Chuyên đề : Hà Nội tạp văn.

Hide Nguyễn

Du mục số

Tản mạn phố cổ

Lên phố cổ là hòa vào cái chất Hà Nội đặc quánh từ con người, phố xá, cửa hàng, cửa hiệu, lời ăn tiếng nói của một chốn “kinh thành Hoa lệ”...

1. Thuở bé, ngày chủ nhật, tôi hoặc theo mẹ, hoặc theo cha được dạo thăm phố cổ.
Đi với mẹ được nhẩn nha hơn... Phố cổ trong mắt tôi bắt đầu từ chiếc xe điện kéo hai hoặc ba toa, tôi theo mẹ, lên từ chợ Hôm, qua Bờ Hồ, đền Ngọc Sơn, đi vào ruột Hàng Ngang, Hàng Đào, rồi xuống Hàng Đường... Phố cổ là nơi mua sắm xưa...

Mỗi phố, đều kinh doanh mặt hàng riêng. Hàng tơ lụa với những nhân viên bán hàng người Âu, đội mũ phớt, như cái đấu cao úp ngược, màu đen, lấy những xúc vải, xúc lụa ra nhanh nhẹn, thành thạo, rồi đo, rồi xé rất có nghề, không bao giờ quên được... Hàng Đường thì đông đúc, mỗi khi Trung thu đến, tiếng thợ luyện bột làm bánh phía trong nhà, người ra vào tấp nập. Hiệu bánh nổi tiếng Đông Hưng Viên, khách mua đứng chật, phải hàng chục người bán hàng, mới trả hàng được cho vừa lòng khách...

Hàng Đồng thì sáng loáng những lư hương, cây nến, hạc đồng, bộ tam sự, bộ ngũ sự, với các kiểu dáng, tha hồ mà chọn...

Hàng Thiếc thì thùng tôn, thùng sắt tây, ấm sắt tây vòi cao, đun trên kiểu bếp lò gốm xưa, bầy tầng trên tầng dưới...

Hàng Buồm thì có hiệu cao lâu Mỹ Kinh, quanh đó thì hàng thịt quay, hàng vằn thắn, chen vào lại có hai hiệu chè của người Hoa nổi tiếng là Phú Thái và Chính Thái... Rồi Hàng Bát, Hàng Giấy, Hàng Mã, Hàng Chiếu... Phố cổ bao giờ cũng là nơi tụ hội đông người nhất từ mờ đất cho đến nửa đêm...

Chưa kể phố ăn uống Tạ Hiện, có rạp hát Lạc Thành Đài, dân ăn chơi rủ nhau, sau khi xem hát, kéo vào ăn uống tấp nập... Phố cổ xưa là đất mua sắm, buôn bán tập trung, hàng gì cũng cao, muốn mua sắm gì thì phải lên phố cổ.

Còn nhà ở phố cổ ư... Cao nhất chỉ là nhà hai tầng. Phía dưới là cửa hàng.. Nhà nào sang thì làm cửa kính. Những phố vừa bán, vừa làm hàng tại chỗ như Hàng Thiếc, phố Lò Rèn thì cửa hàng ngay bên lối cửa chính ra vào, là một khung cửa vuông rộng, đặt giá bầy hàng. Đêm đến thì dùng những cánh cửa hình chữ nhật dài luồn qua rãnh ở khung cửa mà đóng vào...

Những mái phố lô xô, những căn gác hẹp với hàng hiên nhỏ xinh, chồng xếp bên nhau vừa thân thiết, vừa bí ẩn... Những con phố mặt tiền ấy đã vào tranh phố nổi tiếng của họa sỹ Bùi Xuân Phái. Đến bây giờ, nhớ phố cổ xưa chỉ cần ngắm một bức tranh của ông, là lòng dạ đã nao nao về bao hoài niệm rồi...
chung%2026%20%203%20%207%20%201%20%201%201.JPG


Chợ Đồng Xuân

2. Người Hà Nội xưa, ra phố là quần áo phải chỉnh tề. Lên phố cổ không phải chỉ mua sắm mà còn để ngắm người nữa... Trước hết là những thiếu nữ Hà Nội vận những áo dài Lơ Muya, mà ngày đó gọi là lối ăn mặc tân thời (moderne)... những bà mệnh phụ mặc áo dài nhung, vận quần lụa đi hài thêu, son phấn nhã nhặn, ngồi xe tay, hoặc xe nhà lên phố. Khi xuống xe, cách lấy tiền trả phu xe, từng cử chỉ đều thanh lịch, pha một chút đài các...

Những quý ông thì vận âu phục mùa hè hoặc mùa đông, com-plê, cà-vạt, diện giầy dôn, đội mũ phớt hay bận nam phục, áo the đen, hoặc màu lam, trong là áo dài trắng, đi giầy Chi Long, hoặc giầy Gia Định, đầu đội chiếc khăn xếp đen phủ the sang trọng... nếu là ngày nắng hoặc ngày mưa, thì tay còn mang theo chiếc ô lục soạn nữa...

Lên phố cổ, để mua sắm, còn để “người ngắm người” học lấy cái thanh lịch của người Tràng An... Thỉnh thoảng lại gặp một vị trí thức người Hoa, có lẽ mới từ Trung Hoa sang, mặc áo xường xám, để ria mép, đi giầy, kiểu bây giờ còn gặp ở chân dung nhà văn Lỗ Tấn...

Những người dân lao động thì dù bận áo ngắn, áo dài, cũng lịch sự... tinh tươm. Thỉnh thoảng lại gặp một bác Hoa kiều nghèo, bán lục tào xá, hoặc phá xang (lạc rang), áo quần bình dân, cúc tết kiểu tầu, đội chiếc nón nan rộng vành, không lẫn vào đâu được.
Lên phố cổ là hòa vào cái chất Hà Nội đặc quánh từ con người, phố xá, cửa hàng, cửa hiệu, lời ăn tiếng nói của một chốn “kinh thành Hoa lệ”...

3. Chợ Đồng Xuân là chợ của phố cổ, từ mặt tiền khung nhà lớn một tầng, cao thoáng, lợp tôn, hài hòa với tất cả bốn mặt phố xung quanh... Chợ ở ngay trung tâm phố cổ, đầu phố Hàng Giấy...

Trong chợ có đủ mặt hàng của các làng nghề ở các vùng ngoại ô, và của tứ trấn, gồm các tỉnh, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam đổ về, mua gì cũng có...

Lại có những dãy hàng quà, mà đều là quà ngon cả, như hàng giò chả, bánh giầy, bánh giò, hàng bún chả, bún thang, bún ốc, bún riêu, hàng phở bò thì ở ngay cửa chợ vào... Rồi hàng khô, hàng cá, hàng rau quả...

Theo cha lên chợ Đồng Xuân, tôi thường được dẫn đi xem hàng cá vàng, chậu hoa, chim cảnh, rồi vào quán bún chả, gọi một mẹt, cha con cùng ngồi ăn... Cha tôi gọi thêm một chén rượu, nhâm nhi nhìn tôi ăn... Rồi người lấy xe, đạp lòng vòng qua các phố, qua Hồ Gươm, mua cho tôi một que kem, rồi cha con về nhà.

Những chuyến đi phố cổ ấy, như là một phần thưởng cha tôi ban cho các con. Chỉ ai học giỏi, được khen, hoặc ngoan, thì chủ nhật mới được đi chợ Đồng Xuân, đồng nghĩa với việc đi chơi phố cổ với Người...

Phố cổ xưa phố chợ, xe cộ, con người đồng bộ hài hòa... Bảo tồn phố cổ bây giờ, làm sao giữ được vẻ cổ kính xưa, lại vẫn là nơi trung tâm buôn bán, dạo chơi của người Hà Nội... Điều đó xem ra chọn được phương án tối ưu, cũng là chuyện đâu có dễ.


(Theo ANTĐ)​



 
Chè xanh

Phạm Kim Anh


Tôi còn nhớ, sáng sáng, khi mặt trời chưa lên đến đỉnh đồi, bà nội tôi đã ra vườn hái chè. Vườn chè này bà tôi trồng từ ngày mới về làm dâu, vậy mà cây chè lúc nào cũng chỉ cang ngang bụng người, được trồng thành hàng thẳng tắp. Bàn tay bà rám nắng, chai sần, lốm đốm vết đồi mồi nhưng hái chè vẫn dẻo. Bà lựa những lá chè vừa độ xanh, không già cũng không non quá, bà gọi là lá bánh tẻ. Chè vườn nhà không phải ngâm rửa cầu kỳ, chỉ cần xối nước sạch rồi vò nát cho vào ấm đất. Bà bảo chè xanh phải hãm chứ không nấu. Chè xanh đem nấu , nước vừa đỏ, vừa chát và nồng, phải hãm nước mới xanh. Lá chè vàng nhỏ và cánh dày hãm càng được nước. Nước hãn chè càng sôi càng ngon. Nước vừa đun sôi đổ vào ấm lá súc qua một lượt rồi chắt bỏ đi, như thế chè hết vị hăng và xanh trong cả ngày.

Bà tôi sinh ra ở đất chè, lớn lên ở đất chè, cả đời bà gắn bó với chè xanh.Bà kể ngày ông bà cưới nhau, chỉ có ấm chè xanh với rỗ khoai mật, thế mà hạnh phúc đến lúc nhắm mắt. Giờ thì bà tôi không còn nữa, thím út tôi thay bà chăm sóc vườn chè, ai đến cũng khen chỉ nhìn vườn chè cũng biết ông bà tôi có phúc.

