể vừa ngồi thưởng thức ấm trà Tân Cương chính hiệu vừa ngắm những đóa lan rừng mộc mạc, khác hẳn với các loài lan kiêu sa, sang trọng chốn đô hội. Bàn ghế ngồi cũng được cách điệu từ hình th của những con th rừng được đục đẽo bằng gỗ. Tại đây du khách cũng có thể phóng xa tầm mắt, hịa tm hồn vo non nước mây trời khoáng đạt của hồ Núi Cốc.

hu du lịch hồ Ni Cốc cịn cĩ thm hai tour kh hấp dẫn: leo ni v đi chợ thuyền. Núi V, ni Văn, núi Quần Ngựa là ba ngọn núi cao nằm về phía đông bắc của dy Tam Đảo có đặc điểm địa hình v khí hậu rất thích hợp với mơn leo ni. Mất chừng một buổi sng để chinh phục những ngọn núi trên, du khách sẽ được tận hưởng bầu không khí mát lạnh ngay cả giữa trưa hè và ngắm nhìn cảnh non nước hữu tình từ độ cao trên 800m. Du khách người nước ngoài đến đây, thường không bỏ qua tour du lịch này. Xuôi về hướng đông nam một chút là chợ Cây Thông họp vào những ngày lẻ ở x Phc Tn, huyện Phổ Yn.
Du khách đi chợ có thể lên thuyền loại 8-60 chỗ ngồi hoặc thuê thuyền độc mộc chỉ có hai chiếc ghế cho khách và một người lái đị (l dn bản địa kiêm luôn hướng dẫn viên du lịch) suốt chặng đường khá thú vị. Tới chợ, khách được tham dự một phiên chợ đặc trưng của vùng cao Việt Bắc với cảnh bán mua rất vui mắt của đồng bào Mông, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu... Ngồi cc thứ thổ sản, thổ cẩm ở chợ, khch cịn cĩ thể tha thẩn dạo bộ vo cc bản lng thăm thú và mua đặc sản chè móc câu chính hiệu từ các lị chế biến thủ cơng của địa phương. Từ đây, nếu du khách không muốn trở lại bằng thuyền để lần nữa được thưởng ngoạn một "Vịnh Hạ Long" thơ mộng giữa núi rừng Việt Bắc hùng vĩ, thì đ cĩ sẵn đội quân xe "Minsce" sẵn sàng đưa khách ra quốc lộ cách đó không xa để đón ôtô về Hà Nội hoặc lên Thái Nguyên...

Khu du lịch Ba Bể

ÐÂy là khu du lịch có tiềm năng du lịch sinh thái, văn hoá lớn mạnh và rất có ý nghĩa trong tiểu vùng du lịch miền núi Ðông Bắc, bao gồm khoảng 20 điểm di tích danh thắng đặc sắc, độc đáo. Trong đó tiêu biểu là những điểm du lịch:

Hồ Ba Bể

Từ Hà Nội theo đường số 3 qua Thái Nguyên, đến thị x Bắc Cạn v đi tiếp khoảng 40 km là đến hồ Ba Bể (gần chợ R). Con sông Năng chảy dưới chân núi đá vôi, giữa những bờ vách đứng xuyên qua núi Lung Nham, nơi đó gọi là động Puông. Thuyền nhỏ luồn trong động Puông chập chờn trong ánh sáng mờ ảo, những thạch nhũ hình th kỳ lạ hiện ln trước cửa động. Ði khỏi cửa động chừng 4 km vào địa phận hồ Ba Bể, một hồ kiến tạo lớn nhất miền Bắc Việt Nam giữa vùng đá phiến và đá vôi. Hồ dài hơn 8 km, rộng 3 km, sâu khoảng 20 đến 30 m. Ðoạn giữa hồ hơi eo lại. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ, một đảo giống như con ngựa đóng cương đang lội nước (nên cịn gọi l đảo An M).
Hồ Ba Bể ở độ cao 145 m so với mặt nước biển, diện tích mặt hồ khoảng 500 ha được bao bọc bởi những dy ni đá vôi có nhiều hang động và những suối ngầm khi ẩn khi hiện. Toàn cảnh hồ như một bức tranh thuỷ mặc làm say lịng nhiều du khch từ xưa đến nay.

Hồ Ba Bể (Bắc Cạn) cách Hà Nội hơn 200 km, trong những ngày thủ đô mưa phùn thì ở đây vẫn nắng rực rỡ. Trên con đường từ thị trấn Chợ R (huyện Ba Bể) đi vào hồ, du khách có thể nhìn thấy lợn rừng đang đi dạo bên đường khiến họ cứ nhấp nha nhấp nhổm...

Không thể ngờ được khi nắng và hồ đ tơn vẻ đẹp cho nhau đến thế cho mùa đồng xứ Bắc. Hồ nước thiên nhiên lớn nhất VN này (500ha) như một bảng màu lộng lẫy biến hóa khôn lường, lúc xanh rêu lạnh lẽo sau bóng núi, chợt chuyển sang xanh lam khi mặt trời ló ra hoà cùng sắc vàng rực rỡ của bóng cây, sắc trắng tinh khôi của những đám mây. Hồ dài 8km (gồm ba hồ nối liền nhau nên gọi là Ba Bể), độ sâu trung bình 20m, nơi sâu nhất 35m. Hồ có tới 50 loại cá, trong đó có những loại quý hiếm mới phát hiện như cá cóc Ba Bể, cá chiên ở thác Đầu Đẳng và một số loài quý hiếm như cá chép kình, c rầm xanh... Du khách có thể bơi thuyền trên hồ thưởng ngoạn cảnh sắc, ngắm những hịn đảo xinh xắn nổi lên giữa hồ như đảo An M, đảo Bà Góa... sau đó leo lên núi thăm Ao Tiên-một hồ nước nhỏ trong vắt nằm trên đỉnh núi đá vôi-hồ chồng lên hồ, rất thú vị.

Bản Păc Ngịi của người Tày nằm ven hồ có 60 hộ dân, bản chuyên trồng lúa, nhưng đời sống khấm khá lên nhiều nhờ làm du lịch. Ông Dương Đặng, một dân bản, là chủ của ngôi nhà sàn bằng gỗ nghiến rộng thnh thang cho khch trọ thu. Giá trọ một đêm cho du khách ở đây là 10.000đ/người, sinh viên 5.000đ, khách nước ngoài 20.000đ. Những ngôi nhà sàn ở đây nằm trên đồi khá đẹp, tuy không bằng nhà của người Thái. Rời Păc Ngịi trở lại với hồ, du khch cĩ thể ồ lên thích thú khi bất chợt thấy ven hồ có một trảng cỏ xanh mịn như mời gọi, và bác lái đị sẵn lịng gh chn cho mọi người dạo chơi, giở ống cơm lam ra ăn, ngắm những con bói cá sặc sỡ và rất to (gấp 3 lần so với bói cá ở đồng bằng) bất chợt nhào xuống hồ, hoặc những đàn sáo đen thấy động bay nháo nhác...

Hồ Ba Bể năm trong quần thể vườn quốc gia Ba Bể với 21 điểm du lịch kỳ thú như hang Dơi, động Puông, động Nả Phoịng, động Thẳm kít... Con sông Năng trên đường dẫn du khách từ chỗ cách thị trấn Ba Bể 5 km vào đến hồ giới thiệu những hang động kỳ thú này. Nếu đi theo đường bộ chạy ven sông, bạn có thể bất ngờ gặp một con lợn rừng đang đi dạo rất hiền lành ven đường, bên cạnh là mấy đứa trẻ thản nhiên vui đùa. Đây là những con lợn do người dân đi rừng bắt được từ hồi chúng cịn nhỏ, đưa về nuôi như lợn nhà.

Ngủ lại ở nhà trọ thị trấn giá 100.000đ-150.000đ/phịng, b chủ đon đả khi biết chúng tôi chỉ lên đây có hai ngày: “Đừng tiếc thời gian khi đi Ba Bể, vì cĩ rất nhiều điểm để vui chơi”. Vườn quốc gia thì nhắn nhủ mọi người: “Quý khách đừng mang đi những gì của vườn ngoài những bức ảnh và không để lại gì ngồi những dấu chn”, nhưng chúng tôi đ mang đi thêm ấn tượng hết sức ngọt ngào về một vùng hồ trên núi.

Vườn quốc gia Ba Bể

Vườn quốc gia Ba Bể l một di sản thin nhin quí gi, cĩ diện tích 23.340 ha. Ðy l một hệ thống rừng nguyn sinh trn ni đá vôi bao bọc xung quanh hồ nước trong xanh. ở đây có tới 417 loài thực vật và 299 loài động vật có xương sống. Có nhiều loại động vật quí hiếm như phượng hoàng đất, gà lôi, voọc mũi hếch... cịn được lưu giữ ở đây.

