Giúp Jen làm bài tập lịch sử

  • Thread starter Thread starter Toantu
  • Ngày gửi Ngày gửi
Đại tướng Phùng Quang Thanh (2 tháng 2 năm 1949 – ) là đương kim Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (Việt Nam), Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X (2006), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, XII.


Tiểu sử

Phùng Quang Thanh sinh tại xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông gia nhập quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1967, tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, Nam Lào. Năm 1968, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1971, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích chiến đấu, lúc đang giữ chức vụ Đại đội trưởng, thuộc Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64, Sư đoàn 320B.

Tháng 6 năm 1971, ông được đi học tại trường Sĩ quan Lục quân. Năm 1972, trở lại chiến đấu, giữ chức Tiểu đoàn trưởng. Tháng 8 năm 1974, ông được đi học tại Học viện Quân sự (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt).

Từ năm 1977 đến 1989, ông lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung đoàn đến Sư đoàn. 8-1988 - 2-1989, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh 312 Năm 1989, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự Voroshilov (Liên Xô), năm sau về nước, học tại Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam).

Từ 8/1991- 8/1993, ông làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312 lần thứ 2. Sau đó được điều về Bộ Tổng Tham mưu giữa chức Phó Cục trưởng (1993) rồi Cục trưởng (1995) Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.

Tháng 8 năm 1997, ông học lớp chính trị ngắn hạn tại Học viện Chính trị Quân sự. Tháng 12 năm 1997, ông được điều về giữ chức Tư lệnh Quân khu 1.

Từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 8 năm 2006, ông giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (thay Trung tướng Lê Văn Dũng sang giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 2006, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Ông được thăng quân hàm Thiếu tướng năm 1994, Trung tướng năm 1999, Thượng tướng năm 2003. Ngày 6 tháng 7 năm 2007, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao quân hàm Đại tướng.

Ông kiêm chức Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm và Cứu nạn.

Ông là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá IX (2001), là ủy viên Bộ Chính trị từ khóa X (2006).
[sửa] Thành tích

* Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 20/9/1971.
* Huân chương Chiến công hạng nhất, hạng nhì, hạng ba.
* Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.
* Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng ba.
* Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, hạng nhì, hạng ba.
* Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhất, hạng nhì, hạng ba.
* Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
 
Nguyễn Sơn (19081956) là một trong những người Việt Nam được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là Lưỡng quốc tướng quân (Tướng quân hai nước).

Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là con cụ Vũ Trường Xương, một nhà đại tư sản ở Hà Nội. Khi mới lên 5 tuổi ông đã bắt đầu học tiếng Pháp tại một trường Dòng ở Hà Nội. Mười bốn tuổi ông thi đậu vào Trường Sư phạm Hà Nội [cần dẫn nguồn]. Tính tình nghịch ngợm, cùng với tinh thần chống Pháp được gia đình truyền thụ, ông thường tổ chức học sinh trường Sư Phạm và trường Bảo Hộ sang đánh nhau với học sinh con Tây tại các trường khác. Để khống chế sự nghịch ngợm của ông, cha mẹ ông đã cho ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giệm, hơn ông bốn tuổi. Sau khi được Nguyễn Công Thu (người của Nguyễn Ái Quốc cử về Việt nam) giác ngộ, ông bày trò giả vờ uống rượu say, gây sự với bố vợ để lấy cớ bỏ người vợ trẻ cùng cô con gái mới 6 tháng tuổi là Vũ Thanh Các để ra đi.
 
Danh tướng Phạm Tu


Sử sách đã ghi lại rằng Phạm Tu là một trong những người ghi dấu ấn đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất Thăng Long xưa. Những năm gần đây, vai trò của ông càng được làm rõ...



Đình Ngoại, nơi thờ danh tướng Pham Tu, tại xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.


Danh tướng Phạm Tu với tên gọi đầy đủ theo bản thần tích xã Thanh Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) là: “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, Thụy Đô Hồ Đại vương, thượng đẳng thần”. Bản thần tích này chép rằng, chính vua Lý Nam Đế đã sai người về làng Thanh Liệt phong Phạm Tu làm “Long Biên Hầu, Thụy Đô Hồ, Bản Cảnh Thành Hoàng” và ban cho xã Thanh Liệt quê hương ông là “Thang mộc ấp” (ấp tắm gội- đất phong tặng).

Phạm Tu sinh hạ ở thôn Vực Mụ, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Vùng này có vợ chồng Phạm Triều và Lý Thị Trạch hiền lành, nhân đức. Theo truyền thuyết, thấy họ có lòng thành, một ngày kia trời cho điềm lạ. Vào một đêm xuân đầu tháng giêng năm Ất Mão (475), bà Lý nằm mộng thấy thần Tây Hồ thay trời xuống ban cho quý tử. Ngày mười tháng ba năm Bính Thìn (476), bà Lý sinh con trai. Khi ấy, hương thơm ngạt ngào tỏa đầy nhà. Ông bà đặt tên con là Phạm Tu.

