Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào ?

ngan trang

New member
Tác giả: Nguyễn Cảnh Bình

Nguồn: tuoitre.com.vn


Lời mở đầu


Cuối năm 2000, tôi bắt đầu tập trung nghiên cứu Hiến pháp Mỹ. Lý do thứ nhất là vì bản hiến pháp của nước Mỹ là lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với trên 200 năm lịch sử trong khi các bản hiến pháp hiện nay của Pháp, Đức, Nhật, Nga đều là những bản hiến pháp mới mẻ và có thời gian tồn tại chưa lâu. Tôi muốn hiểu tại sao và do đâu nước Mỹ lại có được sự ổn định đó.

Lý do thứ hai là trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta ngày 2 tháng Chín năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những lời nói thật bất hủ của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ do Thomas Jefferson viết "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Chính thế hệ những người đã làm nên cuộc Cách mạng Mỹ đó như Thomas Jefferson và George Washington đã đặt nền tảng cho nhà nước Cộng hòa Mỹ bằng bản hiến pháp này. Tôi muốn tìm hiểu kỹ xem họ đã làm ra bản hiến pháp đó như thế nào và cùng với việc học hỏi bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, chúng ta có thể học hỏi được gì từ quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng một chính quyền mạnh và hiệu quả.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi rất may mắn vì những tài liệu về quá trình soạn thảo và làm ra bản Hiến pháp Mỹ được công khai ở dạng on-line trong thư viện điện tử của Quốc hội Mỹ. Tôi tin rằng không một bản Hiến pháp nào, kể cả những bản Hiến pháp hiện đại được làm ra sau này, lại lưu giữ đầy đủ, chính xác và chi tiết mọi vấn đề liên quan đến việc soạn thảo và phê chuẩn như bản Hiến pháp Mỹ. Tất cả những văn bản viết tay, những cuộc thảo luận, những bức thư của những chính khách đương thời, những bài báo tán thành và phản đối bản Hiến pháp… đều được lưu giữ rất cẩn thận và đầy đủ. Đó là kho tư liệu vô cùng đồ sộ mà nếu in ra có thể lên tới hàng chục nghìn trang.

Trong một lượng tài liệu khổng lồ như vậy, tôi chỉ chọn dịch những phần điển hình nhất trong vài tác phẩm cơ bản là cuốn Elliot's Debate, cuốn Farrand's Record, cuốn The Debates in the Federal Convention of 1787 của Madison và cuốn Federalist Papers. Chi tiết từng bài, hay từng phần, tôi có ghi lại nguồn tư liệu và cố gắng giải thích trước khi vào bản chính để bạn đọc dễ hiểu. Ngoài ra, tôi cũng lược dịch tiểu sử những chính khách Mỹ đã tham gia Hội nghị Lập hiến 1787 để bạn đọc nắm được bản chất quan điểm và những đóng góp của họ cho lịch sử nước Mỹ.

Nhưng bên cạnh sự may mắn, tôi cũng gặp phải khá nhiều khó khăn. Trước hết, những tài liệu này đều được viết bằng văn phong của thế kỷ XVIII nên khá khó đọc, rắc rối, nhiều chỗ viết tắt và có chỗ sử dụng những ngạn ngữ tiếng Latin. Một khó khăn khác là các tác giả tham gia soạn thảo Hiến pháp Mỹ đều có kiến thức rất uyên bác vì họ đọc rất nhiều các tác phẩm lịch sử và luật pháp của thế giới, nên thường viện dẫn những sự kiện và nhân vật lịch sử trong các thành bang Hy Lạp, nền Cộng hòa La Mã cổ đại, nhà nước quân chủ Anh, Pháp, liên bang Phổ, Thụy Sĩ và Hà Lan…

Những kiến thức này khá xa lạ, ít được nhắc đến ở Việt Nam và các nguồn tra cứu cũng không phải dễ dàng tìm được. Nhưng bởi trước đây, tôi đã dịch tác phẩm Gương Danh nhân của Plutarch về lịch sử Hy Lạp cổ đại, nên những kinh nghiệm thu được cũng góp ích rất nhiều cho việc chú thích.

Về bản dịch, tôi cố gắng dịch sát nghĩa tối đa tới mức có thể, giữ lại một số nét văn phong lịch sự và kiểu cách của thế kỷ XVIII để không làm bản dịch quá hiện đại. Ngoài ra, tôi cũng cố gắng giải thích những sự kiện, những con người và các bối cảnh được đề cập trong các cuốn này.

Các nguồn tư liệu sử dụng để tham khảo, chủ yếu, tôi lấy từ bộ từ điển Encarta 2002, cuốn The Governments of Europe của Frederic Austin Ogg, cuốn Europe: from the Renaisance to Waterloo của Ergang và một số nguồn tra cứu khác, nhưng chắc rằng vẫn không tránh khỏi những sai sót. Ngoài ra, tên các bang của Mỹ được viết tắt như sau: MA: Massachusetts; CT: Connecticut; NY: New York; NJ: New Jersey; PA: Pennsylvania; DE: Delaware; MA: Maryland; VA: Virginia; NC: Bắc Caroline; SC: Nam Caroline; GA: Georgia; NH: New Hampshire.

Tuy nhiên, do đây là chủ đề khó cùng với việc kinh nghiệm, trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến góp ý và bổ sung của bạn đọc. Thư xin gửi về địa chỉ binhnc@yahoo.com.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và động viên của những người bạn tôi trong Nhóm Dịch Trẻ, cảm ơn TS Ngô Đức Mạnh, Vụ Thông tin, Văn phòng Quốc hội và nhất là PGS, TS Nguyễn Đăng Dung đã có những góp ý quý báu về nội dung cuốn sách này. Tôi hy vọng cuốn sách sẽ góp phần mang đến cho bạn đọc những thông tin bổ ích và cần thiết ở một khía cạnh nào đó.


Tháng Mười Hai, năm 2002

NGUYỄN CẢNH BÌNH​



Lời giới thiệu​


Với tư cách là một người giảng dạy ngành luật Hiến pháp Việt Nam tại Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi rất phấn khởi viết lời giới thiệu cuốn sách này của tác giả Nguyễn Cảnh Bình.

Nguyễn Cảnh Bình là một người rất xa lạ với giới Luật học chúng tôi. Anh là một Thạc sĩ khoa học tự nhiên - chuyên ngành hóa học, nhưng rất lạ thay, anh có niềm say mê Hiến pháp - Chính quyền đến lạ lùng, niềm say mê mà ngay cả những người chuyên ngành chúng tôi cũng không thể có được. Dù ở hai lĩnh vực rất khác nhau và có thể nói ở hai thế hệ khác nhau nhưng chúng tôi cùng đến với nhau qua những trang viết về Hiến pháp và những nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực Hiến pháp - Chính quyền. Nguyễn Cảnh Bình đã đọc những cuốn sách của tôi viết về Hiến pháp, tự viết thư cho tôi thông qua Nhà xuất bản.

Và ngược lại, tôi cũng tự đọc bài báo về James Madison và những người từng soạn thảo bản Hiến pháp Mỹ, bản hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới, dưới cái tên Nguyễn Cảnh Bình rất xa lạ. Sau đấy ít lâu, chúng tôi đã gặp nhau. Thật là một sự tâm đầu ý hợp. Vượt qua mọi khác biệt, chúng tôi đã có những cuộc trao đổi khoa học rất bổ ích.

Nội dung cuốn Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào? bao gồm những mẩu chuyện rất hấp dẫn về quá trình soạn thảo Hiến pháp, về những cuộc tranh luận cực kỳ gay go và nan giải trong quá trình soạn thảo bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, những bức thư đầy tính nhân bản và trách nhiệm của những người tham dự Hội nghị lập hiến. Đặc điểm của cuốn sách này là không chỉ trình bày những luận điểm hậu thuẫn cho việc thành lập ra Nhà nước Liên bang với tên gọi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ như hiện nay mà cả những luận điểm chống lại sự hình thành này, đó là những điều chúng ta chưa hoặc là rất ít có điều kiện biết đến.

Qua những tranh luận đó, dù tán thành hay phản đối thì những lập luận này cũng rất chân thành và đều chung một mong ước thiết lập một quốc gia thịnh vượng và bền vững. Có thể nói bản Hiến pháp Hoa Kỳ được xây dựng như ngày nay cũng một phần nhờ những chống đối đó, điển hình là Tuyên ngôn Nhân quyền. Do đó, cuốn Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào? có cách tiếp cận về lịch sử lập hiến khá toàn diện, không chỉ góp phần giải thích ý nghĩa của bản Hiến pháp Mỹ mà còn giúp người đọc hiểu được quá trình xây dựng một đạo luật. Với cách tiếp cận như thế, tác giả sẽ có những đóng góp nhất định cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về Hiến pháp Hoa Kỳ ở nước ta.

Đây là tác phẩm thứ hai của anh Nguyễn Cảnh Bình về Hiến pháp Hoa Kỳ, sau cuốn sách rất lý thú về Alexander Hamilton, một trong những tác giả rất xuất sắc của tác phẩm Những bài báo Người liên bang (Federalist Papers).

Mặc dù không phải là người được đào tạo cơ bản về kiến thức luật học ở nhà trường, nhưng niềm đam mê và sự ham hiểu biết đã giúp anh vượt qua tất cả. Các tác phẩm của anh về lĩnh vực này rất có giá trị cho việc nghiên cứu về hiến pháp của giới chuyên môn cũng như những người muốn tìm hiểu khác.

Tôi xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.


PGS. TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nộ​
 
Phần I: Tóm tắt quá trình xây dựng Hiến pháp Mỹ​


“Liệu có phải cuộc sống quá đáng yêu và hòa bình quá ngọt ngào tới mức phải mua bằng xiềng xích và nô lệ không? Ơn Chúa tối cao, hãy đừng bao giờ như vậy. Tôi không biết những người khác sẽ chọn con đường nào. Nhưng với tôi, hãy cho tôi tự do hay là chết”.

Bài phát biểu của Patrick Henry, tại Đại hội tiểu bang Virgina, Ngày 23 tháng Ba năm 1775.​


Hội nghị Lập hiến​


Thứ Sáu, ngày 25 tháng Năm năm 1787, một lớp đất mới được trải lên con đường rải sỏi phía trước tòa nhà Hạ viện tiểu bang Pennsylvania, trên đường Chestnut , giúp những người đàn ông đang họp bên trong tránh khỏi những tiếng ồn ào của những chiếc xe ngựa chạy bên ngoài. Lính gác đứng ở cửa ngăn không cho những đám đông tò mò vào bên trong và giữ họ ở một khoảng cách xa.

Đây là những đại biểu tham dự Hội nghị Liên bang, được các tiểu bang cử đến với nhiệm vụ sửa đổi những thiếu sót của chính quyền đương thời. Hội nghị dự định khai mạc từ ngày 14 tháng Năm, nhưng lúc đó chỉ có mặt các đại biểu của tiểu bang Virginia và Pennsylvania, nên buộc phải hoãn lại.

Trong ngày đầu khai mạc Robert Morris, đại biểu tiểu bang Pennsylvania, nhà "tài chính" của cuộc Cách mạng Mỹ, đã mở đầu Hội nghị bằng việc đề cử Tướng George Washington cho chức Chủ tịch Hội nghị Lập hiến. Phiếu bầu hoàn toàn nhất trí. Với sự nghiêm trang và khiêm tốn, vị Tổng tư lệnh đã thể hiện sự bối rối của mình trong việc làm chủ tọa một Hội nghị trang trọng như vậy và xin lỗi nếu có bất kỳ sai sót nào mà ông có thể mắc phải trong quá trình thảo luận kỹ lưỡng này.

Nhiều tháng trước đó, đau ốm vì căn bệnh thấp khớp, chán nản vì cái chết của người anh trai, mải mê với cuộc sống yên bình ở khu trang trại Mount Vernon và nghi ngờ sự thành công của Hội nghị cũng như nghĩ rằng nhiều nhân vật nổi tiếng sẽ vắng mặt, Washington luôn trì hoãn việc nhận lời mời tham dự. Nhưng rồi bực bội với nguy cơ trong việc trao uy tín của ông cho một cuộc họp mà rồi có thể phải thất bại và khả năng công chúng sẽ đánh giá sự tham dự miễn cưỡng của ông với con mắt hoài nghi, viên tướng cuối cùng đã chấp nhận công việc này.

Nhiều đại biểu tham dự cuộc họp, đặc biệt là James Madison, đại biểu trẻ trung mới 36 tuổi của Virginia, cảm thấy rất hài lòng, vì chỉ riêng sự có mặt của viên tướng Tổng tư lệnh Washington, cùng với uy tín to lớn của ông cũng đủ để mang lại một không khí trang nghiêm và bảo đảm sự thành công cho Hội nghị.

Cùng ngày 25 tháng Năm, theo đề nghị của C. Pinckney, Hội nghị cũng bổ nhiệm Thiếu tá William Jackson của tiểu bang Nam Caroline, làm Thư ký, với nhiệm vụ ghi chép lại mọi ý kiến trong quá trình thảo luận, đồng thời cũng bổ nhiệm một ủy ban gồm Wythe, Hamilton và C. Pinckney có nhiệm vụ soạn thảo những qui tắc cho Hội nghị.

Những buổi họp của Hội nghị được tổ chức kín và không có phóng viên hay khách mời nào được phép tham dự. Mặc dù nhiều thành viên với bản chất ba hoa và lắm lời, thường bị kích động trong các quán rượu hay trên đường phố, thì hầu hết mọi đại biểu đều giữ được bí mật một cách ngạc nhiên.

Ðối với những người hoài nghi về Hội nghị, việc giữ bí mật đó càng làm tăng mối lo âu của họ. Từ Paris, Thomas Jefferson đã viết cho John Adams: "Tôi cảm thấy tiếc là họ đã bắt đầu các cuộc tranh luận bằng một quyết định thật tồi tệ là đóng chặt miệng lưỡi của tất cả mọi người". Nhưng sau này, đại biểu Luther Martin của tiểu bang Maryland đã phán xét rằng sứ mạng ở Philadelphia cần một môi trường hoàn toàn yên tĩnh.

Mặc dù viên thư ký Hội nghị là Jackson đã ghi chép lại nội dung các cuộc họp, nhưng bản ghi chép đầy đủ nhất lại chính là nhờ công sức của James Madison. Hết ngày này sang ngày khác, người đàn ông đến từ Virginia này đã ngồi ngay hàng đầu tiên của phòng họp, ghi chép lại tất cả các cuộc tranh luận, không để lỡ bất cứ một ngày nào, hoặc một bài phát biểu quan trọng nào. Sau này, Madison kể lại rằng việc tự giam mình trong cái sảnh nóng bức và ngột ngạt đó suốt mùa hè ở Philadelphia suýt nữa đã giết chết ông
 
Các điều khoản Hợp bang​


Hội nghị Lập hiến được triệu tập trong một bối cảnh được coi là giai đoạn sống còn trong lịch sử nước Mỹ. Những người dân Mỹ vừa trải qua một cuộc chiến tranh dài, cam go và tàn phá, chỉ vừa mới bắt đầu giai đoạn phục hồi kinh tế từ đống đổ nát.

Nền kinh tế trong thời kỳ thương mại bình thường với nước Anh và vùng Tây Ấn (các hòn đảo vùng vịnh Caribê) giờ đây bị ảnh hưởng nghiêm trọng do việc tách khỏi Vương quốc Anh. Ðó là một nền kinh tế "dị dạng": tiền giấy có ở khắp mọi nơi gây lạm phát kinh khủng. Các bằng chứng khác cho thấy chủ nghĩa dân tuý đang hồi sinh mà ví dụ điển hình là cuộc nổi loạn của một nhóm nông dân trang bị vũ khí.

Những kích động chính trị do những khẩu hiệu từ thời chiến như "bình đẳng và quyền của mọi người" đã trở nên không thể kiểm soát được. Tư tưởng phe cánh, bè phái và chủ nghĩa địa phương đang là lời cảnh báo đối với Madison và nhiều người khác. Thái độ thù địch đối với chính quyền mà biểu hiện là sự chống đối thuế khóa có ở tất cả mọi tầng lớp. Trong tâm trí nhiều người, cuộc sống, sự tự do và thịnh vượng không hề được đảm bảo.

Ðối mặt với những khó khăn này, chính quyền Mỹ cố gắng vận hành theo Hiến pháp đương thời là Các điều khoản Hợp bang, được phê duyệt năm 1781. Thứ hiến pháp mà Hamilton, chính trị gia xuất sắc thuộc thế hệ thứ hai của cuộc Cách mạng Mỹ, sau này trở thành một trong những kiến trúc sư cho hệ thống chính quyền và kinh tế Mỹ, gọi là "một sự khờ dại". 13 tiểu bang thuộc địa tập hợp trong một thể chế hợp bang lỏng lẻo khi chỉ có một cơ quan chính quyền duy nhất là Quốc hội Hợp bang điều hành mọi vấn đề của đất nước.

Chính phủ Hợp bang khi đó không điều hành trực tiếp với người dân mà thông qua trung gian là các chính quyền tiểu bang . Không có nhánh hành pháp, cũng không có tòa án tối cao, cơ quan này hầu như chẳng có chút quyền hành nào và cũng chẳng có ngân sách để hoạt động. Khắp nơi tràn ngập sự lộn xộn, không có một qui định chung về thương mại, thuế khóa và thậm chí, mỗi tiểu bang lại có một loại tiền riêng. Những món nợ chiến tranh lớn đến mức hầu như không thể trả nổi.

Tiền giấy tràn ngập khắp đất nước tạo ra nạn lạm phát kinh khủng tới mức nửa cân chè ở một vài vùng có thể phải mua bằng số tiền lớn là 100 đô la. Tình trạng kinh doanh suy thoái đang lấy đi sinh mệnh của nhiều nông dân và chủ đất nhỏ. Một số buộc phải vào tù vì nợ nần, rất nhiều ruộng đất bị tịch thu hay phải bán để trả thuế. Uy tín nền cộng hòa bị nghi ngờ và công chúng bắt đầu mất niềm tin vào chính quyền. Hiệp ước Hòa bình với Anh bị cả hai phía phớt lờ và hầu như không có hiệu lực. Chính quyền Hợp bang cũng chẳng có uy tín trong con mắt của các quốc gia châu Âu. Đó là một chính thể cộng hòa đang bị tê liệt và bất kỳ người dân nào cũng có thể suy đoán về một kết cục thảm hại sẽ xảy ra.

Năm 1786, một số nông dân đã nổi dậy chống lại chính quyền. Cầm đầu bởi Daniel Shays, một cựu Đại úy của quân đội Lục địa, một nhóm người trang bị vũ khí, cắm những chiếc lông ngỗng màu xanh lên mũ, ngăn cản tòa án lưu động họp tại Northampton, MA. và đe dọa cướp vũ khí tại kho súng Springfield. Mặc dù quân đội tiểu bang nhanh chóng dập tắt cuộc nổi dậy này nhưng cuộc bạo loạn đó đã buộc nhiều người giàu lo sợ về một tình trạng vô chính phủ đang lấp ló ở chân trời. Ðược thêm mắm thêm muối hết ngày này sang ngày khác trên các trang báo, cuộc nổi dậy đã làm cho tầng lớp trên ở Mỹ rùng mình run sợ, khi họ hình dung cái đám người hung tợn, ngoài vòng luật pháp đó, sẽ xuất hiện ngay trong những nông dân vô tội.