Cùng với thắng cảnh hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Bể là một di sản thiên nhiên đẹp vào bậc nhất của nước ta cần phải được bảo vệ, khai thác đưa khách du lịch tới tham quan, nghỉ dưỡng, nghiên cứu.

Ðộng Puơng

Ðộng Puơng nằm trn dịng sơng Năng, cách huyện lỵ Ba Bể 5 km. Ðộng là nơi con sông Năng chảy xuyên qua một dy ni đá vôi tạo thành. Ðộng cĩ chiều di khoảng 200 m, chiều cao trung bình của động từ 25 - 30 m với nhiều hình th, cột đá hùng vĩ. Trong động còn có đàn dơi hàng chục vạn con sinh sống và trú ngụ. Ðộng Puơng là một điểm du lịch sinh thái đặc biệt độc đáo và rất hấp dẫn.

Thác Đầu Đăng

Thác là nơi dịng sơng Năng tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang. Thc Ðầu Ðăng dài khoảng 2 km, là nơi con sông Năng bị chặn lại bởi những tảng đá lớn nhỏ xếp chồng lên nhau với độ dốc chừng 500 m, tạo thành một thác nước ngoạn mục kỳ vĩ, hịa với phong cảnh rừng nguyn sinh tạo ra một ấn tượng khó quên. Không những vậy, tại đây cịn xuất hiện loại c chin (cĩ những con nặng trn 10 kg) l loại c hiếm thấy hiện nay.

Ao Tiên

Ao Tiên là một hồ nước nhỏ, rộng chừng 3 ha nằm trên đỉnh núi. Bị bao bọc bởi rừng nhiệt đới nên khí hậu ở đây rất mát mẻ và trong lành. Tương truyền đây chính là nơi các nàng tiên trên trời thường xuống tắm và đánh cờ.

Thác Roọm

Thác Roọm thuộc xã Quang Thuận, huyện Bạch Thơng, nằm cách thị xã Bắc Kạn 8 km theo tỉnh lộ Bắc Kạn-Chợ Ðồn. Khu thác Roọm bao gồm một quần thể bi đá, sông núi rất đẹp hoà với cảnh thiên nhiên của núi rừng. Thác Roọm là nơi con sông Cầu bị chắn bởi bi đá lô nhô dài chừng 1 km tạo nên phong cảnh kỳ thú. Hiện nay, sở Thương mại-Du lịch tỉnh Bắc Kạn đang có quy hoạch thác Roọm thành điểm du lịch phụ cận của khu vực thị x Bắc Kạn, biến nơi đây thành khu du lịch cuối tuần với cc loại hình vui chơi, giải trí, thể thao, leo núi, cắm trại, nghỉ dưỡng...

Phya Khao

Ðiểm du lịch Phya Khao thuộc huyện Chợ Ðồn, l nơi có khí hậu ôn hịa, mơi trường trong sạch. Ðộ cao trung bình so với mặt biển l 800 m, khí hậu ở đây ấm về mùa đông và mát về mùa hè. Trước kia khi cịn đang đô hộ nước ta, thực dân Pháp đ tìm ra địa điểm có khí hậu tuyệt vời này và đã cho xây dựng nhà nghỉ mát tại đây.

Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ

Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ thuộc huyện Na Rì với diện tích hàng chục ngàn hecta, là nơi lưu giữ và bảo tồn của nguồn gen động, thực vật quý hiếm. Ðây còn là một điểm du lịch, nghiên cứu sinh thái trong tương lai.

Thác Nà Đăng

Thuộc xã Lương Thành, huyện Na Rì, là một thác nước chảy từ đỉnh núi xuống với độ cao trên 100 m tạo nên một cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú
Đến thăm thác Bản Giốc

Từ thị xã Cao Bằng đi tiếp 65 km nữa đến huyện lỵ Trùng Khánh. Thác Bản Giốc cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc. Bản Giốc là một thác nước cao hùng vĩ và đẹp nhất của Việt Nam, nằm ở địa phận xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, Cao Bằng. Ngay từ xa du khách đ nghe thấy tiếng thc nước réo ào ào.

Hãy một lần đặt chân đến vùng đất cực Bắc này, bạn sẽ cảm nhận được sức cuốn hút mạnh mẽ của thiên nhiên hùng vĩ. Có lẽ vì đường đèo dốc, dài gần 500 cây số nên rất ít du khách đặt chân đến vùng cực Bắc này. Tôi cũng vậy, nếu không một lần đến Cao Bằng, cái tên thác Bản Giốc sẽ chỉ có trong trí nhớ qua một quyển sách học vần nào đó hồi còn đi học.

Đi qua Đèo Giàng, đèo Gió

Thị x Cao Bằng nằm gọn trong vịng quy của những dải ni cao. Con sơng Bằng Giang chảy qua lịng thị x khiến khung cảnh nơi đây trở nên thật hiền hịa.

Dọc đường đến huyện Trùng Khánh, vùng xa nhất của Cao Bằng, tôi bị ấn tượng bởi những con đèo cao đến chóng mặt, nhưng mang cái tên thật đơn giản, dễ nhớ: đèo Giàng, đèo Gió.

Trên vách núi cao cheo leo, giữa màu xanh bạt ngàn của rừng cây, của bầu trời, là màu đỏ của cây dẻ. Mùa đông, cây dẻ đổi màu lá, hoa nở thơm nức, kết thành những hạt dẻ to bằng ngón chân cái. Hạt dẻ nướng ăn vừa ngọt vừa bùi, mùi thơm cứ đọng mi.

Thác nước đẹp nhất Việt Nam

Từ rất xa, dù vướng những ngọn núi cao, nhưng tôi đ nghe thấy tiếng ầm ầm của dịng thc. Khơng khí lan toả hơi nước mát lạnh. Từ độ cao trên 30 mét, những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy cây, xẻ dịng sơng thnh ba luồng nước, trông như ba dải lụa trắng.

Ngày đêm thác nước cuồn cuộn đổ xuống những tảng đá phẳng làm tung lên vô vàn hạt bụi trắng toả mờ cả một vùng rộng lớn.

Vào mùa khô, nước chia thành ba tầng, chảy lững lờ. Mùa mưa, ngọn thác chỉ có một dịng duy nhất, đổ ầm ầm xuống sông Quây Sơn. Ngày đêm, dịng nước cuồn cuộn đập vào những tảng đá phẳng, tung bọt trắng xoá cả một vùng rộng lớn. Vào ngày có nắng, nếu may mắn, bạn sẽ được nhìn thấy hơi nước tạo thành cầu vồng lung linh, huyền ảo.

Dưới chân thác Bản Giốc là mặt sông rộng, phẳng như gương. Hai bên bờ là những thảm cỏ, vạt rừng xanh ngắt, lác đác điểm những chùm hoa phong lan, những đàn trâu, bị ung dung gặm cỏ lm cho cảnh sắc cng thm sinh động. Xa xa l những gị đất nở đầy hoa cúc dại tím ngắt, những cánh đồng lúa vàng rực đang chờ thu hoạch. Động Ngườm Ngao ở ngay bên cạnh thác, dài khoảng 3 km được đánh giá là một trong những hang động đẹp của Việt Nam.

Thác Bản Giốc đ đi vào nghệ thuật tạo hình với những tc phẩm hội hoạ v nhiếp ảnh đặc sắc. Cùng với núi, sông và các hang động kỳ thú ở xung quanh, thác Bản Giốc không chỉ là một điểm du lịch hấp dẫn mà cịn l một nguồn thủy điện lớn trong tương lai.
Giếng tin trong lịng hang

Leo được vào động Ngườm Ngao là cả một chiến công. Hang nằm trong một quả núi, tối và ẩm. Những nhũ đá rỏ nước lách tách, mang đủ hình dng như: đụn gạo, cá sấu, ông Bụt... Giữa hang có một hồ nước trong vắt, mát lạnh, được soi r bởi một khoảng sng chiếu xuống từ trên đỉnh núi. Đó là giếng Tiên.

Điều bạn cần biết:

• Cao Bằng có nhiều thắng cảnh nổi tiếng như: Thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao ở huyện Trùng Khánh; khu di tích Pắc Bó, làng Nà Mạ, cách thị x Cao Bằng khoảng 60 km.

* Từ Hà Nội đi theo quốc lộ 3, qua Thái Nguyên, Bắc Cạn rồi đến thị xã Cao Bằng mất khoảng 12 giờ đồng hồ (từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối).

* Thu xe ơ-tơ hai cầu, giá 2.500đồng/ km, tại Công ty Du lịch và Thương mại, 109 Trần Hưng Đạo, Hà Nội.