Anh em tôi lớn lên cùng bát nước chè xqnh của bà, mang theo cả vị quê về phố. Mẹ tôi là con gái vùng biển, mái tóc dài của mẹ từng được bà nội gôi cho bằng nước lá chè đun với bồ kết ngày mới về làm dâu đất đồi. Còn bố tôi, không loại chè có tính năng giải nhiệt nào có thể thay thế được nước chè xanh. Thế là ngày ngày, tôi đạp xe lên chợ Ngọc Hà mua chè về hãm như ngày xưa bà dạy. Cũng chọn lá chè bánh tẻ, vò nát rồi cho vào ấm đất. cũng súc chè cho hết vị hăng rồi hãm bằng nước thật sôi, ủ kín trong giỏ đan bằng cọ. Cả ngày uống nước chè xanh, tối đến tôi đem bã chè pha thêm nước ấm để rửa mặt . Cứ sáng chủ nhật, hai mẹ con tôi đun một nồi nước chè với bồ kết gội đầu. Thật chẳng có thứ mỹ phẩm nào bằng.

Chiếc chõng tre kê ở góc sân chú thím vẫn giữ nguyên để nhớ về bà. Ngày xưa bạn hàng, bạn chợ hay hàng xóm láng giềng mỗi lúc ghé qua đều được bà mời nước chè tươi trên chiếc chõng tre ấy. Ở giữa vùng chè nhưng đến với nhau, có mỗi bát chè xanh cũng đủ gắn tình kết nghĩa. Quê tôi, người ta không coi chè xanh như một thú chơi giống nhiều cách uống trà của người thành thị. Họ sinh ra đã sống với chè, tự nhiên, bình dị, chỉ nghĩ đến chè xanh đã thấy lòng ấm áp. gia đình nhỏ của tôi tuy sống giữa phó phường nhưng cũng không thể nào quên thứ lá dân dã mà đượm tình và chứa đựng một phần hồn quê trong đó.

Người ta nói người Hà Nội phải biết đến các nhãn hiệu chè nổi tiếng thế giới đang ồ ạt kéo vào Việt Nam mới là "sành điệu" . Thôi thì đành nhận mình là "người nhà quê " ngày nay tôi vẫn đáp xe lên chợ Ngọc Hà mua chè tươi. Với gia đình tôi, chè tươi gắn liền với hình ảnh của bà, chúng tôi như có thêm một chỗ dựa tinh thần giữa cuộc bộn bề, ngột ngạt.

Và có lên chợ Ngọc Hà mới biết, người Hà Nội không phải ai cũng uống trà "sành điệu" . Hà Nội còn nhiều người uống chè xanh lắm. Bà cụ bán hàng bao nhiêu năm nay nuôi lớn đàn con bằng gánh chè xanh trong ngôi chợ này. Giờ cụ già yếu, cô con dâu cả ngồi bán thay mẹ, lại tiếp tục nuôi cả nhà, chè của cụ ngon nổi tiếng ở Hà Nội, dù cụ không phải là con gái đất chè. Có lẽ cụ là người khó tính. Là chè phải dày, không to không nhỏ, vò nhẹ phải dậy mùi thơm cụ mới lấy. Hàng của cụ ngày một nhiều khách quen. Có hôm khách phải tiu nghỉu ra về vì cụ không lựa được chè ưng ý nên không lấy bán, mặc cho cả nhà cụ trông chờ vào gánh chè kia. Nhưng phải khó tính thế cụ mới giữ được khách, mới nuôi được các con bằng cái nghề bán lá chè tươi mà cụ trân trọng như một nghề gia truyền, để rồi trao lại cho con cháu lúc đã về già, chỉ có nắm chè xanh mua với vài đồng bạc lẻ, cũng cái sự bán mua trao đi đổi lại sòng phẳng, thế mà người mua kẻ bán nhớ nhau. Người uống lâu ngày thành quen, hôm nào thiếu chè xanh lại thấy trống trải và nhớ cả bà cụ bán hàng.

Tôi đang sống giữa phố phường Hà Nội, chè xanh phải mua từng ngày. Mua về lại phải ngâm cho hết thuốc sâu và hãm bằng nước máy Phần Lan chứ không có chè vườn nhà hái vào rửa rồi hãn nước giếng đào. Nước chè xanh ở Phố chắc sẽ nhạt hơn chè giữa đất quê nhưng chẳng bao giờ lẫn mất vị. Và mỗi lần bạn bè đến với tôi, nhấp ngụm chè xanh mua từ chợ Ngọc Hà, hãn theo cách bà dạy ngày xưa, họ đều thốt lên ngỡ ngàng: "Chè xanh?". Phải, chè xanh đấy. Họ vẫn nhận ra dù đã bao năm rồi không về quê. Tôi biết, đó là lúc họ gặp những gì thiêng liêng ẩn sâu trong tâm thức quê nhà.


Hà Nội tạp văn (NXB TN-Báo Hà Nội Mới)
 
" Chè xanh là thứ nước uống tĩnh tâm.Ông đi tập dưỡng sinh về có chén chè xanh với vị chát đắng,khói bốc nghi ngút mà lòng khoan khoái.Cái vị của chè xanh khó ai mà quên được chát thế mà vào đến cổ họng mơi cảm nhận được vị ngọt dịu của nó.Hương thơm của lá chè tỏa đi theo làn khói.Lá chè cứ dầy là chắt được nhiều nước nên mỗi khi mua lá chè về thì bà chọn rất kỹ bởi mua về để chắt nước chè cho ông và cũng để mời khách...

Người Hà Nội là vậy : rất trọng những phong tục ,nghi lễ từ việc rót trà .Khi rót tay cầm quai ấm,tay đỡ thân bình, từ từ nâng lên rồi mới cẩn thận rót vào chén...thứ nước uống cổ truyền này đã làm khơi dậy nỗi nhớ quê của những người con tha hương đẻ mõi khi nhấp ngụm trà mà rưng rưng thốt lên:Ôi chè xanh! "....

...


"Chè xanh hay còn gọi là chè tươi, một thứ đồ uống dân dã nhưng thật ngon và bổ.

Ngày xưa bố thường hay mua những lá chè xanh đem về hãm và làm thứ nước uống cho cả nhà, từ nhỏ đã quen với thứ nước uống chan chát nhưng khi xuống đến cổ họng thì lại có vị ngọt dịu của chè rồi lớn lên tôi nghiền chè lúc nào không biết nữa.

Từ chè xanh đến chè mạn, mỗi ngày thay vì uống nước đun sôi để nguội thì tôi lại tìm đến chén trà...không có 1 ly trà đá kèm theo thì không ăn nổi cơm... lạ thật đấy.

Bây giờ ở chợ không còn nhiều hàng bán lá chè tươi như xưa nữa, nhưng vì thú uống chè của một số người HN vẫn không thay đổi dù cho thị trường bây giờ xâm nhập nhiều loại trà gọi là " sành điệu" chính vì thế vẫn còn một quán nhỏ nơi góc chợ bán thứ lá chè tươi này để phục vụ cho những người yêu thứ nước uống tuy bình dị mà thực ấm lòng người. " "


........


Nhấp chén trà xanh nhớ Hà Thành...



Không giống như giọng văn của cụ Nguyễn Tuân khi tả về cách ướp chè sen theo kiểu “ngày xưa”: bỏ chè vào giữa cánh hoa, buộc lại, để một đêm rồi đến sáng hôm sau lại ra mở cánh hoa, mang chè về, hãm uống.
Mà để đạt được một cân chè sen đúng nghĩa thì giờ đây công việc đầu tiên của người nghệ nhân là phải mua chè từ Hà Giang về, nếu được chè Tuyết san nước đỏ càng tốt, nhặt cẳng, nhặt lá già, rửa sạch, sau đó cho vào chõ đồ lên cho hết mùi chè rồi đem phơi cho khô nỏ. Chè nên mua vào đầu mùa hè, đến cuối tháng tư, đầu tháng năm thì mua sen. Trước khi mua sen, người ướp phải ướp chè với những cánh sen nõn. Đây là công đoạn “tẩy chè”, rồi hôm sau mới mua “gạo sen” để ủ.

Muốn có “gạo sen” ưng ý để ướp thì Hoa sen phải hái từ lúc mặt trời chưa mọc - nếu không, sợ khi nắng lên gạo sen sẽ bị ôi, không cho ra một thứ chè có mùi thơm ưng ý - Bà Lê Thị Ngọc, nghệ nhân ướp chè sen (con gái của bà Hiền - một trong những người ướp chè sen nổi tiếng bậc nhất Hà Nội) nói.

Tuốt lấy “gạo sen” cũng phải làm một cách khéo léo, nhẹ nhàng để không làm tổn hại đến mùi thơm. 100 bông sen mới được non một lạng “gạo sen”. Nếu ướp 1kg chè thì phải mất ngàn bông sen, chè sen chỉ thực sự thơm ngon khi qua ít nhất 3 lần ướp, 3 lần sấy. Khi sấy, dùng một chiếc bình lớn hoặc một chiếc xoong sạch, rộng miệng. Cứ một lớp trà lại rắc đều một lớp gạo sen, 1kg chè phải mất 3 lạng gạo sen, đậy kín lại trong 24 giờ mới được bỏ ra. Tiếp theo là cho trà vào những túi bóng mờ nhỏ chuẩn bị sấy. Cách sấy của mỗi nghệ nhân cũng có phần khác nhau, nhưng nhìn chung khi sấy trà họ đều dùng nước sôi trong bình đậy kín, cho vào thúng và áp những túi chè vào bình nước. Sau đó, quấn chăn ủ kín cả bình lẫn trà trong khoảng 11 - 12 giờ mới được bỏ ra. Sàng lọc gạo sen rời búp trà là đã xong lần sấy thứ nhất. Tiếp tục làm thêm 2 - 3 lần tương tự mới ra được 1kg chè thành phẩm.

Bà Ngô Kim Thành - nghệ nhân ướp chè sen cho biết: “Người ướp chè phải giữ cho mình thanh tịnh, không hám lợi. Chè sen là loại chè cao quý, tao nhã. Phụ nữ đang ở thời kỳ “đặc biệt” tuyệt đối không được động vào chè hay khi có đám tang cũng phải mang chè sen “sơ tán” bởi nếu không sẽ làm giảm đi vị tinh khiết của nó”.