Tình trạng tồi tệ của liên minh 13 tiểu bang đã thách thức nhiều người Mỹ có tư tưởng cộng hòa về sự cần thiết và cấp bách phải có những cải cách triệt để. Từ trang trại đồng quê Mount Vernon, Washington đã viết cho Madison: “Tại thời điểm hiện nay, sự khôn ngoan, sự hiểu biết và các tấm gương tốt là cần thiết để cứu hệ thống chính trị này khỏi cơn bão đang treo lơ lửng... Tại mỗi tiểu bang đều có những mầm cháy mà chỉ cần một tia lửa cũng có thể làm bùng lên đám lửa".

Còn đối với Hamilton, một trong những người vận động mạnh mẽ nhất cho Hội nghị này, Quốc hội Hợp bang chỉ là một nhóm chính trị gia có tầm nhìn hạn hẹp, những người dễ dàng hy sinh mạng sống của binh lính và tương lai của toàn bộ dân tộc khi lãng phí thời gian trong những cuộc tranh cãi vụn vặt, chứ không phải những nghiên cứu, tranh luận thấu đáo hay suy xét kỹ càng, có tầm nhìn xa, trông rộng trong quá trình hình thành chính sách. Chính quyền tổ chức theo bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả trong thời chiến và đến thời hòa bình, khi những tiểu bang ngày càng ít phụ thuộc vào nhau, thì liên minh lỏng lẻo của 13 tiểu bang Bắc Mỹ thật sự gặp nguy hiểm. George Washington từng nhận xét rằng các bang chỉ được liên kết với nhau "bằng một sợi dây bằng cát".

Ðiều cực kỳ quan trọng trong tư duy của Hamilton là chính phủ liên bang phải có quyền điều hành vấn đề thương mại, lĩnh vực mà cho đến lúc đó, vẫn nằm trong tay các chính quyền tiểu bang và nhất thiết phải có quyền thu thuế lợi tức để tạo dựng nguồn ngân sách cho sự vận hành của một nhà nước. Ông khẳng định: "... không thể trì hoãn được nữa, chúng ta phải trao thêm quyền lực cho Quốc hội... Chỉ có việc sử dụng một cách hợp lý những nguồn tài nguyên của toàn thể liên minh, dưới sự lãnh đạo của một Hội đồng Tối cao, với những quyền lực và sức mạnh cần thiết mới có thể giải thoát chúng ta khỏi cảnh áp bức và khốn khó như hiện nay, và đưa chúng ta trở thành những người hạnh phúc sau này".

Để giải quyết những trục trặc đó, vào tháng Chín năm 1786, Quốc hội Hợp bang đã tổ chức một cuộc họp các bang tại thành phố Annapolis, bang Maryland, nhằm thảo luận các bất đồng thương mại, nhưng hầu như chẳng mang lại kết quả cụ thể nào. Chỉ có 5 tiểu bang tham dự và các đại biểu cũng chẳng có quyền gì, ngoài việc thảo luận và kiến nghị lên Quốc hội Hợp bang. Tuy nhiên, Hamilton, Madison và một vài đồng nghiệp đồng ý phải làm được một điều gì đó có ý nghĩa.

Họ đề nghị Quốc hội triệu tập một Hội nghị mới, nhằm xem xét lại Các điều khoản Hợp bang với sự tham gia của tất cả các tiểu bang. Đối với Madison, đây là một cơ hội tuyệt vời để lật ngược được xu hướng hiện tại của đất nước. Còn với nhiều người, điều quan trọng khi họ tập trung ở Philadelphia là không được thất bại. George Mason, viên điền chủ của trang trại Gunston Hall, tác giả bản Tuyên ngôn Nhân quyền của tiểu bang Virginia, đã viết cho con trai: "Mọi con mắt của nước Mỹ đang hướng về Hội nghị này và niềm trông đợi của họ đã tăng lên rất cao. Ơn Chúa Tối cao, cha và những người bạn có thể làm họ hài lòng bằng việc thiết lập một Chính quyền Khôn ngoan và Công bằng".

Cũng thời gian đó, nhiều tờ báo ở Philadelphia đã đăng tải bức thư của một người giấu tên đòi bỏ ý định thành lập một chính quyền chung cho tất cả các tiểu bang. Người này đề nghị chia Hợp chúng quốc thành ba nước cộng hòa riêng biệt: Bắc, Trung và Nam, vĩnh viễn liên minh với nhau vì mục đích phòng thủ chung.

Một khó khăn rất lớn khác của Hội nghị Philadelphia là mục tiêu đề ra chỉ là nhằm sửa đổi và bổ sung những điều cần thiết cho Các điều khoản Hợp bang, chứ không phải xây dựng một bản Hiến pháp hoàn toàn mới. Tuy nhiên, hầu hết các đại biểu đều cho rằng nếu cứ bám vào cái sườn cũ thì sẽ chẳng dẫn đến điều gì cả. Một chính quyền mới và vững chắc chính là điều mà Hội nghị mong muốn và quyết tâm đạt được. Như sau này, Hamilton nhận xét: "những thất bại và trục trặc mà chúng ta trải nghiệm không phải bắt nguồn từ một vài lỗi nhỏ lẻ nào mà do những sai lầm căn bản, có tính nguyên tắc trong việc hình thành chính quyền và không thể sửa đổi nếu không có những thay đổi cơ bản nhất về mô hình chính quyền".
 
Các đại biểu tham dự Hội nghị​


74 đại biểu được các tiểu bang bầu chọn để tham dự Hội nghị, nhưng chỉ có 55 đại biểu thật sự có mặt tại các cuộc họp. Đó là những nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước, những con người thông minh, kiệt xuất và có uy tín lớn lao.

Ða số các đại biểu ủng hộ chế độ tiền giấy, hệ thống thuế thấp và mong muốn thiết lập một chính quyền mạnh. Một số đại biểu chỉ tin tưởng vào giai cấp quý tộc, nhưng hầu hết đều tán thành những nguyên tắc dân chủ, dù rất e ngại tính thất thường của dân chúng và sự thái quá của nền dân chủ.

Rhode Island là tiểu bang duy nhất từ chối cử đại biểu tham dự cuộc họp vì cho đó là âm mưu nhằm phá bỏ chính quyền đã được thiết lập. Ngoài ra, Hội nghị cũng gặp phải sự nghi ngờ và chống đối của không ít chính khách hàng đầu. Patrick Henry , một lãnh tụ cuộc Cách mạng Mỹ, đã từ chối tham dự với tuyên bố: "Tôi cảm thấy đây là một sự phản bội". Điều này là do xu hướng của Hội nghị muốn hình thành một chính quyền tập trung mạnh, nhằm giám sát thẩm quyền của các cơ quan lập pháp tiểu bang, trong khi Henry và nhiều chính trị gia tên tuổi khác lại tin rằng chính quyền tiểu bang sẽ bảo đảm tốt nhất những quyền tự do cá nhân. Vì vậy, ông quyết tâm không góp một chút công sức nào cho Hội nghị.

Một vài nhân vật kiệt xuất khác cũng vắng mặt như Thomas Jefferson , John Adams , John Jay và Thomas Paine . Ngoài Patrick Henry, một số lãnh tụ hàng đầu khác của cuộc Cách mạng Mỹ là Samual Adams và Richard Henry Lee cũng từ chối tham dự.

Nhưng về tổng thể, đây là cuộc nhóm họp thật sự gây ấn tượng với những con người xuất chúng, những người đã làm nên cuộc Cách mạng Mỹ, và sứ mạng của họ bây giờ là xây dựng một đất nước mới, tốt đẹp hơn. Từ Paris, khi đang là Công sứ Mỹ tại Pháp, Thomas Jefferson đã viết thư cho John Adams, khi đó đang là Công sứ Mỹ tại Anh: "Ðó thực sự là cuộc quần tụ những người con của thánh thần".

Nổi bật hơn cả là một cá nhân mà các đức tính và lòng quả cảm của ông tượng trưng cho nền Ðộc lập Mỹ và cho cả dân tộc Mỹ. Đó là George Washington, Tổng tư lệnh các quân đội thuộc địa trong cuộc chiến tranh với người Anh.

Ngoài Washington, ở đây còn có Benjamin Franklin, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp tiểu bang Pennsylvania, (chức vụ tương đương với Thống đốc ngày nay) và là chủ nhà của Hội nghị. Ông là người nổi tiếng khắp châu Âu và nước Mỹ hơn bất kỳ một cá nhân nào khác cùng thời đại. Ði khập khiễng do căn bệnh gút, ông già Franklin, khi đó đã 81 tuổi, là người đã làm nhiều nghề như thợ in, bảo vệ cửa hàng, nhà khoa học, viên chức hành chính, nhà triết học, nhà ngoại giao và rất được phụ nữ hâm mộ.

Có James Wilson của tiểu bang Pennsylvania, một luật sư tài năng và đam mê đầu cơ đất đai một cách khờ dại, để cuối đời buộc phải trốn chạy từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, để tránh truy tố vì nợ nần. Người đàn ông Scotland này đã mang đến một trí tuệ phi thường, một thiên hướng về những lý thuyết hiến pháp và luật pháp.

Có George Mason của tiểu bang Virginia, người sau này được Jefferson gọi là "viên Cato của nước Mỹ mà không có lòng tham lam của người La Mã". Chính George Mason, vào tháng Năm năm 1776, là người soạn thảo Tuyên ngôn Nhân quyền cho tiểu bang Virginia là nền tảng cho Thomas Jefferson soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ sau đó hai tháng.

Có John Dickinson của tiểu bang Delaware, tác giả Những bức thư của người nông dân và là tác giả chính của Các điều khoản Hợp bang.

Có Gouverneur Morris, tiểu bang Pennsylvania, rất thông thạo văn học và ngôn ngữ Pháp, với sự tinh thông và can đảm hợp với trí tuệ kiệt xuất đã góp phần soạn thảo Hiến pháp tiểu bang New York.

Ngoài ra, nhiều người khác cũng đóng vai trò quan trọng như Oliver Ellsworth, Edmund Randolph, William Paterson, John Rutledge, Elbridge Gerry, Roger Sherman, Luther Martin, Charles và Charles Cotesworth Pinckneys.

Mặc dù nhiều đại biểu còn rất trẻ, như Hamilton chỉ mới 32 tuổi và Madison - 36 tuổi, Edmund Randolph - 34 tuổi, nhưng hầu hết đều đã học luật và là những chính trị gia xuất sắc. Những kiến thức lý thuyết triết học tuyệt vời về chính quyền của họ được mở rộng bởi các nhà triết gia về chính trị như James Harrington , John Locke , Montesquieu và được tích lũy từ những kinh nghiệm thực tế thu được trong quá trình hoạt động chính trị ở liên bang hay tiểu bang.
 
Ba mô hình chính quyền: các Phương án Virginia, New Jersey và Hamilton​


Sáng thứ Ba, ngày 29 tháng Năm, Edmund Randolph, Thống đốc bang Virginia, mở đầu cuộc tranh luận với bài phát biểu dài, phê phán những điều tồi tệ xảy ra đối với nước Mỹ do những yếu kém của Các điều khoản Hợp bang. Ông nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải tạo dựng một chính quyền quốc gia mạnh.

Sau đó, Randolph đề xuất những nét chính về phương án cải tổ bao gồm 15 điểm, thường được biết dưới cái tên Những giải pháp Randolph, nhưng tên chính thức là Phương án Virginia do ông và những đồng nghiệp cùng tiểu bang, sau những kỳ họp dài tại quán rượu Indian Queen, thống nhất quan điểm trước ngày diễn ra Hội nghị.

Nền tảng của mô hình chính quyền này, chủ yếu do James Madison thiết kế, gồm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh được cấu trúc để kiểm soát quyền lực của các nhánh kia. Với quyền lực được tập trung cao độ, chính quyền theo mô hình này có thể phủ quyết mọi bộ luật do cơ quan lập pháp tiểu bang ban hành. Về phương án này, Randolph đã thú nhận "[đó] là một liên minh thống nhất, trong đó ý kiến [riêng] của các tiểu bang gần như không được đếm xỉa đến".

Việc đề xuất Phương án Virginia tại thời điểm mở đầu Hội nghị là hành động táo bạo nhưng cực kỳ khôn ngoan và làm nhiều người sửng sốt. Những đại biểu của Virginia hiểu rằng bản kế hoạch đệ trình lên đầu tiên sẽ giành được lợi thế hơn bất kỳ kế hoạch nào sau đó. Những người Virginia đã buộc các cuộc tranh luận phải tiến hành theo các điểm trong mô hình do họ đề ra và theo các khái niệm của họ.

Trong hai tuần tiếp theo, Hội nghị tiến hành thảo luận và sửa chữa các điểm đề xuất trong Phương án Virginia. Ngày 13 tháng Sáu, văn bản sửa đổi được đệ trình lên Hội nghị để tất cả các đại biểu thảo luận. 15 đề xuất ban đầu trong Phương án Virginia đã trở thành nền tảng cho bản báo cáo 19 điểm về mô hình chính quyền quốc gia, bao gồm ba nhánh. Nhánh lập pháp, tức Quốc hội Liên bang, sẽ bao gồm hai viện được chọn theo qui mô dân số.

Việc thiết lập hai viện là nhằm đại diện cho những lợi ích khác nhau và để quá trình làm luật tỉ mỉ và kỹ lưỡng hơn. Hạ nghị viện do người dân trực tiếp bầu, còn các thành viên của Thượng nghị viện lại được chính Hạ nghị viện lựa chọn. Nhánh hành pháp, tức là Tổng thống, sẽ được cả hai viện bầu chọn. Mô hình bộ máy tư pháp quốc gia cũng được phác thảo, bao gồm Tòa án Tối cao và tòa án các cấp sẽ do hai cơ quan lập pháp bầu chọn.

Có một giai thoại rất thú vị kể rằng sau khi Hội nghị Lập hiến kết thúc, khi Thomas Jefferson từ Pháp trở về, trong một bữa ăn tối đã hỏi Washington là tại sao ông bằng lòng có một viện thứ hai trong Quốc hội, tức là Thượng viện. Khi đó, thấy Thomas Jefferson đang rót cà phê từ chiếc tách vào đĩa, Washington liền hỏi: "Thế tại sao Ngài lại đổ cà phê vào đĩa như vậy?"; Jefferson trả lời: "Để làm cho cà phê nguội đi". Washington mỉm cười "Điều đó cũng giống như việc chúng ta đổ cơ quan lập pháp ấy vào chiếc đĩa Thượng viện để nó nguội bớt đi!".

Vấn đề mấu chốt nhất được Gouverneur Morris trình bày rất súc tích ngày 30 tháng Năm là sự khác biệt giữa mô hình chính quyền của một liên bang và chính quyền của một quốc gia mà "chính quyền liên bang chỉ thuần túy như một hiệp ước được thiết lập dựa trên sự cam kết tốt đẹp của các bên. Còn chính quyền quốc gia điều hành một cách toàn diện và mang tính cưỡng ép". Morris ủng hộ mô hình chính quyền quốc gia với một quyền lực tuyệt đối, có khả năng thực thi mọi thẩm quyền cần thiết chứ không chỉ cái thứ chính quyền mờ nhạt, phân rã và thiếu hiệu quả như chính quyền Hợp bang đương thời.

Quan điểm quốc gia chủ nghĩa này đã làm điên đầu nhiều đại biểu khác. Họ e sợ về khả năng một chính quyền trung ương mạnh sẽ nuốt chửng chủ quyền của các tiểu bang, đặc biệt là các bang nhỏ. Ngày 14 tháng Sáu, đại biểu tiểu bang New Jersey là William Paterson đã yêu cầu Hội nghị dừng họp một ngày vì ông và các đại biểu từ những bang nhỏ muốn có thêm thời gian để hoàn thành kế hoạch của họ về một mô hình chính quyền khác với Phương án Virginia. Ngày hôm sau, Các giải pháp của Paterson, hay còn được gọi là Phương án New Jersey, được đặt lên bàn Hội nghị.

Lo sợ về một chính quyền quốc gia mạnh, Paterson đề xuất giải pháp bao gồm 9 điểm, kêu gọi tổ chức một cơ quan lập pháp duy nhất. Trong đó, tất cả các bang đều có phiếu bầu bình đẳng. Thay cho việc đề xuất một mô hình chính quyền quốc gia mới, phương án của Paterson thực chất chỉ là một loạt những sửa đổi đối với Các điều khoản Hợp bang.

Các đại biểu từ các bang nhỏ đều tập hợp quanh phương án này. Ðồng lòng chống lại các mưu đồ nhằm ném các bang nhỏ vào "mớ hổ lốn", Paterson đã đề nghị một mô hình nhà nước mà "sự liên kết của các tiểu bang chúng ta chỉ thuần tuý là một Liên minh của các quốc gia". Phương án New Jersey kêu gọi chỉ thông qua các điều khoản cho phép Quốc hội có thêm quyền hạn trong việc tăng nguồn thu và điều hành vấn đề thương mại. Giải pháp này cũng đảm bảo các đạo luật của Quốc hội và các hiệp ước được thông qua sẽ là luật tối cao của các tiểu bang.

Trong suốt ba ngày, Hội nghị tranh luận về những đề xuất của Paterson và cuối cùng đã bỏ phiếu bác bỏ. Với sự thất bại của Phương án New Jersey, Hội nghị nghiêng về hướng xây dựng một chính quyền trung ương mạnh, làm nhiều đại biểu của các bang nhỏ rất bất bình. Nhưng việc bác bỏ Phương án New Jersey không dập tắt được nỗ lực của các bang nhỏ. Trong quá trình thảo luận một tháng sau đó, 15 đề xuất của Phương án Virginia đã được xem xét từng điểm một và với sự chấp thuận Thỏa hiệp lớn vào ngày 16 tháng Bảy sau đó, các bang nhỏ cũng đạt được sự cân bằng lá phiếu tại một viện của cơ quan lập pháp: Thượng viện.

Ngày 18 tháng Sáu, Alexander Hamilton đệ trình mô hình chính quyền lý tưởng của riêng ông. Tuy uyên bác và lịch lãm, nhưng bài phát biểu dài tới 5 giờ đồng hồ của ông sau đó lại thất bại. Cho rằng chính quyền Anh là "tốt nhất trên thế giới", Hamilton đề xuất một mô hình chính quyền tương tự: một Tổng thống phục vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt, có quyền phủ quyết tất cả các đạo luật; một Thượng viện với các thành viên phục vụ suốt đời và cơ quan lập pháp có quyền thông qua "bất kỳ đạo luật nào". Nhiều đại biểu rất bất bình với kế hoạch này vì coi đó sẽ dẫn tới một chính thể quân chủ lập hiến, một thứ Vua do dân bầu ra.

Tuy không thành công với phương án của mình, nhưng khi Hội nghị kết thúc, người New York uyên thâm này đã trở thành người bảo vệ hăng hái nhất cho bản Hiến pháp mới theo mô hình Virginia. Những người dân Mỹ vừa từ bỏ chế độ quân chủ Anh, nên chẳng thích thú gì một mô hình tương tự, nhưng một số thành viên của Hội nghị thật sự trông đợi đất nước đi theo hướng này.