Đồng Văn-"Cổng trời

Đồng Văn là một huyện vùng cao biên giới của Hà Giang. Độ cao vùng này khoảng 1.000 m so với mặt biển, địa hình hầu như chỉ thấy núi đá. Huyện lỵ cách thị x H Giang 146 km nhưng giao thông rất khó khăn. Huyện có 19 x thì 9 x cĩ đường biên giới với Trung Quốc. Mùa đông nhiệt độ có lúc xuống đến 1 oC, nhưng mùa hè nóng nhất chỉ khoảng 24 oC. Bầu trời hầu như quanh năm mưa và mù nên ở đây người dân có câu: "thấy nhau trong tầm mắt, gặp nhau mất nửa ngày" và "đất không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng". Đồng Văn có điểm cực Bắc của Việt Nam tại Lũng Cú. Người ta nói rằng nếu chưa lên Lũng Cú thì coi như chưa đến Đồng Văn, bởi Lũng Cú là "nóc nhà của Việt Nam" nơi mà "cúi mặt sát đất, ngẩng mặt đụng trời".

Đồng Văn nổi tiếng về trái ngon: đào, mận, lê, táo, hồng... về cây dược liệu quý: tam thất, thục địa, hồi, quế... Đồng Văn cịn nổi tiếng về phong cảnh như núi non, hang động, những rừng hoa đủ sắc màu... Chính nơi đây đã tạo cho các nghệ sỹ nguồn cảm hứng sáng tác nên những tác phẩm hội họa, nhiếp ảnh có một không hai trên thế giới về thiên nhiên: núi rừng, ruộng bậc thang...

Đến với Đồng Văn là dịp để thử lịng can đảm của bạn bởi đèo cao vực thẳm, nhiều khi phải đi bộ. Nhưng đổi lại, bạn được những ngày đắm mình với thin nhin hng vĩ, sống bn những con người cịn ngho khó nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Bạn cũng sẽ được thả hồn trong tiếng khèn, tiếng sáo. Biết đâu nó sẽ làm bạn phải ngẩn ngơ khi rời chốn xa xôi này.

Cổng trời Quan Bạ

Cách thị xã Hà Giang khoảng 40 km về phía Bắc. Đây là một vùng núi non trùng điệp, có truyền thuyết về núi Cô Tiên đầy thơ mộng. Khí hậu mát mẻ quanh năm rất tốt cho việc nghỉ dưỡng.
 
1.4 Tiểu Vng du lịch miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Phú Thọ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La)

Đề nghị công nhận vườn quốc gia Ba Bể là Di sản thiên nhiên

Các nhà khoa học và các nh quản lý Việt Nam đang hoàn chỉnh hồ sơ khoa học về vườn quốc gia Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới.

Vườn quốc gia Ba Bể là một trong số 19 di sản vật thể và phi vật thể mà Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.

Cuối năm 2004, vườn quốc gia Ba Bể cùng với ba vườn quốc gia khác của Việt Nam là Hoàng Liên ở Lào Cai, Chư Mom Ray ở Kon Tum và Kon Ka Kinh ở Gia Lai được công nhận là Vườn Di sản ASEAN.

Vườn Quốc gia Ba Bể nằm cách thị x Bắc Kạn khoảng 40km v cch Tp. Hà Nội khoảng 250km về phía Bắc. Vườn rộng hơn 10.000ha, trong đó hồ Ba Bể là điểm nhấn của khu vườn này. Hồ được bao bọc bởi các cánh rừng trên núi đá vôi - nơi trú ngụ của nhiều loài cá nước ngọt đặc hữu. Hồ cũng là nơi cung cấp nguồn thực phẩm giàu đạm và tích trữ nước ngọt quan trọng cho cư dân sống ở xung quanh khu vực này. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú và đa dạng về số lượng và chủng loại, nhiều loài được ghi tên vào Sách đỏ Quốc tế và Việt Nam.

Vườn quốc gia Ba Bể không chỉ là trung tâm đa dạng sinh học hàng đầu mà cịn l một danh thắng nổi tiếng của Việt Nam. Ngoài hồ Ba Bể, ở vườn quốc gia cịn cĩ nhiều thắng cảnh độc đáo, hùng vĩ như động Puông, thác Đầu Đăng, ao Tiên và thác Roọm.

Nụ cười Sapa

Thời gian đ g nhịp 100 năm cho du lịch, trên độ cao hơn 1.600m, chiếc áo phố phường vẫn khoác lên Sapa vẻ cổ kính hoang sơ, tựa như những lâu đài lơ lửng giữa đại ngàn. Đường từ Lào Cai lên Sapa càng quanh co mịt mù hơn trong màn nước. Xe đi từng đoạn, từng đoạn vì phải dừng lại chờ thơng đường. Núi sạt, đất đá ngổn ngang chắn lối. Uốn theo Quốc lộ 4D, dịng suối Cốc San cuồn cuộn chảy mang theo ph sa đỏ quánh len lỏi từ thượng nguồn góp nước xuống tận sông Hồng. Tiếng mưa, tiếng suối từ những dy ni chập chng ven đường như dạo thêm cung trầm cho khúc nhạc ban mai
Dường như cảm thấy sự bồn chồn của những khách đường xa đến với Sapa, anh Thiện sau khi lái xe vượt qua những khúc quanh ngoằn ngoèo, những đoạn cua ba tầng chót vót thông báo: Trời sắp tạnh rồi, mây đang tan nơi đầu núi. Quả nhiên, trời ửng dần, mưa bắt đầu nhẹ hạt. Ruộng bậc thang thấp thoáng ẩn hiện, vài đứa trẻ thủng thẳng lùa bị ln ni. Hoa riềng rừng trắng tinh, hoa mua, hoa sim đỏ tím bừng thắm trên sắc xanh của cây cối. Nắng vàng ươm như trải mật trên dy Hồng Lin Sơn chập chùng tít tắp. Bên đường, chiếc xe cẩu xúc những vạt đất đá cuối cùng chắn ngang đường. Những công nhân làm nhiệm vụ thông đường cười thật tươi chào đón đoàn xe nối nhau vượt dốc...

Đất và người

Tôi đến Sapa vì một lời hứa với hai cơ học trị Lý Mẩy Pham v Lý Mn Mẩy ở đội 2, x Tả Phìn. Thú thật khi nghe các em ở vùng núi kể rằng mùa mưa, con đường đến trường lầy lội, chỗ bùn ngập lối chỗ ngoằn ngoèo, cheo leo khúc khuỷu và những tảng đá to có thể rơi bất cứ lúc nào... Tơi thật khĩ hình dung nếu khơng được tận mắt chứng kiến cảnh núi sạt trên đường mới đi qua. Với tâm nguyện học để vượt đói nghèo, để cuộc sống của dân bản ngày một đổi mới, các em đ phải buổi đi học, buổi lên nương trồng ngô, trồng lúa. Ở đây, ngô trồng sáu tháng cịn la nương thường tháng 2 trồng, tháng 10 mới thu hoạch, lúa được bón bằng phân xanh (dùng cây ngải cứu đắp ủ thành phân) cây to nhưng năng suất lại thấp, cả một vùng nương mênh mông có khi chỉ được chừng tạ thóc, giá mỗi ký gạo ln đến 10.000 đồng. Với dân bản, để kiếm đủ ăn thật vất vả, gian nan. Thế nên khi tôi cầm ống cơm lam được nấu từ lúa nương và hơ nóng lại trên bếp than hồng do chị Vàng Seo Mẩy ở bản San Sảo Hồ mời, bỗng cảm nhận sâu sắc về nỗi một nắng hai sương của người nông dân.

Ngoài việc làm nương, những phụ nữ Dao cịn rất giỏi thu tha may v. Lý Mn Mẩy, 21 tuổi (người Dao đặt tên theo thứ tự, con đầu là Tả, tiếp theo là Lở, Pham, Sử, Mán, Líu... nên đôi khi tên thường trùng nhau), vừa địu con vừa thong thả ngồi thêu trong buổi chiều nhạt nắng ngay chân núi Hàm Rồng. Sau lưng mẹ, cậu bé ngủ thật ngon lành. Mới ba tháng tuổi, nước da non nớt của cậu bé đ sạm mu mưa nắng. Thi thoảng, trong giấc ngủ, bé lại toét miệng cười trông thật đáng yêu. “Nhà khổ quá nên khi 5 tuổi em đ biết cầm kim thu - Mn Mẩy kể - Cĩ khi chệch tay, kim đâm vào đau nhói. Bây giờ nhiều khách đến Sapa thích hàng thêu nên em cũng kiếm thêm được ít tiền. Em cịn tập nĩi tiếng Anh để có thể trả lời khách và chào hàng”.

