Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã khẳng định vai trò to lớn, và là xu hướng trong xã hội hiện đại. Mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân đều đang thích nghi và góp phần đổi mới, khai thác sức mạnh của cuộc cách mạng này và giáo dục đại học cũng không ngoại lệ. Vậy giáo dục 4.0 là gì? Và giáo dục đại học 4.0 ra sao? Hãy cùng đặt những câu hỏi và thảo luận về nó nhé.
Giáo dục 4.0 là gì?
Giáo dục 4.0 sẽ được đánh dấu bởi thay đổi lớn trong mục tiêu đào tạo, chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông qua khai lực (khai phóng tiềm lực, năng lực, và động lực) đồng thời trao quyền sáng tạo (empowering innovation) cho từng cá nhân. Trong khi việc cá nhân hóa đào tạo ngày càng nâng cao thì sứ mệnh của đào tạo vượt khỏi ranh giới quốc gia để phục vụ cho nhân loại.
Một mô hình giáo dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động trong xã hội tri thức.
Giáo dục 4.0: phát huy sáng tạo. Ảnh ĐH Hoa Sen
Giáo dục 4.0 giúp hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc và mọi nơi, giúp người học có thể cá nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân.
Mô hình này cũng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của giảng viên, sinh viên; tạo điều kiện cho hợp tác giữa giáo dục đại học và sản xuất công nghiệp; gắn kết cùng các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa phương…
Giáo dục đại học 4.0
Giáo dục 4.0 sẽ giúp thay đổi tư duy và cách tiếp cận về mô hình đại học. Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Trường không chỉ đóng khung trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục.
Giáo sư Gottfried Vossen (Đại học Munster, Đức) đã đề xuất mô hình đại học 4.0: Dạy học 4.0 - Nghiên cứu 4.0 - Quản lý 4.0.
Trong đó: dạy học 4.0 gồm: có nhiều hình thức học tập mới, thời gian và địa điểm học tập không bị ràng buộc, có sự thay đổi phù hợp với đối tượng học, cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp hơn.
Nghiên cứu 4.0 bao gồm: hình thức nghiên cứu mới (tốc độ, kết quả, quá trình đánh giá), hệ thống dữ liệu quy mô lớn hơn và đa đạng nguồn hơn.
Quản lý 4.0 gồm: giảng dạy (hệ thống phần mềm thực hiện được nhiều mục đích hơn, những công cụ quản lý hiệu quả hơn, hệ thống thông tin lớn hơn), nghiên cứu khoa học (hệ thống thông tin nghiên cứu khoa học, quản lý dự án), quản lý cơ sở đào tạo, bộ phận hỗ trợ tài chính.
Để xây dựng và triển khai mô hình giáo dục đại học 4.0 nêu trên, các trường cần phải liên tục suy nghĩ về phương pháp tiếp cận việc dạy học để tìm ra những điểm hạn chế và liên tục cải thiện, liên tục theo dõi, quan sát phản hồi, thái độ của sinh viên về việc học tập, nhưng không cần phải trả lời mọi phản hồi, phải thử nghiệm những công nghệ mới.
Giáo dục Việt Nam trước mô hình giáo dục 4.0
Hiện nay, muốn hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Việt Nam cần cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo.
Theo các chuyên gia, Việt Nam cũng cần chuyển đổi cách thức giáo dục từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Các trường đại học liên danh với doanh nghiệp lớn để hình thành mô hình đại học mới - đại học doanh nghiệp. Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang cách “dạy những gì thị trường cần, doanh nghiệp cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường và doanh nghiệp sẽ cần”.
Về mặt quản lý, các cơ sở giáo dục cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học. Gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào giáo dục đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước.
Đối với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án.
Đặc biệt, với học sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời và làm việc cả đời.
Theo giáo sư Trương Nguyện Thành, để GIÁO DỤC ĐẠI HỌC có khả năng thích ứng với sự thay đổi mau chóng của thị trường lao động, cùng nhu cầu giải quyết các vấn đề phức tạp thường có tính đa ngành mà các hệ thống thông minh như robots không có khả năng xử lý thì hệ thống giáo dục đại học cần xây dựng môi trường tương thích, dựa trên mục tiêu truyền lực sáng tạo cho từng cá nhân.
Môi trường này cần tích hợp cả hai hệ thống trường học nơi giảng viên trao đổi và hướng dẫn trực tiếp với sinh viên và hệ thống trực tuyến nhằm phục vụ nhu cầu tự học mọi lúc mọi nơi của sinh viên. Tạo điều kiện để các em tự tin trao đổi, phản biện, kết nối và hợp tác. Chủ động phát huy tối đa tiềm năng của mình trong hành trình tiếp cận và ứng dụng tri thức để sáng tạo.