Ðại biểu Hugh Williamson của tiểu bang Bắc Carolina, một bác sĩ phẫu thuật giàu có, đã tuyên bố "khá chắc chắn rằng lúc này hay lúc khác chúng ta đều cần phải có Vua". Các tờ báo xuất hiện vào mùa hè năm 1787 cũng đồn đại về một phương án đang được xây dựng nhằm mời con trai thứ hai của Vua George III là Frederick, Công tước xứ York, một giáo sĩ thế tục ở Osnaburgh, Phổ, về làm "Vua của Hợp chúng quốc".
 
Thỏa hiệp lớn​


Đến cuối tháng Sáu, cuộc tranh luận giữa các bang lớn và các bang nhỏ về vấn đề đại diện tại cơ quan lập pháp thứ nhất ngày càng gay gắt. Các đại biểu của Virginia và các bang lớn khác khăng khăng yêu cầu số lượng đại biểu trong Quốc hội phải được chọn căn cứ theo số dân, còn những đại biểu của các bang nhỏ nhất định đòi quyền đại diện bình đẳng mà họ đã có như qui định của Các điều khoản Hợp bang.

Ngày 29 tháng Sáu, đại biểu của các tiểu bang nhỏ đã thua trong cuộc bỏ phiếu về quyền đại diện tại Hạ viện. Hội nghị chấp thuận một giải pháp xác nhận số dân là điều kiện cơ bản để xác định quyền đại diện tại viện này, như vậy là ưu tiên các bang lớn. Ðối với đề nghị của các bang nhỏ rằng các tiểu bang phải có quyền đại diện ngang nhau ở Thượng viện, việc bỏ phiếu đã dẫn đến một kết quả hòa mà không bên nào giành được đa số phiếu.

Khi đại biểu của các bang lớn không sẵn lòng thỏa hiệp về vấn đề này, Hội nghị trở nên cực kỳ căng thẳng tới mức một số đại biểu cho rằng Hội nghị "đang ở bên bờ miệng vực của sự giải tán và sự đồng lòng của Hội nghị này chỉ như ngàn cân treo sợi tóc". Thậm chí Franklin còn đề nghị Hội nghị nên mời các mục sư tới làm lễ mỗi sáng để cầu nguyện Thượng đế ban ơn và soi sáng cho cuộc thảo luận, nhưng có đại biểu lại cho rằng Hội nghị cũng chẳng có tiền để trả cho việc này.

Ngày 10 tháng Bảy, quá tức giận vì Hội nghị hoàn toàn ở thế bế tắc, George Washington đã phải thốt lên "cần phải làm một điều gì đó" và gọi những người chống đối một chính quyền trung ương mạnh là "những chính trị gia thiển cận, hẹp hòi, chịu ảnh hưởng của quan điểm địa phương chủ nghĩa". Luther Martin, đại biểu bang Maryland, một người mà có lẽ Washington cho là có đầu óc "thiển cận", lại nghĩ khác.

Dù bản tính nóng nảy, nhưng Martin là nhà hùng biện có hiệu quả nhất của các bang nhỏ. Người đàn ông Maryland này nhẩy ngay vào cuộc tranh cãi về vấn đề đại diện và tuyên bố: "Các tiểu bang phải có quyền bình đẳng về đại diện. Ðối với chúng ta, điều này được đảm bảo bởi Các điều khoản Hợp bang; và ngay lúc này đây, chúng ta đang được hưởng đặc ân đó". Ðúng thế, Hội nghị Lập hiến được tổ chức hoàn toàn phù hợp với qui định bình đẳng giữa các bang theo Các điều khoản Hợp bang .

Cuộc tranh cãi phức tạp trong Hội nghị càng căng thẳng thêm vì mẫu thuẫn giữa các bang miền Bắc với các bang miền Nam về phương pháp tính nô lệ để xác định thuế và quyền đại diện. Vào thời gian đó, chế độ sở hữu nô lệ đã được xóa bỏ ở các bang miền Bắc nhưng vẫn còn tồn tại ở hầu hết các bang miền Nam. Ngày 12 tháng Bảy, Oliver Ellsworth đề xuất quyền đại diện tại Hạ viện sẽ dựa trên cơ sở số người da trắng tự do cộng với ba phần năm "những người còn lại", một uyển ngữ chỉ nô lệ.

Trong tuần tiếp theo, cuối cùng các thành viên dự Hội nghị cũng đạt được thỏa hiệp. Họ đồng ý rằng thuế thu trực tiếp sẽ được xác định theo quyền đại diện, còn quyền đại diện tại Hạ viện sẽ dựa trên tổng số người da trắng và ba phần năm "những người khác". Nhờ thỏa hiệp này và với nhận thức rằng những thỏa hiệp như vậy là cần thiết để tránh sự tan vỡ hoàn toàn của Hội nghị, các thành viên sau đó chấp thuận việc các tiểu bang có quyền đại diện bình đẳng tại Thượng viện. Như Roger Sherman đã nói, mong ước của mọi đại biểu là "một mô hình chung nào đó của chính quyền cần phải được thiết lập". Với việc thu xếp ổn thỏa cuộc khủng hoảng về quyền đại diện, Hội nghị đã hài lòng như thể những vấn đề phức tạp khác cũng đã được giải quyết.

Trong những ngày tiếp theo, không khí ở "Thành phố của tình bằng hữu” (Brotherly Love), tên gọi bóng bẩy của Philadelphia, dù vẫn ngột ngạt và oi bức, nhưng đã có hương vị trong trẻo của sự hòa giải. Bây giờ, Hội nghị mong muốn ít ra thì cũng phải có một cái gì đó trên giấy. Những đề xuất trong Phương án Virginia được Hội nghị xem xét và thảo luận từng điểm một cho tới khi hoàn tất vào ngày 26 tháng Bảy.

Cùng ngày, các đại biểu quyết định cử ra Ủy ban chi tiết có nhiệm vụ xây dựng một bản dự thảo Hiến pháp, bao gồm 5 người: Nathaniel Gorham (Massachusetts), Edmund Randolph (Virginia), James Wilson (Pensylvania), Oliver Ellsworth (Connecticut) và John Rutledge (Nam Caroline) là Chủ tịch Ủy ban. Họ có nhiệm vụ lập báo cáo về 15 điểm của Phương án Virginia, có sửa đổi, kết hợp những điểm của Phương án New Jersey và những đề xuất của Pinckney. Trong số họ, Edmund Randolph, tác giả của Phương án Virginia, được chọn để phác thảo những nét chính yếu cho bản Hiến pháp. Lúc này các đại biểu khác bỏ phiếu tự cho phép mình có một kỳ nghỉ 10 ngày.

Trong những ngày nghỉ này, Gouverneur Morris và George Washington cùng cưỡi ngựa chạy qua vùng đất ở Thung lũng Forge, tiểu bang Penssylvania, nơi 10 năm trước đó từng là Tổng hành dinh của quân đội các thuộc địa. Trong khi Morris mải mê tìm những chú cá hồi thì Washington lại trầm ngâm nhìn những bụi cây, nơi trước đây đội quân của ông phải chịu đựng mùa đông buốt giá năm 1777-1778. Những ngày tháng ở thung lũng Forge đó là thời kỳ suy sụp tệ hại nhất đối với quân đội thuộc địa của Washington, nhưng đó là thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc chiến. Kể từ ngày đó, nước Mỹ đã đi được một chặng đường dài.
 
Bản phác thảo đầu tiên​


Thứ Hai, ngày 6-8-1787, Hội nghị nhóm họp lại sau kỳ nghỉ và nhận được bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên do Ủy ban chi tiết đệ trình.

Ðây là bản được trình bày rất sáng sủa và hơn nữa, còn bổ sung thêm một số điều như: "Quốc hội không được ban hành bất cứ loại thuế hay phí nào đối với bất kỳ loại hàng hóa nào từ bất kỳ tiểu bang nào và tất cả các tiểu bang đều phải chấp thuận sự di cư và định cư của bất kỳ người dân nào từ tiểu bang này sang tiểu bang khác".

Bản dự thảo với 23 điểm đánh theo số thứ tự La Mã được John Rutledge, Chủ tịch Ủy ban, trao cho từng đại biểu, bao gồm 7 trang chữ to dễ đọc, có lề rộng để các đại biểu có những ghi chú cần thiết. Từ bản thảo này sẽ hình thành bản Hiến pháp chính thức sau đó 5 tuần.

Hội nghị dự định hoãn lại hai ngày để các đại biểu có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng bị bác bỏ. Các đại biểu chỉ nghỉ ngày hôm đó và hôm sau lại tiếp tục họp. Khi các thành viên bắt đầu xem xét từng điều khoản, thì sự sẵn lòng thỏa hiệp trước đó lập tức biến mất. Vấn đề gây tranh cãi mạnh mẽ nhất là các qui định về thương mại.

Các tiểu bang miền Nam, nơi xuất khẩu các sản phẩm thô, gạo, thuốc nhuộm và thuốc lá, lo sợ Quốc hội do các tiểu bang vùng New England (các bang miền Bắc) chiếm đa số có thể thông qua thuế xuất khẩu và sẽ phá hỏng nền kinh tế của họ. Ðại biểu C.C.Pinckney tuyên bố rằng nếu Quốc hội có quyền lực áp đặt các qui định này, thì các tiểu bang miền Nam sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc đứng nhìn các bang miền Bắc.

Ngày 21 tháng Tám, cuộc tranh cãi về thương mại đã dẫn đến một vấn đề nóng bỏng khác: nô lệ. Khi đại biểu Luther Martin của tiểu bang Maryland đề xuất một biểu thuế đối với việc nhập khẩu nô lệ, ngay lập tức, Hội nghị rơi vào một cuộc tranh cãi rất căng thẳng về thể chế nô lệ, về tính đạo đức của vấn đề này và về mối quan hệ kinh tế đối với chính phủ mới.

Ðại biểu John Rutledge của tiểu bang Nam Carolina cho rằng tình trạng nô lệ chẳng liên quan gì đến đạo đức, và tuyên bố "Chỉ riêng lợi ích mới là nguyên tắc điều hành các tiểu bang". Ðại biểu Sherman của tiểu bang Connecticut ủng hộ việc từ bỏ vấn đề nhạy cảm này trước khi nó gây nguy hiểm cho Hội nghị. Ðại biểu George Mason của tiểu bang Virginia thể hiện mối lo ngại đối với việc nhập khẩu không hạn chế nô lệ, nhưng sau đó đã nói rằng ông cũng ủng hộ việc liên bang bảo vệ quyền sở hữu đối với các nô lệ đã có hiện nay.

Cái vấn đề lằng nhằng về khả năng can thiệp của liên bang trong việc buôn bán nô lệ mà Sherman và các đại biểu khác lo sợ sẽ gây chia rẽ mãi mãi giữa các đại biểu của các bang miền Nam với các bang miền Bắc đã được thu xếp ổn thỏa trong "một sự mặc cả", như câu ví von của Mason.

Ðể đổi lấy sự ủng hộ của các bang vùng New England cho việc tiếp tục nhập khẩu nô lệ trong vòng 20 năm, các bang miền Nam đã chấp nhận một điều khoản qui định rằng để phê chuẩn các dự luật về thương mại và hàng hải chỉ cần sự chấp thuận của đa số quá bán các phiếu tại Nghị viện. Ðó là thuận lợi lớn đối với các bang miền Bắc bởi các đạo luật liên quan đến hàng hải và thương mại, những thế mạnh của miền Bắc, sẽ khó lòng được phê chuẩn nếu Hiến pháp đòi hỏi phải đủ đa số phiếu tuyệt đối, tức là trên 2/3 phiếu bầu.

Sự thỏa hiệp này là một đòn chí mạng vào những người đòi bãi bỏ chế độ nô lệ. Sau này, khi kết quả của Hội nghị được công bố, những người đã đấu tranh không mệt mỏi đòi bãi bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc cảm thấy cực kỳ thất vọng. Họ coi Hội nghị đã phản bội lại những nguyên tắc tự do cơ bản nhất của con người từng được hết thảy dân chúng hân hoan trong Tuyên ngôn Độc lập 11 năm trước đó. Nhiều người coi bản Hiến pháp này như một thứ văn bản đáng đem đốt đi.

Vấn đề Tuyên ngôn Nhân quyền có nên đưa vào Hiến pháp không cũng gây tranh cãi kịch liệt. Ngày 31 tháng Tám, George Mason, người trước đó ba tháng đã viết cho con trai đầy hy vọng về "một công việc kỳ vĩ và lớn lao đang ở ngay trước mắt cha", giờ đây, trong một tâm trạng cực kỳ mỏi mệt và thất vọng, đã buộc phải kêu lên đầy cay đắng rằng "cha thà chặt cánh tay phải của cha còn hơn là ký vào bản Hiến pháp này". Mason cảm thấy cực kỳ thất vọng, khi Hội nghị đang đổ hết trách nhiệm gánh vác đất nước cho một chính quyền trung ương khờ khạo, rất dễ dẫn cả nước Mỹ đến sự sụp đổ.

Lo ngại Tuyên ngôn Nhân quyền đảm bảo tự do cá nhân không thể trở thành một phần của bản Hiến pháp, Mason kêu gọi tổ chức một Hội nghị khác xem xét lại toàn bộ việc hình thành một chính quyền mới. Mặc dù sự vận động của Mason đã bị Hội nghị bỏ phiếu hoàn toàn bác bỏ nhưng những người chống đối Hiến pháp vẫn không từ bỏ ý tưởng về một Hội nghị mới. Trong suốt hai năm sau đó, đề nghị này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không đi đến kết quả nào.

Tới những ngày họp cuối cùng, một trong những vấn đề vướng mắc còn lại vẫn chưa được giải quyết là phương pháp lựa chọn người đứng đầu cơ quan hành pháp, tức là Tổng thống. Một loạt các đề nghị được đưa ra xem xét như việc bầu cử trực tiếp bởi người dân, bởi cơ quan lập pháp của tiểu bang, bởi thống đốc các tiểu bang và bởi cơ quan lập pháp liên bang. Giải pháp cuối cùng được chấp nhận là một cử tri đoàn, một sự thỏa hiệp có vẻ kỳ quặc và lạ lùng, nhưng lại là một thủ đoạn chính trị tuyệt vời khôn ngoan.

Các bang lớn đông dân có sức mạnh nhờ số lượng các đại biểu đông đảo; cơ quan lập pháp tiểu bang có quyền chọn lựa các đại cử tri; còn Hạ viện có quyền quyết định Tổng thống trong trường hợp không có ứng cử viên nào chiếm đa số phiếu. Sau đó, Mason đã dự đoán là cứ 20 lần bầu chọn Tổng thống thì có lẽ tới 19 lần Hạ viện sẽ phải bỏ phiếu quyết định cuối cùng.
 
Ký kết bản Hiến pháp​


Trong những ngày đầu tháng Chín, khi các đại biểu đã kiệt sức, chỉ muốn trở về nhà, thỏa hiệp trở nên dễ dàng hơn. Ngày 8 tháng Chín, Hội nghị bổ nhiệm Ủy ban Văn phong và Bố cục, gồm 5 người với nhiệm vụ "chỉnh sửa lại văn phong và sắp xếp lại các điều khoản đã được chấp thuận sau các cuộc tranh luận căng thẳng tại Hội nghị".

Các thành viên của Ủy ban này là: Alexander Hamilton, tiểu bang New York; William Samuel Johnson, tiểu bang Connecticut; Rufus King, tiểu bang Massachusetts; James Madison, tiểu bang Virginia và Gouverneur Morris, tiểu bang Pennsylvania.

Gouverneur Morris là kiến trúc sư trưởng của công trình này. Là nhà hùng biện xuất sắc nhất Hội nghị, với giọng văn hùng hồn, mạch lạc, ông được các thành viên khác hoàn toàn nhất trí chọn làm người chắp bút cho văn bản quan trọng này. Một năm sau, ông tự hào viết cho Timothy Pickering: "[Bản Hiến pháp đó] được viết bằng chính những ngón tay đang viết bức thư này".

Ngày 12 tháng Chín, bản Hiến pháp được trình lên Hội nghị và các đại biểu lần lượt xem xét từng điểm. Mặc dù các phiếu sít sao nhau trên nhiều điều khoản nhưng dù sao công trình nhọc nhằn trong mùa hè lịch sử năm 1787 cuối cùng cũng đã đạt đến mục tiêu.

Ngày 15 tháng Chín, trước lần bỏ phiếu cuối cùng, dù là người đầu tiên đưa ra đề xuất về mô hình chính quyền, nhưng Edmund Randolph lại từ chối ký. Ông tuyên bố không thể ký vào văn bản này nếu Hội nghị phê chuẩn của các tiểu bang không có quyền đề xuất các điều sửa đổi bổ sung. Nhưng Madison và những người ủng hộ quyết định rằng các hội nghị phê chuẩn của tiểu bang hoặc là thông qua, hoặc là bác bỏ toàn bộ chứ không được quyền sửa chữa hay thêm bớt bất cứ điều gì.

Họ cho rằng nếu các tiểu bang có quyền đề xuất những sửa đổi bổ sung sẽ rất lộn xộn, có thể sẽ phá hỏng những ý đồ thiết kế hoàn hảo của Hội nghị. Ngoài ra, cách thức phê chuẩn những kiến nghị đó cũng gây ra nhiều rắc rối, thậm chí có thể phải triệu tập một Hội nghị nữa mà có thể sẽ chẳng đi tới đâu vì cũng như tại Hội nghị này, các ý kiến sẽ rất đa dạng và trái ngược.

George Mason cũng rất bất bình khi Hội nghị bỏ phiếu cho phép Quốc hội có quyền ban hành những đạo luật về giao thương đường thủy bởi điều đó chỉ làm giàu cho các thương gia miền Bắc của New York, Philadelphia và Boston. Hơn nữa, bản Hiến pháp vừa hoàn thành có một thiếu sót rất lớn, đó là không có Tuyên ngôn Nhân quyền để đảm bảo các quyền tự do cho dân chúng. Các đại biểu khác lấy lý do rằng không thể liệt kê đầy đủ các quyền này.

Đại biểu Gerry của tiểu bang Massachusetts cũng tuyên bố không ký bởi các lý do: Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ quá dài và lại có quyền được tái cử; Hạ nghị viện có quyền không công bố một phần các hoạt động của mình nếu coi đó là bí mật; Quốc hội có quyền tự do định đoạt tiền lương của chính mình. Những đề xuất này cũng được George Mason ủng hộ, nhưng bị Hội nghị bác bỏ. Vì thế, ba quý ngài cô lập này dứt khoát từ chối ký vào văn bản này.

Đến 6 giờ chiều, sau bẩy tiếng đồng hồ thảo luận không nghỉ, cuối cùng cuộc biểu quyết đã trở nên nhanh gọn và đơn giản. Khi các tiểu bang được yêu cầu biểu quyết đối với bản Hiến pháp, từ mọi đoàn đại biểu đều vang lên "Aye" (Chấp thuận).