Hoa sen cũng được những nghệ nhân lựa chọn rất kỹ càng. Phải là sen ở Hồ Tây (loại sen trăm cánh) chứ không được lẫn lộn với sen nơi khác. Đó là loại “sen thơm” chứ không phải “sen quỳ” được trồng ở Pháp Vân, Đông Anh (Hà Nội), Thường Tín (Hà Tây)... Giờ đây, ở Hồ Tây chỉ còn mỗi Đầm Bảy còn trồng giống sen quý hiếm này và khoảng 2 mẫu sen “anh em” như thế trong Thừa Thiên - Huế - giống sen quý như vậy mà đang dần một mất đi là điều mà bà Đàm Thành, bà Ngọc cũng như nhiều nghệ nhân ướp trà sen lo buồn.

Câu hỏi lúc đầu của tôi đã được giải đáp bởi hương thơm quyến rũ lòng người từ chiếc chén xinh xinh các nghệ nhân mời thưởng thức. Nhưng rồi lại trĩu lòng khi ra về lại thấy buồn vì một câu hỏi khác. Vẫn biết khi giống sen quý kia mai một, thì rồi người ta cũng sẽ tìm đến loại sen được trồng ở nơi khác để ướp chè. Nhưng liệu rằng với những loại sen ấy có còn giữ được hương vị sen nồng đượm đã thành nét đặc trưng của hương vị Hà Nội như câu thơ của Tiến sĩ, thượng tọa Thích Minh Thành trong lần ra dự Đại hội phật giáo tại Thủ đô (?):

“Nhấp chén chè xanh nhớ Hà thành
Hương thơm còn đọng nét đan thanh
Còn đây một thoáng quê hương Việt
Sưởi ấm lòng ta bước viễn hành”...
icon_smile_rose.gif



Source : VNN
 
Ấm nước chè xanh
Từ ngày chuyển đến trọ ở khu nhà này, chúng tôi tập được thói quen uống chè xanh. Chiều nào gia đình anh hàng xóm cũng nấu một ấm nước chè xanh, rồi gọi cả xóm trọ đến uống. Ngồi bên ấm nước chè tươi vừa chát, vừa thơm, vừa nóng, vừa xanh, cả dãy trọ năm phòng chúng tôi, từ già đến trẻ lại rôm rả nói đủ chuyện trên trời, dưới đất. Thành thói quen đến nỗi, mỗi lần gia đình anh hàng xóm có việc về quê, không có ấm nước chè cứ như thiếu thứ gì đó quan trọng lắm. Mấy đứa thanh niên chúng tôi lại phải ra chợ mua chè về hãm, vì đã quen thứ đồ uống dân dã này.

Thời gian đầu, tôi cứ ngạc nhiên khi thấy gia đình anh hàng xóm ngày nào cũng nấu một ấm chè xanh rồi nhâm nhi thi vị lắm. Bởi tôi nghĩ cuộc sống thành phố thời fastfoot (ăn nhanh), người ta đã quên dần những thú đồng quê. Hóa ra, giữa phố xá thị thành tấp nập, nhiều người vẫn giữ cho mình thú vui uống những ấm chè tươi do tự tay mình nấu. Nhấp ngụm chè tươi lúc đầu chan chát nhưng sau vị ngọt ngấm dần đầu lưỡi, tôi lại nhớ đến bà và mẹ ở quê. Ấm nước chè đồi bà tôi, mẹ tôi chăm chút từng li từng tí để làm sao nước vừa xanh, vừa thơm. Mỗi khi có một ấm chè mới, bà lại bảo tôi đi mời mọi người đến thưởng thức. Sau những vất vả trên đồng ruộng, người nông dân lại quây quần bên ấm nước chè, tranh thủ vài ba câu chuyện vui vào buổi trưa nắng nóng hay những tối trăng thanh…

Ra Hà Nội, điều làm tôi ngạc nhiên là không chỉ các cụ lớn tuổi mới uống chè xanh mà nhiều thanh niên cũng thích đồ uống này. Và những ấm chè xanh vẫn tỏa hương trong nhiều gia đình Hà Nội, những quán trà ven đường luôn tấp nập khách. Đủ mọi thế hệ vẫn giữ cho mình thói quen nhấp một ngụm chè xanh mỗi sáng trước khi đi làm hay mỗi tối sau ngày làm việc vất vả… chừng đó đủ để ta hy vọng về một nét văn hóa không bị lãng quên. Giữa thị thành tấp nập, những ấm chè xanh vẫn là một góc hồn quê cho ta sự mát lành, bình yên để sau những bon chen nhọc nhằn của cuộc sống, ta vẫn muốn tìm về.

Theo www.ktdt.com.vn
 
Những cốc nước trà thoang thoảng mùi hoa nhài thơm dịu, điểm xuyết từ một đến hai lát chanh tươi, có vị ngọt, chua, chan chát đã trở thành thức uống quen thuộc của người dân Hà Nội.

tra-chanh-nha-tho-mot-thoang-ha-noi5.jpg


Ảnh:flick.com

Tuy chỉ là thức uống bình dân với những nguyên liệu đời thường, ấy vậy mà nó lại có sức hút kỳ lạ đến thế. Nếu ai đã từng đến Hà Nội và có cơ hội được thưởng thức trà chanh ở Nhà Thờ Lớn trên phố Nhà Chung, thì chắc không thể nào quên được.

tra-chanh-nha-tho-mot-thoang-ha-noi4.jpg


Kenh 14.vn

Cũng với thứ đồ uống này, nhưng nếu được thưởng thức ở một địa điểm khác thì chắc bạn sẽ không có cảm giác đặc biệt ấy đâu. Ngồi nhâm nhi trà chanh với đĩa hạt dưa cắn nhí nhách, hay gói kẹo lạc trên góc phố cổ, được ngắm nhìn khung cảnh đẹp cổ kính xung quanh Nhà Thờ Lớn, nhìn những dòng người, xe cộ qua lại trên đường, quả là một trải nghiệm lý thú dành cho bạn.

tra-chanh-nha-tho-mot-thoang-ha-noi7.jpg


Ảnh:llick.com

Mỗi mùa mỗi khác, trà chanh Nhà Thờ lại mang đến cho bạn những điều mới mẻ, không chỉ là hương vị của nó mà cả đến cảm xúc cũng trở nên khác lạ. Có người nói trà chanh chỉ phù hợp với tiết trời nóng oi ả, những ngày như thế được một cốc trà chanh và chỗ ngồi trên Nhà Thờ Lớn thì cái nóng cũng tự nhiên biến mất. Và cái nắng nóng của ngày hè oi ả sẽ trôi tuột theo những ngụm trà tươi mát cùng câu chuyện tán gẫu với đám bạn. Thế còn những ngày đông? Những hôm gió heo may, từng cơn gió cứ ùa đến khiến ta rùng mình. Ngồi hít hà bên cốc trà chanh nóng, nép mình vào góc nhỏ, rủ rỉ những câu chuyện vui cùng người đồng hành không phải là điều thú vị sao? Cái lạnh dường như khiến con người gần nhau hơn, yêu thương nhau hơn.

tra-chanh-nha-tho-mot-thoang-ha-noi6.jpg


Ảnh:flick.com

Nếu như Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng với cafe bệt Hàn Thuyên, thì Hà Nội cũng được biết đến với trà chanh Nhà Thờ với các quán đa phần được bán trên vỉa hè, hay những cô bán nước trà lưu động trên phố. Với lợi thế là bán trên vỉa hè rộng, địa điểm ấy đã trở thành nơi thích hợp để tụ tập đông người và những câu chuyện rôm rả xoay tròn bên cốc trà chanh.

Cứ mỗi khi chiều tà buông xuống, khu vực xung quanh Nhà Thờ Lớn lại trở nên nhộn nhịp, tấp nấp người đến uống trà. Dù có phải ngồi nép mình trong khoảng chỗ ngồi nhỏ chật hẹp thì cũng chẳng ai buồn, phàn nàn hay cáu kỉnh. Cả khu phố nhộn nhịp bởi tiếng cười vui, chuyện trò, những tiếng gọi nhau ý ơi… Một Hà Nội nhỏ như đang hiện lên trong tầm mắt của bạn...

Theo monngonhanoi.
 
Nhớ gánh hàng quà Hà Nội ngày xưa


Mỗi lần nhớ lại những hàng quà ngày xưa ở Hà Nội, là tôi lại nhớ lại cả một quãng đời thơ ấu. Nhớ lại những tiếng rao, tiếng động phố phường, mới ngày nào còn gần gũi ...


GANH%20HANG%20RONG.jpg


Những tiếng xe cộ lúc sớm mai trên đường phố, những tiếng rao quà trong trưa nắng, những tiếng hát của người xẩm loà lúc phố xá lên đèn, tất cả những âm thanh đó, những hình ảnh đó, đã ghi khắc vào tâm hồn tôi.


Ôi, những hàng quà xưa, kỷ niệm êm đềm của một thời xa vắng.

Ở Hà Nội ngày xưa, nhất là ở các phố buôn bán trong khu phố cổ, người ta có thói quen ăn quà từ sáng đến tối, và lúc nào cũng có hàng quà! Bọn trẻ chúng tôi - và ngay cả người lớn - chỉ biết thưởng thức các món quà đó một cách ngon lành, và vô tư, còn tìm hiểu tại sao lại có cái truyền thống “ăn quà” ấy, tại sao Hà Nội lại có những món ăn ngon ấy, thì dường như chẳng ai nghĩ tới!

Ngay cả khi lớn khôn lên, nghĩ lại, tôi cũng vẫn thấy khó lý giải được các hiện tượng này, kể cả cái thị hiếu, nói chung, của người Hà Nội, từ sự chọn các món ăn, cho đến sự lựa chọn các hàng quà!