Ngoài khả năng tự học thì khả năng unlearn (tạm gọi là xóa học) những kiến thức cũ, giờ thành lỗi thời hoặc trái ngược lại với nguyên tắc hoạt động của công nghệ mới, rất cần thiết để theo kịp tốc độ thay đổi của công nghệ. Kỹ năng xóa học là vấn đề quan trọng mà nhiều hệ thống giáo dục chưa hề đề cập đến. Ngoài ra các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, đàm phán, quản lý cảm xúc (emotional intelligence), và tinh thần phục vụ sẽ trở nên càng quan trọng.
Bằng cấp sẽ được đánh giá bởi trình độ sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề đa ngành ở cấp độ phức tạp theo năng lực của từng học sinh chứ không còn đánh giá bởi khả năng tiếp thu một số lượng kiến thức nhất định như số tín chỉ hay môn học của một chuyên ngành nào đó.
Chúng ta dần sẽ không còn có cử nhân về kinh tế, cử nhân về ngôn ngữ, hay cử nhân vật lý mà chỉ là trình độ cử nhân cũng như chúng ta sẽ không còn có kỹ sư phần mềm, kỹ sư máy tính, kỹ sư cơ khí mà chỉ là trình độ kỹ sư. Chương trình đào tạo sẽ được cá nhân hóa theo sở thích, khả năng và đam mê của từng người.
Cũng như đào tạo nghề, doanh nghiệp sẽ là một phần không thể thiếu của môi trường đạo tạo đại học. Doanh nghiệp sẽ đồng hành cùng với giảng viên tạo điều kiện cho sinh viên phát triển kiến thức và phát huy tối đa các kỹ năng của mình, giải quyết các vấn đề thực tế để cùng hòa nhập với tiến triển của thế giới.
Đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường lao động ở bất kỳ thời điểm nào cũng đòi hỏi thời gian. Từ một em bé đến khi có trình độ đại học phải mất ít nhất 16 năm. Tái đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường phải mất ít nhất 2-4 năm với điều kiện hệ thống giáo dục cho mục tiêu này đã có trước.
tổng hợp
Giáo dục 4.0 là gì?
Giáo dục 4.0 sẽ được đánh dấu bởi thay đổi lớn trong mục tiêu đào tạo, chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông qua khai lực (khai phóng tiềm lực, năng lực, và động lực) đồng thời trao quyền sáng tạo (empowering innovation) cho từng cá nhân. Trong khi việc cá nhân hóa đào tạo ngày càng nâng cao thì sứ mệnh của đào tạo vượt khỏi ranh giới quốc gia để phục vụ cho nhân loại.
Một mô hình giáo dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động trong xã hội tri thức.
Giáo dục 4.0: phát huy sáng tạo. Ảnh ĐH Hoa Sen
Giáo dục 4.0 giúp hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc và mọi nơi, giúp người học có thể cá nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân.
Mô hình này cũng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của giảng viên, sinh viên; tạo điều kiện cho hợp tác giữa giáo dục đại học và sản xuất công nghiệp; gắn kết cùng các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa phương…
Giáo dục đại học 4.0
Giáo dục 4.0 sẽ giúp thay đổi tư duy và cách tiếp cận về mô hình đại học. Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Trường không chỉ đóng khung trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục.
Giáo sư Gottfried Vossen (Đại học Munster, Đức) đã đề xuất mô hình đại học 4.0: Dạy học 4.0 - Nghiên cứu 4.0 - Quản lý 4.0.
Trong đó: dạy học 4.0 gồm: có nhiều hình thức học tập mới, thời gian và địa điểm học tập không bị ràng buộc, có sự thay đổi phù hợp với đối tượng học, cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp hơn.
Nghiên cứu 4.0 bao gồm: hình thức nghiên cứu mới (tốc độ, kết quả, quá trình đánh giá), hệ thống dữ liệu quy mô lớn hơn và đa đạng nguồn hơn.
Quản lý 4.0 gồm: giảng dạy (hệ thống phần mềm thực hiện được nhiều mục đích hơn, những công cụ quản lý hiệu quả hơn, hệ thống thông tin lớn hơn), nghiên cứu khoa học (hệ thống thông tin nghiên cứu khoa học, quản lý dự án), quản lý cơ sở đào tạo, bộ phận hỗ trợ tài chính.