Ngày 17 tháng Chín, các đại biểu gặp nhau lần cuối cùng, Charles Pinckney nói: "những lời tuyên bố của các vị đại biểu đáng kính vào thời điểm sắp kết thúc một cuộc họp quan trọng như thế này đã khiến những giờ phút này có ý nghĩa đặc biệt trang nghiêm”. Ông già Franklin đáng kính đã viết sẵn một bài phát biểu dài và nhờ người đồng nghiệp James Wilson đọc giùm. Với những lời lẽ được coi là chân thành và xúc động nhất trong tất cả các bài phát biểu tại Hội nghị, Franklin cầu xin sự thống nhất đối với bản Hiến pháp. Ông viết:

"Tôi thừa nhận rằng lúc này có nhiều điểm trong bản Hiến pháp tôi không thể chấp nhận, nhưng tôi không chắc rằng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Tôi đã sống đủ lâu để hiểu rằng chúng ta không nên dựa quá nhiều vào sự phán xét của chính bản thân mình. Tôi thường thấy mình sai lầm ngay tại những điều ưng ý nhất. Khi tôi càng nhiều tuổi, tôi càng nghi ngờ sự phán xét của chính mình và quan tâm chú ý hơn đến những nhận xét của người khác.

…Với những suy nghĩ đó, thưa Ngài Chủ tịch, tôi đồng ý với bản Hiến pháp này với mọi lỗi lẫm của nó, nếu có, bởi tôi nghĩ rằng chúng ta cần một chính quyền chung… Tôi cũng nghi ngờ rằng không một Hội nghị nào có thể làm ra được một bản Hiến pháp tốt đẹp hơn. Thưa Ngài, tôi nghĩ bản Hiến pháp này cũng làm những kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên, những kẻ đang tin tưởng trông chờ rằng chúng ta cũng giống như những người xây dựng Tháp Babel; rằng các tiểu bang của chúng ta đang ở bên bờ miệng vực của sự tan rã, gặp nhau tại đây chỉ để cắt cổ họng của người khác."

Cuối bài phát biểu, ông mong ước "mọi Quý Ngài tham dự Hội nghị này, những người vẫn còn những bất đồng về bản Hiến pháp, theo gương tôi, nhân lúc này, hãy nghi ngờ một chút về tính không thể nhầm lẫn của chính mình và thể hiện sự đồng lòng chân thành nhất bằng cách đặt chữ ký của mình vào văn kiện này".

Governeur Morris cũng đứng dậy tuyên bố rằng mình cũng có nhiều điều không hài lòng với bản Hiến pháp. Nhưng vì cho rằng bản Hiến pháp này là hoàn hảo nhất có thể đạt được, nên ông chấp thuận văn bản này dù nó còn một số lỗi lầm. Ông cũng giải thích thêm rằng việc các đại diện ký tên vào bản Hiến pháp chỉ có nghĩa là tất cả các tiểu bang đều đồng lòng, chứ không phải là tất cả các đại biểu đều đồng lòng.

Dù rất ít nói trong suốt thời gian hội họp và vắng mặt trong hơn nửa thời gian Hội nghị, thậm chí bản thân những đề xuất của ông bị bác bỏ, nhưng trong bài phát biểu cuối cùng, Hamilton cũng kêu gọi các đại biểu ký vào bản Hiến pháp. Ông nói: "bản Hiến pháp này có thể mang lại sự hỗn loạn vô chính phủ. Nhưng mặt khác, nếu xem xét một cách tỉ mỉ, nó cũng có thể đem lại nhiều điều tốt đẹp. Đây là lúc dân chúng đang sốt sắng ủng hộ Hội nghị, nhưng sự sốt sắng đó có thể giảm bớt, nếu một vài đại biểu quan trọng từ chối ký vào văn bản này”.

Đại biểu Williamson của Bắc Caroline đưa ra đề nghị là các đại biểu chỉ ký vào bức thư gửi Quốc hội Hợp bang mà thôi, nhưng C. C. Pinckney tuyên bố là ông không muốn có một thái độ mập mờ. Ông nghĩ tốt hơn hết là tất cả các đại biểu nên ký vào văn bản này để chứng tỏ sự ủng hộ của mình và ông nguyện sẽ hành động đúng như ông nói. Như vậy, trừ Mason, Gerry và Randolph từ chối ký tên và nhiều người khác đã bỏ ra về, 39 đại biểu còn lại trong sảnh họp lần lượt đặt chữ ký chính thức vào bản Hiến pháp và Hội nghị kết thúc vào 4 giờ chiều ngày 17 tháng Chín.

Kiệt sức vì nhiều tuần lễ làm việc với áp lực căng thẳng nhưng hài lòng với công trình của mình, các đại biểu đã chung nhau một bữa tiệc chia tay tại "Quán rượu Thành phố" (City Tavern). Cách đó hai dãy nhà, trên đường Market, hai thợ in John Dunlap và David Claypoole làm việc suốt đêm để in văn bản Hiến pháp dài 6 trang. Những bản in này sẽ xuất hiện trên mọi tờ báo ở Philadelphia vào buổi sáng hôm sau và rồi sau đó được in lại trên mọi tờ báo của 13 tiểu bang. Giờ đây, cuộc tranh luận về mô hình chính quyền mới đã được đưa lên một diễn đàn rộng hơn nhiều.

Ngày 20 tháng Chín năm 1787, bản Hiến pháp cùng bức thư do Chủ tịch Hội nghị George Washington viết đã được gửi lên Quốc hội Hợp bang. Sau một vài ngày tranh luận, Quốc hội liền gửi bản Hiến pháp này cho các tiểu bang để họ tự quyết định việc phê chuẩn theo như những gì mà các đại biểu đề nghị và tuyên bố ngay khi có đủ 9 trong tổng số 13 tiểu bang thông qua, một chính quyền mới như bản Hiến pháp qui định sẽ được thành lập.
 
Tác phẩm Người Liên bang​


Ký tên vào bản Hiến pháp, các đại biểu cũng không tin tưởng chắc chắn rằng bản Hiến pháp do họ soạn thảo sẽ được các tiểu bang thông qua. Ngay bản thân Washington cũng từng viết trong nhật ký rằng ông không tin bản Hiến pháp này có thể tồn tại được quá 20 năm.

Nhưng Hamilton, sau này trở thành Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của chính quyền Liên bang, lại có những đánh giá khác về khả năng thông qua Hiến pháp.

Ông rất lạc quan tin tưởng bản Hiến pháp sẽ được thông qua nhờ uy tín lớn lao của Washington, nhờ sự ủng hộ của tầng lớp giàu có và niềm tin của nhiều người dân Mỹ rằng Các điều khoản Hợp bang không đáp ứng đầy đủ với yêu cầu cấp thiết của đất nước. Hamilton dự đoán rằng nếu Hiến pháp không được chấp nhận thì một cuộc nội chiến sẽ xảy ra, nhưng nếu nó được phê chuẩn thì Washington sẽ trở thành Tổng thống.

Cũng giống như tại Hội nghị, các chính trị gia và dân chúng trên khắp cả nước cũng chia thành hai phe: phe chống bản Hiến pháp, chống chế độ Liên bang và phe ủng hộ bản Hiến pháp, ủng hộ chế độ Liên bang. Quan điểm của những những người ủng hộ cũng như chống đối Hiến pháp được in đi in lại trên tất cả các tờ báo trong cả nước.

Với diện tích lớn, sự giàu có, nhiều ảnh hưởng và là tiểu bang đầu tiên triệu tập Hội nghị thông qua Hiến pháp, nên Pennsylvania nhận được sự quan tâm đặc biệt của cả nước. Tâm trạng những người tán thành và chống đối tại đây cũng rất căng thẳng. Ngày 29 tháng Chín, khi Quốc hội Pennsylvania - nơi phe Liên bang chiếm đa số nhóm họp để quyết định triệu tập một Hội nghị phê chuẩn, nhưng vẫn chưa hội đủ số lượng đại biểu cần thiết, một đám đông dân chúng Philadelphia - những người ủng hộ bản Hiến pháp - đã lôi hai người thuộc phe chống Liên bang từ nhà của họ đến trụ sở Hạ viện tiểu bang và buộc họ phải ngồi lại trong khi Quốc hội tiểu bang bỏ phiếu. Ðó là một ví dụ kỳ lạ về nền dân chủ đại diện!

Ngày 5 tháng Mười, một người chống liên bang tên là Samuel Bryan đã công bố bài viết đầu tiên của mình trong loạt bài với tiêu đề "Centinel" trong tờ báo Independent Gazetteer ở Philadelphia. Ðược in lại trong những tờ báo khác, những bài viết này công kích mạnh mẽ quyền lực tối cao của chính quyền trung ương, sự chiếm đoạt chủ quyền của tiểu bang và sự thiếu vắng một Tuyên ngôn Nhân quyền để đảm bảo các quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.

Bryan tuyên bố: "Nước Mỹ đang tan chảy" thành một đế chế chuyên quyền và độc đoán của những quý tộc dòng dõi. Bryan thể hiện nỗi sợ hãi của những người chống chủ nghĩa liên bang rằng chính quyền mới sẽ bị những gia đình danh giá và giàu có lũng đoạn. Bryan tin là những người dân thường đang gặp nguy hiểm vì phải khuất phục ý muốn của một chính quyền có rất nhiều quyền hành, nhưng quá xa xôi và không thể tiếp cận. Ông tin rằng người dân Mỹ phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại chính quyền này như cuộc chiến tranh chống lại nền quân chủ Anh một vài năm trước đó.

Ngày hôm sau, James Wilson, một luật gia xuất chúng, từng tham gia soạn thảo Hiến pháp, hùng hồn đọc một bài phát biểu bảo vệ Hiến pháp trước một đám đông lớn tập trung ở trước cổng Hạ viện tiểu bang. James Wilson ca ngợi chính quyền mới như là "một chính quyền tốt nhất từng xuất hiện trên thế giới". Quan điểm của người Scotland này đã thắng thế. Dẫn đầu bởi Wilson, Hội nghị của Pennsylvania, nơi phe Liên bang chiếm đa số, đã tiến hành bỏ phiếu ngày 12 tháng Mười hai với tỷ lệ thắng khá cao là 46 phiếu thuận so với 23 phiếu chống.

Việc bỏ phiếu thông qua Hiến pháp mới ở Pennsylvania đã không chấm dứt sự thù hận và cay đắng. Franklin tuyên bố rằng những bài báo thô bỉ đăng trên báo chí đã đưa ra cảm tưởng cả Pennsylvania "đầy rẫy những kẻ xấu xa nhất, đểu giả nhất và là những kẻ vô lại suốt ngày cãi cọ". Ngày 26 tháng Mười hai, tại Carlisle, một thị trấn nhỏ gần thủ phủ Harrisburg của Pennsilvania, những người bạo động chống liên bang đã phá hoại lễ kỷ niệm của những người phe Liên bang, rồi treo cổ hình nộm của Wilson và Thomas McKean, Chánh án tòa án Pennsylvania, những lãnh tụ phe Liên bang tại đây. Họ cũng vứt vào lửa một bản dự thảo Hiến pháp chép tay và ném bị thương một vài người phe Liên bang.

Cuộc luận chiến lan tràn khắp lãnh thổ 13 tiểu bang, từ mùa thu qua mùa đông, từ mùa xuân sang mùa hạ. Phe chống đối bao gồm một vài nhân vật có ảnh hưởng trong Hội nghị và một số chính trị gia ở các tiểu bang, e sợ việc thiết lập chính quyền trung ương sẽ cướp mất quyền lực của họ. Ngoài ra, nhiều người dân cũng có ác cảm với chính sách thuế khoá. Họ nghi ngờ một chính quyền được tập trung hóa sẽ phá hỏng những lợi ích địa phương. Những người vay nợ cũng sợ hãi chính quyền mới sẽ nuôi dưỡng và làm giàu các chủ nợ.

Tại New York, bản Hiến pháp bị công kích trên báo bởi một loạt những bài luận được ký tên "Cato". Nguy cơ một liên minh bao gồm tất cả các tiểu bang không được thiết lập làm nhiều lãnh tụ phe Liên bang lo lắng, trong số đó có Hamilton. Ông hoàn toàn hiểu rằng để một nhà nước liên bang vững mạnh được thành lập, thì điều cực kỳ quan trọng là tiểu bang New York phải chấp nhận bản Hiến pháp và tham gia liên bang.

Thậm chí ông tin rằng dù cho tất cả các tiểu bang khác phê chuẩn thì với qui mô dân số, vị trí địa lý và ảnh hưởng lớn lao của mình, sự từ chối của New York cũng sẽ phá hỏng quá trình hình thành Liên bang. Nếu Hợp chúng quốc được thành lập mà không có New York tham gia thì Liên bang khó có thể vững mạnh, thậm chí khó lòng tồn tại. Nguy cơ trên mảnh đất bên bờ Đại Tây Dương tồn tại nhiều nhà nước riêng biệt có thể dẫn tới cuộc nội chiến nếu mỗi quốc gia đi theo một hướng phát triển riêng.

Chính vì thế, ngay sau khi từ Philadelphia trở về, Hamilton đã lập kế hoạch hành động để đảm bảo bản Hiến pháp được thông qua. Nhằm mục đích này, ông đã bắt đầu viết những bài luận đầu tiên phân tích một cách có hệ thống những ưu điểm của bản Hiến pháp mới, đồng thời đưa ra những mối hiểm họa nếu bản Hiến pháp này không được chấp nhận. Hamilton đề nghị Madison và John Jay cùng tham gia dự án này. James Madison, "kiến trúc sư trưởng" của bản Hiến pháp, cũng nhận thức được vai trò quan trọng của New York trong việc thiết lập chính quyền liên bang. Để lại tiểu bang quê nhà Virginia lúc này đã an toàn trong tầm kiểm soát của Washington, ông sang New York theo lời mời của Hamilton.

Với sự hợp tác của hai bộ óc thông minh và xuất chúng nhất thế hệ đó, Hamilton và Madison đã hoàn thành tác phẩm chính trị đầu tiên và có giá trị vĩnh hằng đối với nước Mỹ . Tổng cộng có 85 bài luận văn Người Liên bang (Federalist Papers) được xuất bản trong khoảng thời gian từ ngày 27 tháng Mười năm 1787 đến ngày 28 tháng Năm năm 1788. Những bài luận văn này xuất hiện trên những tờ báo lớn nhất của New York và rồi được in lại trong nhiều tờ báo khác trong cả nước Mỹ. Sau này, tên của những bài luận văn này cũng trở thành tên gọi phong trào ủng hộ Hiến pháp và là tên của chính đảng do Hamilton lập ra, Ðảng Liên bang .

Những bài luận văn Người Liên bang đã giải thích Hiến pháp một cách chi tiết và biện minh cho những ưu việt của một thể chế sẽ được xây dựng. Sau này, Thomas Jefferson ca ngợi cuốn Người Liên bang là "lời bình luận hay nhất về những nguyên tắc của chính quyền từng được viết ra". Washington khen Hamilton và Madison rằng họ đã "đem nguồn ánh sáng mới vào khoa học chính quyền.

Đã có sự bàn luận đầy đủ, công bằng về nhân quyền và những lời giải thích rõ ràng, mạnh mẽ đó nhất định sẽ để lại ấn tượng lâu dài". Triết gia Anh John Stuart Mill của thế kỷ XIX cũng cho rằng tác phẩm Người Liên bang là "luận thuyết bổ ích nhất mà chúng ta hiểu về chính quyền liên bang". Chính trị gia người Pháp, nhà bình luận sắc sảo, Alexis de Tocqueville, tác giả cuốn sách nổi tiếng Bàn về nền Dân chủ Mỹ (1860) viết: "Ðó là cuốn sách tuyệt vời và có lẽ gần gũi và cần thiết nhất đối với các chính khách của tất cả các nước".

Trong thế kỷ XX, những sử gia, những nhà luật học và các nhà khoa học chính trị đều đồng ý rằng cuốn Người Liên bang là tác phẩm khoa học chính trị quan trọng nhất bàn về chính quyền từng được viết ra tại Mỹ. Tầm vóc lớn lao của tác phẩm này được so sánh với cuốn Nền Cộng hòa (Republic) của Plato , Khoa học chính trị (Politics) của Aristotle và Uy quyền tối cao (Leviathan) của Hobbes .

Trái ngược với lòng quyết tâm và khả năng lãnh đạo của những người ủng hộ Liên bang, phe đối lập hầu như không đoàn kết được. Madison đã viết về những người chống Liên bang ở Massachusetts: "Tại đây không có một cá nhân riêng biệt nào có khả năng thống nhất ý muốn của họ hoặc chỉ đạo các biện pháp của họ... mà họ cũng chẳng có kế hoạch nào cả". Phe chống Liên bang tấn công lung tung ở khắp các lĩnh vực: thiếu một Tuyên ngôn nhân quyền; phân biệt đối xử đối với các tiểu bang miền Nam trong các đạo luật về hàng hải; chính sách thuế trực tiếp; sự mất mát chủ quyền của tiểu bang... và coi bản Hiến pháp này là công trình của những chính trị gia quý tộc nhằm bảo vệ lợi ích của tầng lớp này.

Tại Massachusetts, một người tuyên bố: "Những luật sư đó và những người có học thức, có tiền bạc làm cho những người nghèo, mù chữ phải ngậm đắng nuốt cay... Họ sẽ nuốt chửng tất cả chúng ta như con thủy quái nuốt chửng dân thường nhỏ bé. Đúng thế, như cá mập ăn thịt người!". Một số bài báo, do những người chống liên bang viết, đưa ra những dự đoán kỳ khôi về những điều rùng rợn có thể xảy ra dưới Hiến pháp mới, như việc những kẻ ngoại giáo và những kẻ thần luận sẽ kiểm soát chính quyền hay để điều tra các tội ác liên bang, người ta sẽ sử dụng cực hình, hoặc thậm chí cả việc Ðức Giáo hoàng sẽ được bầu chọn làm Tổng thống.

Tuy nhiên, một vài lý lẽ chống liên bang là có cơ sở xác thực, như tuyên bố rằng lãnh thổ của 13 tiểu bang là quá rộng lớn đối với một chính quyền cộng hòa đại diện. Phe chống liên bang cho rằng không thể thiết lập chế độ cộng hòa trong một lãnh thổ quá mênh mông như thế. Khi đó, chính quyền không thể là những người đại diện cho dân chúng mà sẽ bị những kẻ giàu có thao túng, sẽ chèn ép người nghèo và giai cấp lao động. James Madison lật ngược quan điểm này và nhấn mạnh rằng bản thân sự bao la của quốc gia sẽ là một lý do mạnh mẽ để ủng hộ một nền cộng hòa.

Tuyên bố rằng một nước cộng hòa rộng lớn sẽ làm đối trọng những nhóm người có quan điểm chính trị khác nhau tranh giành quyền lực, Madison viết: "Xã hội càng nhỏ thì sự khác biệt của các đảng phái và những lợi ích cấu thành lại càng ít. Các khác biệt đảng phái và lợi ích càng ít thì một đa số trong cùng đảng càng dễ hình thành và họ càng dễ dàng xây dựng và thực thi âm mưu và sự đàn áp của họ". Madison tranh luận rằng việc mở rộng phạm vi của nền cộng hòa sẽ làm giảm nguy cơ bị các bè phái hay các phe cánh riêng rẽ gây ảnh hưởng.

Như tuyên bố nổi tiếng nhất của James Madison trong bài luận văn Người Liên bang số 10: "Nhưng chính phủ là gì nếu không phải là biểu hiện lớn lao nhất của bản chất loài người?”. Ðó chính là nguyên lý căn bản nhất mà họ sử dụng để bảo vệ thể chế chính quyền Liên bang.
 