Từ nhỏ, Phạm Tu đã lộ rõ vẻ phương phi, tuấn tú, chăm đọc sách, học giỏi, đàn sáo hay. Đặc biệt, ông năng luyện võ, sức khỏe hơn người. Dân trong vùng thường gọi là “Đô Tu” với tấm lòng ngưỡng mộ. Người từng vận động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “Cửu niên tam tích” (tích cốc- ngũ cốc phòng cơ, tích y- y phục phòng hàn, tích khí- vũ khí phòng giặc) để khi có thời cơ là nổi dậy đánh giặc cứu nước.

Cuối năm Tân Dậu (542), Lý Bôn- tức Lý Bí, lãnh đạo nhân dân khởi binh chống lại quân Lương. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí được nhân dân và hào kiệt khắp nơi nô nức ủng hộ. Lúc đó, Phạm Tu đã sang tuổi sáu mươi bảy. Người trực tiếp chiêu mộ trai tráng trong vùng, tổ chức luyện tập ngày đêm rồi tham gia quân khởi nghĩa. Ở đó, Phạm Tu cùng Tinh Thiều, Triệu Túc làm thành bộ tham mưu, giúp Lý Bí đánh đâu thắng đấy. Chính đạo quân do Lý Bí cùng Phạm Tu chỉ huy đã tiến vào đánh chiếm thành Long Biên, thủ phủ đô hộ của chính quyền nhà Lương thời đó. Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư, rất tham lam độc ác cũng phải khiếp sợ bỏ chạy về Quảng Châu. Trong vòng chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã quét sạch quân đô hộ ra khỏi bờ cõi. Nhà Lương tức tối sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quân sang đánh chiếm lại. Lý Bí cùng bộ tham mưu bàn bạc, chủ động đem quân đón đánh giặc ở đảo Hợp Phố. Quân Lương đến đó thì bị quân ta chặn đánh tiêu diệt gần hết. Sau thất bại này, Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng bị buộc phải tự tử vì thua trận.
Cùng thời gian này, vua nước Lâm Ấp ở phía Nam lợi dụng nghĩa quân của Lý Bí phải chống trả quân Lương đã huy động lính cướp phá quận Nhật Nam (vùng Quảng Bình). Trước tình hình này, lão tướng Phạm Tu hăng hái đảm nhận vào Nam diệt giặc. Năm 543, lão tướng Phạm Tu chỉ huy quân sĩ đánh tan quân Lâm Ấp ngay ở quận Cửu Đức (vùng Hà Tĩnh ngày nay). Vua Lâm Ấp phải bỏ chạy về bên kia dãy hoành sơn. Thế là Phạm Tu được Lý Bí ban tặng bốn chữ: ”Cự Bắc, Bình Nam”. Chỉ từng ấy đủ nói lên tài năng của vị tướng già này.

Dẹp xong quân Lâm Ấp, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Ban văn do Tinh Thiều đứng đầu, ban võ do Phạm Tu đứng đầu. Với cương vị là tổng chỉ huy quân đội, Phạm Tu lo luyện tập quân sĩ, củng cố xây dựng hào lũy những nơi hiểm yếu trên đất liền, các cửa sông, cửa lạch… Cũng nhờ vậy mà khi quân Lương quay lại đánh chiếm vào năm 545, hệ thống phòng thủ các cửa sông vùng Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình đã giúp Phạm Tu cùng quân sĩ cầm cự trong 6 tháng liền. Sau đó Người mới chịu lui quân về giữ thành Long Biên – (khu vực chợ Gạo sau chợ Đồng Xuân ngày nay) để Lý Nam Đế và bộ hạ bảo tồn lực lượng, rút lui an toàn lên mạn trung du phía Bắc. Trong cuộc chiến không cân sức này, vị lão tướng đã sang tuổi 70 Phạm Tu đã anh dũng hy sinh. “Trong vòng chiến đấu xoay cuộc tang thương, đại vương phút chốc hiển linh thần hóa” ( nguyên văn trong thần phả thờ ở đình Thanh Liệt). Lúc đó là vào ngày 20 tháng 7 năm Ất Sửu.

Thanh Liệt xưa gọi là Quang Liệt, thế đất được coi là đất đế vương: ”Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Quang Liệt”. Năm 1690, nhà địa lý Tả Ao đã chọn thế đất đẹp để dựng ngôi đình thờ danh tướng Phạm Tu. Ngôi đình sừng sững tồn tại từ bấy đến nay cùng với 18 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến về Long Biên Hầu, Phạm Đô Hồ Đại Vương trong đó đời Nguyễn có tới 11 đạo sắc phong.