Những trẻ em dân tộc Dao, Mông ở Sapa bây giờ nói tiếng Anh rất sành điệu. Khách du lịch từ khắp các châu lục đến đây đ lm cho sắc mu Sapa thm sinh động. Với 17 x, 1 thị trấn, dn số 4 vạn người gồm 6 dân tộc Mông, Dao, Tày, Giáy, Xa Phó, Kinh cùng sinh sống trên diện tích 200 ha. Sapa đang từng bước chuyển mình. 60% thơn bản được phủ sóng truyền hình, từ 24% hộ ngho năm 2001, nay chỉ cịn 15%. Du lịch cng với những vng chuyn canh trồng rau, trồng hoa, trồng chè đ mang đến cho Sapa một diện mạo mới. Thổ nhưỡng và khí hậu đ tạo thuận lợi cho người trồng hoa. Thương hiệu hoa Sapa với nhiều chủng loại được nhập từ Hà Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản... như hồng, lay dơn, sa lem và loại hoa ly cao cấp với hương thơm ngạt ngào, hoa hồng xanh và các loại địa lan... đang khẳng định chỗ đứng mới cùng với các loại hoa của Đà Lạt, Hà Nội.

Trên độ cao 1.000-1.800 m quanh năm lạnh giá cũng trở thành chỗ dừng chân lý tưởng cho các loại trà nổi tiếng của Đài Loan. Sapa hôm nay đ cĩ những chủ nhn mới, đưa công nghệ sinh học và kỹ thuật hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Anh Nguyễn Việt Cường sau khi trồng thành công giống hoa ly cao cấp với năng suất, chất lượng đạt chuẩn đang tiếp tục mở rộng mô hình sản xuất. Anh kể rằng gia đình anh gắn bĩ với mảnh đất này từ lúc cịn heo ht sơ khai, nay thì đất đ khơng phụ người, mơ ước của anh là tạo lập nên một vùng du lịch sinh thái bên dy Hồng Lin Sơn hấp dẫn với nhiều bí ẩn này. Dường như cả Sapa đang ồn chuyển mình; khch sạn, trang trại, nghề thủ cơng truyền thống v cả nghệ thuật ẩm thực đang nhảy những bước dài theo dấu chân du khách. Những con đường về các bản Dền, bản Hồ, Tả Van, Xẻo Mý Tỷ, Tả Phìn, Bản Khoang, Trung Chải, Thanh Kim... đang nhựa hóa phục vụ pht triển kinh tế -x hội. Con số 70.000 khách du lịch đến Sapa năm 2002 so với 20.000 khách vào năm 1996 là một ghi nhận đáng chú ý của vng đất bốn mùa được thiên nhiên ưu đi v đang bắt tay xây dựng chiến lược vững bền cho ngành công nghiệp xanh.

Bãi đá cổ Sapa:

Đây là một di tích bao gồm những tảng đá với nhiều lớp chạm khắc cổ nằm trong thung lũng Mường Hoa, rải rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào dân tộc thiểu số ở đây, rộng 8km2 . Di tích này đã được nghiên cứu lần đầu tiên vào năm 1925, gồm khoảng trên 200 hòn đá kích thước khác nhau, lớ nhất là Hòn Bố dài 15m, cao 6m. Các lớp chạm khắc trên đá gồm nhiều loại hình khác nhau như tranh vẽ tả thực, hoa văn trang trí, trong đó đáng chú ý nhất là các hình vẽ tả người, nhà sàn và các dấu hiệu có thể là một hình thức phôi thai của chữ viết đến nay vẫn chưa giải mã được. Trong di tích bãi đá cổ này, đáng chú nhất là tảng đá vợ, đá chồng, đàn hổ đá và tấm bia trên có khắc chữ mà theo truyền thuyết, đó chính là những câu thần chú của nhóm thợ đá để tiêu diệt đàn hổ đến quấy phá dân làng. Còn tảng đá vợ, đá chồng nói về mối tình chung thủy của đôi trai gái vượt lên mọi gian nan, mong tìm được hạnh phúc, cho dù họ có bị hóa đá vẫn hướng về nhau, hai tảng đá như vẫn lần tìm đến nhau. Khu di tích này đã được các nhà khảo cổ chứng minh có lâu đời và là một di sản của cư dân Việt cổ. Hiện nay, di tích này thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và đang đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Nước khoáng Tắc Kô nằm ở địa phận suối Mường Tiên, huyện Sa pa, tỉnh Lào Cai là một trong những mạch nước ngầm trong vắt, ngọt và mát, hang thẩm Tét Toòng thuộc thị xã Chiềng An ,tỉnh Sơn la,hang dài 150m có nhiều chặng đừơng ghập ghềnh.

Lên đến đỉnh 3.143m không cịn l chuyện hiếm, nhưng nán lại để ngắm cảnh mặt trời lặn xuống trn biển my thì cĩ lẽ Nguyễn Đức Hiếu (trích nhật ký lữ hành) là người đầu tiên.

11g trưa, trải qua bốn tiếng khởi động gân cốt đ đến khu lán trại ở độ cao 2.100m. Dừng chân sắp xếp lại hành trang, để lại bớt balô, ti ngủ.
Đường núi bắt đầu khó. Cú trượt ng dẫn đến vọp bẻ bắp chân đau khủng khiếp đầu tiên của tôi khi băng qua suối cảnh báo cả đoàn thận trọng hơn. Chúng tôi bám vào những thân cây, rễ cây mọc bám vào vách núi, có đoạn leo núi nhưng kiêm luôn leo cây. Những anh bạn già hơn bắt đầu đuối. Tốc độ di chuyển được tính bằng thân cây, có đoạn chờ nhau dài như không bao giờ chạm tay nhau được.

17g, trời nhá nhem. Ở độ cao 2.900m quanh chúng tôi là một biển mây, lô nhô một vài chóp núi như những hịn đảo. Một thời khắc hiếm hoi được chiêm ngưỡng một không gian hoang sơ mà lộng lẫy đến thế.

Hoàng hôn xuống dần. Mặc dù phải tranh thủ có mặt trên đỉnh sớm nhất nhưng chúng tôi nán lại. Mặt trời đang lặn nhưng quá chói và ngược sáng. Hội ý chớp nhống v mọi người quyết định dành thêm 10 phút quí báu chờ đợi khoảnh khắc thiêng liêng nhất của trời và đất. Mây cuồn cuộn, trắng đục và đẹp hơn bất cứ những hình ảnh no m chng tơi đ từng thấy. Mặt trời đỏ quạch khuất dần sau những khối bọt mây, viền một thứ ánh sáng đỏ cam huyền diệu trên nền trời còn rất thấp.

Hấp dẫn nhưng cũng nguy hiểm nhất là hai chặng phải nắm dây để đu mình qua vch đá cao hơn 15m, bên dưới là vực sâu thăm thẳm với đôi tay lạnh cóng.

17g45, đoàn dừng lại thở ở độ cao 3.100m. Chỉ cịn 43m gay cấn cuối cùng. Tính theo đường đi thì di khoảng vi trăm mét, chúng tôi bắt đầu hết nhìn thấy đường đi. Những chiếc đèn pin được bật lên. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được khái niệm “lê từng bước” một cách r rng đến vậy. Chỉ một bước đầu, đến bước thứ hai là chỉ đủ sức giở hổng bàn chân khỏi mặt đất lại phải đặt xuống để nghỉ.

18g20 trời tối như mực. Tiếng reo của anh Dũng, một thành viên 48 tuổi đặt chân lên đỉnh đầu tiên cùng người dẫn đường, mọi mệt mỏi chợt tan biến khi trước mắt là cột mốc khối tam giác lấp loáng trong ánh đèn pin. Trên đỉnh núi sóng điện thoại rất tốt, không ai quên khoe cảm giác chiến thắng đỉnh cao Đông Dương cùng người thân trong tiếng gió rít đến kinh người. Hạnh phúc thật sự!