Người ta thường bảo người Hà Nội ăn uống cảnh vẻ, kén chọn. Hồi nhỏ, mẹ tôi nói thế, và tôi nghe cũng chỉ biết vậy, nhưng chắc hẳn điều đó phải có một phần đúng. Người ở đất cố đô nào mà chẳng thế? Thật ra, ăn uống “kiểu cách”, “đài các” thực sự, thì có lẽ phải nói đến người Huế, nhất là trong các gia đình khá giả, quyền quí! Nhưng đấy là chỉ nói về cách ăn uống và các món ăn trong các bữa cơm thôi, còn quà thì có lẽ không đâu phong phú và “thanh lịch” như ở Hà Nội. Cùng món phở, cùng món bún chả đấy, nhưng chỉ cần đi về một địa phương nào đó, là đã thấy khác rồi!

Sau này, càng lớn lên tôi lại càng nghĩ rằng, nếu cứ thả cửa ra thì người Hà Nội cũng thích ăn uống xô bồ, cũng ưa “nhậu nhẹt” như ai thôi! Bởi một lẽ đơn giản là người Hà Nội, ngay từ xưa vốn vẫn là dân tứ chiếng (tứ trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Đông, Sơn Nam), từ các vùng quê Bắc Ninh, Sơn Tây, Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Phủ Lý, Nam Định, Thái Bình, v.v. kéo nhau lên Kẻ Chợ làm ăn, rồi định cư ở đây. Có gia đình đã định cư từ lâu lắm rồi, song có lẽ ít ai gốc gác Kẻ Chợ từ quá năm, sáu đời nay!

Tuy nhiên, khi cái vòng luẩn quẩn khép lại, thì những gia đình vốn chỉ là dân buôn bán, gốc gác “tứ chiếng”, từ nông thôn lên kia, lại muốn duy trì một thứ nề nếp nào đó - mà thật ra họ không có - như một kiểu “học làm sang”, một cách làm cho “phải đạo”! Họ cũng dạy con cái “ăn nói” sao cho dịu dàng, lễ phép, và cũng chính họ mới là những người quan tâm đến truyền thống ẩm thực nhất, và biết... ăn quà nhất!

Tầng lớp thương gia, tiểu thương, thủ công nghệ, vẫn luôn luôn đóng một vai trò tích cực trong đời sống đô thị. Còn những gia đình thật sự là cổ ở Hà Nội, thì trước hết là rất hiếm, sau nữa, là vì đã là nhà gia giáo, ông bà cha mẹ có chút ít Nho học, thì giáo dục ở trong nhà cũng nghiêm khắc hơn, ăn uống cũng thanh đạm hơn, con cái có khi không được ra tới ngoài đường để ăn quà nữa!

Hà Nội luôn luôn có những cư dân mới đến nhập cư, từ trong Thanh, trong Nghệ, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thậm chí có cả những người tập kết từ trong Nam ra rồi ở hẳn lại ngoài này. Đấy là chưa kể những đợt di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị từ những năm 54 - 55 trở đi, đã du nhập đến đây nhiều tập quán lai tạp, xô bồ, từ trong cách ăn nói, cách phát âm, cho đến phong cách ăn, mặc. Bây giờ “lời ăn tiếng nói” của người Hà Nội cũng không còn như xưa nữa!

Nói chung, từ ngày đất nước thống nhất, văn hoá ẩm thực cũng đã thừa dịp giao lưu tự do, thoải mái! Chẳng thế mà từ nhiều năm nay, ở các “chợ vỉa hè” Hà Nội, thấy có đầy những hàng bán trứng vịt lộn, người ngồi ăn xì xụp, điều mà trước kia không bao giờ có! Cũng như những hàng “cơm bụi”, trước kia đâu có? Có chăng là những hàng “cơm bình dân” dành cho người lao động, thường cũng là những hàng quán kín đáo, chứ không khi nào lại lấn ra vỉa hè! Có lẽ truyền thống “cơm bụi” đã được nhập trực tiếp từ nông thôn, rập theo khuôn mẫu các hàng quán ở “chợ quê” chăng?

Có phải vì Thăng Long là chốn đế đô cũ, là đất “ngàn năm văn vật”, mà người Hà Nội xưa có tập quán ăn uống “cảnh vẻ” và “kén chọn” không? Điều này có thể là đúng, ít ra về mặt cảnh vẻ, “thanh lịch”, còn ăn uống “kén chọn” lại là một chuyện khác nữa, và có những lý do khác.

Kẻ Chợ vốn là nơi tập trung nhiều truyền thống ẩm thực từ nhiều địa phương đem đến, cho nên người Hà Nội có cái thuận lợi là có được một sự chọn lựa rộng rãi. Những gì không ngon đều bị loại đi ngay, còn những gì mới mẻ, độc đáo cũng phải trải qua một cuộc thử nghiệm khe khắt rồi mới được sự đồng thuận của mọi người !

Tôi không tin rằng cái gu ẩm thực của người dân Kẻ Chợ trước kia đã chịu một ảnh hưởng đáng kể nào của các triều đại vua chúa đã từng ngự trị ở đây! Có chăng, thì cái ảnh hưởng đó cũng không phải chỉ một chiều. Có những quà “tiến” vua, như nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà (nghe nói vải thiều của ta đã được “cống” cho vương triều nhà Đường (618 - 906), dưới thời Dương Quý Phi). Những thức ngon, vật lạ này thực ra cũng chỉ là những sản phẩm do nhân dân sản xuất ra, tiếng đồn lan truyền, rồi đến một lúc nào đó trở thành quà tiến vua. Song, chắc hẳn cái sự kén chọn của các tầng lớp quí tộc đã ảnh hưởng trở lại lên cái gu của quần chúng.

Ngược lại, cái gu dân dã của “thị dân”, do không bị ràng buộc bởi những ước lệ gò bó, nên đến một trình độ phát triển nào đó, lại hấp dẫn, chinh phục được thị hiếu của các vua chúa: Nghe nói, ngay từ thời Trần, thỉnh thoảng đêm hôm vua vẫn cải trang đi chơi ra ngoài hoàng thành, vào chơi những khu dân ở; thời vua Lê chúa Trịnh, các chúa đều xây cung điện ngay ở trong khu của dân (điều này thì có chứng tích hẳn hoi). Không biết thời đó đã có các hàng quà chưa? Đặc biệt là đã có phở chưa? Và các vua chúa cải trang đi tối, có dám dừng lại ăn quà ở ngoài phố không? Đó cũng là những điều bí ẩn, mà ngày nay ta chỉ có thể phỏng đoán, chứ không thể nào khẳng định được !

Song, cứ nhìn vào kinh nghiệm lịch sử của các nước khác mà suy xét, thì điều đó chắc hẳn đã phải có. Ở Nhật, khi thành phố Edo trở thành kinh đô mới (thế kỷ XVI), khi tầng lớp phú thương, những “nhà giàu mới” rủng rỉnh tiền bạc, có đôi chút uy quyền, lại muốn “học làm sang”, thì cái gu ở đây cũng xuất phát từ tầng lớp thị dân mới này, chứ không phải từ tầng lớp quí tộc nữa: Lúc đó tranh khắc gỗ “phù thế” (Ukiyo-E) được tôn vinh, làm lu mờ hẳn những bức tranh cổ điển, lỗi thời và buồn tẻ, treo trong các cung điện của vua chúa.

Cũng như khu thanh lâu Yoshiwara nổi tiếng của kinh thành Edo thời đó cũng đã hấp dẫn không biết bao nhiêu là các vương hầu, khanh tướng! Cũng vậy, ở Trung Quốc, khi vua Càn Long nhà Thanh cải trang du hành một mình tới Giang Nam, thì nhà vua cũng đã có dịp quan sát, học hỏi được không biết bao nhiêu điều kỳ thú trong đời sống thường ngày của nhân dân.

Một thí dụ cụ thể khác, để thấy rằng cái gu ẩm thực của người Hà Nội luôn luôn được nuôi nấng, bổ sung bởi cái gu dân dã của các “vùng quê gốc” của mình. Chiếc bánh chưng mà người dân Hà Nội thường ăn, thường gói và luộc vào tối giao thừa, chỉ được cái thanh cảnh, còn thì không phải là thứ bánh chưng ngon nhất. Ở Thái Hà ấp, nhà bà ngoại tôi ngày xưa, tôi đã từng được ăn một thứ bánh chưng gói theo truyền thống của làng Bông, Hưng Yên, bánh gói dẹp, to gấp đôi, gấp ba bánh chưng thường, và ngon hơn nhiều, nhất là bánh chưng đường!


Mấy thí dụ nêu trên cốt chỉ để minh chứng rằng cái gu dân dã của quần chúng, dẫu là dân “tứ chiếng”, đôi khi cũng có một ảnh hưởng quyết định lên cái gu của thị dân, nói chung.

Trở lại câu hỏi: Tại sao Hà Nội lại có nhiều hàng quà, và cái truyền thống hàng quà này đã có từ bao giờ?

Ai cũng biết, cái tên Hà Nội mới chỉ có từ thời vua Minh Mạng (1830). Trước kia, người ta thường gọi nơi này là Kẻ Chợ, tên chữ Thăng Long chỉ để dùng trong các văn tự hành chính, hoặc trong văn chương, từ thời nhà Lý trở đi (1010).

Cái tên Kẻ Chợ nôm na, quê mùa, thoạt nghe hơi là lạ, nhưng xét cho cùng, lại thấy rất chính xác!

Hà Nội không biết từ bao đời nay vẫn là một nơi trao đổi buôn bán giữa thành thị và nông thôn, nơi hàng hoá, vật dụng, thức ăn, thức uống, hoa quả, và hàng quà (nhất là hàng quà!), đổ về từ mọi miền đất nước. Phần lớn các mặt hàng là để phục vụ cho người dân thành phố, song cũng có những mặt hàng dành cho khách từ nông thôn lên mua. Bởi thế cho nên, để bảo đảm chức năng ấy, Kẻ Chợ không chỉ gồm có các phường nghề, các chợ, mà còn có cả một hệ thống các hàng rong nữa.

Các phường sau này trở thành phố buôn bán, với các cửa hiệu chuyên về từng thứ mặt hàng một, như: Hàng Gạo, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Bún, Hàng Đường, Hàng Bột, Hàng Cá, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Giò, Hàng Cau (Hàng Bè), Hàng Cân, Hàng Bồ, Hàng Bát, Hàng Khay, Hàng Than, v.v. Đấy là ta chỉ nói đến các phố có liên quan đến vấn đề ẩm thực.