Hằng năm cứ đến ngày 20 tháng 7 âm lịch, người họ Phạm ở khắp mọi miền đều tụ lại với nhau để được nối mình với cội nguồn tổ tiên, cùng nhau ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng Phạm Tu. Năm 1998, được sự hỗ trợ của Hội Sử học Việt Nam, một hội thảo khoa học diễn ra tại Hà Nội đã suy tôn Đô Hồ Đại Vương Phạm Tu là thượng thủy tổ họ Phạm Việt Nam. 10-2008, UBND thành phố Hà Nội đã có chủ trương đặt tên Phạm Tu cho một đường phố lớn. Tháng 2-2009, UBND thành phố đã có một dự án tôn tạo, tu bổ đình thờ Đô Hồ Đại Vương Phạm Tu và sẽ được chủ đầu tư bàn giao vào dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Âu cũng là cách ghi nhận công lao của một vị tướng Hà Nội một lòng một dạ với đất nước, với Hà Nội!

.Theo HNM
 
Danh tướng vùng Hà Nội thời Hai Bà Trưng PDF. In Email
Viết bởi Thang Long - Ha Noi
1. Ba chị em trong ngõ Thổ Quan

Ba chị em họ Đào, chị là Phương Dung, hai em là Hiển Hiệu và Quý Minh, đều là những duệ hiệu chứ không phải là tên thực, được thờ làm thành hoàng ở đình Thổ Quan, xưa thuộc tổng Hữu Nghiêm (sau đổi là An Hoà), huyện Thọ Xương, nay thuộc phố Khâm Thiên. Sau đây, ghi theo lời truyền miệng của cố lão kinh thành:

Đáp lời kêu gọi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, ba chị em ruột mộ quân hưởng ứng. Khu ống lệnh trong ngõ Lệnh cư là nơi tập hợp nghĩa quân, nghe tiếng ống lệnh là bắt đầu xuất phát tiến công. Bãi trận ở khu trường học La Thành là nơi tập trận hay là nơi đã diễn ra chiến trận. Hồ Đồn ở ngõ Chiến thắng, đối diện với Công an Khâm Thiên ngày nay, là nơi đóng quân. Dốc Súng ở phía Tây Nam đình Thổ Quan cũng là một đồn quân, gần đó xưa kia có ao nở đầy hoa súng...

Nghĩa quân vượt sông Cái sang miền Kinh Bắc, đuổi Tô Định, góp phần thu phục 65 thành và giúp Trưng vương xây dựng đất nước. Ba năm sau, Mã Viện sang xâm lược, ba chị em phù Trưng vương chiến đấu dũng cảm ở Hát Môn. Trưng vương hy sinh, ba chị em - chiến tướng lui về Thổ Quan, dựng ba đồn chống giặc. Thổ Quan, Hà Nội cổ thành chiến trường giao tranh ác liệt. Và rồi ba chị em cũng hoá ... “Suốt ba đêm ngày, dù đã thác, ba chị em vẫn còn giết nhiều quân tướng Hán”.

Bài văn bia ở đình còn kể lại như thế với đời sau, những lời thơ và mộng. Đất ả Đào ngày sau, dường như từ dạo ấy đã sang sảng tiếng ca ngâm mỗi khi nghĩa quân xuất trận:

Chinh táp hành hành xuất ngọc quan

Tam quân như nhất, một hào đoan

Thiên lý trì khu, thiên lý mộng

Nhất trùng li biệt, nhất trùng quan



Tạm dịch:

Phất cờ ra khỏi ải quan

Ba quân kết đoàn, một khối thép gang

Ruổi rông muôn dặm, giấc mộng bàng hoàng

Biệt li xá kể bước đàng viễn chinh

Có thơ ấy, để có thêm câu đối (còn nguyên vẹn ở đình sau những trận mưa bom B52 những ngày Đông lạnh 1972) ngợi ca tinh thần anh dũng chiến đấu, dù giữa cảnh hầu như tuyệt vọng:



Nhất thi khảng khái anh hùng lệ

Bách chiến quan hà cổ quốc tâm

(Sảng khoái một bài thơ, cảm khái anh hùng giọt lệ

Quan hà trăm trận đánh, vững bền cố quốc lòng trung)



Ba chị em, gốc từ Thanh Hoá, sinh cùng một bọc theo một mô – típ rất dân gian (“1 gái – 2 trai” của thần thoại khởi nguyên), lại được gắn với một mô – típ khác nhuốm màu Đạo giáo: Mẹ nằm mộng thấy tiên cho ăn ba quả đào, sau đó thụ thai. Sự tích ấy còn ảnh xạ trong đôi câu đối:



Nhất nhất trung trinh, thị tỉ, thị huynh, phái xuất Thanh Hoa tam trí dũng

Ức niên miếu mạo, vi thần, vi tướng, lực phù Trưng chúa lưỡng anh thư

(Một cửa trung trinh, này chị, này anh, gốc tự Thanh Hoa – ba trang trí dũng

Muôn năm miếu gạo, là thần, là tướng, sức phò Trưng chúa – hai vị anh thư)



Nội thành Hà Nội, Thổ Quan là nơi duy nhất còn lưu lại những tên đất in bóng hình một chiến trường xưa...