Quá trình phê chuẩn Hiến pháp​


Ðến ngày 9 tháng Giêng năm 1788, 5 trong số 9 tiểu bang cần thiết theo qui định đã chấp thuận Hiến pháp là Delaware (phê chuẩn ngày 7-12), Pennsylvania (ngày 12-12), New Jersey (ngày 18-12), Georgia (2-1-1788) và Connecticut (ngày 9-1). Nhưng các tiểu bang chủ chốt như Massachusetts, New York và Virginia vẫn không chắc chắn về quyết định cuối cùng.

Trong suốt tháng Giêng năm 1788, phong trào chống Chủ nghĩa Liên bang ở Massachusetts do Samuel Adams lãnh đạo khăng khăng đòi chỉ thông qua bản Hiến pháp mới nếu các quyền tự do cá nhân được đảm bảo. Ngày 6 tháng Hai năm 1788, với việc những người liên bang đồng ý đưa ra một danh mục các tu chính án vào Tuyên ngôn Nhân quyền để bổ sung vào Hiến pháp, tiểu bang Massachusetts mới đồng ý thông qua với 187 phiếu thuận và 168 phiếu chống.

Nhà lãnh đạo cách mạng lão thành John Hancock , Chủ tịch Hội nghị phê chuẩn Hiến pháp ở Massachusetts do không thể quyết định chính kiến của mình đối với bản Hiến pháp đã giả vờ vắng mặt với lý do bị ốm. Nhưng sau đó, bị những người Liên bang dụ dỗ về triển vọng trở thành phó tổng thống và thậm chí là Tổng thống nên Hancock, người bị Madison nhận xét là "một kẻ háo danh", đột nhiên thay đổi quan điểm vào phút chót. Mặc dù bây giờ Massachusetts đã an toàn cho phe Liên bang thì việc đề xuất Tuyên ngôn Nhân quyền cũng là một chiến thắng lớn lao của phe chống Liên bang. Sau đó, những bang còn lại cũng đòi hỏi các điều kiện tương tự.

Khi Hội nghị phê chuẩn của New Hampshire đang diễn ra nhưng bị sức ép của phe chống Liên bang buộc phải dừng lại, thì phe Liên bang cảm thấy một thất bại sắp đến gần. Đến ngày 24 tháng Ba, khi tiểu bang Rhode Island bác bỏ bản Hiến pháp trong một cuộc trưng cầu dân ý với số phiếu quá áp đảo là 10 trên 1 thì những lãnh tụ phe Liên bang bắt đầu lo sợ thực sự.

Trong khi mong đợi kết quả từ Hội nghị phê chuẩn của tiểu bang Maryland, Madison đã viết cho Washington: "Sự khác biệt thậm chí chỉ giữa sự trì hoãn và sự phê chuẩn ở Maryland cũng có thể mang lại lợi thế sống còn đối với những người chống đối bản Hiến pháp". Madison có một vài lý do để lo lắng. Nhưng cuộc bỏ phiếu cuối cùng ngày 28 tháng Tư của tiểu bang Maryland cho kết quả tốt như ông mong đợi với 63 phiếu thuận và 11 phiếu chống. Tại Baltimore, một cuộc diễu hành khổng lồ được tổ chức để mừng chiến thắng của phe Liên bang. Một con tàu dài được đặt tên là "Con tàu Liên bang" được hạ thủy tại cảng Baltimore, rồi chạy dọc con sông Potomac về vùng đất Mount Vernon, quê hương Washington.

Ngày 21 tháng Sáu, Hội nghị phê chuẩn của New Hampshire nhóm họp lại đã chấp thuận bản Hiến pháp với một đa số nhỏ nhoi, 57 phiếu thuận và 46 phiếu chống, kèm theo những tu chính án. Với việc tiểu bang Nam Carolina đã chấp thuận Hiến pháp ngày 23 tháng Năm, New Hampshire đã trở thành tiểu bang thứ 9 thông qua bản Hiến pháp, đúng như yêu cầu đề ra. Ngày 2 tháng Bảy năm 1788, sau khi nhận được thông báo về việc phê chuẩn Hiến pháp của New Hampshire, Quốc hội Lục địa, khi đó đang nhóm họp ở New York, đã quyết định bổ nhiệm một Ủy ban "để đưa tất cả những gì Hiến pháp tuyên bố vào hành động thực tiễn".

Ngày 2 tháng Sáu năm 1788, Hội nghị phê chuẩn của Virginia được tổ chức với sự có mặt của nhiều chính khách hàng đầu của đất nước. Sau nhiều ngày họp căng thẳng, tới ngày 25 tháng Sáu, phe Liên bang do Madison lãnh đạo đã vượt qua sự chống đối của Patrick Henry, George Mason và Henry Lee. Virginia chính thức phê chuẩn bản Hiến pháp mới với 89 phiếu thuận và 75 phiếu chống, nhưng cũng đòi hỏi hàng loạt những tu chính án. Ðiều đó khiến phe chống Liên bang tại New York bắt đầu dao động.

Ngày 26 tháng Bảy năm 1788, sau rất nhiều tranh cãi, nhưng được sự phê chuẩn của Virginia cổ vũ và những nỗ lực không mệt mỏi của Hamilton, Hội nghị tiểu bang New York đã phê chuẩn Hiến pháp mới với số phiếu rất sít sao là 30 phiếu thuận và 27 phiếu chống, nhưng kèm theo điều kiện phải bao gồm Tuyên ngôn Nhân quyền.

Tuy nhiên, sự vượt trội của phe Liên bang ở cả hai bang chủ chốt này là rất sít sao. Hamilton phỏng đoán đa số dân chúng ở New York thực sự chống lại Hiến pháp và có thể đa số dân chúng trong toàn quốc cũng chống lại văn kiện này. Chỉ những lời cam kết và các tu chính án mới đảm bảo chiến thắng cho phe Liên bang.

Ngày 31 tháng Bảy năm 1788, Bắc Caroline là tiểu bang cuối cùng, trừ Rhode Island, phê chuẩn Hiến pháp với 183 phiếu thuận và 84 phiếu chống. Ngày 4 tháng Ba năm 1789, Quốc hội Liên bang họp phiên đầu tiên tại thành phố New York bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí bầu George Washington làm Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Ngày 30 tháng Tư năm 1789, Washington chính thức tuyên thệ nhậm chức. Sau đó, Quốc hội lần lượt thông qua các đạo luật thiết lập Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và Bộ Tài chính.

Tới năm 1790, nhận thấy không thể có một chỗ đứng cho một bang nhỏ và quá yếu, bị một thể chế cộng hòa vững mạnh bao bọc, tiểu bang Rhode Island cũng chính thức phê chuẩn bản Hiến pháp và gia nhập Hợp chúng quốc. Thế là ước mong về một chính quyền vững mạnh của rất nhiều người Mỹ cuối cùng đã trở thành hiện thực.
 
Tuyên ngôn Nhân quyền​


Việc đòi hỏi phải có một tuyên ngôn nhân quyền (The Bill of Rights) là vũ khí mạnh mẽ nhất của những người chống chế độ Liên bang. Patrick Henry là một trong những người chỉ trích bản Hiến pháp kịch liệt nhất khi liệt kê những điểm không rõ ràng và việc thiếu vắng những công cụ bảo vệ cần thiết chống lại sự chuyên chế của chính quyền.

Trong Hội nghị phê chuẩn của Virginia, ông nhạo báng chủ trương cân bằng và đối trọng của phe Liên bang rằng "Những trò cân bằng và đối trọng giả tạo và hào nhoáng kia, cái trò bước đi trên dây đầy mạo hiểm, những vụ huyên náo ầm ĩ, những toan tính kỳ quặc về kiểm soát và đối trọng đó để làm gì?".

Phe chống liên bang đòi hỏi một bản Hiến pháp cô đọng hơn, chắc chắn hơn, nêu bật được quyền của dân chúng và những giới hạn quyền lực của chính quyền. Richard Henry Lee cũng thất vọng về sự thiếu vắng những điều khoản bảo vệ "những quyền thiết yếu của con người mà không có tự do thì không thể tồn tại". Lee tranh cãi rằng việc chuyển một chính quyền cũ thành chính quyền mới mà thiếu một tuyên ngôn nhân quyền như vậy thì chỉ là việc "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa".

Dù rất nhiều chính khách đương thời cũng cho rằng những quyền cơ bản của con người cần phải được bảo đảm trong Hiến pháp, thì ngược lại, Wilson và Madison, những lãnh tụ phe Liên bang lại khăng khăng giữ quan điểm rằng một tuyên ngôn nhân quyền là không cần thiết, vì mọi quyền lực không được trao cho chính quyền đều thuộc về dân chúng. Sau này, ngay cả Thomas Jefferson cũng viết cho Madison rằng: "Tuyên ngôn nhân quyền là điều mà dân chúng thường dùng để chống lại tất cả các chính quyền trên trái đất".

Mùa thu năm 1788, Madison bắt đầu tin rằng Tuyên ngôn Nhân quyền không chỉ cần thiết để có Hiến pháp được thông qua mà sẽ có nhiều tác dụng tốt khác. Ngày 17 tháng Mười, ông cho rằng "những châm ngôn cơ bản về chính quyền tự do là một nền tảng tốt để khơi dậy ý thức của cộng đồng" chống lại sự đàn áp tiềm tàng và sẽ "cân bằng được những nhu cầu lợi ích và tình cảm của dân chúng".

Sự ủng hộ của Madison đối với Tuyên ngôn Nhân quyền chính là điều cực kỳ quan trọng. Với tư cách là Hạ nghị sĩ của Virginia tại Quốc hội Liên bang khóa đầu tiên, tổ chức theo Hiến pháp mới, ông làm việc không mệt mỏi để thuyết phục Hạ viện tiến hành những bổ sung cần thiết cho bản Hiến pháp. Trong những tháng đầu tiên ở Quốc hội, Madison đã vận động và xây dựng 17 tu chính án.

Danh sách sau đó được thu gọn lại thành 12 điều để trình lên Thượng viện. Ngày 2 tháng Mười năm 1789, sau khi đã được Quốc hội Mỹ thông qua trong tháng Chín, Tổng thống Washington gửi cho các tiểu bang các bản sao của 12 tu chính án này. Ngày 15 tháng Mười hai năm 1791, ba phần tư các bang đã thông qua 10 trong số 12 tu chính án đó mà sau này rất quen thuộc với người dân Mỹ như là Tuyên ngôn Nhân quyền (Bills of Rights) .
 
Giá trị vĩnh hằng của bản Hiến pháp​


Bản Hiến pháp Mỹ năm 1787 đã mang đến cho thế giới một ví dụ đầu tiên về một thể chế cộng hòa liên bang rộng lớn được thành lập trên nguyên tắc đại diện. Mặc dù đây không phải là mô hình đầu tiên được thành lập trên nguyên tắc dân chủ, nhưng bản Hiến pháp này đã xây dựng nền tảng cho một chính quyền dân chủ cộng hòa lớn nhất trên thế giới.

Bất chấp cuộc nội chiến vĩ đại, bất chấp hai cuộc chiến tranh thế giới, bản Hiến pháp này vẫn đứng vững qua thử thách của thời gian và các biến động.

Như Tổng thống Lincoln, người giải phóng chế độ nô lệ ở Mỹ, đã nói: "Những người cha của chúng ta đã mang đến lục địa này một quốc gia mới, công nhận sự tự do và cống hiến cho một mục tiêu cao cả rằng tất cả mọi người được sinh ra đều bình đẳng. Sự thành công của Hội nghị ở Philadelphia chính là việc thiết lập một bản Hiến pháp để "hình thành một liên minh hoàn hảo hơn, thiết lập sự công bằng, đảm bảo một sự an toàn chung, thúc đẩy sự thịnh vượng chung và bảo đảm tự do cho chính chúng ta và cho sự thịnh vượng của chúng ta".

Năm 1788, Benjamin Franklin nói với một phóng viên Pháp rằng mô hình chính quyền mới cũng giống như trò chơi súc sắc, quá nhiều người tham dự với các ý kiến, sở thích và lợi ích rất đa dạng sẽ không thể mang lại kết quả mà không gây tranh cãi. Sau đó, Franklin đã viết thư cho những người bạn ở châu Âu: "Tôi gửi tới các bạn bản dự thảo Hiến pháp liên bang mới cho các vùng đất của nước Mỹ... Nếu chúng tôi thành công, tôi không hiểu tại sao ở châu Âu, các bạn không thành lập một liên minh bao gồm tất cả các quốc gia và các vương quốc khác nhau...".

200 năm sau, một Liên minh châu Âu được hình thành với 15 quốc gia và rồi đây sẽ là một liên bang của 25 quốc gia như ý tưởng của Benjamin Franklin và cũng là mơ ước đã thành hiện thực của rất nhiều người dân châu Âu không phải bởi máu và bạo lực, mà bằng niềm tin, trí tuệ và sự đồng lòng của hết thảy mọi người.

Madison từng viết cho Jefferson rằng sự gắn kết những mối quan tâm trái ngược nhau này thật sự là "một nhiệm vụ khó khăn hơn cả việc thuyết phục những người không hề liên quan gì để họ thực hiện nó". Khi các đại biểu rời Philadelphia lúc kết thúc Hội nghị, nếu có thì cũng chỉ rất ít người tin tưởng vào sự tốt đẹp và sự tồn tại vĩnh hằng của bản Hiến pháp mà họ vừa soạn thảo. Họ cũng không biết rằng rồi đây, họ sẽ là những nhân vật chính tham gia tích cực vào việc xây dựng một chính quyền mới.

Vào cuối đời, James Madison, người cuối cùng trong số 55 người tham gia Hội nghị này còn sống, đã viết nguệch ngoạc trong một bức thư mà chưa bao giờ được gửi đi. Trong đó, ông tuyên bố không có chính quyền nào là hoàn hảo và "đây chính là mô hình ít khiếm khuyết nhất và do vậy sẽ là chính quyền tốt nhất".

Nhiều sử gia Mỹ gọi thành công mà Hội nghị Lập hiến đã làm là "Điều kỳ diệu ở Philadelphia" và ngày nay, bản Hiến pháp Mỹ cùng với Tuyên ngôn Độc lập được lưu giữ trang nghiêm và cẩn thận tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Mỹ như những tài sản quý báu nhất của nhân dân Mỹ.
 
Phần II:

Các cuộc tranh luận tại hội nghị lập hiến​


Trong khi các đại biểu cuối cùng đang lần lượt ký tên vào bản Hiến pháp thì đại biểu đáng kính nhất là Franklin chỉ tay vào hình mặt trời sau lưng ghế Chủ tịch Hội nghị, nói với một vài đại biểu đứng gần đó rằng những họa sĩ vẽ nó khó phân biệt được đó là cảnh mặt trời đang mọc hay đang lặn.

Ông nói, trong cuộc họp này, ông thường nhìn vào hình mặt trời với những niềm hy vọng đan xen những nỗi sợ hãi và ông không thể nói được đó là cảnh mặt trời đang mọc hay đang lặn. Nhưng giờ đây, cuối cùng, ông đã cảm thấy hạnh phúc, vì biết chắc rằng đó là cảnh mặt trời đang mọc, chứ không phải đang lặn.

Ghi chép của Madison tại Hội nghị Lập hiến ngày 17 tháng Chín năm 1787​


Hội nghị Lập hiến tiến hành theo hình thức thảo luận lần lượt từng điều khoản và từng mô hình chính quyền do các đại biểu đệ trình. James Madison được coi là tác giả chính của bản Hiến pháp, như sau này nhiều người gọi ông là "Cha đẻ bản Hiến pháp Mỹ". Không chỉ tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận và đề xuất những giải pháp, Madison còn là người duy nhất không bỏ sót một buổi họp nào và ghi chép lại đầy đủ những cuộc tranh luận tại Hội nghị.

Ngoài bản ghi chép của Madison, còn có các bản chép tay của Rufus King, của Robert Yates và cả Biên bản chính thức của Hội nghị Lập hiến do Thư ký Jackson ghi lại. Nhưng bản ghi chép của Madison đầy đủ hơn bất cứ một bản ghi chép nào, kể cả biên bản của Hội nghị vì Jackson chỉ chép lại những ý kiến đề xuất của các đại biểu, sơ lược nội dung các cuộc tranh luận và kết quả bỏ phiếu cuối cùng.

Tới năm 1840, tức là 53 năm sau khi Hội nghị Lập hiến kết thúc và sau khi Madison mất được 4 năm, theo di chúc của ông, bản ghi chép này mới được công bố với tiêu đề "Những cuộc tranh luận tại Hội nghị Liên bang năm 1787". Có thể vì ông phải thực hiện đúng qui định của Hội nghị là cấm không công bố bất cứ thông tin nào về quá trình hội họp mà bản thân ông bị ràng buộc. Chỉ sau khi tất cả các đại biểu tham dự Hội nghị qua đời, thì Madison mới quyết định cho công bố văn kiện này .

Những cuộc thảo luận này có thể kéo dài một ngày hoặc lâu hơn, thảo luận về từng điểm trong mô hình chính quyền. Mỗi điểm của chính quyền, sau khi thảo luận xong, theo qui định của Ủy ban Ðiều lệ, Hội nghị sẽ tiến hành bỏ phiếu với mỗi bang có một phiếu bầu. Một điều khoản được phê chuẩn khi nhận được sự tán thành của đa số các bang có mặt tại Hội nghị, nhưng sẽ không có giá trị nếu không đủ 7 tiểu bang có mặt. Trong những lập luận rất sắc sảo này, đôi khi các đại biểu cũng đầy mâu thuẫn về những khía cạnh của chính quyền.

Bản viết tay nguyên gốc của Madison đầy những nét gạch xóa và những chỗ viết tắt vì ông ghi chép vội vàng trong quá trình thảo luận hoặc ngay sau buổi họp. Ðối với những người muốn nghiên cứu tìm hiểu quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ, đây là bản ghi chép có giá trị nhất.

Thực tế, rất khó chọn lọc các phần cần trích dịch vì thực sự tất cả những bài phát biểu đều rất có giá trị, nhưng do điều kiện có hạn, tôi chỉ chọn dịch khoảng trên 30 nội dung thảo luận, theo tôi là cần thiết và quan trọng nhất. Trong quá trình dịch, tôi cố gắng bám sát và dịch đầy đủ theo bản ghi chép của James Madison.

Phương án Virginia, ngày 29 tháng Năm​


Ngay ngày đầu tiên khai mạc Hội nghị, Edmund Randolph, Thống đốc đương nhiệm của Virginia, được sự ủy quyền của những đại biểu Virginia, đã trình bày những đề xuất về mô hình nhà nước liên bang với ba nhánh quyền lực riêng biệt. Mô hình này thể hiện đòi hỏi của các bang lớn, muốn chiếm ưu thế tại cả hai viện của Quốc hội.

Những nét chính trong Phương án Virginia trở thành nền tảng chủ yếu cho các cuộc tranh luận sau này và là nền tảng cho mô hình nhà nước Liên bang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Mô hình này được các đại biểu Virginia xây dựng, trong đó có sự đóng góp chủ yếu của Madison. Các đại biểu của Virginia không chỉ có công lớn trong việc thiết lập Hiến pháp mà còn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ Mỹ.