Các chợ, thường được bố trí ở những nơi giao thông thuận tiện, như chợ Gạo ở bờ sông Cái, chợ Bắc Qua, chợ Bạch Mã ở bờ sông Tô Lịch, trước kia trên bến dưới thuyền tấp nập. Các chợ khác, như chợ Đồng Xuân, chợ Cửa Nam, chợ Hàng Da, chợ Hôm, chợ Mới Mơ, chợ Bưởi, v.v. đều nằm dọc theo các đường tàu điện nối liền trung tâm thành phố với các cửa ngõ thông ra ngoại ô.

Một số hàng rong, hàng quà được sản xuất ở ngay tại các phường phố cổ, hoặc ở các làng nghề ngoại thành, chẳng hạn như: Bánh gai Hàng Bè, bánh giò Đờ Măng (Phùng Hưng), bánh cốm Hàng Than, phở, bánh tôm, bánh cuốn nhân thịt, bún chả, xực tắc, xôi lúa, xôi xéo, xôi lạc, xôi dừa, xôi đỗ đen, xôi lạp xường, giò, chả, bánh dầy, bánh giò, bánh tây pa-tê, kẹo vừng, kẹo bột, kẹo lạc, kẹo hồng, kẹo mạch nha, ô mai, lạc rang (phá xang), tàu phớ, thạch đen, thạch trắng, chè chân châu glacé, sấu dầm, kem que, xề cớ, lục tàu xá, chí mà phù, bát bảo lường xà, bánh bò chê, thịt bò khô, lốc bểu, v.v. Nhưng một số sản phẩm khác lại được đem đến từ những vùng nông thôn xa, như: Bánh dầy Quán Gánh (Bần Yên Nhân), bánh cuốn Thanh Trì (Hà Đông), cốm Vòng, bánh đậu Hải Dương, nhãn Hưng Yên, vải Thiều (Thanh Hà, Hải Hưng), cam Bố Hạ (Phú Thọ), đào Sa Pa, hồng, mận Lạng Sơn, bưởi Nghệ, Biên Hoà, xoài Cao Lãnh (Tiền Giang), v.v. Một số hàng quà quen thuộc khác ở Hà Nội mà tôi không còn nhớ nơi xuất xứ, như: Bánh trôi, bánh chay, bánh mật, bánh do, bánh gai, bánh khúc, bánh đa, kê, bỏng, bánh đúc nộm, riêu cua, bún bung, bún ốc, v.v. chắc cũng từ các vùng ngoại ô đem vào. Quê của đẻ già tôi ở làng Cói, bên Bắc Ninh, có mấy nhà làm bỏng, kẹo xìu, kẹo lạc, gánh lên Hà Nội bán, nhưng chắc còn nhiều nơi khác chuyên về làm bỏng hơn.

Hàng quà, hàng bánh truyền thống ở Hà Nội tuy nhiều thế, nhưng người Hà Nội cũng đã để lọt không “nếm” hết được tất cả các món quà ngon của các vùng quê xung quanh, lẽ ra cũng hợp với khẩu vị của họ, như món bánh đúc nóng hành mỡ, chẳng hạn: Năm 1944, khi trường tôi dọn xuống Tương Mai, để tránh bom Mỹ - Nhật, tôi đã được nếm một món bánh đúc nóng hành mỡ ngon tuyệt vời ở đây. Chưa bao giờ tôi được ăn một món quà sáng ngon như thế! Bánh đúc nóng được đổ vào một chiếc bát đàn rất nông, miệng xòe ra, và được rưới hành mỡ nóng lên trên! Trông thì đơn giản, nhưng nếu gánh đi bán ở trên đường phố Hà Nội, thì không biết phải sửa soạn trước ra sao, và rồi bày bán thế nào? Có lẽ vì quá diệu vợi và chẳng bõ công gánh gồng, cho nên người ta mới không đem cái món quà rất dân dã, nhưng lại rất ngon này lên tỉnh bán!

Nói về các hàng quà ở Hà Nội, để cho dễ phân biệt, có thể chia ra làm: Quà sáng, quà trưa và quà tối. Tuy nhiên, có những món quà ăn suốt ngày được, như: Phở, bánh cuốn, xôi, v.v., nhưng thông thường, đứng về mặt hàng quà, thì buổi sáng thường có: Phở, bánh tôm, bánh tây cặp patê, xúc xích, bánh tây thịt bò nấu ragu (một phát minh vào những năm 40), bánh tây cặp bánh tôm rưới nước mắm dấm (cũng là một phát minh của đám học trò vào những năm 40), bánh cuốn Thanh Trì, xôi xéo, xôi lúa, xôi lạc, lạp xường lồ mái phàn (xôi lạp xường); buổi trưa có: Bún chả, bún riêu, bún ốc, bún thang, xực tắc, cháo lươn, bánh đa kê, bánh xèo, bánh đúc nộm, bánh dầy đậu, bánh trôi, bánh chay, bánh gai, bánh mật, bánh gio, bánh dầy giò chả, bánh rán, bánh quế, thịt bò khô, bỏng, kẹo (kẹo bột, kẹo vừng, kẹo xìu, kẹo lạc, kẹo kéo, kẹo hồng, kẹo mạch nha); mùa nực có các thứ kem que, thạch, chè; tối đến có: phở, cháo gà, bánh dầy bánh giò, lúa rang, hạt dẻ, chế mà phù (chè vừng đen), lục tàu xá (chè đậu đãi), chè hạt sen, bát bảo lường xà, mùa nực có món xề cớ (một thứ sorbet au citron), các loại kem que, thạch, chè chân châu glacé, v.v.

Đấy là còn chưa kể các món quà đặc biệt, đến mùa mới có, hoặc chỉ mỗi năm có một lần vào dịp lễ, tết, như: Cốm vòng, rượu nếp, chè lam, v.v. Cũng như chưa kể các thứ hoa quả có vào từng mùa khác nhau, như: Na, ổi, nhãn, vải, mít, dứa, khế, hồng, đào, xoài, mơ, mận, doi, lựu, cam, quít, sấu, chám, dâu da, hồng bì, dưa bở, dưa hấu, v.v; các thứ củ, như: củ đậu, củ bột, củ sắn, củ dong, củ ấu, khoai lang, khoai sọ, khoai môn, v.v.

Nhà tôi nằm ngay giữa một phố buôn bán không quá đông đúc và ồn ào như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, nên dễ quan sát được các hàng rong, hàng quà đi ngang qua, và dễ nhận biết được những tiếng rao của họ trên đường phố.

Có những hàng quà không cần phải rao, mà người ta vẫn phải tìm đến mua ở những địa điểm cố định, nơi các hàng này có chỗ để đặt gánh mỗi ngày. Đó là những hàng phở, bún chả, bánh tôm, bánh cuốn, bánh rán, xôi xéo xôi lúa, bún riêu, bún ốc, v.v.
Do đó, không phải ở phố nào cũng có thể có hàng quà được. Chẳng hạn như muốn đặt gánh phở, cũng phải có chỗ tương đối thoáng đãng, thường là ở một đầu phố, chỗ ngã ba, ngã tư; đặt hàng bún chả, quạt khói um, đương nhiên cũng phải tìm một chỗ trống giữa hai cửa hàng và phải được sự đồng ý của các cửa hàng này. Ngoài ra, các bà hàng quà cũng ưa đặt gánh hàng của mình ở những phố tương đối yên tĩnh nhưng cũng phải có nhiều khách qua lại và có hè đường tương đối rộng rãi, có hiên che mát mẻ.

Ngược lại, có những hàng quà khác thì lại luôn luôn có tiếng rao, như: lạp xường lồ mái phàn, bánh dầy bánh giò, bánh trôi bánh chay, phá xang (lạc rang), kẹo vừng kẹo bột, tàu phở, lục tàu xá, chí mà phù, kem que, xề cớ, lúa rang hạt dẻ,v.v.

Hàng “xực tắc” đặt gánh ở một phố nào đó không xa quá, rồi cho người đi khua mõ rao khắp các phố xung quanh bằng hai khúc tre cật ngắn, gõ vào nhau phát ra hai thanh âm khác nhau nghe như “tục tắc, tục tắc”. Món “xực tắc”, không biết có nguồn gốc xuất xứ từ đâu, chắc cũng lại là của người Tàu, rồi người mình chế biến thêm, làm cho ngon thêm. Món này có lẽ là một trong những món quà sang và ngon vào hạng nhất ở Hà Nội, đương nhiên ngon một cách khác với phở, hoặc hủ tiếu, hay vằn thắn. Không biết sau này có ai còn tiếp tục làm món này bán nữa không, vì nó cũng khá cầu kỳ, lại cần nhiều vật liệu phức tạp?

Trong các tiếng rao hàng quà, có lẽ không có tiếng rao nào ngân dài và giàu âm điệu bằng tiếng rao của hàng “lạp xường lồ mái phàn”.

Tiếng rao về đêm âm thầm và buồn bã nhất là tiếng rao “dầy... giò”.

Tôi còn nhớ, có một đĩa hát của nhà Thiên Nhiên (ở đầu phố Hàng Bồ) hồi đó, bắt đầu bằng những tiếng rao này, rồi lại có cả tiếng chó sủa cứ xa dần, xa dần, trước khi bài hát bắt đầu, nghe rất ngộ, bọn trẻ chúng tôi trong nhà, cứ mỗi lần có dịp được lên gác sân thượng nghe kèn hát cùng với các anh chị lớn, là đòi cho được nghe lại đĩa hát này, và lần nào cũng lấy làm thích thú lắm, không hiểu tại sao?


Văn Ngọc - Tạp chí Tia Sáng
 
Những nẻo đường Hà Nội

Băng Sơn

Nguồn :
NXB Kim Đồng.