2. Ba anh em chàng Quách và hai nàng Đinh:



Thôn Thượng Cát (xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm) mé trên Chèm Vẽ, thờ ba vị thần. Cũng ba nhưng ở đây là 1 nam, 2 nữ: Quách Dũng, Đinh Bạch nương, Đinh Tích nương. Quê ở Hoa Lư động, 3 anh em con cô con cậu ruột, họ hai bề: Mẹ hai nàng Đinh là em gái bố Quách Dũng, mẹ chàng Quách lại là chị ruột của bố hai nàng Đinh.



Hai gia đình thông gia và kết nghĩa, ba anh em từ nhỏ cùng chung sống, lớn lên cùng luyện võ, trai giỏi trường sang, gái giỏi thuỷ chiến.



Được tin Bà Trưng khởi binh, ba anh em từ Hoa Lư lên Hát Môn tụ nghĩa. Qua làng Kẻ Thượng Cát, ba người dừng chân nghỉ...Rồi hai nàng lên Hát Môn trước. Chàng Quách ở lại đến hôm sau, chưa kịp đi thì đã có em trai bà Trưng đến đón và cùng nhau đi mộ quân ứng nghĩa. Rất nhiều trai làng Kẻ gia nhập đám quân này. Đuổi xong Tô Định, chàng Quách được hưởng ấp ở Từ Liêm, Thượng Cát. Ba năm sau, cự Mã Viện, chàng Quách hy sinh...Nhân dân Thượng Cát lập đàn tế và thờ làm thành hoàng.



Ba anh em đều được thờ làm thần ở ba làng kẻ: Kẻ Thượng Cát, Kẻ Đông Ba và Kẻ hạ Cát (nay là Đại Cát, thuộc xã Liên Mạc, Từ Liêm).



Đôi câu đối biểu dương sự nghiệp ba vị thần, đồng thời cũng thể hiện lòng tự hào địa phương:

Tinh trung nhất khí quán sơn hà, thử dân, thử thổ

Huynh muội tam nhân tòng đại nghĩa, vi tướng, vi thần



(Tinh trung khí mạnh khắp non sông, này dân, này đất

Anh em ba người theo nghĩa lớn, là tướng, là thần).



3. Ba tướng họ Đào ở Ngọc Động:



Thôn Ngọc Động, thuộc xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thờ ba vị thần. Cũng lại ba, song ở đây thuần dương, ba anh em trai cả: Ông Đô Thống, ông Chiêu Hiển và ông Tam Lang. Cả ba ông đều theo giúp Hai Bà Trưng đuổi Tô Định, đánh Mã Phục Ba.



Trận cuối cùng, thế trận dàn ra ở Bồ Đề, gần trang Đa Tốn. Khó cự giặc lâu, ba tướng cùng nhảy xuống sông tự vẫn. Thần tích đình Ngọc Động chép khoa trương: Một đàn cá rùa rắn giải, từ dưới nước nổi lên, “rước” ba ông đi mất trước những cặp mắt hoảng loạn của quân thù. lại có một số câu đối tuyên dương trạng:

Tướng quận dương uy nhiêu tướng lược

Bồ tân tuẫn tiết tận thần trung

(Quận Tượng oai hùng nhiều tài tướng lược

Bến Bồ tuẫn tiết, tận nghĩa trung thần).

Tái bắc tức chinh trần, công cao trục Định

Hồ Tây dương mộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng

(Ải Bắc yên gió bụi can qua, công đầu đuổi Tô Định

Hồ Tây nổi sóng nước căm giận, nghĩa nặng phù Trương Vương).



4. Khỏa Ba Sơn ở Xuân Đỗ Hạ:



Xuân Đỗ hạ là một trong ba làng Xuân Đỗ, nay thuộc xã Cự Khối, huyện Gia Lâm. Xưa có tên là ấp Hoa Động. Sắc phong thần tướng Hai Bà Trưng ở đình thôn này ghi lại cái tên lạ: khoả ba sơn. Khoả Ba Sơn đã chiêu mộ hơn 200 đinh tráng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ông được Hoa động (Xuân Đỗ Hạ) dựng một đồn giả để đánh lừa giặc Hán, góp phần đánh đuổi Tô Định. Xong việc, ông về Hoa Động, dựng điện tranh, ăn ở cùng dân, rồi hoá...