Tôi kể cho hai đứa con tôi nghe. Thật hạnh phúc khi chúng bảo mai này nhất định con sẽ chinh phục đỉnh cao như bố. Vợ tôi bảo phải cao hơn bố nữa chứ

Khu du lịch núi Hàm Rồng:

Ở cách trung tâm thị trấn Sapa khoảng 2km. Ngay sau khách sạn Hàm Rồng có 1 dãy núi cao gần 2.000m, gồm nhiều dãy đá nhấp nhô mang nhiều dáng vẻ khác nhau, đó là núi Hàm Rồng. Cả dãy núi giống như một con rồng khổng lồ đang uốn khúc, nằm phục. Sự tích núi Hàm Rồng kể lại rằng: Từ xa xưa, mọi sinh vật đều sống hỗn độn. Một hôm, Ngọc Hoàng ban lệnh tất cả các sinh vật hãy lập lấy địa phận của mình, các sinh vật tranh nhau tìm chỗ trú ngụ. Lúc này ba anh em nhà Rồng đang sống trong hồ lớn, khi nghe tin vội chạy sang hướng Đông thì đã hết chỗ, họ bèn chạy sang hướng Tây. Hai người anh chạy nhanh hơn nên ở đó chờ người em. Người em chạy chậm đã lạc vào đám đông toàn sư tử,hổ,báo. Người em sợ quá rùng mình co người, há mồm đẻ tự vệ. Vừa lúc đó, lời ban của NgọcHoàng đã hết hạn. Thế là hai người anh nhà Rồng hóa thành đá quay về hướng Lào Cai, còn người em út hóa đá có dáng đầu ngẩng cao, mồm há to nhe răng nhìn về dãy Hoàng Liên Sơn, và được gọi là núi Hàm Rồng. Để lên được đỉnh núi đầu Rồng, du khách phải leo qua các khu vườn lan 1, 2, trạm vi ba, vườn hoa Sapa, cổng trời. Trên đỉnh núi Hàm Rồng, có nhiều cảnh quan đẹp, nhiều hang động, núi đá nhấp nhô rất ngoạn mục, lý thú. Hàm Rồng là điểm du lịch hấp dẫn của Sapa.

Lâu đài Hoàng Yến Chao:

Đây là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp phong cách phương Đông với phương Tây, được xây dựng ở thế kỷ 20. Lâu đài nằm trên địa phận bản Nà Hối Thổ, h. Bắc Hà (qua chợ Bắc Hà khoảng 300m là tới). Lâu đài được kiến trúc hai tầng, là nơi ở của Hoàng Yến Chao (tiếp nối sau này là con trai – Hoàng A Tưởng), đồng thời cũng là một pháo đài phòng thủ, nằm ở vị trí quan trọng, chi phối cả thung lũng Bắc Hà. Lâu đài có hệ thống lô-cốt, thành lũy kiên cố (vữa xây có mật mía) , hiện đã hư hại nhiều. Hệ thống lỗ châu mai tỏa ra bốn hướng. Từ xa, ta có thể nhìn thấy lâu đài màu trắng nổi lên giữa thung lũng rất ngạo nghễ, uy nghiêm.

Điện Biên Phủ-Chiến thắng lịch sử

Thung lũng Điện Biên bốn bề là núi bao bọc với nhiều ngọn đồi ở phía đông và cánh đồng Mường Thanh dài 20 km,rộng 6 km,có sông Nậm Rốn chay qua nên vùng đất Điện Biên này rất màu mỡ.

Chiến trường Điện Biên là một di tích lịch sử ghi chép lại chiến công oanh liệt của quân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp.Chiến trường Điện Biên thuộc tỉnh Điện Biên,cách Hà Nội về phía Tây khoảng 500 km.Từ Hà Nội theo quốc lộ 6 qua Sơn La,Thuận Châu,vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo rồi rẽ vào Điện Biên.

Thung lũng Điện Biên bốn bề là núi bao bọc với nhiều ngọn đồi ở phía đông và cánh đồng Mường Thanh dài 20 km,rộng 6 km,có sông Nậm Rốn chảy qua nên vùng đất này rất màu mỡ.Từ cuối năm 1953 thực dân Pháp đã đổ quân chiếm đóng Điện Biên và thành lập ở đây một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh được trang bị nhiều vũ khí hiện đại.Tại thung lũng Điện Biên đã diễn ra cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng của quân dân Việt Nam suốt 55 ngày đêm với đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp (13/31954-7/5/1954),bắt sống tướng Đờ Catri(De Castries)và toàn bộ ban chỉ huy,loại khỏi vòng chiến đấu 16.000 quân địch .Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gây một tiếng vang lớn chấn động địa cầu,khắp năm châu đều biết đến Điện Biên Phủ-Việt Nam.

Các di tích nổi bật của Điên Biên Phủ năm xưa là đồi A1,C1,C2,D1,cứ điểm Hồng Cúm,Him Lam,đồi Độc Lập,cầu và sân bay Mường Thanh,hầm chỉ huy của tương Đờ Castri.

Quần thể di tích Sở chỉ huy chiến dịch nằm ở xã Mường Phăng,cách thị xã Điện Biên gần 30 km,bên cạnh khu di tích hồ Pa Khoang cảnh đẹp như trong thần thoại.Nơi làm việc của tướng Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái là một con đường hầm dài 320m,đào xuyên vào lòng một quả đồi để tránh bom và đạn đại pháo.Những bậc đá dân lên miệng hầm giờ đã phủ một lớp rêu xanh dày và xanh mượt như trải thảm.

Từ khu di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ,ra tới hồ Pa Khoang-một hồ nước nhân tạo trên núi cao,đầu nguồn của hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho cả vùng lòng chảo Điện Biên,đồng thời là khu du lịch, an dưỡng.

Điện Biên Phủ từ xưa là nơi giao lưu văn hóa và kinh tế của các dân tộc vùng biên ải Việt-Lào-Hoa vừa là vùng tranh chấp thế lực giữa các lãnh chúa phong kiến.Trong nhiều thế kỷ,chiến tranh đã bao lần gào thét trên cánh đồng Mường Thanh.Mãi đến năm 1777,Phủ Điện Biên mới chính thức được thành lập,cuộc sống yên bình trở lại,dân cư bắt đầu tụ tập,ổn định và xây dựng cuộc sống. Do vị trí địa lý độc đáo, nơi “một tiếng gà gáy ba nước đều nghe thấy”,trong cùng lòng chảo khá phồn thịnh,nơi buôn bán,trao đổi hàng hóa giữa bản địa,người Lào,người Myanmar và các dân tộc miền Nam tỉnh Vân Nam,Trung Quốc.Từ Điện Biên ,hàng hóa chủ yếu là hàng nông thổ sản của vùng Tây-Bắc được vận chuyển qua cửa khẩu Tây Trang,cách thị xã 30 km về phía Tây để sang Lào, Thái Lan và Myanmar,đổi lấy hàng tiêu dùng cung cấp cho thị trường Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.

Bên dưới vẻ phồn hoa của Phố Cũ,đằng sau nét tráng lệ của những con đường và biệt thự nơi Phố Mới,có một nét đẹp riêng của Điện Biên dễ làm say lòng khách phương xa:những con người-người Kinh,người Thái,người H’mông…mỗi dân tộc có lối sống riêng,có nền văn hóa riêng,trang phục riêng nhưng đều thật thuần khiết và mến khách. Ta có thể gặp họ bất cứ ở đâu,trong buổi chợ sớm bên cầu Mường Thanh, ven con đường bụi bặm dẫn về bản,trong phòng đợi của sân bay Điện Biên.Những con người ấy,cùng với thiên nhiên nguyên sơ tươi đẹp lại thấm đẫm những bi hùng của lịch sử ấy,mới đích thực là đáng quý, là sức hấp dẫn của Điện Biên Phủ mà không nơi nào có được.
 
1.5.Tiểu Vùng du lịch Nam Bắc Bộ(Nam Định, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam):
Kỳ thú động Vân Trình

Động Vân Trình nằm trong ni M thuộc thôn Vân Trình, xã Thượng Hoà, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Động rộng gần 3.500m², là động lớn và đẹp nhất của Ninh Bình, sánh ngang với động Thiên Cung ở vịnh Hạ Long (Quảng Ninh).

Động Vân Trình trước đây có tên gọi là Giáng Tiên. Huyền thoại kể rằng, muốn giúp cho người trần nuôi con khoẻ mạnh, xinh đẹp, nàng tiên con út của trời đã xuống trần, thấy vùng này có phong cảnh ngoạn mục nên đã dừng chân và lấy động làm nơi trú ngụ. Nàng đã cho xây nhiều bể tắm trong động. Nước trong bể lúc nào cũng đầy và trong. Về sau nàng tiên về trời, dân địa phương đã lập đền thờ nàng trước cửa động. Từ đó có tên gọi là Giáng Tiên.

Tương truyền rằng, những nhà nghèo, hiếm con hoặc nuôi con khó, vất vả đều đến để cầu khấn Tiên giúp đỡ. Người ta thường mua một tấm vải đặt lễ cúng tại đền xin Tiên phù hộ. Hôm sau trở lại không thấy miếng vải đâu, chỉ xuất hiện chiếc áo của trẻ sơ sinh. Khi đó, người ta đem về cho con mặc, con sẽ lớn nhanh và khoẻ mạnh.

Không chỉ có người dân đến lễ bái ở đền mà cịn cĩ cc quan chức thời trước cách mạng tháng 8/1945 hiếm con, nuôi con khó khăn cũng đến đây lễ bái cầu tự, lấy nước và xin thuốc Tiên rất đông. Tuy nhiên, vì con đường đi từ bờ sông lên tới cửa động khá là vất vả và hao sức, do đó, nhân dân địa phương đ bn nhau lấp cửa động lại. Từ đó, động có thêm một tên nữa là Hang Lấp.