Chữ "hàng" gợi cảm

Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi phố là một phường hay mỗi phường là một phố? Không hẳn thế. Bởi mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, còn đến hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào, Hàng Tre, Hàng Sắt, Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè... trong hơn ba trăm sáu mươi phố của Hà Nội hiện nay. Hà Nội lớn lên không ngừng. Gương mặt từng phố ngày mỗi đổi thay và hẳn trong lòng nó, trong lòng mỗi phố, trong lòng mỗi căn nhà và mỗi con người Hà Nội. Cuộc đời là một dòng sông chảy đi bất tận, mang lớp lớp phù sa mới bồi đắp vào cuộc đời mình. Có những phố nguyên có chữ Hàng nhưng đã được mang tên mới như Hàng Cỏ (Trần Hưng Đạo), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu phía trên), Hàng Lọng (Đường Nam Bộ rồi Lê Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn, (Quang Trung), Hàng Bột (Tôn Đức Thắng) v.v...

Trong ký ức của những người Hà Nội, một căn nhà, một góc phố, một gốc cây, có khi chỉ là một âm thanh, một làn hương, một màu sắc... cũng hiện lên bao hình ảnh thân yêu, gợi cảm. Đương nhiên cái mới phải sinh ra, phải vươn lên, cái cũ phải nhường chỗ. Măng thay tre. Con sông tiếp nhận những dòng suối. Nhưng cây măng chớ quên bụi tre đã ôm ấp che chở mình. Dòng sông hình thành sao được nếu không có những con suối cần cù năm tháng trong rừng sâu im vắng? Người Hà Nội hôm nay đi quanh Hồ Gươm, đi vòng Hồ Tây, đi thuyền trên hồ Thống Nhất, thả hồn trên đường Thanh Niên có hoa phượng hoa ban tím (còn gọi là cây móng bò), vào bảo tàng Hồ Chí Minh, ngắm vườn hồng đường Bắc Sơn, ra Điện Biên nhìn lại Cột Cờ cổ kính, vòng về chợ Đồng Xuân, rẽ ra bờ sông Cái có cầu Chương Dương, bước lên con đê xanh... có bao giờ quên được những tên phố thân thương, gợi nhớ cả một thời xa xưa oanh liệt và trữ tình. Hà Nội có những nghề cổ truyền, có đám, có phường, có những món ăn thanh lịch, những cảnh trí thơ mộng và cả những niềm vui mộc mạc giản dị của một vùng quê Bắc Bộ. Hàng Bài không còn là bài lá, tam cúc, tổ tôm có những cây xe hồng, tịnh vàng xuất hiện trên ổ rơm những ngày tết ấm cúng trong bao gia đình, những cây bát sách, cửu vạn mà câu ca dao đã phải thốt lên: "Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều" là ba cái thú, ba sự lịch lãm một thời; những quân bài đã thành kỷ niệm in trong ký ức bao thế hệ. Nay ở đây có trường Trưng Vương, nhà triển lãm, hiệu bán sách khoa học, bán băng nhạc, có cửa hàng bách hóa lớn nhất Thủ đô. Hàng Bạc không còn những cô gái kiêu kỳ kiểu công chúa cấm cung, ăn cái giá đỗ cũng phải ngắt làm đôi, cái phố từng sản xuất những vòng, xuyến, kiềng vàng cho lớp giàu sang, sản xuất những đôi khuyên vàng và tích bạc cho cô dâu về nhà chồng, cho những vùng xa về kinh kỳ kẻ chợ sắm cưới; chỉ còn rạp Tố Như cũ (rạp Chuông Vàng-Văn Lang) nơi sinh ra Trung đoàn Thủ đô bất tử trong những ngày kháng chiến oanh liệt của Liên khu Một năm 1946.

Nhà cô Bé Tý đã thay đổi hoàn toàn, không còn ai nhớ đến nữa, đình Hàng Bạc cũng hoang tàn, những người thợ bạc Châu Khê (Cẩm Bình Hải Hưng) có đình thờ riêng, nay lang bạt đi đâu, hiệu thuốc cam có Con Hươu, còn đấy, nhưng em bé nào còn ăn thứ thuốc cam ấy (có đến bốn năm hiệu cùng có Con Hươu, cũng hơi phiền). Hàng Chuối từng có những bãi chuối bạt ngàn để chăn đàn voi cho nhà vua phủ chúa, nay là một phố dài cây xanh rợp bóng, những biệt thự yên lặng như vầng trán trầm tư trong tịch mịch. Cái màu xanh đất bãi ấy mất đi chăng? Không, nó lại hồi sinh trong màu lá hai bên đường cây, để xuân về, óng ả, tơ non, tạo ra cái mái nhà xanh của thủ đô rất Hà Nội. Trụ sở Hội Phụ nữ lúc nào cũng có bóng cây dịu mát, cái dịu mát của cây hay của người phụ nữ Việt Nam? Bàn tay nào khéo léo, tâm hồn nào giàu rung động, để đã từ một ống tre, một quả bầu khô, một miếng da rắn... tạo ra cây nhị cây hồ nhất là cây đàn bầu bất hủ. Hàng Đàn hẳn một thời náo nhiệt những giai nhân tài tử, nghệ sĩ đến so dây, nắn phím. Những trái tim ấy đã ra đi nhưng tài hoa còn lại với đất nước nghìn năm văn vật. Hẳn họ cũng đã quá bước tạt sang Hàng Quạt bên cạnh để thửa cái quạt thước, chiếc quạt tím trang kim, chiếc quạt gỗ đàn hương thoảng gió thơm, chiếc quạt gỗ trầm ngào ngạt, khiến yêu cái quạt yêu cả người cầm quạt, nói như nữ sĩ Xuân Hương: "Mười bẩy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng rời tay...

... Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày..." Quạt tạo ra gió mát, quạt còn che nửa mặt hoa cho khỏi rám má hồng trưa nắng, làm duyên cho tao nhân... Hàng Nón sao lại không từng tặng liền anh liền chị đất Kinh Bắc những chiếc nón thúng quai thao để: "Yêu nhau gửi nón cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay..." Những chiếc nón ấy đã ở lại mãi mãi với câu ca say đắm lòng người, trường tồn với dân tộc tài hoa và tha thiết. Hàng Khay có những người thợ khảm trứ danh. Từ mảnh gỗ đơn sơ, từ chiếc vỏ con trai chẳng giá trị gì, họ đã tạo ra những tác phẩm thực sự, óng ánh, bảy sắc cầu vồng; những đường nét, phong cảnh, tưởng như đang hiển hiện trước mắt mà ta đang bước vào đó trên đoạn đường ta đang đi dạo. Bến sông Nhị Hà xưa còn ăn sâu vào đất liền hơn bây giờ nhiều. Từ rừng núi, theo những con ngựa thồ, những chiếc xe thô sơ và cả những con thuyền lớn... những củ nâu xù xì nhưng bền bỉ sắc màu dân dã quê hương đã về đây để nhuộm cho mẹ cho chị những tấm áo che một nắng mấy sương. Dọc Hàng Nâu xuống Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Tre. Nước Mắm Nghệ, muối chợ Cồn Văn Lý, ang chĩnh Thổ Hà, tre vầu rừng Bắc... đã theo những mảnh buồm, những bè nổi lênh đênh về với kinh kỳ. ôi những con thuyền đã rong ruổi bao dặm trường sóng nước, neo vào bến Cầu Đất, gửi cho Hà Nội những món quà bền chắc, nồng mặn đậm đà, để mà nhớ nhau mãi mãi như câu ca dao: "Gừng cay muối mặn xin đừng..."

Người Hà Nội tài hoa, tao nhã, hiếu học, Hàng Giấy, Hàng Bút còn đó. Những khoa thi nào, anh khóa, cậu tú, bác cử đi chọn giấy bút để tung hoành trên trường văn trận bút. Cái "công danh xa mã" ấy từng đã làm khổ bao người, những anh đồ dài lưng tốn vải, những người phụ nữ ước mơ võng anh đi trước võng nàng theo sau, lụi cụi cả một đời cho tuổi trẻ trôi qua lúc nào không biết. Tuy nhiên chúng ta cũng tự hào còn lưu lại được nhiều áng thơ văn thiên cổ kỳ tài, những tuổi tên còn khắc đầy trên hơn tám chục tấm bia đá nơi Văn Miếu kia. Còn cuộc đời thường của người dân lao động với những nhu cầu không thể thiếu được thì đã có Hàng Gạo, Hàng Cá, Hàng Đường, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Dầu, Hàng Bột (Tôn Đức Thắng). Muốn sắm sửa thì lên Hàng Bát Đàn, Bát Sứ, Hàng Đũa (Ngô Sĩ Liên). Cha già mẹ héo cần một cỗ áo thì đã có Hàng Sũ gần kia. Tháng chín tháng mười giở trời, đau cả xương cốt, món rươi của vùng Hải Đông (Hải Dương Hải Phòng ngày nay) đổ về kinh kỳ không ít. Khen ai là người đầu tiên đã biết chọn vỏ quýt làm gia vị cho món chả rươi, quả là tài tình, quả là nghệ thuật. Cái lưỡi con người tinh tế đến thế là cùng. Hàng Rươi cũng là nơi họp chợ hoa ngày tết. Cô gái đi mua hoa, cành đào hay cành mận, nhánh hải đường hay bông vạn thọ, cô có thể sắm thêm gương lược mà điểm trang cho thêm nhan sắc, cho đẹp cả mùa xuân, có Hàng Lược đó. Hà Nội có một cái dốc khá cao. Đó là Hàng Than. Cái thời chưa có điện, chưa có than đá, than quả bàng, hẳn ở đây luôn luôn bận rộn những hàng bán than hoa để thơm lừng vị chả nướng, để ấm nồng những lồng ấp, để thanh tao những chén trà của các cụ đồ trong sương sớm. Sau này, Hàng Than còn nổi tiếng với món bánh cốm ngon lạ thường, một món quà đặc biệt, chỉ Hà Nội mới có tài làm ngon đến thế. Cốm xanh biếc, nhân đỗ xanh vàng hươm, cùi dừa trắng tinh, điểm vài viên hạt sen nhừ tơi; được gói trong lá chuối tươi, lại một màu xanh óng chuốt của quê hương đồng bãi, buộc chặt bằng chiếc lạt đỏ cánh sen, gợi mùa cưới chan chứa ân tình. "Nằm đất với chị hàng hương"...