5. Nàng Quốc ở Hoàng Xá:



Nàng Quốc, mẹ họ Đào, sinh ra dưới gốc cây đào khu Hoàng Xá, trang Hạ Tốn (nay thuộc xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm).



Nàng Quốc chiêu mộ trên 2000 người gia nhập khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Việc lớn đã thành, Trưng vương phong thưởng, nàng Quốc chỉ xin khu đất ở Hoàng Xá lập đền thờ mẹ.



Ba năm sau, nàng Quốc chia quân chống cự Phục Ba tướng quân Mã Viện. Tình thế bất lợi, nàng cùng vua Trưng phi ngựa lên núi. Và không còn ai thấy bóng dáng nàng đâu nữa. Chỉ còn đôi câu đối ở đình Hoàng Xá ca ngợi chí nàng:



Tô khấu tước bình, trực bả quần thoa đương kiếm khích,

Trưng Vương dực tái, hảo tương cân quắc hộ sơn hà.

(Dẹp giặc Tô cứu dân, quyết lấy quần thao thay kiếm kích

Phò vua Trưng dựng nước, tài đem khăn yếm giữ non sông).



6. Thành Công:



“Thành công Tương liệt đại vương” được thờ ở 5 Thôn thuộc xã Cổ Linh cũ, tức những thôn Tử Đình, Nha Thôn, Sài Đồng, Trạm Thôn và Ô Cách.



Ông là một tướng của Bà Trưng, người xứ Đông được hưởng thực ấp ở Gia Lâm. Vừa coi quân,vừa đi khắp huyện kinh lý công việc, thúc đẩy nhân dân làm ruộng, chăn tằm…



Đến trang Cổ Linh, thấy phong cảnh đẹp, dân chúng cần cù, ông lưu lại ít lâu. Ba năm sau, thành Công lên Lạng Sơn chống quân Mã Viện. Sau khi Bà Trưng tuẫn tiết, ông cùng quân sĩ vừa đánh vừa rút về Thanh Hoá, đến trang Tâm Quy, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung thì mất. Dân Cổ Linh sau đó nghe được tin, dựng đền thờ ông. Trong 5 thôn, đền chính là đền thôn Trạm.



Một câu đối ở đình làng này ghi lại sự tích thần anh dũng:



Kỷ tải dục Trưng Vương, Tô tắc bình dư, long thần ấn

Ngũ thôn chiêm thánh đức, chủ trang hoá hậu, ngật thần từ

(Mấy năm phò vua Trưng, giặc Tô Định dẹp tan, rõ ràng ấn tướng

Năm thôn nhuần đức thánh, đất Tâm quy hiển hoá, cao đẹp đền thiêng)



7. Ông Đống và Ông Hựu Kim Đồ:



Hai ông là anh em sinh đôi, vốn quê ở Cự Ninh Thanh Hoá, được bà dì họ Mặc, người thôn Kim Đường (nay là Kim Hồ, thuộc xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm) đem về đấy nuôi.



Lớn lên, có sức khoẻ và chí lớn, hai anh em chiêu tập binh mã, hưởng ứng khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ba đồn, ba doanh trại mọc lên ở Kim Đường, làm thế nương dựa lẫn nhau, đã góp phần vào chiến thắng chung của dân tộc.



Trưng vương phong tướng và phong ấp cho hai ông cũng ngay đật đó. Khi Mã Viện sang xâm lược, hai ông được lệnh lên giữ xứ Lạng, cùng quân Hán giao tranh nhiều trận. Vừa đánh, vừa lui, đến Gia Lâm, trong một trận huyết chiến, hai tướng bị thương, chạy về đến cánh đồng K im Đường thì hoá. Nay ở còn đó có khu mộ lớn, gọi là mả Cả. Đôi câu đối trong đình còn thể hiện rõ niềm tự hào của nhân dân về hai ông tướng cùng quê:



Hiệp tấn Trưng Vương khuynh Bắc quốc

Đồng trừ Tô tặc trấn nam bang.

(Hợp giúp vua Trưng, nghiêng nước Bắc

Cùng trừ Tô Định, giữ trời Nam)



8. Vợ chồng Đào Kỳ - Phương Dung



Cả mấy làng thuộc tổng Cói ngày xưa bên bờ Bắc sông Đuống (Lộc Hà, Hội phụ, Lệ Xá, Đông Trù) đề thờ hai vợ chồng Đào Ký và Phương Dung, hai vị tướng kiệt xuất của phong trào Hai Bà Trưng.