Du khách khi đến động Vân Trình, từ chân núi sẽ men theo sườn núi, bước lên cao khoảng 3m, du khách tới nhà nghỉ của trạm du lịch. Nghỉ ngơi tại đây ít phút, du khách sẽ bắt đầu chuyến leo núi vào Động Vân Trình.

Du khách bước lên khoảng 80 bậc như bậc cầu thang trong nhà là đến cửa động. Cửa động so với chân núi có độ cao khoảng 15m. Cửa động chỉ cao 1,5m, rộng hơn 1m. Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le, một cao, một thấp.

Du khách hãy xuống hang thấp l Hang Cả trước, chia làm hai khu ngăn cách bởi một bức bình phong nhũ đá.

Bước tiếp xuống, du khách nhìn ln cao thấy cĩ những khối nhũ đá giống như những quả phật thủ khổng lồ. Thành hang bên tay phải là những sợi nhũ đá chảy dài như những sợi dây đàn hoặc cũng trông như mái tóc mượt mà của các cô gái. Phải bước xuống bậc 63, du khách mới tới nền động.

Lịng động đột ngột mở ra một không gian rộng lớn. Du khách có cảm giác như đang đứng trong một toà lâu đài cổ kính có lối kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ. Thành hang bên phải có nhũng dải nhũ đá nhẵn , những đường chỉ mỏng nhẹ, trông như những tấm lụa trắng, phơi phới bay trong gió.

Trong hang có bức bình phong nhũ đá rất đẹp, cao gần 7m, dài trên 10m, rộng 1m, ngăn động làm hai cung. Hai bức bình phong đều được chạm nổi những đám mây cao thấp, phía xa là cảnh núi rừng có những muôn thú và dịng sơng - một bức tranh thuỷ mặc hữu tình được bàn tay thượng đế trau chuốt tỉ mỉ.

Vịm động cao vút, lồng lộng màu thạch nhũ xanh như dát ngọc. Lại có những chùm hoa đá rực rỡ, những khối "kim cương" chợt loé lên bao sắc mầu óng ánh khi có nguồn sáng chiếu vào.

Xung quanh các thành hang, tạo hoá như treo sẵn những bức tranh, các mảng điêu khắc, chạm nổi những nhân vật trong các câu chuyện cổ tích xưa. Chỉ có đá và những giọt nước vĩ đại miệt mài, kiên định bao đời để tạo nên những kiệt tác như vậy.

Cũng từ thành động phía tây có đường lên một hang ở trên cao so với nền động khoảng 6m. Nền hang rộng đến 150m², nhấp nhô toàn nhũ đá nhỏ như những người ngồi, đứng, người ta gọi đó là chợ Trời.

Nền Hậu cung phẳng, nhưng lại đùn lên vô vàn nhũ đá có hình th khc nhau như: Cây đèn, cây nến, con nghê chầu, chim đại bàng, con hổ, con rùa, cung nữ đứng hầu và cả quan thái giám.... tất cả những con vật đó vừa được hoá đá nơi đây.

Một điều đặc biệt, nếu nhìn kỹ trn sn động, du khách sẽ bắt gặp những hịn đá nhỏ trịn như quả trứng vịt, trứng gà, viên bi, hạt đậu rất nhẫn, màu đen như hạt na nhưng rất chắc khác hẳn kiểu nhũ đá trong động. Các nhà khoa học sơ bộ đ giải thích chng ra đời cùng với thời kỳ hình thnh động. Tương truyền, người xưa thường vào động, lấy chúng đem mài để uống sẽ chữa được một số bệnh

Vân Trình còn giữ được vẻ đẹp vốn hữu hình, trinh nguyên của đá. Mỗi bước đi của du khách trong động lại phát hiện thêm những điều mới lạ, cảm nhận một cảnh trí khác nhau, đẹp mê hồn, không sao tả hết được.

Non nước Vân Long

Vân Long - miền đất huyền thoại, vùng du lịch tuyệt đẹp, đồng thời là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ. Non nước Vân Long có diện tích 2.643ha, thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

Trong khu rừng Vn Long cĩ 457 lồi thực vật bậc cao. Đặc biệt, có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam: kiềng, lt hoa, tuế l rộng, cốt tối bổi, sắng, bch bộ, m tiền hoa tn. Về động vật có 39 loài, có 12 loài động vật quý hiếm như: Voọc quần đùi trắng chiếm số lượng lớn nhất ở Việt Nam, gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ... Trong các động vật bị st cĩ chín lồi được ghi trong sách Đỏ Việt Nam như: rắn hổ chúa, kỳ đà hoa, trăn đất, rắn ráo trâu, tắc kè... Điều đáng chú ý l tại khu vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc chân bơi, một loài côn trùng quý hiếm đ được đưa vào sách Đỏ

Không chỉ là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước, Vân Long cịn l nơi có cảnh quan và di tích văn hoá

Đứng trên mặt đê, du khách thấy mặt nước là một không gian rộng lớn. Nhìn xa, các dãy núi sừng sững tạo thnh một bức tường thành thiên nhiên hùng vĩ. Một cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi. Nước ở đây mênh mông phẳng lặng, không có sóng to gió lớn, mang phong cảnh một miền quê yên ả của hương đồng gió nội hiền hoà.

Đến đây, du khách ngồi thuyền đi thăm non nước Vân Long. Đây là núi Nghiên, núi Đá Bàn, núi Mèo Cào. Kia là núi Cô Tiên, núi Voi Dựng, núi Cánh Cổng, núi Mồ Côi. Kế tiếp là một mỏm núi giống như mâm xôi mà lộc trời ban tặng đầy đủ ấm no giữa thanh thiên bạch nhật. Mỗi trái núi là huyền thoại hấp dẫn.

Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị phát triển du lịch như: hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh. Mỗi hang có một vẻ đẹp độc đáo riêng nhưng đẹp nhất vẫn là hang Cá dưới chân núi Hoàng Quyển. Trong hang có rất nhiều cá trê, cá rô, cá chuối to. Tương truyền thời xưa, có người bắt được một con cá chuối nặng 45kg, nên gọi là hang Cá. Hang dài 250m, cao 8m, rộng 10m. Hang cấu tạo nửa chìm nửa nổi. Trần hang l những vịm đá cao rủ xuống nhiều thạch nhũ lấp lánh, dáng hình lạ kỳ, giống như các con vật ở dưới nước và trên rừng. Khó có thể đẽo tạc được những dáng hình như thế.

Tiếp theo, du khách sẽ ngồi thuyền đến thăm Kẽm Trắm, rồi đến đền Mẫu ở chân núi Mèo Cào. Các vách núi dựng đứng có vết lồi lm ko di từ trn xuống như mèo cào nên gọi là núi Mèo Cào. Đền thờ bà mẹ bốn tướng Hồng Nương. Truyền thuyết kể rằng, thời Đông Hán đô hộ nước ta, có cô gái họ Mai tên là nàng Đại, năm 18 tuổi chưa lấy chồng thì cha mất, chưa đầy một năm sau mẹ cô cũng qua đời. Nàng Đại ngày ngày đi kiếm củi nuôi thân. Một hôm vào tiết trời mùa hạ, nàng qua núi Mèo Cào lấy củi gánh về. Khi ngồi nghỉ trên một phiến đá rồi ngủ thiếp đi, chợt nghe thấy tiếng hổ gầm, nàng bừng tỉnh, thấy một con hổ đen từ phương Bắc nhẩy đến bên mình. Nng kinh sợ ng nằm bất tỉnh, khi tỉnh dậy khơng thấy hổ đâu, chỉ thấy bốn bề sực nức hương thơm. Sau hơn một năm, nàng sinh ra bốn người con gái vào ngày 15 tháng 10 năm Nhâm Ngọ. Sau đó, nàng đem bỏ bốn người con gái vào trong núi rồi nhắm mắt từ trần. Hắc hổ ôm thi thể nàng táng trên đỉnh núi và nuôi nấng bốn con mình bằng nhuỵ hoa, nước quả. Bốn năm sau, Hắc hổ đem bốn cô gái vào sân nhà ông cậu Đinh Công Binh cho nuôi và đặt tên là "Hồng".

Bốn nàng Hồng đến tuổi trưởng thành, nhan sắc tuyệt trần, lại có sức khoẻ hơn người. Đến năm 34 tuổi, Tô Định sang làm thái thú Giao Chỉ rất tàn ác. Bốn nàng Hồng đ chiu mộ nghĩa qun chống giặc Hn, được phong làm tướng và xin về quê, dựng đền thờ mẹ ở chân núi Mèo Cào.