Ngài Randolph mở đầu quá trình thảo luận. Ông cảm thấy bối rối vì công việc này lại được trao cho ông, chứ không phải những người khác, những người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm chính trị nhiều hơn, để bắt đầu một công việc trọng đại mà lẽ ra là bổn phận của họ. Nhưng do Hội nghị này được tiểu bang Virginia khởi xướng và các đồng nghiệp của ông đề xuất một số kiến nghị nên họ đã trông đợi và giao nhiệm vụ này cho ông.

Sau đó, ông trình bày những nguy cơ và khó khăn trong cuộc khủng hoảng hiện nay và sự cần thiết phải ngăn chặn sự sụp đổ của nước Mỹ.

Ông nhận thấy rằng để sửa đổi hệ thống Hợp bang cần phải nghiên cứu sâu vào các đặc tính cần thiết phải có của một chính quyền Liên bang; nghiên cứu những khiếm khuyết của hệ thống Hợp bang hiện nay; chỉ ra những mối hiểm họa và tìm giải pháp thích đáng cho các vấn đề này.

I. Một chính quyền Liên bang phải đảm bảo:

* chống lại sự xâm lược của nước ngoài;

* chống lại những bất đồng gây chia rẽ giữa các thành viên của Liên bang, hay sự nổi loạn của một tiểu bang nào đó;

* mang lại nhiều điều tốt đẹp cho các tiểu bang, điều mà hiện nay Hợp bang không thể làm được và các tiểu bang cũng không thể có được nếu tồn tại riêng biệt;

* có thể tự bảo vệ Liên bang chống lại bất kỳ sự tấn công nào;

* sẽ là luật tối cao đối với mọi Hiến pháp của các tiểu bang.
 
Ghi chép của Madison tại Hội nghị Lập hiến ngày 17-9-1787 (tiếp theo)​


Trong khi phân tích những khiếm khuyết của hợp bang thì ông cũng thể hiện lòng kính trọng đối với những người đã soạn thảo ra bản Các điều khoản Hợp bang.

Ông cũng cho rằng họ đã làm được những điều mà những người yêu nước có thể làm được trong thời kỳ sơ khai đó của đất nước, khi những vấn đề về Hiến pháp và những sự kém hiệu quả của hợp bang chưa nảy sinh, cũng như không có tranh chấp thương mại nào, cũng như chưa có cuộc nổi loạn nào như vừa xảy ra ở tiểu bang Massachusetts.

Các vấn đề như vấn đề nợ nước ngoài chưa trở nên cấp bách; sự mất giá của tiến giấy chưa được dự báo trước; các Hiệp ước chưa bị vi phạm và các mối hiềm khích về biên giới và chủ quyền giữa các tiểu bang đều không gây ra những vấn đề trầm trọng nào.

Sau đó, ông tiến hành liệt kê những khiếm khuyết này:

1. Hợp bang không thể bảo đảm chống lại sự xâm lược của nước ngoài. Quốc hội Lục địa cũng không có quyền ngăn chặn hay tiến hành chiến tranh. Về điều này, ông trích dẫn nhiều ví dụ. Hầu hết cho thấy các Hiệp ước hay các luật pháp của đất nước đều bị vi phạm và cần phải bị trừng phạt. Một số tiểu bang có thể gây ra các cuộc chiến tranh không kiểm soát được. Không thể có đội quân nào thích hợp cho việc bảo vệ trong những trường hợp đó. Chỉ có thể tuyển quân, nhưng điều này không thể thực hiện được nếu không có tiền.

2. Chính quyền Liên bang không thể kiểm soát được những tranh cãi giữa các bang, cũng không thể kiểm soát được bất kỳ cuộc nổi loạn nào tại các tiểu bang, cũng không có quyền hợp hiến hay bất kỳ biện pháp nào để can thiệp khi khẩn cấp.

3. Hợp chúng quốc có thể giành được nhiều thuận lợi cho liên bang mà sẽ không thể đạt được nếu căn cứ theo bản Các điều khoản Hợp bang như hành động trả đũa đối với trừng phạt, hay hạn chế thương mại của các quốc gia khác...

4. Chính quyền Liên bang không thể tự bảo vệ chống lại sự xâm phạm của các tiểu bang.

5. Đó không phải là một bộ luật tối thượng đối với các Hiến pháp tiểu bang...

III. Tiếp theo ông xem xét tình trạng nguy hiểm chung của đất nước mà nhiều người ủng hộ chính quyền của nước Mỹ đã nói về nguy cơ một tình trạng vô chính phủ có thể xuất hiện do sự lỏng lẻo của chính quyền ở khắp mọi nơi và nhiều đánh giá khác.

IV. Sau đó, ông tiến hành đề xuất giải pháp với nền tảng là các nguyên tắc cộng hòa và liệt kê từng điểm một:

Kiến nghị rằng Các điều khoản Hợp bang cần phải được sửa đổi và mở rộng để đáp ứng những mục tiêu đã nêu ra bao gồm "sự bảo vệ chung, an toàn, tự do và sự thịnh vượng trên toàn quốc".

Kiến nghị rằng theo đó, quyền phê chuẩn các bộ luật tại cơ quan lập pháp quốc gia phải căn cứ vào tỷ lệ đóng góp tiền bạc, hay căn cứ theo số lượng các công dân tự do, tùy trường hợp nguyên tắc này hay nguyên tắc kia phù hợp hơn.

Kiến nghị rằng cơ quan lập pháp quốc gia phải bao gồm hai viện [Hạ viện và Thượng viện].

Kiến nghị rằng các thành viên viện thứ nhất trong cơ quan lập pháp quốc gia [Hạ viện] phải do dân chúng các tiểu bang bầu chọn, với nhiệm kỳ hạn định và phải đạt một độ tuổi nhất định; sẽ nhận một khoản trợ cấp đền bù cho thời gian cống hiến của họ; không được làm việc cho bất kỳ một cơ quan nào khác của tiểu bang, hay của liên bang trong suốt nhiệm kỳ phục vụ và cả một thời gian nhất định sau khi mãn nhiệm, ngoại trừ những cơ quan đặc biệt thực hiện quyền và chức năng của Viện này; có thể bị bãi miễn và không được bầu chọn lại trong một khoảng thời gian nào đó sau khi mãn nhiệm.

Kiến nghị rằng các thành viên của Thượng viện phải được những đại biểu của Hạ viện lựa chọn trong số những ứng cử viên do các cơ quan lập pháp tiểu bang đề cử; phải đạt một độ tuổi nhất định; với nhiệm kỳ thích hợp để đảm bảo sự độc lập của họ; sẽ nhận một khoản trợ cấp đền bù thời gian cống hiến cho công chúng; nhưng không được làm việc cho bất kỳ một cơ quan nào của các tiểu bang, hay của liên bang, trừ những những cơ quan đặc biệt thực hiện những nhiệm vụ của Viện này, trong suốt nhiệm kỳ phục vụ và cả một thời gian nhất định sau khi mãn nhiệm.

Kiến nghị rằng mỗi Viện đại biểu đều có quyền khởi thảo các dự luật. Cơ quan lập pháp quốc gia phải được trao những quyền lập pháp do Quốc hội Hợp bang hiện nay đang giữ theo qui định của Các điều khoản Hợp bang và có quyền lập pháp trong mọi trường hợp các tiểu bang không đủ thẩm quyền, hay khi sự hòa thuận và thống nhất của đất nước bị các cơ quan lập pháp tiểu bang phá hoại; có quyền phủ quyết mọi đạo luật của tất cả các tiểu bang nếu theo sự phán xét của cơ quan lập pháp quốc gia là vi phạm các điều luật của Liên bang; có quyền tổ chức một đội quân của Liên bang để tấn công bất kỳ tiểu bang nào không thực hiện bổn phận của mình theo như Hiến pháp qui định.

Kiến nghị rằng cần phải thiết lập cơ quan hành pháp quốc gia, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn, với một nhiệm kỳ nhất định; tại những thời điểm nhất định, được nhận các khoản tiền không tăng cũng không giảm, là khoản thù lao cho công việc đảm nhiệm và không được bầu chọn lại lần hai. Ngoài thẩm quyền chung điều hành các bộ luật của quốc gia, cơ quan này cũng được trao thêm các quyền hành pháp, hiện do Quốc hội Hợp bang nắm giữ.

Kiến nghị rằng người đứng đầu bộ máy hành pháp và một số lượng thích hợp các thẩm phán liên bang lập ra Hội đồng Thẩm định có quyền phê chuẩn mọi đạo luật, do Quốc hội Liên bang ban hành, trước khi các bộ luật này có hiệu lực; có quyền phê chuẩn sự phủ quyết của Quốc hội Liên bang đối với mọi đạo luật của tiểu bang. Quyền bác bỏ của Hội đồng này được coi như quyền phủ quyết, trừ phi các dự luật này lại được Quốc hội Liên bang thông qua một lần nữa, hay các dự luật tiểu bang lại một lần nữa bị các thành viên của cả hai Viện phủ quyết.

Kiến nghị rằng phải thiết lập bộ máy tư pháp quốc gia, bao gồm một hay nhiều tòa án tối cao và các tòa án cấp thấp hơn, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn. Các viên thẩm phán này được giữ chức vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt và tại những thời điểm qui định, được nhận các khoản tiền không tăng và không giảm trong suốt nhiệm kỳ phục vụ, để đền bù cho công việc của họ.

Các tòa án cấp thấp hơn có quyền nghe và phán quyết sơ thẩm, còn các tòa án tối cao nghe và phán quyết phúc thẩm đối với mọi hành động tội phạm nghiêm trọng, hay xảy ra tại hải phận quốc tế, hoặc bị kẻ thù bắt, những vụ xét xử công dân nước ngoài, hay công dân của các tiểu bang khác, những vụ liên quan đến việc thu thuế quốc gia, những vụ luận tội bất kỳ viên chức chính quyền nào, và những vụ liên quan đến chiến tranh, hòa bình, hay sự thống nhất của đất nước.

Kiến nghị rằng những điều khoản này phải được các chính quyền tiểu bang, hay chính quyền của một vùng đất trong phạm vi lãnh thổ của Hợp chúng quốc, phê chuẩn hợp pháp với sự ưng thuận của đa số đại biểu trong cơ quan lập pháp quốc gia.

Kiến nghị rằng chính quyền Hợp chúng quốc phải đảm bảo mọi tiểu bang đều có chính quyền cộng hòa và đảm bảo lãnh thổ của mỗi tiểu bang, ngoại trừ các vùng đất mà chính quyền tiểu bang tự nguyện trao nộp cho chính quyền liên bang.

Kiến nghị rằng Quốc hội Hợp bang, với các thẩm quyền và đặc ân của họ, vẫn tiếp tục làm việc cho tới một ngày nhất định, sau khi việc sửa đổi các điều khoản trong Hiến pháp Liên bang được chấp thuận, để hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình.

Kiến nghị rằng các sửa đổi và bổ sung cho Các điều khoản của Liên bang có thể làm ra bất cứ khi nào thấy cần thiết mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội Liên bang .

Kiến nghị rằng các viên chức nắm giữ quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp của tiểu bang phải tuyên thệ bảo vệ và tuân thủ Hiến pháp Liên bang.

Kiến nghị rằng sau khi có sự phê chuẩn của Quốc hội Liên bang, các tu chính án sẽ được đệ trình lên một Hội nghị các đại biểu do dân chúng chọn ra trong số những người được các cơ quan lập pháp tiểu bang đề xuất, để xem xét và quyết định.

Ông kêu gọi đừng bỏ lỡ cơ hội hiện nay để cải thiện hòa bình, ổn định, thống nhất, hạnh phúc và tự do của nước Mỹ.

Hội nghị dừng họp tại đây.
 
Tranh luận về cách thức bầu chọn Hạ nghị sĩ​


Ngày 31 tháng Năm và ngày 6 tháng Sáu​


Sau khi Randolph trình bày Phương án Virginia, Hội nghị bắt đầu tiến hành thảo luận từng điểm một và sửa đổi, bổ sung những điểm mới. Ngày 31 tháng Năm và ngày 6 tháng Sáu, Hội nghị bắt đầu thảo luận đến các điểm về quyền đại diện của các tiểu bang tại Quốc hội và cách thức bầu chọn người đại diện.

Đây là một điểm sửa đổi mấu chốt nhất trong các đề xuất của Randolph so với Các điều khoản Hợp bang trước đó. Đề xuất của Randolph là việc đại diện tại Hạ viện phải căn cứ vào số dân. Các bang đông dân phải có nhiều đại diện hơn.

Về cơ bản, các đại biểu đều đồng ý việc đại diện theo qui mô dân số, nhưng lại bất đồng về cách thức bầu chọn bởi dường như không có cách thức nào hoàn toàn tốt đẹp. Hàng loạt các cách bầu cử được trình bày và cuối cùng, Hội nghị đồng ý rằng Hạ viện sẽ do dân chúng trực tiếp bầu chọn. Trong cuộc tranh luận này, các lập luận của Madison là đặc biệt có giá trị và sau này, được ông sử dụng trong tác phẩm Người Liên bang.

Hội nghị tiếp tục xem xét các đề xuất của Ngài Randolph.

Đề xuất thứ ba: "Kiến nghị rằng cơ quan lập pháp quốc gia phải bao gồm hai Viện" được hoàn toàn nhất trí và không ai phản đối.

Đề xuất thứ tư: phần đầu qui định "các thành viên viện thứ nhất trong cơ quan lập pháp quốc gia phải do dân chúng các tiểu bang bầu chọn" được đưa ra Hội nghị thảo luận.

Ngài Sherman: Phản đối việc người dân bầu chọn. Ông khẳng định việc này phải do cơ quan lập pháp các tiểu bang bầu chọn. Những người dân thường hiểu biết quá ít về chính quyền. Họ không đủ thông tin nên thường xuyên nhầm lẫn.

Ngài Gerry: Những điều xấu xa mà chúng ta vừa trải qua đều bắt nguồn từ việc lạm dụng quyền dân chủ. Công chúng không những không chọn ra những người có tư cách mà lại ủng hộ những kẻ bịp bợm, giả danh yêu nước. Thực tế ở Massachusetts cho thấy dân chúng thường xuyên bị nhầm lẫn do những mưu mô thâm độc và những bài báo giả dối từ những kẻ xảo quyệt lưu hành, điều mà không ai có thể chống lại được. Mối tai họa chính yếu xuất phát từ sự tham nhũng của những kẻ làm việc trong chính quyền.

Dường như thứ dân chủ giả dạng sẽ bóp chết những người làm việc cho nền cộng hòa. Ví dụ như những lời la ó khắp Massachusetts chống đối và đòi giảm lương của Thống đốc, dù điều này được chính Hiến pháp bảo vệ. Ông khẳng định ông đã là một người cộng hòa và sẽ còn là một người cộng hòa, nhưng kinh nghiệm đã dạy ông về những mối nguy hiểm của tư tưởng bình đẳng cào bằng.

Ngài Mason: Mạnh mẽ đấu tranh bảo vệ quyền bầu cử Hạ viện của toàn bộ dân chúng bởi đó là đặc ân cao cả về nguyên tắc dân chủ của chính quyền. Có thể nói rằng đó chính là "Viện bình dân" của Hợp chúng quốc. Phải hiểu và thông cảm với mọi tầng lớp trong xã hội. Do vậy, việc bầu chọn không thể chỉ được một số tầng lớp khác biệt nào đó của xã hội thực hiện mà phải do mọi thành phần, mọi địa phương trong nền cộng hòa bầu chọn. Nhiều ví dụ, điển hình là ở Virginia, những khác biệt về quan điểm và lợi ích nảy sinh từ những khác biệt về tầng lớp, tập quán...

Ông đồng ý rằng nền dân chủ ở Mỹ hơi thái quá, nhưng cũng e ngại rằng liên bang sẽ rơi vào một tình thế hoàn toàn đối lập. Chúng ta cần phải tôn trọng quyền của mọi tầng lớp trong xã hội. Ông lo ngại các tầng lớp trên sẽ thờ ơ và lãnh đạm đối với các vấn đề nhân đạo và bình đẳng. Tuy nhiên, không chỉ có thể mà chắc chắn sau một thời gian, hoàn cảnh sống và địa vị của các tầng lớp dưới sẽ được cải thiện, khi tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội trở nên giàu có hơn. Chúng ta phải xóa bỏ mọi động cơ ích kỷ và những đặc ân quý tộc để chấp nhận chính sách đảm bảo quyền và hạnh phúc cho những tầng lớp thấp kém nhất cũng không kém những tầng lớp cao quý nhất trong xã hội.

Ngài Wilson: Kiên quyết đòi trao cho toàn thể dân chúng quyền bầu chọn trực tiếp Viện đông đại biểu nhất của cơ quan lập pháp [tức là Hạ viện] và muốn việc bầu chọn này được mở rộng tới mức có thể. Không có chính quyền nào có thể tồn tại lâu dài, nếu thiếu niềm tin của dân chúng. Trong một chính quyền cộng hòa, thì niềm tin này lại đặc biệt cần thiết. Việc tăng quyền lực cho các cơ quan lập pháp tiểu bang khi cho phép họ bầu chọn cơ quan lập pháp Quốc gia là sai lầm. Mọi dính líu giữa các chính quyền địa phương và trung ương phải càng giảm tối đa càng tốt. Thực tế cho thấy sự chống đối của các tiểu bang `đối với liên bang chủ yếu phát sinh từ chính các viên chức chính quyền tiểu bang hơn là từ phía dân chúng.

Ngài Madison: Coi việc bầu cử của toàn thể dân chúng đối với một viện của nhánh lập pháp là điều sống còn cho mọi mô hình chính quyền tự do. Tại một số tiểu bang, cơ quan lập pháp bao gồm những đại biểu do các đại cử tri chọn ra. Vì thế, nếu Hạ viện do cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, Thượng viện được Hạ viện bầu, bộ máy hành pháp [tức là Tổng thống] sẽ được cả Thượng viện và Hạ viện kết hợp lại lựa chọn, và hơn nữa còn những chức vụ khác lại do nhánh hành pháp bổ nhiệm thì dân chúng sẽ hoàn toàn mất quyền.

Do vậy, sự cảm thông cần thiết giữa dân chúng và các nghị sĩ, các viên chức chính quyền hầu như chẳng còn. Ông cũng tán thành chính sách "tinh chế" việc bổ nhiệm bởi một lần bầu chọn tiếp nữa của dân chúng, nhưng cho rằng cách này đã đi quá xa. Ông muốn cách thức này chỉ áp dụng cho việc bầu chọn các thành viên của Thượng viện, của bộ máy hành pháp và các cơ quan tư pháp. Một công trình vĩ đại sẽ được xây dựng ổn định và bền vững hơn nếu nó dựa trên nền tảng vững chắc là dân chúng hơn là thuần tuý dựa vào các cơ quan lập pháp tiểu bang.

Ngài Gerry: Không muốn cho dân chúng có quyền bầu cử. Những đặc ân của Hiến pháp nước Anh thường là sai lầm khi áp dụng cho thực tế Hợp chúng quốc vì đây là một môi trường hoàn toàn khác. Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng các nghị sĩ tiểu bang được dân chúng bầu chọn trực tiếp không phải lúc nào cũng được dân chúng tin tưởng.