Đào Kỳ sinh ở Cối Giang miệt Đông Ngàn, nay là vùng Hội Phụ. Chăm làm, học giỏi, có chí lớn, 15 tuổi Đào Kỳ mồ côi cả cha lẫn mẹ. Hồi đó có một nhà họ Nguyễn, quê ở trang Vĩnh Tế, huyện Lang Tài, lấy vợ ở Cối Giang, sinh hạ được ba con trai, thảy đều giỏi kiếm cung và một gái là Phương Dung, đoan trang ngoan nết, giỏi võ giỏi văn…



Tô Định nghe danh Nguyễn Trát, đem lễ tới định ban cho tướng lộc để chiêu phục tùng nhưng Nguyễn đã từ chối. Và Nguyễn cùng ba con trai đều bị giặc vây giết ở trang Vĩnh tế.



Khi ấy mẹ và Phương Dung ở Cối giang, được tin dữ vội lẩn trốn và tìm cách phục thù. Gặp Đào Kỳ, mến nhau vì đức, trọng nhau vì tài, Phương Dung đã cùng chàng kết dải đồng tâm, cùng chung sức mưu toan trả thù, đền nợ nước.



Nghe tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, hai vợ chồng đêm hơn 100 người nhà đến yết kiến và gia nhập nghĩa quân. Hai vợ chồng cùng xông pha giết giặc, đánh đuổi Tô Định và được cử trông nom dải đất Đông Ngàn - Bắc Đuống.



Ba năm sau, Mã Viện phát xâm lược, vợ chồng Đào Kỳ cung nhiều tướng tá khác đã lên Lạng Sơn chống giặc, sau về Cấm Khê ứng cứu vua Trưng.



Hai vợ chồng bị hãm giữa chiến trường và lạc nhau. Đào Kỳ bị nhát dao chém ngang cổ, hăng máu phi ngựa chạy về Đông ngàn, đến Cổ Loa thì hoá. Mối đùn thây thành ngôi mộ lớn. Phương Dung sau cũng tìm cách thoát vây về được Đông Ngàn, qua Cổ Loa thấy ngôi mộ lớn, hỏi thăm bà lão bán nước cạnh đường, biết đích xác là chồng mình đã tử tiết liền rút gươm tự vẫn. Mối cũng đùn lên thành mộ, sánh đôi cùng mộ tướng Đào Kỳ.



Để ngày sau, người đời làm thơ ca ngợi:



Sinh vi lương tướng, tử vi thần

Vạn cổ cương thường hệ thử thân

Loa địa song đôi thu nguyệt ảnh

Anh hùng liệt nữ tướng quân phần.

(Sống làm tướng giỏi, chết làm thần

Muôn thuở cương thường nặng tấm thân

Đôi nấm thành Loa thu trăng chiếu

Hào kiệt anh thư mộ tướng quân).



Và các đình đều còn biết bao câu đối rờ rỡ khí thế khởi nghĩa Bà Trưng, trong đó vợ chồng Đào Kỳ, Phương Dung góp phần quan trọng:



Vị lý Phục Ba thi, loạn giá lâm lưu không ẩm hận

Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành quy mã thượng tri thanh

(chưa bọc xác Phục Ba, sông cạnh xe loan còn vang uất hận

Chẳng rời giáp Tiên trấn, ngựa về thành ốc vẫn vọng âm thanh).



9. Đông Bảng ở Gia Lộc:



Thôn Gia Lộc cạnh Loa thành thờ ông Đông Bảng, là vị tướng giúp vua trưng đuổi Tô Định, thu phục 65 thành. Trưng Trắc lên ngôi, vẫn sai Đông Bảng giữ nơi này và dựng đồn trú quân. Đồn này xây dưụng trên khu đất nghe nói xưa là khu đồn quân ở đó. Sự nghiệp của ông còn được lược kể trong bài thơ và câu đối sau đây, còn giữ được ở đình Gia Lộc:



Tại tích phù Trưng, nghiệp triệu thành

Công thuỳ vũ trụ đãng nan danh

Huy lai tướng lệnh tiêu Tô tặc

Phi xuất thành lâu khước Hán binh

Trung nghĩa nhất lâm năng bất tử

Anh linh vạn cổ lẫm như sinh

Lưu đồn thử địa di từ miếu

Lịch đại ba chương lũ biểu tinh.

(Từng giúp vua Trưng, nghiệp lớn thành

Công ngang trời đất, sáng ngời danh

Vung cờ tướng lệnh xua Tô Định

Vọt cửa thành lâu đuổi Hán binh

Trung nghĩa một lòng không thể chết

Anh linh muôn thuở tựa bình sinh

Đồn quân nền cũ nay đền miếu

Phong tặng bao đời dấu hiển linh).