Thời gian sau, bốn tướng Hồng Nương hoá trên đỉnh núi Ba Chon. Hiện nay ở núi Ba Chon có đền thờ "Tứ vị Hồng Nương".

Khu bảo tồn Vân Long tồn tại một hệ thống động thực vật vô cùng đa dạng của hai hệ sinh thái rừng núi đá vôi và hệ sinh thái đất ngập nước. Nơi đây cũng là nơi nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, các sinh viên, học sinh trong và ngoài nước muốn đến nghiên cứu và tìm hiểu về đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.

Hang Luồn-Ao Dong

Hang Luồn ở cách Ngũ Động Sơn 1km, Đây là một thủy động rất đẹp, dài 500m, rộng 20-30m. để vào được trong hang ta phải đi thuyền. Ao Dong nằm trong lòng hang rộng khoang,7 ha. Xung quanh hang Luồn là núi cao, rừng rậm, cảnh quan tuyệt đẹp.

Làng hoa Vị Khê

Đây là một làng chuyê trồng hoa và cây cảnh ở xã Nam Điền, huyện Nam Trực, cách thành phố Nam Định khoảng 4km. Làng hoa này đã có từ thời Lý rất nổi tiếng về nghệ thuật uốn tỉa cây thế và trồng cây cảnh. Vị Khê không những cung cấp hoa cho thành phố Nam Định mà còn cho các vùng lân cận.

Bãi biển Thịnh Long

Từ thành phố Nam Định đến thị trấn Hải Thịnh thuộc huyện Hải HẬu là bãi tắm Thịnh Long. Bãi tắm Thịnh Long có cát mịn, thoải dài hàng cây số. Nước biển có độ mặn cao, sóng lớn...

Động Bích Động

Nằm trong dãy Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư...ở đây có ngôi chùa cổ là Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ “tam” dọc theo sườn núi từ thấp lên cao:Hạ, Trung, Thượng.

Nhà thờ Phát Diệm

Được xây dựng từ năm 1875 đến 1898 thì hoàn thành. Khu nhà thờ rộng gần 22 mẫu tại xã Lưu Phương, thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, cách Hà Nội 120km. nhà thờ có nhiều hạng mục công trình được chia làm 2 khu vực chính: khu nhà thờ và khu nhà chung. Đây là quần thể kiến trúc phương Đông gồm có:ao hồ, phương đình, nhà thờ lớn với bốn nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá.

Nhà thờ chình toà xay dựng năm 1891, đây là hạng mục lớn nhất của công trình dài 80m, rộng 24m, cao 18m, bao gồm 48 cột lim,mỗi cột chu vi 2,4m. (nằm ở phần Di tích lịch sử)

Rừng quốc gia Cúc Phương

Cách Hà Nội hơn 100km về phía Tây Nam, ở vị trí giáp ranh giữa ba tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh Hoá và chỉ cách biển 60km. Rừng có diện tích 25.000ha, trong đó núi đá vôi cao từ 300 đến 600m so với mặt nước biển.
Vườn quốc gia Cúc Phương

Cúc Phương-vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam có diện tích 22.000 hecta trải dài trên phần đất thuộc 3 tỉnh Ninh Bình,Thanh Hóa và Hòa Bình,cách Hà Nội trên 100 km về phía Tây Nam.Đến thăm Vườn quốc gia Cúc Phương từ Hà Nội du khách xuôi về phía Nam theo đường quốc lộ 1A,đến gần ngã ba Gián Khẩu rẽ phải vào đường 12B lên huyện Nho Quan là tới.
Là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam ,Vườn quốc gia Cúc Phương như một bảo tàng thiên nhiên rộng lớn,một vườn bách thảo,bách thú ngoạn mục,quý hiếm không chỉ riêng Việt Nam mà cả trên thế giới.Đồng thời đây cũng là phòng thí nghiệm khổng lồ của tạo hóa dành cho con người,thu hút nhiều ngành khoa học của Việt Nam và thế giới đến nghiên cứu.Không chỉ vậy Cúc Phương còn nổi tiếng là khu du lịch sinh thái đầy sức hấp dẫn với nhiều hang động tuyệt đẹp thu hút được đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế.

Chỉ riêng về thực vật,Cúc Phương có 1944 loại thực vật thuộc 912 chi trong 219 họ,86 bộ của 7 ngành thực vật bậc cao,có nhiều cây quý như :kim giao,chò chỉ, giẻ,de,mun,gụ,sến,táu,gội,đinh hương…,có nhiều cây cao to đường kính thân từ 5 đến 6 mét,chiều cao từ 40 đến 70 mét như cây Chò ngàn năm gốc to 16 người ôm không hết,cây Chò chiến thắng cao đến 70 mét nhìn không thấy ngọn,tán lá xòe rộng phủ kín một vùng.

Không chỉ là một khu rừng cổ đa dạng về thực vật,Cúc Phương còn là nơi lưu giữ nhiều loài động vật quý hiếm. “Vườn bách thú” này có đến trên 450 loài động vật có sương sống,trong đó có 64 loài thú,333 loài chim,36 loài bò sát,17 loài lưỡng cư và một số loài cá.Một số động vật quý hiếm được ghi vào Sách đỏ mà thế giới không còn,chỉ Cúc Phương mới có như : cá diếc hang,sóc bụng đỏ…

Điều đặc biệt là rừng Cúc Phương là rừng nhiệt đới,kết cấu nhiều tầng và còn giữ lại được một phần diện tích khá lớn là rừng nguyên sinh.Đây là những giá trị rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển khu bảo tồn thiên nhiên này.

Đến với Cúc Phương du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên và mới lạ bởi khu bảo tồn này không chỉ là một vườn bách thảo,bách thú đồ sộ mà còn xen dày các hang động kỳ thú với những tên gọi huyền thoại như :động Vui Xuân,động Trăng Khuyết,động Thanh Minh,động Chùa ,động Thủy Tiên,động Phò Mã…Mỗi hang là một “cung điện” lộng lẫy nguy nga với những nhũ đá đẹp mê hồn.Đặc biệt ở động Người Xưa và động Con Moong không còn đơn thuần là những danh thắng mà ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy những bộ công cụ đá cùng với những bộ hài cốt trong các ngôi mộ cổ có niên đại cách chúng ta từ 7000 đến 12.500 năm.

Du khách đến Cúc Phương vào buổi sớm,khi bình minh mới chiếu sáng đánh thức các muông thú,cả rừng cổ vang vọng đủ mọi âm thanh của muôn loài,xen lẫn với tiếng gió thổi,lá cây rơi xào xạc tạo nên một bản đại giao hưởng nghe mà du khách nghe như cảm thấy mình được bồng bềnh hòa quyện với thiên nhiên.Đó chính là những âm thanh của rừng già.

Khu du lịch Thần Độc Cước

Một trong các khu di tích thần thoại của tỉnh đã được đầ tư để trở thành khu du lịch.Đền nằm trên đỉnh núi Cổ Giải, thuộc dỹa Trường Lệ, được xây dựng từ thời vua Lê 1225-1400, với tượng thần Độc Cước chỉ có 1 tay 1 chân, là chàng trai đã tự xé thân mình để chống giặc.

Hòn Trống Mái


Trên bãi biển Sầm Sơn, điểm nghỉ mát lý tưởng. Sát bãi tắm có hai tảng đá chồng lên một núi đá,tạo ấn tượng giống như con trống, con mái đối diện chuyện trò.

Đền Cô Tiên

Là ngôi đền đẹp được xây dựng từ thời Nguyễn cũng nằm trên dãy núi Trường Lệ. Đây là 1 di tích có giá trị văn hoá và cũng nằm trong chương trình du lịch khi khách đến tham quan và tắm biển Sầm Sơn.

Sầm Sơn

Bãi biển xinh đẹp cách Hà Nội 170km (cách thành phố Thanh Háo 16km). bãi cát Sầm Sơn dài 3km, từ Lạch Hới phía BẮc đến chân núi Trường Lệ phía Nam.

Tam Cốc Bích Động

Nằm trên địa phận xã Ninh Hải,huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Tam Cốc là ba hang đá có tên gọi là hang Cả,hang Hai, hang Ba.Từ xã Ninh Hải, du khách muốn tới thăm Tam Cốc chỉ có thể đi bằng một con đường thủy duy nhất và cũng không mất nhiều thời gian, khách tham quan có thể vào thăm động.

Ngồi trên thuyền,chúng ta có dịp được ngắm cảnh vật hai bên bờ sông.Cảnh núi và sông tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp, núi nghiêng mình soi bóng xuống dòng sông xanh Đến núi Kiều, những cánh đồng lúa nằm thấp thoáng sau những vách núi dựng đứng, tiếng gió luồn qua những khe núi hòa quyện với tiếng chim hót làm cho cảnh vật đã thơ mộng lại càng thơ mộng hơn. Đi khoảng 2 km là đến được hang Cả.