Hàng Hương cô hàng, người thơm tho gỗ hoàng đàn, thoảng mùi xạ, phảng phất hương trầm... Tết, ngày giỗ mà không có hương sao còn gọi là tết, là giỗ? Ngôi chùa cổ Việt Nam, ngôi đình làng trang nghiêm sao có thể thiếu được những nén hương đen, những cuộn hương vòng, những cây hương sào thắp một ngày chưa hết, phố Hàng Hương tuy nhỏ nhưng thực sự là một phố mang lại cái cần thiết cho Hà Nội, cho cả vùng về đây mà mua mà cất, một cái duyên riêng vậy. Màu sắc óng ánh trong chiếc thắt lưng hoa lý, hoa đào, hồ thủy, thiên thanh, dải yếm đỏ, áo đổi vai nâu non... cứ phấp phới lên trên phố Hàng Đào, nhất là những ngày phiên chợ tơ. Các thứ lụa tơ từ Ba La Trinh Tiết của tỉnh Đơ, của Đồng Tỉnh Huê Cầu của tỉnh Bắc... mang đến. Còn Hàng Vải thâm là nơi đi về của người dân áo vải. Cô gái Đình Bảng, Cầu Lim mặc váy cửa võng cạp điều mang vải về đây nhuộm hoặc trả cho khách hẳn từng làm xao xuyến bao chàng trai kinh thành. Trung thu, tiếng trống ếch rộn ràng. Trường học nào cần bưng lại mặt trống da trâu để kịp khai trường, đình làng nào cần một chiếc trống đẽi để vào đám giêng hai, Hàng Trống sẵn sàng chờ đón. Phố này đến nay vẫn còn mấy nhà có nghề làm trống cổ truyền, dựng tang trống, thuộc da, lên mặt trống... đều bằng phương pháp thủ công nhưng chiếc trống hàng chục năm vẫn kêu vang, không hỏng. Hà Nội đã sống gần ngàn năm dưới chế độ vua quan. Có bao cái đẹp và cũng có bao cái phải mất đi nhường cho cái mới. Hàng Lọng (phố Lê Duẩn) có ga Hàng Cỏ tấp nập ngày đêm, đón và đưa những con tàu Nam Bắc, ra cảng Hải Phòng, lên tỉnh có chè ngon nổi tiếng Thái Nguyên... Với trên sáu mươi phố mang chữ Hàng, vẻ xa xưa chưa hết, Hàng Mành vẫn làm mành. Hàng Hòm vẫn đóng hòm, va li gỗ, Hàng Thiếc làm thùng tôn, ống máng, cắt kính, làm đồ chơi trung thu cho trẻ, chỉ tiếc đồ chơi ít thay đổi, không theo kịp sự phát triển của xã hội và lớn nhanh của tâm lý thiếu nhi. Hàng Mã vẫn làm đèn lồng hoa giấy. Hàng Bông vẫn còn nhiều nhà làm cốt chăn bông. Bên cạnh đó nhiều phố mang tên cũ nhưng không còn một ai làm nghề cũ ấy nữa: Hàng Gà, Hàng Cá, Hàng Gai, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bồ... Vẫn cảm động khi bước chân đến những khu nhà khấp khểnh như tranh Bùi Xuân Phái: Hàng Cân, Hàng Chỉ, Hàng Chai, Hàng Hành, Hàng Bè, Hàng Giấy, Hàng Vôi, Hàng Cháo...

Thế kỷ hăm mốt sắp đến, chưa hình dung nổi những đổi thay. Những con người vừa sinh ra trong thập kỷ cuối này sẽ làm chủ đất nước, làm chủ Hà Nội. Họ thật là hạnh phúc. Họ sẽ sung sướng hơn chúng ta, vừa ý đẹp lòng hơn chúng ta cũng như chúng ta sung sướng hơn cha ông chúng ta xưa. Qua những chữ Hàng, ta càng yêu Hà Nội hơn, yêu như yêu máu thịt mẹ cha cho, bởi chính đó là một trong những khía cạnh của nền văn hóa Việt Nam từ bốn nghìn năm.

 
Bài thơ áo dài

Đã có không ít người nước ngoài ngạc nhiên đến sững sờ trước vẻ đẹp kỳ diệu của tấm áo dài Việt Nam, mặc dù ở nước họ, người phụ nữ cũng có những bộ áo váy dân tộc thêu rua với nhiều vẻ đẹp. Một nét duyên dáng như mây thu mơ hồ hay cái đẹp lộng lẫy của ngày hè chói chang hoa phượng có gió lộng xào xạc ngọn đề. Khó mà nói được niềm bay nhè nhẹ của tà áo tím bên hồ hay vẻ lâng lâng của màu áo trắng như tung đùa trong sắc xanh cây lá. Ngay giữa cái ồn ào tấp nập đua chen, tà áo dài như hoa cũng mang lại sự thanh thản như sau một tiếng thở dài. Dám đoán chắc không một cô gái Việt Nam nào lại không sung sướng được mặc tấm áo dài trong ngày hội, ngày lễ, ngày tết và nhất là ngày bước xuống chuyến đò hạnh phúc, khẽ cúi xuống nhìn tà áo dài mà mỉm cười e lệ và sung sướng hồi hộp bên người yêu đã thành chú rể ngượng ngùng. Và cũng dám đoán chắc rằng không một người đàn ông nào dù cực tả hay cực hữu, dù đang yêu hay trái tim đã rạn vỡ bao lần, lại không ưa thích tà áo dài, không ngắm cái đẹp đang chập chờn phía trước như cánh bướm trong giấc mộng Trang Chu, để về đến nhà bên người vợ thủy chung vẫn còn bảng lảng bóng hình của câu thơ bất chợt ấy làm xao xuyến.

Tấm áo dài Việt Nam không hẳn hôm nay mới có. Chẳng qua nó bị bỏ quên, bị đánh rơi trong dĩ vãng. Song thực ra nó được sinh ra từ dĩ vãng đầy văn hiến của dân tộc ta đến ngàn đời, kể cả những thế kỷ có kẻ muốn đồng hóa dân ta bằng những tấm "áo khách". Cụ chúng ta, bà chúng ta, mẹ chúng ta từng chẳng mặc áo dài đó ư? Cái áo năm thân, tứ thân buông tà hay thắt vạt, cái áo mớ ba, mớ bảy đổi vai hoặc không đổi vai đi cùng với váy sồi hoặc quần lĩnh tía... đã vào ca dao, thành câu ví, nên hình ảnh của nét ăn dáng mặc thanh nhã, hào hoa, nền nã. Có thứ huân chương nào tặng cho tác giả cái áo đổi vai. Nối vai nhưng lại so le, một đường gấp khúc, tạo mảnh hình không đăng đối nhưng ưa nhìn, giống như cái răng khểnh trên khuôn mặt trái xoan, hoặc một bên lúm đồng tiền của cô gái dậy thì. Đâu có phải vì nghèo, vì áo rách vai sờn mà phải đổi vai, giữ lại phần lành thay đi phần rách, mà chính là một kiểu khoe khéo, cái khéo tay về đường kim mũi chỉ, về cách chọn màu, về sự cách điệu và đó chính là tài hoa, là sáng tạo vậy. Thời gian dù bao thế kỷ cũng không bào mòn được tinh hoa dân tộc. Nó cứ sừng sững thách thức cùng biến thiên. Tấm áo dài vải rồng, một thứ vải mỏng như sa, như the, sản phẩm của xứ Sơn Nam, rồi được nhuộm màu nâu ở cửa ô Đồng Lầm đất Thăng Long, nên nó thành vải Đồng Lầm, chiếc áo dài Đồng Lầm đã tồn tại bao thế hệ. Từng hình thành nếp sống đi ra đường, đi ra khỏi nhà là không thể không mặc áo dài, dù trắng hay đen, hồ thủy hay thiên thanh, nâu non hay cụ già, dù sang hay hèn, già hay trẻ... Đất Thăng Long -Hà Nội, ngay cả cô bán bún chả rong, chị cắp thúng bán rao quả bưởi, bác đội chăn bông đi đổi, bà hàng xôi cháo bán trưa, chị thuyền chài tạm rời con thuyền nan lên bộ bán mớ cá mới đánh được...

Cũng phải có tấm áo dài trên thân, thong thả thì buông chùng, vội vàng thì thắt vạt trước, mà hối hả hơn thì thắt vạt sau lưng mà chạy gằn cho tiện. Nắng hay mưa cũng vậy. Đầu năm hay sắp tết cũng thế. Những năm ba mươi của thế kỷ này, tấm áo dài được cách điệu đi, không thắt vạt, không đổi vai mà thành áo tân thời. Chữ tân thời đã mang một nghĩa mới, cũng như chữ cải lương trong hát cải lương. áo nhung, áo gấm, áo mình khô hoa ướt, áo lơ-muya, áo cổ thấp rồi cổ cao, tay thụng hay tay bó, tay dài hay tay lửng... đã nhiều thay đổi, nhiều "mốt" tùy thích. Riêng chỉ hai cái tà như hai cánh bướm, như hai dải liễu bay, như hai lá thư tình, như hai nỗi ám ảnh tâm hồn nam giới, như linh hồn của chiếc áo và của người mặc... là vẫn được trân trọng giữ nguyên. Nó vẫn giữ chiều dài gần sát gót để có đà tung bay, có khi nhấp nhô như sóng lượn, để có đà vẫy gọi những con mắt dõi theo. áo dài nhung đỏ đi với kiềng vàng, áo dài nhung đen có chuỗi hạt trai sáng lấp lánh, áo dài trắng có mái tóc đen huyền thả buông lửng sau lưng áo, áo tím hàng Vân có chiếc nón bài thơ ngà trắng... đó là sự tuyệt đỉnh hài hòa hay lộng lẫy khôn cùng, cũng tựa như tấm áo Đồng Lầm có thắt lưng hồ thủy hay hoa đào cũng vậy. Những ai nay còn sót lại của thế hệ nữ sinh trường Đồng Khánh Trưng Vương, chiều hồ Gươm khoan thai nhịp bước, cắp cặp trước ngực, tóc đung đưa sau lưng, còn hai tà áo dài cứ như trêu cợt, như đùa nô, như vô tình mà nghi ngờ, mà nhắn nhủ mà xa xôi... với bao màu sắc từ đậm đến nhạt, như cung bậc cây đàn từ thấp đến cao, gần xa buông bắt. Tà áo dài gần chấm gót những ngày ấy đủ sức chuyện trò cùng gió. Mềm mại, uyển chuyển, run rẩy, lung linh... hình như đã lan truyền sang cả sóng hồ nên hồ cứ lăn tăn, lan truyền cả vào tầng lá nên cây lá cứ rì rầm, lay động.