Thánh đại duy dương, trục Định, phù Trưng thuỳ sửa bút

Thần công vĩnh bá, tí dân hộ quốc trạc linh thanh.

(Triều đại tặng phong, đuổi Định, phù Trưng, bút ghi sử sách

Công ơn truyền mãi, giúp dân giữ nước, tiếng dậy anh linh).



10. Thủy Hải – Đăng Giang - Khổng Chúng:



Ba vị tướng của Bà Trưng hiện được thờ ở Đại Vĩ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh. Thuỷ Hải và Đăng Giang là hai anh em sinh đôi, 18 tuổi bố mẹ mất. Tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hai ông được giao việc phòng ngự hai bờ sông phía Đông Bắc và lập trại ở Hà Vĩ luyện quân.



Ba năm sau, hai ông lên biên thuỳ đánh quân Mã Viện. Một người ở trang Hà Vĩ tên là Khổng Chúng có tài thao lược được hai ông đề cử vua Trưng phong làm tiền lộ tướng quân.



Vua Trưng cùng hai tướng đánh nhau với Mã Viện. Vua hi sinh ở trận tiền. Hai tướng chạy đến cửa biển thì hoá (10 - Bảy Âm lịch). Khổng Chúng thu tàn binh chừng 50 người quay về Hà Vĩ, bị quân Mã Viện đuổi theo và bao vây. Khổng Chúng anh dũng chống cự và gục ngã trên mảnh đất Mẹ ngày 12 tháng Chín...

11. Đức Bà làng dâu hay công chúa Vĩnh Huy:



Đức bà được thờ làm thành hoàng làng Dâu, tức làng Cổ Châu, nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Tên trong thần tích là công chúa Vĩnh Huy, vốn người vùng Yên Tử. Đông Triều; đi khắp nơi làm ăn sinh sống, hay cứu giúp người nghèo khó. Cuối cùng bà đến tại Tế áng thuộc trang Thiết úng, sau này đổi tên là Cổ Châu. Ở đây, bà hết sức đỡ đần, người khốn khổ, hướng dẫn cho họ cách làm ăn, được trại suy tôn như trùm trưởng.



Đức bà đã mộ hơn 1000 tráng đinh, cùng nhau luyện tập võ nghệ rồi kéo quân lên Hát Môn hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Vĩnh Huy cùng Trưng Nhị đã đánh thẳng vào sào huyệt Tô Định.



Ba năm sau, Vĩnh Huy lại cùng Hai Bà Trưng ra sức chông trả quân Mã Viện. Trong một trận giao tranh, Trưng vương tử tiết. Vĩnh Huy bị bắt. Giặc định ép bà làm vợ. Vĩnh Huy giả dạng thuận lòng rồi thừa cơ chạy về trang Tế áng, cho họp khẩn cấp dân làng, nói rõ tình hình nguy ngập nước nhà. Theo thần tích, bà vừa nói xong bỗng chốc trời đất tối sầm, bóng đen bao phủ dày đặc. Chốc lát sau, trời lại sáng. Vĩnh Huy đã mất, chỉ còn một đống đất lớn do mối vừa đùn. Đến làng Dâu vẫn còn thấy “bãi mộ Đức Bà” ở giữa có một gò cao, “gò yên ngựa”. Và đền xưa có câu đối nhắc nhở lòng trung trinh bất khuất của vị nữ anh hùng:



Cử mục sơn hà vô Hán tướng

Thệ tâm thiên địa hữu Trưng Vương

(Mắt ngắm non sông, kể gì tướng Hán

Lòng thề trời đất, chỉ có Trưng Vương).


Theo Hà Nội như tôi hiểu – GS. Trần Quốc Vượng, Nxb Tôn Giáo, 2005, tr297-311
 
Trần Thủ Độ có được coi là danh tướng của đất Thăng Long kinh kỳ hay không nhỉ ?

Danh tướng Phạm Ngũ Lão


Phạm Ngũ Lão sinh năm Ất Mão (1255), tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, nay là Ân Thi, Hưng Yên, mất năm Canh Thân (1320), thọ 65 tuổi. Ông là bậc danh tướng của triều Trần, từng có công lớn trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288). Khi Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo ráo riết chuẩn bị cho cuộc đọ sức lần thứ hai với quân Nguyên, Phạm Ngũ Lão xin ứng nghĩa theo quân đi đánh giặc. Nhờ có đức độ hơn người lại có biệt tài võ nghệ, Phạm Ngũ Lão được Trần Hưng Đạo vừa trọng dụng vừa thương như con.