Để xây dựng và triển khai mô hình giáo dục đại học 4.0 nêu trên, các trường cần phải liên tục suy nghĩ về phương pháp tiếp cận việc dạy học để tìm ra những điểm hạn chế và liên tục cải thiện, liên tục theo dõi, quan sát phản hồi, thái độ của sinh viên về việc học tập, nhưng không cần phải trả lời mọi phản hồi, phải thử nghiệm những công nghệ mới.
Giáo dục Việt Nam trước mô hình giáo dục 4.0
Hiện nay, muốn hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Việt Nam cần cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo.
Theo các chuyên gia, Việt Nam cũng cần chuyển đổi cách thức giáo dục từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực.
Các trường đại học liên danh với doanh nghiệp lớn để hình thành mô hình đại học mới - đại học doanh nghiệp. Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang cách “dạy những gì thị trường cần, doanh nghiệp cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường và doanh nghiệp sẽ cần”.
Về mặt quản lý, các cơ sở giáo dục cần chuyển hướng dần sang tự chủ trong tổ chức và hoạt động, chủ động tìm kiếm các nguồn lực đầu tư bên ngoài, mở rộng các hoạt động đầu tư liên danh, liên kết trong và ngoài nước về đào tạo, nghiên cứu khoa học. Gỡ bỏ các rào cản để hướng sự đầu tư của các thành phần kinh tế vào giáo dục đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước.
Đối với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án.
Đặc biệt, với học sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời và làm việc cả đời.
Theo giáo sư Trương Nguyện Thành, để GIÁO DỤC ĐẠI HỌC có khả năng thích ứng với sự thay đổi mau chóng của thị trường lao động, cùng nhu cầu giải quyết các vấn đề phức tạp thường có tính đa ngành mà các hệ thống thông minh như robots không có khả năng xử lý thì hệ thống giáo dục đại học cần xây dựng môi trường tương thích, dựa trên mục tiêu truyền lực sáng tạo cho từng cá nhân.
Môi trường này cần tích hợp cả hai hệ thống trường học nơi giảng viên trao đổi và hướng dẫn trực tiếp với sinh viên và hệ thống trực tuyến nhằm phục vụ nhu cầu tự học mọi lúc mọi nơi của sinh viên. Tạo điều kiện để các em tự tin trao đổi, phản biện, kết nối và hợp tác. Chủ động phát huy tối đa tiềm năng của mình trong hành trình tiếp cận và ứng dụng tri thức để sáng tạo.
Ngoài khả năng tự học thì khả năng unlearn (tạm gọi là xóa học) những kiến thức cũ, giờ thành lỗi thời hoặc trái ngược lại với nguyên tắc hoạt động của công nghệ mới, rất cần thiết để theo kịp tốc độ thay đổi của công nghệ. Kỹ năng xóa học là vấn đề quan trọng mà nhiều hệ thống giáo dục chưa hề đề cập đến. Ngoài ra các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, đàm phán, quản lý cảm xúc (emotional intelligence), và tinh thần phục vụ sẽ trở nên càng quan trọng.
Bằng cấp sẽ được đánh giá bởi trình độ sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề đa ngành ở cấp độ phức tạp theo năng lực của từng học sinh chứ không còn đánh giá bởi khả năng tiếp thu một số lượng kiến thức nhất định như số tín chỉ hay môn học của một chuyên ngành nào đó.
Chúng ta dần sẽ không còn có cử nhân về kinh tế, cử nhân về ngôn ngữ, hay cử nhân vật lý mà chỉ là trình độ cử nhân cũng như chúng ta sẽ không còn có kỹ sư phần mềm, kỹ sư máy tính, kỹ sư cơ khí mà chỉ là trình độ kỹ sư. Chương trình đào tạo sẽ được cá nhân hóa theo sở thích, khả năng và đam mê của từng người.
Cũng như đào tạo nghề, doanh nghiệp sẽ là một phần không thể thiếu của môi trường đạo tạo đại học. Doanh nghiệp sẽ đồng hành cùng với giảng viên tạo điều kiện cho sinh viên phát triển kiến thức và phát huy tối đa các kỹ năng của mình, giải quyết các vấn đề thực tế để cùng hòa nhập với tiến triển của thế giới.
Đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường lao động ở bất kỳ thời điểm nào cũng đòi hỏi thời gian. Từ một em bé đến khi có trình độ đại học phải mất ít nhất 16 năm. Tái đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường phải mất ít nhất 2-4 năm với điều kiện hệ thống giáo dục cho mục tiêu này đã có trước.
tổng hợp