Tuy nhiên, ông không phản đối quyền bầu cử của dân chúng nếu có nhiều công dân có địa vị, có tên tuổi sẵn lòng tham gia vào trong danh sách những người ứng cử. Dân chúng nên đề cử một số lượng đại biểu nhất định nào đó và từ số này, các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ chọn ra những đại biểu cuối cùng.

Ngài Buttler: Mô hình để dân chúng bầu cử trực tiếp là không thực tế.

Kết quả bỏ phiếu về việc dân chúng trực tiếp bầu chọn Hạ Viện:

MA: đồng ý; CT: không quyết định; NY: đồng ý; NJ: phản đối; PA: đồng ý; DE: không quyết định; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: phản đối; GA: đồng ý.
 
Tranh luận về cách thức bầu chọn Hạ nghị sĩ (tiếp theo)​


Ngày 6 tháng Sáu​


Phải trao vào tay dân chúng quyền tham gia thiết lập một nhánh của chính quyền để truyền cho chính quyền niềm tin cần thiết. Nhưng mặt khác, ông muốn sửa đổi mô hình bầu cử này để đảm bảo chọn lựa được những người có phẩm chất và năng lực xứng đáng.

Ngài Pinkney: Căn cứ vào những ghi chép và qui định của Hội nghị, đề xuất "Hạ viện phải do các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, chứ không phải do dân chúng". Trong trường hợp này, dân chúng không thể là những người chọn lựa thích hợp. Hơn nữa, nghị viện các tiểu bang sẽ khó lòng ủng hộ việc phê chuẩn mô hình chính quyền mới nếu họ không có quyền thiết lập nó.

Ngài Rutlidge: Ủng hộ ý kiến này.

Ngài Gerry: Rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào phương pháp bầu cử. Tại nước Anh, công chúng có thể bị mất quyền tự do vì chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân chúng mới có quyền bầu cử. Mối nguy hiểm của chúng ta nảy sinh từ thái cực ngược lại. Như ở Massachusetts, những kẻ tồi tệ nhất, tầm thường nhất lại được bầu vào cơ quan lập pháp.

Nhiều thành viên của cơ quan này mới đây đã bị kết án vì liên quan đến những tội lỗi xấu xa. Những kẻ hèn hạ, xấu xa, thấp kém... dùng những ý kiến bẩn thỉu của chúng chống lại những người vượt trội về kinh nghiệm và đạo đức. Ông không muốn sa vào hai thái cực đối lập này. Nguyên tắc của ông là chống lại chế độ quân chủ và chống lại chính quyền do tầng lớp quý tộc điều hành.

Phải trao vào tay dân chúng quyền tham gia thiết lập một nhánh của chính quyền để truyền cho chính quyền niềm tin cần thiết. Nhưng mặt khác, ông muốn sửa đổi mô hình bầu cử này để đảm bảo chọn lựa được những người có phẩm chất và năng lực xứng đáng. Ý kiến của ông là dân chúng trong các quận bầu cử sẽ đề cử một số đại biểu, còn các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ chọn lựa Hạ nghị sĩ trong số các ứng cử viên này.

Ngài Wilson: Mong ước có một chính quyền mạnh, nhưng muốn những quyền hạn mạnh mẽ này phải xuất phát từ những thẩm quyền lập hiến hợp pháp. Chính phủ không chỉ sở hữu những quyền lực to lớn đó mà còn phải thể hiện được ý muốn và tâm trạng của đa số dân chúng. Viện đại diện này sẽ phải là nơi thể hiện chính xác nhất ý nguyện đó của toàn xã hội.

Những người đại diện cần thiết được chọn ra vì lẽ toàn thể dân chúng không thể hợp tác với nhau được. Ông cho rằng sự chống đối sẽ xuất phát từ các chính quyền tiểu bang chứ không phải từ dân chúng. Các viên chức tiểu bang sẽ là những người bị mất quyền lực. Dân chúng sẽ gắn bó với chính quyền quốc gia hơn là chính quyền các tiểu bang, vì chính quyền liên bang quan trọng hơn và thỏa mãn lòng kiêu hãnh của họ.

Nếu việc bầu cử tiến hành trong các quận lớn, thì không hề có mối nguy hiểm nào bởi các cuộc bầu cử gian trá. Các cuộc bầu cử tồi tệ xuất phát từ những quận nhỏ khi tạo ra cơ hội cho những kẻ xoàng xĩnh dùng mưu đồ để trúng cử.

Ngài Sherman: Nếu xóa bỏ chính quyền tiểu bang thì các cuộc bầu cử phải thuộc về dân chúng. Nếu chính quyền các tiểu bang vẫn tiếp tục tồn tại thì cần thiết phải duy trì sự hài hòa giữa chính quyền quốc gia và các chính quyền tiểu bang, cho nên chính quyền quốc gia phải do chính quyền tiểu bang bầu chọn. Quyền tham dự việc điều hành đất nước của dân chúng sẽ được bảo đảm một cách hiệu quả bởi họ có quyền bầu ra cơ quan lập pháp tiểu bang.

Liên bang có những mục đích sau:

1. Bảo vệ đất nước chống lại các mối nguy hiểm ngoại bang.

2. Sử dụng vũ lực chống lại những tranh chấp bên trong.

3. Ký kết các hiệp ước với nước ngoài.

4. Ðiều hành vấn đề thương mại với nước ngoài và thu thuế.

Ðây là những mục tiêu làm cho sự thành lập Liên bang là cần thiết. Đối với các vấn đề dân sự và hình sự, thì chính quyền tiểu bang sẽ kiểm soát tốt hơn. Dân chúng thường hạnh phúc ở các tiểu bang nhỏ hơn là ở các bang lớn. Nhưng các tiểu bang quá nhỏ như Rhode Island lại là nơi rất dễ xuất hiện những phe phái. Một số tiểu bang khác lại quá lớn nên quyền lực của chính phủ không thể lan khắp mọi vùng được. Ông tán thành việc trao cho chính quyền quốc gia quyền hành pháp và lập pháp trong một số lĩnh vực nhất định.

Ðại tá Mason: Trong Hợp bang hiện nay, Quốc hội đại diện cho các bang chứ không đại diện cho người dân. Những đạo luật của Quốc hội là áp dụng đối với các chính quyền tiểu bang chứ không trực tiếp với dân chúng. Điều này phải được thay đổi trong chính quyền mới. Dân chúng có quyền được đại diện, nên họ phải được quyền chọn các đại diện cho họ, tức là các Hạ nghị sĩ.

Những người đại diện là rất cần thiết vì chỉ họ mới cảm thông được với dân chúng, mới suy nghĩ như dân chúng suy nghĩ, mới cảm nhận được những điều dân chúng cảm nhận. Điều này cho thấy các Hạ nghị sĩ phải được chính những người dân bầu ra. Rất nhiều điều đã được viện dẫn để phản đối các cuộc bầu cử dân chủ và dù nhiều điều có lý, nhưng cũng phải thấy rằng không có chính quyền nào là thoát khỏi sai lầm và trục trặc cả.

Trong nhiều trường hợp, các chính quyền cộng hòa không thể thoát khỏi những cuộc bầu cử tồi tệ, nhưng cần so sánh những điều này với các thuận lợi [của mô hình chính quyền được đề nghị] để ủng hộ quyền của dân chúng, ủng hộ bản chất tự nhiên của loài người. Nếu dân chúng được chia vào các quận bầu cử lớn, thì những cuộc bầu cử của họ sẽ có khả năng tốt đẹp hơn [những cuộc bầu cử] được cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành.

Tiền giấy bị cơ quan lập pháp ngăn cấm, trong khi dân chúng lại đòi hỏi. Ðiều đó cho thấy các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ không muốn trao cho cơ quan lập pháp quốc gia quyền bảo vệ những vấn đề này nếu tiểu bang có quyền bầu chọn.

Ngài Madison: Việc dân chúng trực tiếp bầu chọn một viện của cơ quan lập pháp rõ ràng là nguyên tắc không thể thiếu của một chính quyền tự do. Mô hình này, khi có những qui định thích đáng, sẽ tạo thuận lợi để chọn được những đại biểu tốt, đồng thời tránh được ảnh hưởng quá lớn của chính quyền tiểu bang trong chính quyền liên bang.

Ông không đồng ý khi Ngài Sherman cho rằng những mục tiêu được đề cập trên đây là những mục tiêu cơ bản của một chính quyền quốc gia. Ðó là những mục tiêu quan trọng và rất cần thiết, nhưng quyền của dân chúng nhất thiết phải được đảm bảo một cách hiệu quả hơn và công lý phải được thi hành chắc chắn hơn. Nếu đi ngược lại những nguyên tắc đó thì Hội nghị này sẽ chẳng mang lại được điều gì ngoài việc gây ra những tội lỗi mới. Nếu quyền của công dân bị lạm dụng như đã xảy ra ở một số tiểu bang thì sự tự do của nền cộng hòa có thể tồn tại lâu dài không?

Ngài Sherman cho rằng tại các bang rất nhỏ, nạn phe phái, bè cánh và sự đàn áp sẽ thịnh hành, thì liệu có thể nói ngược lại rằng bất cứ ở đâu có những tội lỗi này đều là những tiểu bang quá nhỏ bé không? Nếu ở các tiểu bang lớn nhất, những nguy cơ này đều ở mức độ nhỏ hơn các bang nhỏ, thì sao chúng ta không mở rộng vùng đất này đến mức bản chất của chính quyền có thể chấp nhận được. Ðây chỉ là một cách bảo vệ chống lại những bất lợi mà nền dân chủ thường gây ra trong xã hội.
 
Tranh luận về cách thức bầu chọn Hạ nghị sĩ (tiếp theo)​


Xã hội văn minh nào cũng đều chia thành những phe phái, những tầng lớp và những lợi ích khác nhau, tất yếu phải bao gồm người giàu và người nghèo, những chủ nợ và con nợ, những lợi ích nông nghiệp, thương mại hay sản xuất, những công dân cư trú ở vùng này, hay vùng kia, những người ủng hộ chính trị gia này hay chính trị gia kia, những con chiên theo tôn giáo này hay tôn giáo khác.

Trong mọi trường hợp khi đa số thống nhất cùng một mục đích hay tâm trạng chung thì quyền của thiểu số sẽ bị nguy hiểm.

Vậy đâu là động cơ kiềm chế những nguy cơ này? Nghiên cứu cẩn thận vấn đề này sẽ cho thấy sự trung thực là chính sách tốt nhất, nhưng kinh nghiệm cho thấy điều này ít được các tổ chức cũng như các cá nhân coi trọng... Lương tâm, sự ràng buộc duy nhất còn lại, thì không giống nhau ở các cá nhân: đa số hầu như có rất ít lương tâm. Bên cạnh đó, bản thân tôn giáo cũng có thể trở thành động cơ cho sự ngược đãi, hay chèn ép.

Những điều này đã được lịch sử của tất cả các quốc gia cổ đại cũng như hiện đại chứng minh. Ở Hy Lạp và La Mã, người giàu và người nghèo, con nợ và chủ nợ, cũng như quý tộc và bình dân, thường đàn áp nhau một cách không thương tiếc. Nguồn gốc của những áp bức này là mối quan hệ giữa các thành phố mẹ như Roma, Athens và Carthage với các tỉnh lệ thuộc vào họ. Các thành phố mẹ nắm giữ quyền lực, còn những tỉnh lệ thuộc bị chia tách để dễ kiểm soát. Tại sao nước Mỹ phải lo sợ sự bất công của Nghị viện Anh? Bởi nước Anh có lợi ích khác với nước Mỹ nên nếu chúng ta chấp nhận những phán quyết đó, thì nước Anh sẽ giành được lợi lộc trong khi nước Mỹ phải gánh chịu phần thua thiệt.

Chúng ta đã thấy là chỉ sự khác biệt về màu da, ngay cả trong thời kỳ khai sáng, cũng gây ra sự đàn áp và bóc lột tồi tệ nhất giữa con người với con người. Vậy đâu là nguồn gốc của những luật pháp bất công đó mà bản thân chúng ta từng lên án? Không phải là vì lợi ích của đa số sao? Các con nợ thường lừa gạt chủ nợ. Lợi ích nông nghiệp thường phá hỏng những lợi ích thương mại. Những người sở hữu một loại tài sản nào đó thường muốn đánh thuế cao đối với những người sở hữu các loại tài sản khác.

Bài học mà chúng ta rút ra được là nơi nào đa số thống nhất một mục đích chung và có cơ hội, thì quyền của thiểu số sẽ không được bảo đảm. Trong chính quyền cộng hòa, đa số nếu thống nhất, luôn luôn có cơ hội chèn ép thiểu số. Giải pháp duy nhất là mở rộng lãnh thổ để xã hội chia thành rất nhiều những phe phái và lợi ích khác nhau và tại cùng một thời điểm, đa số không thể tập hợp lại để có một lợi ích chung khác biệt với lợi ích của toàn thể, hay của thiểu số. Dù trong trường hợp họ có chung một lợi ích như vậy thì họ cũng không thể tập hợp thống nhất để theo đuổi lợi ích này. Bổn phận của chúng ta phải thực hiện giải pháp này và với quan điểm đó xây dựng mô hình Nhà nước Cộng hòa với mức độ và hình thức sao cho kiểm soát được mọi tội ác mà chúng ta từng chứng kiến.

Ngài Dickinson: Cho rằng nhất thiết một Viện của cơ quan lập pháp phải do dân chúng bầu cử trực tiếp. Khi đó, nhánh kia sẽ được các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa. Sự kết hợp giữa các chính quyền tiểu bang với chính quyền quốc gia, về mặt chính trị, là không thể tránh khỏi. Để bầu chọn Thượng viện, chúng ta cần tiến hành thông qua một cách thức "tinh tế" và "chắt lọc", tương tự như cách bầu chọn Viện quý tộc ở Anh.

Ông nhắc lại những lời tán dương nồng nhiệt đối với thể chế nước Anh. Ông ủng hộ một chính quyền quốc gia mạnh, nhưng phải cho phép các tiểu bang có quyền lực trong hệ thống này. Việc các tiểu bang chống đối sự hình thành chính quyền liên bang sẽ được ngăn ngừa bằng cách trao cho Thượng viện thẩm quyền vĩnh viễn và không thể xâm phạm trong thời hạn ba, năm hay bảy năm. Ðược độc lập như vậy, họ sẽ phát biểu và quyết định tự do hơn.

Ngài Read: Có quá nhiều điều đang phản bội lại chính quyền tiểu bang nhưng chúng ta phải tiếp tục duy trì sự tồn tại của chính quyền tiểu bang. Một chính quyền quốc gia sẽ nhanh chóng "nuốt chửng" họ nên chính quyền tiểu bang chỉ còn là một cơ quan thuần tuý lựa chọn Thượng nghị sĩ Liên bang. Ông phản đối việc sửa chữa chắp vá hệ thống liên minh cũ vì điều đó cũng chỉ như việc may bộ quần áo mới bằng những mảnh vải cũ. Hợp bang chỉ được xây dựng trên những nguyên tắc tạm thời, không thể kéo dài, không thể sửa chữa. Nếu chúng ta không thiết lập một chính quyền tốt trên những nguyên tắc mới, chúng ta sẽ sụp đổ hoặc là lại phải làm lại từ đầu. Mối ác cảm đối với chính quyền liên bang đang có trong suy nghĩ của những viên chức tiểu bang.

Ngài Pierce: Ủng hộ việc Hạ viện do người dân trực tiếp bầu chọn, còn Thượng viện do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn. Với mô hình này, công dân các tiểu bang vừa có quyền đại diện cá nhân, vừa có quyền đại diện tập thể.

Tướng Pinkney: Mong muốn có một cơ quan lập pháp quốc gia tốt, nhưng đồng thời vẫn phải giữ lại quyền hạn đáng kể cho các tiểu bang. Việc để dân chúng, những người sống rải rác trong nhiều bang, đặc biệt là tại bang Nam Carolina, bầu cử bất kỳ Viện nào là hoàn toàn không thực tế. Ông không cho rằng việc dân chúng bầu chọn sẽ là cách bảo vệ tốt hơn các cơ quan lập pháp tiểu bang trong việc chống lại những mưu mô toan tính xấu xa. Đa số dân chúng ở bang Nam Carolina hoàn toàn ủng hộ tiền giấy như là một hình thức trao đổi hợp pháp, nhưng Nghị viện lại bác bỏ. Lý do là vì một số thành viên cơ quan lập pháp lo ngại và không dám bênh vực. Quốc hội tiểu bang sẽ ghen tị và hiềm khích đối với chính quyền quốc gia nếu họ không được tham gia. Vì thế, ý tưởng loại bỏ các cơ quan lập pháp này sẽ không bao giờ được hoan nghênh.

Ngài Wilson: Không có sự bất tương hợp nào giữa các chính quyền tiểu bang và liên bang, miễn là chính quyền tiểu bang vẫn được giữ lại để thực hiện những mục đích ở địa phương và cũng không thể bị chính quyền Liên bang nuốt chửng được. Trong mọi hệ thống chính quyền cổ xưa và hiện đại thì điều ngược lại mới xảy ra. Chính quyền trung ương sẽ dần dần bị sự tiếm quyền của những quốc gia thành viên phá hỏng.

Đề xuất của Ngài Pinkney rằng cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn Hạ viện bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ: MA: phản đối; CT: tán thành; NY: phản đối; NJ: tán thành; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: phản đối.
 
Tranh luận về bộ máy hành pháp​


Ngày 1 tháng Sáu và ngày 4 tháng Sáu​


Cuộc họp này lại tiếp tục thảo luận về đề xuất của Randolph về nhánh hành pháp. Mọi đại biểu đều tán thành mô hình phân chia quyền lực nhằm kiểm soát và đối trọng lẫn nhau giữa các nhánh chính quyền.

Dù đều thống nhất quan điểm thiết lập một cơ quan tối cao có nhiệm vụ thực thi mọi đạo luật của Quốc hội, nhưng các đại biểu lại bất đồng về cách thức bầu chọn và mô hình của nhánh chính quyền này. Trên thực tế, cơ quan hành pháp là một điểm rất quan trọng và gây nhiều tranh cãi.

Thậm chí, có đại biểu lại đề xuất mô hình "tam đầu chế” hoặc một Hội đồng Tổng thống với số lượng không cố định. Nhiều đại biểu lo sợ việc nhánh hành pháp chỉ gồm một người sẽ dẫn tới thể chế độc tài.

Từ ngày 1 đến ngày 4 tháng Sáu, các đại biểu đã thảo luận sơ bộ về cách thức và nhiệm kỳ của Tổng thống, nhưng tới cuối tháng Tám, vấn đề này lại được đưa ra bàn. Vấn đề bầu chọn, nhiệm kỳ và quyền lực của Tổng thống là một trong những chủ đề quan trọng nhất và được tranh luận kỹ lưỡng nhất tại Hội nghị.

Hội nghị tiếp tục xem xét đề xuất thứ bảy của Ngài Randolph. "thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia, do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn, với một nhiệm kỳ nhất định, không được bầu chọn lần thứ hai, để nắm giữ các quyền hành pháp của Quốc hội".

Ngài PICKNEY: Ủng hộ một chính quyền mạnh, nhưng lo sợ các quyền hành pháp của Quốc hội Hợp bang hiện nay về chiến tranh và hòa bình mà trao cho nhánh hành pháp, thì chính quyền có thể biến thành chế độ quân chủ, một dạng tồi tệ nhất nếu chỉ do một người điều hành.