Trần Hưng Đạo đã đem con gái nuôi của ông là Nguyên công chúa gả cho Phạm Ngũ Lão, đồng thời đem tiến cử cho vua Trần. Vua Trần phong ông đến chức Điện súy Thượng tướng quân, cho lập phủ đệ ngay trong vườn cau của triều đình tại kinh thành. Khi Phạm Ngũ Lão mất, vua thương tiếc mà nghỉ chầu đến năm ngày.

Đó là một ân điển đặc biệt mà đương thời, ngay cả quý tộc họ Trần cũng không mấy ai có được. Vì sao Phạm Ngũ Lão lại được hưởng ân huệ đặc biệt này? Sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 38 a=b) chép:

“Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, sống phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, xem qua có vẻ như không để ý đến việc võ bị nhưng quân do ông chỉ huy thực là đội quân trên dưới như cha con, hễ đánh là thắng. Ông có làm bài thơ (Thuật hoài) như sau:

Vung gươm sông núi đã bấy lâu,
Ba quân như cọp nuốt trôi trâu.
Công danh trai tráng còn mang nợ,
Những thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu.

Ông huấn luyện quân đội rất có kỉ luật, đối đãi với tướng hiệu tựa như đối đãi với người nhà, đồng cam cộng khổ với binh lính, cho nên đi đâu cũng không ai dám chống, chiến lợi phẩm thu được đều sung vào kho quân, coi của cải như không, ấy là bậc danh tướng của một thời vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, chứ không phải chỉ chuyên về nghề võ, thế mà dùng binh thì tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông''...

(Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXBGD)
 
Vũ Xuân Thiều là một anh hùng cảm tử đã lao vào tiêu diệt máy bay B-52 của Không lực Hoa Kỳ[1][2]. Ở quận Long Biên, Hà Nội hiện có một con đường mang tên Vũ Xuân Thiều.
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng ở phố Đặng Dung, Quận Ba Đình, Hà Nội. Bố, Vũ Xuân Sắc, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1938. Trước khi từ trần năm 1977, ông là Tổng giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp may mặc. Mẹ, bà Vũ Thị Vượng, là chiến sĩ liên lạc, cơ sở của Đảng từ năm 1945. Ông bà có 10 người con trưởng thành, với 9 con là đảng viên, tất cả đều tốt nghiệp đại học, trong đó có 5 tiến sĩ (trong đó có 1 tiến sĩ khoa học) và 3 sĩ quan cấp thượng tá, đại tá trong quân đội. Vũ Xuân Thiều là con trai thứ bảy.
Năm 1965, ông đang học dở năm thứ ba, khoa Vô tuyến điện trường Đại học Bách khoa Hà Nội, là bí thư chi đoàn nhà trường, ông đã tình nguyện xin nhập quân đội. Ông được chọn đi khám tuyển, rồi trúng tuyển phi công.
Ông được gửi sang Liên Xô học tập năm 1965, tốt nghiệp loại giỏi và về Việt Nam năm 1968, được biên chế về Trung đoàn Không quân Sao Đỏ[3]. Ông chiến đấu trong đội hình Trung đoàn bay Lam Sơn[4] do Anh hùng Nguyễn Hồng Nhị, phi công đã bắn rơi 8 máy bay Mỹ, chỉ huy.
 
Hoàng Cầm (tên thật Đỗ Văn Cầm; sinh năm 1920) là một tướng lĩnh quân sự cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tham gia các cuộc Chiến tranh Đông Dương(1945-1954), Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và Chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông được phong hàm thượng tướng năm 1987, được thưởng nhiều huân huy chương của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ông sinh ngày 30 tháng 4 năm 1920 trong một gia đình nông dân nghèo, quê Cao Sơn, Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 12 tuổi, sau đó phải lưu lạc để kiếm sống từ quê nhà lên Hà Nội. Năm 21 tuổi, ông đi lính khố xanh cho chính quyền thuộc địa Pháp[1] để kiếm sống và tham gia quân đồn trú ở Lai Châu. Sau 2 năm thì được chuyển về Hà Nội và ông đào ngũ, nhờ đó thoát nạn trong vụ đảo chính của Nhật vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.
 
Thực ra với đề bài trên thì có vô vàn khía cạnh để bàn. Nó không chỉ đúng sai mà ngay từ đầu, việc phân tích đề cũng không đơn giản.
Nhưng thôi, trong phạm vi đề dành cho các em là học sinh phổ thông thì tạm chấp nhận vậy.

Khi nào có những đề như thế này, em cần làm rõ vấn đề hơn nữa bằng cách đề nghị thầy giáo, cô giáo phân tích đề cặn kẽ cho nhé !

Chúc em có thêm một lần hiểu về lịch sử nước nhà chung , và lịch sử Hà Nội - Thăng Long nói riêng nhé !

Chúc ngủ ngon !
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top