Đến đây vào những ngày trời nắng,ta được ngắm một bức tranh thủy mặc thật đẹp. Đẹp nhất vẫn là những buổi sáng sớm khi mặt trời vừa mọc, những tia sáng chiếu qua hang tạo nên cảnh vật đã lung linh lại càng huyền diệu. Hang Cả có nhiều nhũ đá thật đẹp, nhũ đá tạo nên những tượng Phật Bà Quan Am, Lão Vọng câu cá, dòng sữa mẹ không bao giờ cạn… Sau khi chiêm ngưỡng những cảnh đẹp ở hang Cả, thuyền lại nhẹ trôi đưa du khách tới hang Hai. Toàn bộ hang dài chừng 60m, ở đây có nhiều nhũ đá tạo thành những đám mây như đang bay lơ lửng trên không trung.Từ hang Hai đến hang Ba chừng khoảng 100m, hang này dài 50m,cũng giống như 2 hang trước, hang Ba cũng có những cảnh đẹp làm mê lòng người.

Chiêm ngưỡng xong cảnh vật tại Tam Cốc, thuyền lại nhẹ trôi đưa du khách tới Bích Động. Khi du khách còn đang ngây ngất với những cảnh đẹp tại Tam Cốc, toàn bộ cảnh vật của Bích Động đã hiện ra trước mắt.Nếu ở Tam Cốc đã lôi cuốn chúng ta bằng những cảnh tự nhiên, tới đây không chỉ những cảnh đẹp của thiên nhiên có sức lôi cuốn mà cả những cảnh nhân tạo cũng có sức hấp dẫn không kém.Đó là chùa Bích Động được xây theo kiểu chữ Tam(ba tòa),dọc theo sườn núi từ thấp đến cao.Gồm chùa Hạ,chùa Trung và chùa Thượng.Chùa Bích Động được xây theo kiểu kiến trúc cổ như những chùa khác ở Việt Nam.Nét cổ kính tạo nên sự trang nghiêm cho chùa.

Đi qua cầu Thạch Kiều,ta tới được chùa Hạ.Cột thềm,lan can chủ yếu được xây bằng đá tảng mài nhẵn,mái chùa lợp bằng ngói mũ hài.Khu chùa Hạ rộng khoảng 3 mẫu. Trước cửa là một sân gạch rộng, hai bên là hai dãy nhà trái,mỗi dãy 8 gian.Men theo sườn núi phía bên phải chùa là lối lên chùa Trung. Sau khoảng 80 bậc đá,du khách tới chùa Trung,nó ở lưng chừng núi.Và chùa có một nét đặc biệt là một nửa nằm sâu trong núi,một nửa để lộ thiên, leo tiếp khoảng 20 bậc nữa là tới động tối. Đây là động tối thâm nghiêm và tĩnh mịch. Tại cửa động có một chiếc cầu hình cầu vồng gọi là cầu Giải Oan cùng với một quả chuông đồng được đúc vào năm 1707. Đi qua động tối có lối lên chùa Thượng, từ chùa này phóng tầm mắt ra xa ta thấy cả một khoảng trời rộng lớn.Cảnh vật như được thu vào trong tầm mắt, nó vừa hùng vĩ, vừa huyền ảo. Rời nơi đây,nhiều du khách còn nuối tiếc một cái gì đấy.
 
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ


Ranh giới:

Vùng du lịch Bắc Trung Bộ nằm ở vị trí trung gian của cả nước, phía bắc giáp với tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam giáp với tỉnh Bình Định, Gia Lai, Kon Tum, phía Tây giáp lào, phía Đông giáp biển Đông

Toạ độ:

Vĩ độ: 14032' đến 18005' vĩ bắc
Kinh độ: 105037' đến 109004' kinh đông

Số đơn vị hành chính :

Toàn vùng bắc trung bộ có 5 đơn vị hành chính , trong đó có một thành phố trực thuộc TW: thành phố Đà Nẵng

Quảng Bình:

Tỉnh lỵ :thị xã Đồng Hới
Các huyện:Tuyên Hoá, Mink Hoá, Quãng Trạch, Bố Trạch, Quãng Ninh, Lệ Thuỷ
Dân tộc:Việt (Kinh), Bru_Vân kiều ,Chức, Lào......

Quảng Trị:

Tỉnh lỵ: thị xã Đồng Hà
Các huyện: thị xã Quãng Trị, huyện: Vĩnh Linh, Giò Linh, Cam Lộ, Triệu Phong Hải Lăng, Hương Hoá, Đa Krong
Dân tộc: Việt (Kinh), Bru_Vân Kiều, Daco, Ta ôi, Nùng, Xtiêng, Xuđăng

Thừa Thiên Huế:

Tỉnh lỵ: thành phố Huế
Các huyện:Phong Điền, Quãng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thuỷ, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông
Dân tộc : Việt (Kinh),Tà ôi, Cà Tu, Bru_Vân Kiều,Hoa....

Thành Phố Đà Nẵng:

Các quận nội thành:Hải Châu,Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu;2 huyện:Hòa Vang và Hoàng Sa.
Dân tộc:Việt (Kinh), Hoa

Quảng Nam:

Tỉnh ly: thị xã Tam Kỳ
Các huyện:thị xã Hội An; huyện:Hiên, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Thăng Bình, Quế Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước, Phước Sơn, Núi Thành, Trà My
Dân tộc:Việt(Kinh), Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Co(Cor)....

Quảng Ngãi:

Tỉnh lỵ:thị xã Quảng Ngãi
Các huyện:Lý Sơn. Bình Sơn, Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Tây, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mink Long, Mộ Đức, Đức Phổ, Ba Tơ
Dân tộc:Việt(Kinh), Hrê, Kho, Xơ Đăng...

Quy mô diện tích tự nhiên:

Vùng có diện tích 34651 km2
Quảng Bình: 8052 km2 chiếm 23.2% diện tích vùng.
Quảng Trị: 4746 km2 chiếm 13.7% diện tích vùng.
Huế : 5054 km2 chiếm 14.6% diện tích vùng.
Đà Nẵng: 1256 km2 chiếm 3.6% diện tích vùng.
Quảng Nam: 10408 km2 chiếm 30% diện tích vùng.
Quảng Ngãi: 5135 km2 chiếm 14.8% diện tích vùng.

Quy mô dân số(2002)

Vùng có dân số: 5.882.400 người.
Mật độ dân số : 170 người/km2.
Quảng Bình: dân số 825.500 km2 , mật độ: 103 người/km2.
Quảng Trị: dân số 596.800 km2 , mật độ: 126 người/km2.
Huế: dân số 1.091.600 km2, mật độ: 216 người/km2.
Đà Nẵng: dân số 724.000 km2, mật độ: 576 người/km2.
Quảng Nam: dân số 1.420.900 km2, mật độ: 137 người/km2.
Quảng Ngãi: dân số 1.223.600 km2, mật độ: 238 người/km2 .
 
Tác động thuận lợi, khó khăn:

Thuận Lợi:

 6 tỉnh đều giáp biển thuận lợi cho viện phát triển du lịch biển, xây dựng cảng biển, giao thương với các nước.

 Khu vực Bắc Trung Bộ nằm ở phần giữa của đất nước nên thuận lợi cho việc liên kết tour với vùng du lịch Bắc Bộ, vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ

 Vùng nằm trong khu vực có hệ thống thực động vật phong phú và đa dạng, thuận lợi cho việc phát triển du lịch sinh thái.

Khó khăn:

 Địa hình gồm chủ yếu là đồi núi, đồng bằng thì càng xuống phía nam thì càng thu hẹp lại đến mức gần như không còn tồn tại

 Điều kiện khí hậu thay đổi từ kiểu nhiệt đới chí tuyến ở phía Bắc đèo Hải Vân trở ra đến kiểu Á xích đạo từ đó xuống phía nam. Có không ít những biến thể của 2 kiểu khí hậu chính đó, chủ yếu doanh thu ảnh hưởng của địa hình địa phương.

 Các lưu vực sông:mỗi một tỉnh ở vùng Bắc Trung Bộ đều ứng với một lưu vực sông cấu tạo nên lãnh thổ đó. Ví dụ: Quãng Nam bởi lưu vực sông Cái với các chi nhánh Phú Gia, Thu Bồn. Các đồng bằng đều là những châu thổ hoặc đồng bằng cửa sông, thường thường chúng bị phân cách với nhau về phía biển bởi những thành tạo khác, những đầm phá hay vũng vịnh, không hiếm trường hợp là bởi những dãy núi đâm ngang hướng Tây Đông ( các Hoành Sơn) mà muốn vượt qua người ta phải men theo các đèo ( đèo Ngang, đèo Hải Vân… ).
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top