Ngài WILSON: Cho rằng quyền lực hành pháp cần phải được trao vào tay một người.

Ngài C. PICKNEY: Ủng hộ quan điểm này và muốn bản Hiến pháp viết: "thiết lập nhánh hành pháp quốc gia do một người điều hành".

Học giả FRANKLIN: Đề nghị tạm dừng các tranh luận vì đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng nên muốn tất cả các đại biểu đều trình bày ý kiến của mình trước khi tiến hành biểu quyết.

Ngài RUTLEDGE: Chỉ trích sự e ngại của các đại biểu trong việc trình bày quan điểm của họ về vấn đề này cũng như các vấn đề khác. Ông nói rằng cứ như thể các đại biểu tự cho phép mình rút khỏi các cuộc tranh luận và không trình bày thẳng thắn các quan điểm của mình, điều mà bất cứ trường hợp nào ông cũng không bao giờ làm.

Ông ủng hộ việc trao quyền hành pháp cho một người duy nhất, nhưng ông không tán thành việc trao cho ông ta quyền tuyên bố chiến tranh và hòa bình. Một người điều hành sẽ có được trách nhiệm lớn lao nhất và điều hành công việc cộng đồng một cách tốt nhất.

Ngài SHERMAN: Coi Hội đồng hành pháp tối cao không khác gì cơ quan thực thi mọi ý muốn của Quốc hội, nên một hay nhiều người đều phải do Quốc hội bổ nhiệm và là những người được Quốc hội tin cậy, vì chỉ có Quốc hội mới nhận thức và thể hiện được ý muốn tối cao của dân chúng.

Các nghị sĩ cũng là các quan tòa tốt nhất trong việc phát xét cách điều hành của chính quyền, nên ông cho rằng số lượng người trong nhánh hành pháp không nên cố định mà có thể thay đổi tùy theo nhu cầu công việc và hoàn toàn do Quốc hội tự do bổ nhiệm.

Ngài WILSON: Tán thành việc trao quyền hành cho một người duy nhất, bởi một người sẽ có trách nhiệm cao nhất và có nhiều quyền hành nhất. Ông không coi các đặc quyền của Vua Anh là hình mẫu đúng đắn và thích hợp cho việc xác định quyền lực hành pháp. Một số đặc quyền này bản chất thuộc về Quốc hội, bao gồm các quyền về chiến tranh và hòa bình. Ông thừa nhận những quyền phải được trao cho nhánh hành pháp là các quyền thi hành luật pháp, quyền bổ nhiệm viên chức chính phủ, những quyền này sẽ không thích hợp nếu trao cho Quốc hội.

Ngài GERRY: Tán thành mô hình Hội đồng hành pháp, bao gồm nhiều người để có thêm sức mạnh và tăng thêm lòng tin của công chúng.

Ngài RANDOLPH: Chống đối kịch liệt sự đơn nhất trong chính quyền hành pháp vì coi đó là mầm mống của nền quân chủ. Ông cho rằng không có lý do nào để noi theo mô hình chính quyền Vương quốc Anh. Tuy nhiên, ông không định phê phán mô hình tuyệt vời này. Nhưng nếu các đại biểu khác dự định áp dụng mô hình đó, thì ông không biết có nên phản đối hay không.

Nhưng những đặc tính đã định hình của người Mỹ đòi hỏi một mô hình chính quyền hoàn toàn khác. Ông không hiểu được tại sao những điều thiết yếu nhất về nhánh hành pháp: sự mạnh mẽ, sự khẩn trương và trách nhiệm lại không thể tìm thấy trong một nhóm gồm ba người như là đối với một người. Nhánh hành pháp phải đảm bảo tính độc lập và để đảm bảo sự độc lập thì cơ quan này phải gồm nhiều hơn một người.

Ngài WILSON: Cho rằng nhánh hành pháp một người không phải là mầm mống của nền quân chủ mà thực ra là cách bảo vệ tốt nhất chống lại nền độc tài. Ông không coi mô hình chính quyền Anh là phù hợp với tình hình nước Mỹ hiện nay. Lãnh thổ nước Mỹ quá rộng lớn và phong tục tập quán đã quá cộng hòa, nên không có gì khác ngoài một nền cộng hòa liên bang vĩ đại mới thích hợp.

Ý kiến về một nền hành pháp nhất thể, quyền lực trao cho một người như Ngài Wilson đề nghị tạm thời bị hoãn lại. Hội nghị dường như chưa được sẵn sàng quyết định vấn đề này, nhưng hoàn toàn nhất trí với điều khoản "phải thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia".

Ngài MADISON: Trước khi quyết định nhánh hành pháp sẽ gồm một hay nhiều người, tốt hơn nên thảo luận về phạm vi quyền lực của cơ quan này, những quyền tất nhiên thuộc về hành pháp thì phải trao cho nó. Dù được một người hay nhiều người điều hành, việc xác định phạm vi quyền lực sẽ góp phần quyết định rằng liệu việc trao mọi quyền đó vào tay một người duy nhất có an toàn không.

Vì điều khoản này chủ yếu liên quan đến quyền lực của nhánh hành pháp nên sau câu "phải thiết lập một cơ quan hành pháp quốc gia", cần bổ sung "với quyền thi hành các bộ luật quốc gia, bổ nhiệm các viên chức chính phủ và trong các trường hợp không thuộc phạm vi quyền lực của nhánh tư pháp và lập pháp, hoặc đôi lúc được cơ quan Lập pháp ủy nhiệm các quyền lực khác".

Câu "không thuộc phạm vi quyền lực tự nhiên của nhánh tư pháp và lập pháp" nên đưa thêm vào theo đề nghị của Tướng Pinkney, bởi ông sợ nhánh hành pháp sẽ giành cả những quyền lực không chính đáng khác.

Ngài WILSON: Tán thành ý kiến này.

Ngài PINKNEY: Đề nghị bỏ đoạn cuối cùng "để thi hành những quyền không thuộc về nhánh lập pháp và tư pháp, hay các quyền khác khi được ủy nhiệm" trong điều khoản này. Câu này không cần thiết vì đối tượng của qui định này đã nằm trong tuyên bố "có quyền thi hành mọi đạo luật quốc gia".

Ngài RANDOLPH: Ủng hộ ý kiến này.

Ngài MADISON: Không biết chắc liệu những câu chữ này có thật sự cần thiết hay không, hay thậm chí cả những từ trước đó như "bổ nhiệm các viên chức chính phủ…". Toàn bộ những điều này có thể đã bao gồm trong vế đầu tiên của điều khoản này. Nhưng ông cũng không thấy sự bất lợi hay phiền phức nào trong việc giữ lại đoạn này. Trong các trường hợp cần thiết, việc ghi cụ thể như vậy sẽ tránh được những mập mờ và hiểu nhầm.
 
Tranh luận về cách bầu chọn Thượng nghị sĩ​


Ngày 7 tháng Sáu​


Nhiệm kỳ và cách thức bầu chọn Thượng viện cũng là một điểm quan trọng được các đại biểu thảo luận rất kỹ càng. Hàng loạt cách thức bầu chọn được đưa ra, nhưng việc qui định tỷ lệ đại diện tại Thượng viện căn cứ vào qui mô dân số đã làm các bang nhỏ rất lo sợ.

Cuộc họp ngày 7 tháng Sáu chỉ thảo luận về cách thức bầu chọn Thượng nghị sĩ, nhưng vấn đề này không chấm dứt trong ngày hôm đó mà còn kéo dài và là một trong những điểm gây tranh cãi nhất trong suốt thời gian Hội nghị.

Điều khoản Hạ viện sẽ bầu chọn Thượng viện, do Ngài Randolph đề xuất, được đưa ra xem xét.

Ngài DICKENSON: Đề nghị "các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ bầu chọn thành viên của Thượng viện".

Ngài SHERMAN: Tán thành ý kiến này, vì như vậy, các tiểu bang sẽ ủng hộ chính quyền quốc gia và sự hài hòa giữa hai hệ thống chính quyền Liên bang và tiểu bang sẽ được duy trì. Ông cũng đề nghị hai hệ thống chính quyền này phải có các hệ thống tư pháp tách biệt, nhưng các cơ quan tư pháp phải ủng hộ lẫn nhau vì những lợi ích chung.

Ngài PINCKNEY: Nếu các tiểu bang nhỏ được phép có một Thượng nghị sĩ, [và số lượng Thượng nghị sĩ tỷ lệ với số dân], thì số thành viên Thượng viện có lẽ sẽ rất lớn, ít nhất là 80 người.

Ngài DICKINSON: Trình bày hai lý do cho quan điểm của ông.

(1) Chính quyền tiểu bang sẽ chọn ra những Thượng nghị sĩ giỏi và có năng lực tốt hơn nếu để dân chúng chọn;

(2) Ông mong muốn Thượng nghị viện sẽ bao gồm những cá nhân xuất chúng nhất, cả về phẩm chất và trí tuệ, và càng vững mạnh càng tốt như Viện quý tộc của nước Anh. Để tìm được những con người như vậy, nên để các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn ra, hơn là bất kỳ phương pháp nào khác.

Ông không lo ngại và phản đối số lượng lớn Thượng nghị sĩ và cho rằng số lượng này sẽ trong khoảng 80 đến 160. Thượng viện với số lượng nghị sĩ quá ít sẽ không đủ sức mạnh đối trọng với Hạ viện. Cơ quan lập pháp đại diện cho đông đảo quần chúng, thì cũng phải có một số lượng đông đảo thích hợp.

Ngài WILLIAMSON: Ủng hộ một số lượng nhỏ các Thượng nghị sĩ, nhưng muốn mỗi bang phải có ít nhất một người. Ông cho rằng con số 25 Thượng nghị sĩ là thích hợp nhất. Sự khác biệt về cách thức bầu chọn đại biểu của hai Viện cũng sẽ có tác dụng kiểm soát lẫn nhau.

Ngài BUTLER: Băn khoăn về tỷ lệ đại diện, nên chưa thể trình bày quan điểm của mình.

Ngài WILSON: Nếu mục đích của những người có mặt tại Hội nghị này là để thiết lập một chính quyền quốc gia, chính quyền đó phải bắt nguồn từ đông đảo nhân dân. Nếu một Viện được các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn, còn Viện kia lại do người dân trực tiếp bầu ra thì hai Viện này sẽ dựa trên hai nền tảng khác nhau và tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn. Ông mong muốn Thượng viện cũng phải do nhân dân trực tiếp bầu ra như Hạ viện. Dân chúng sẽ được chia vào những khu vực bầu cử phù hợp với mục đích này và ông ủng hộ quan điểm của đại biểu Dickinson, hoãn lại vấn đề quan trọng này.

Ngài MORRIS: Tán thành ý kiến đó.

Ngài READ: Đề xuất rằng: "Thượng nghị sĩ sẽ do Nhà hành pháp tối cao của liên bang [tức là Tổng thống] bổ nhiệm trong số những người được các cơ quan lập pháp tiểu bang đề cử"... Nhưng quan điểm này không được ai ủng hộ.

Ngài MADISON: Nếu quan điểm của Ngài Dickinson được chấp nhận [quan điểm cơ quan lập pháp tiểu bang chọn Thượng nghị sĩ] thì chúng ta sẽ hoặc phải từ bỏ lý thuyết đại diện theo tỷ lệ, hoặc phải chấp nhận rằng Thượng viện sẽ rất đông. Hướng thứ nhất là không thể chấp nhận được, vì điều này rõ ràng không công bằng. Hướng thứ hai cũng không hợp lý. Mục đích của Thượng viện là để các quá trình lập pháp trở nên chín chắn và thận trọng hơn, có hệ thống và sáng suốt hơn Hạ viện.

Ông không đồng ý với quan điểm của Dickinson cho rằng việc tăng số lượng đại biểu sẽ tăng thêm quyền lực và sức mạnh của cơ quan này. Ngược lại, sức mạnh của cơ quan này tỷ lệ nghịch với số lượng các đại biểu. Cần phải xem xét ví dụ điển hình về mô hình Quan bảo dân của La Mã . Họ đánh mất ảnh hưởng và quyền lực của mình khi có thêm thành viên.

Nguyên nhân của việc này rất rõ ràng: họ được bổ nhiệm để đảm bảo những quyền lợi và thực thi đòi hỏi của dân chúng La Mã, bởi dân chúng quá đông, không thể phối hợp hành động được. Nhưng ngay lập tức, chính họ lại chia thành các phe phái để trở thành con mồi của giới quý tộc. Dân chúng càng đông thì càng có nhiều đại biểu. Họ càng trở nên không kiên định và dễ bị chia rẽ ngay chính trong nội bộ hoặc là càng trở nên ngờ nghệch trước những mưu mô của các phe phái đối lập, tất yếu không thể thực hiện được bổn phận của mình.

Nếu sức mạnh và uy quyền của một nhóm người phụ thuộc vào phẩm chất của từng cá nhân thì số lượng càng đông, uy quyền càng lớn. Nhưng khi các thẩm quyền chính trị được trao cho họ, số lượng càng ít thì sức mạnh càng lớn. Cần nghiên cứu những xem xét này để áp dụng cho Thượng viện.
 
Tranh luận về cách bầu chọn thượng nghị sĩ (tiếp theo)​


Quá trình bầu chọn này được tiến hành bởi một cơ quan rất am hiểu, do vậy, những lợi ích thương mại cũng được đảm bảo chứ không chỉ các lợi ích nông nghiệp và không có lợi ích nào bị chèn ép quá mức. Không một chính quyền tự do nào có thể tồn tại lâu dài, nếu lợi ích của bất kỳ tầng lớp dân chúng nào bị chèn ép.

Ngài GERRY: Đã có bốn mô hình chọn lựa Thượng nghị sĩ được nêu ra.

1. Bởi Hạ viện, nhưng điều này sẽ tạo ra sự phụ thuộc [của Thượng viện đối với Hạ viện] đi ngược lại mục đích cần đạt đến [là sự độc lập giữa hai viện].

2. Bởi nhánh hành pháp Liên bang. Ðiều này có thể dẫn đến nền quân chủ mà một số đại biểu đã lo ngại.

3. Bởi người dân. Dân chúng có hai mối quan tâm chính, nông nghiệp và thương mại, bao gồm cả những người đang nắm giữ cổ phiếu. Nếu cả hai Viện đều do dân chúng bầu ra, lợi ích thương mại có thể không được đảm bảo bởi đa số dân chúng chỉ quan tâm lệch lạc đến những lợi ích nông nghiệp mà quên đi những lợi ích khác, thậm chí các lợi ích khác còn bị xóa bỏ.

4. Bởi các cơ quan lập pháp tiểu bang. Quá trình bầu chọn này được tiến hành bởi một cơ quan rất am hiểu, do vậy, những lợi ích thương mại cũng được đảm bảo chứ không chỉ các lợi ích nông nghiệp và không có lợi ích nào bị chèn ép quá mức. Không một chính quyền tự do nào có thể tồn tại lâu dài, nếu lợi ích của bất kỳ tầng lớp dân chúng nào bị chèn ép. Do vậy, ông ủng hộ việc bầu chọn Thượng nghị sĩ theo cách này.

Ngài DICKINSON: Việc duy trì chính quyền tiểu bang ở một mức độ nhất định là không thể thiếu được. Điều này sẽ tạo ra sự xung đột giữa những quyền lực khác nhau, nhưng cũng là một sự kiểm soát cần thiết vì chúng có tác dụng kiểm tra lẫn nhau. Cố gắng giảm bớt thẩm quyền tiểu bang bằng cách biến cơ quan này thành các hội đồng đại biểu thuần tuý cũng không thể được bởi điều này sẽ dẫn đến sự suy tàn.

Ông so sánh hệ thống quốc gia được đề xuất với hệ mặt trời, trong đó, các tiểu bang là các hành tinh chuyển động tự do trong quĩ đạo thích hợp cho mình. Ngài Wilson của Pennsylvania mong muốn hủy bỏ các quĩ đạo này. Nếu chính quyền các tiểu bang bị loại khỏi mọi công việc quốc gia thì chính quyền quốc gia sẽ đi theo hướng như chính quyền các tiểu bang hiện nay và rồi cũng sẽ gặp phải tất cả những sai lầm tương tự.

Việc cải cách là nhằm thống nhất 13 dòng suối nhỏ vào một con sông lớn để chúng cùng chảy theo một hướng, để không gây cản trở lẫn nhau. Tuy nhiên, ông tán thành quan điểm cho rằng Thượng viện phải bao gồm nhiều đại biểu, vì khi đó ảnh hưởng của họ cũng sẽ tăng lên nhờ dòng dõi và các yếu tố khác.

Ông không đồng ý rằng Quan Hộ dân La Mã bị mất quyền lực khi tăng thêm người và giải thích nguyên nhân vấn đề này. Nếu lập luận của Ngài Madison là đúng, thì số lượng Thượng nghị sĩ cần phải giảm xuống dưới 10, con số lớn nhất của các quan hộ dân La Mã.

Ngài WILSON: Cách thức chọn lựa Thượng nghị sĩ chắc chắn gặp phải nhiều khó khăn và ngờ vực, nhưng chúng ta cần phải vượt qua. Mô hình chính quyền nước Anh không thể là hình mẫu của nước Mỹ vì sự khác biệt về cách sống, luật pháp, chế độ con trưởng thừa kế bị bãi bỏ và tính cách của toàn thể công chúng. Ông không cho rằng tồn tại nguy cơ chính quyền quốc gia sẽ nuốt chửng chính quyền các tiểu bang. Ngược lại, ông muốn chính quyền quốc gia không bị chính quyền các tiểu bang thôn tính.

Ông đồng ý với ý kiến của Ngài Dickinson cho rằng không nên loại bỏ những hành tinh cũng như những quỹ đạo của nó. Tuy nhiên, ông cũng không tin rằng các hành tinh này sẽ sưởi ấm hay chiếu sáng Mặt trời. Trong phạm vi quĩ đạo đích thực của mình, chính quyền tiểu bang phải chấp nhận hoạt động vì những mục tiêu ít quan trọng hơn [những mục tiêu của địa phương]. Với mục đích này, sự tồn tại của các chính quyền tiểu bang là cần thiết, bởi chính quyền Liên bang không thể điều hành hết phạm vi quá rộng lớn của nền Cộng hòa.

Ông không thể hiểu được tại sao Thượng viện, nếu do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn, sẽ ít quan tâm đến những lợi ích nông nghiệp hơn nếu do chính dân chúng bầu chọn. Nếu các cơ quan lập pháp này, như bị chỉ trích hiện nay, hy sinh lợi ích thương mại vì lợi ích nông nghiệp thì tại sao lại trông đợi họ sẽ ủng hộ lợi ích nông nghiệp nếu điều này đi ngược lại quan điểm và lợi ích của chính họ.

Ông ủng hộ việc bầu cử bởi dân chúng trong các quận lớn, vì cách này sẽ chọn được những người xứng đáng nhất về trí tuệ cũng như nhân cách. Còn việc chia nhỏ các quận bầu cử chỉ làm cho các cử tri bỏ phiếu dễ dàng hơn mà thôi. [vì dân chúng không phải đi quá xa để bỏ phiếu-ND]
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top