Có phải lúc này là lúc hồn Hà Nội đã mơ màng như bát rượu nếp sáng mùng năm tháng năm đối với cô thiếu nữ chưa quen men rượu, là lúc cung đàn đã tấu lên với trái tim nhạc sĩ, "toan" đã căng trên giá vẽ trước nhà tạo hình, nàng thơ đã ốp một cách bí hiểm vào nhà thơ, và mùa màng chín rộ làm rạo rực người gieo cấy... Ai gỗ đá để có thể dửng dưng được trước nét thanh tân đầy ma lực của tà áo dài cứ lả lướt như sóng cạn mà bắt mất hồn người ấy, bởi nó vừa ngập ngừng lại vừa thách thức. Mươi năm trở lại đây, tà áo dài Hà Nội bị ngắn đi, chỉ còn trên đầu gối. Nó không còn đủ sức bay, có lúc chết cứng trên nửa thân người, như con bướm bị chặt cụt bộ cánh rực rỡ. Thật tiếc. Tà áo dài với chiều dài cần thiết, là sự truyền cảm của đường kim khâu tay, của nét eo thắt đáy, của sự mở rộng của hai tà xòe ra bốn phía. Rút ngắn phần bay lượn xòe rộng ấy khác nào cắt đi cái tưởng tượng và ảo tưởng của nhà thơ. Phụ nữ mặc áo dài chỉ đẹp thêm. Nam giới cũng được thơm lây. Cuộc đời rực rỡ là điều hẳn ai cũng mong muốn, có phải không hỡi bài thơ áo dài?
 
Hương đêm Hà Nội

Có những người thích đi ngủ sớm để dậy sớm thì cũng có những người có thói quen ngược lại: thích thức khuya nên thường dậy muộn. Sáng sớm, Hà Nội có những nét đẹp, vẻ nên thơ thì đêm khuya, Hà Nội cũng có những điều dễ làm say lòng người, những điều như trong mơ và đôi khi còn như mơ trong mơ nữa. Nhiều người có nhận xét Hà Nội là thành phố xinh đẹp, duyên dáng. Có những khu vực trầm lặng, cổ kính, đầy vẻ thanh bình tinh khiết. Điều nhận xét này là thực tế vì nó đã gây được ấn tượng tốt đẹp với những con người không mấy ưa ồn ào, ô nhiễm, xô bồ. Nét xinh đẹp duyên dáng ấy còn được bình phương lên trong đêm.

nho%20Bac%20chinh%20thuc.jpg

Hà Nội về đêm mang màu áo khác, hơi thở khác, hình dáng khác. Nhất là khi có những làn hương đầy kỳ ảo khiến Hà Nội như mang một tâm hồn khác, đầy vẻ trữ tình thơ mộng. Những mái nhà trăm năm đã tựa vai nhau, rủ nhau vào giấc ngủ chập chờn trước khi gặp những giấc mơ hiện về từ thời con rồng vàng bay lên đón Lý Công Uẩn, từ thời con rùa vàng nổi lên chào Lê Lợi, từ thời tiếng chuông hồ Tây vang khiến con trâu vàng từ phương Bắc phải lồng sang đón con nghé ọ... Những con đường như cũng được thư giãn gân cốt sau một ngày phải gồng lên toàn bộ sức lực dưới guồng xe hối hả. Những tầng cây ban ngày xanh biếc đã chuyển sang màu thẫm như nhuộm ánh đêm. Hoa không cần khoe sắc để gọi bướm ong, để gọi mắt người mà đã làm một việc khác mơ màng hơn: tỏa hương vào bầu trời thanh sạch. Mùa nào Hà Nội cũng có riêng một thứ hương đêm, giống như người phụ nữ biết điểm trang, mỗi thời điểm biết dùng một loại phấn son riêng để ánh nắng để gió mát... hài hòa cùng màu sắc, nâng nhan sắc lên gấp nhiều lần. Cũng không hiểu mùa tạo ra hương hay hương gọi mùa về, hỡi Hà Nội mến yêu ơi. Mùa thu là mùa Hà Nội mang trên mình những nét yêu kiều diễm ảo nhất chăng? Cô gái đã bước qua tuổi thiếu nữ chưa phát triển hết, bước vào tuổi thanh niên rực rỡ nhưng hơi đáng sợ, và cô gái cũng chưa bước vào tuổi thiếu phụ ở dốc đồi bên kia thấp thoáng ánh tà. ôi, sắc đẹp của tuổi vừa đủ độ chín của mặn mà, đằm thắm, nây tròn như quả chín cây. Hà Nội mùa thu là thế chăng? Nhà Hà Nội học còn mải đi tìm một văn bia, một viên đá lát, một cuốn gia phả. Còn người thơ đi tìm gì đó hỡi thi nhân? Mùa thu không bị ẩm ướt của mưa phùn, không bị nắng xém cả lá cây. Cũng không bị gió mùa đông bắc làm tê tái. Lẫn trong lá bay vàng rộm mặt đường, lẫn trong sương lam mơ hồ trên mặt sóng... thời tiết cứ dìu dịu như tơ chăng, lọc gió cho mát vai người, cho dẻo bước chân. Lẫn vào những niềm mê man ấy là những làn hương từ đâu đó lan tỏa vào không gian như từng sợi âm thanh của cây vĩ cầm vô hình mà rất thực. Những làn hương cứ réo rắt qua vòm lá gần xa, qua tầng cây thức ngủ, qua những công trình kiến trúc, những con đường, những ngã tư đầy hào hoa thanh lịch. Hoa dạ hợp nồng nàn trắng muốt, vừa tỉnh khỏi một cơn mộng nồng nàn, khi những ngọn đèn đường sắp thức dậy. Chẳng dễ gì tìm thấy cây nửa thẳng nửa leo ấy, thấy những cành mềm cho bốn cánh hoa mập mạp, cong như móng con rồng thiêng bí mật. Chỉ cảm thấy đâu đây nở bông hoa như sự có mặt của người vô hình, người thích trò ú tim ẩn hiện, người hẹn hò với ta nhưng còn nấp vào chỗ nào để ta phải hồi hộp kiếm tìm. Khu vườn biệt thự nào trên đường Phan Đình Phùng đầy bí ẩn kia cứ xòe bàn tay có năm ngón tay xanh mềm mại để tung ra những con sóng hương hoàng lan thoảng nhẹ, và hương ngọc lan như ngón tay tháp bút, trắng muốt, sắc sảo hơn, khiêu khích hơn. Ngõ Tức Mạc, Cung Thiếu nhi và những nơi nào, cây hoàng lan mấy trăm năm còn bền lòng xức nước hoa cho Hà Nội. Xin những đôi người hãy thủy chung đến bạc đầu nếu một lần đã sóng bước dưới đường thơm hoa sữa phố Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du. Hẳn có người khó ngủ nếu bên cửa sổ có xòa một cành sữa mùa thu. Có lẽ sương thu đã lấn át, đã bắt hương sữa chỉ được bay ngang, hoặc sà xuống thấp, sương thu chiếm phần chiều cao? Vì vậy mà hương sữa cứ ướt đẫm tóc những đôi người. Đã có những người tài hoa của Hà Nội ngợi ca hoa sữa bằng kịch thơ, bằng thơ và bằng nhạc. Đã có những em bé ra đời sau đêm hoa sữa của người yêu nhau say đắm và trong sạch. ôi, biết bao tâm hồn đã thao thức khắc khoải khi nhớ về Hà Nội có hoa sữa đêm thu, có hoàng lan, ngọc lan man mác. Dù ở phương trời nào, hương ấy chẳng mất đi, chẳng tan ra, mà nó cứ đọng lại, đậm lại như khối ngọc Trương Chi. Có người nhớ về hoa sữa, hoa hoàng lan, ngọc lan để tưởng niệm tuổi hoa niên của mình, tưởng niệm thời học trò, tuổi yêu đương, những tháng năm mơ mộng...

1230868415.nv.jpg

Thực sự có đôi người đã có cháu nội cháu ngoại năm nào họ cũng phải một lần dắt tay nhau đi trong đêm sương thu đầy hoa sữa. Lúc ấy họ nói gì với nhau, họ nghĩ gì bên nhau, họ nghĩ gì về Hà Nội, hỡi mùa thu đi qua mà chẳng bao giờ mất. Hà Nội đâu phải chỉ có hoàng lan, ngọc lan, hoa sữa, dạ hợp... Vườn Chí Linh có mấy khóm dạ lan hương, đêm hè hoa nở như níu chân người qua lại để tâm sự điều gì. Dọc bao phố cây xum xuê tròn bóng, những hàng sấu cổ thụ cứ tháng ba lại khiêm tốn tỏa một thứ hương ra xung quanh. Không thơm ngát, không tình tứ, chỉ thoảng nhẹ như không có, chợt hiện rồi chợt biến, khi những bông hoa như cái chuông nhỏ xíu trắng ngà rơi nhẹ không một âm vang. Cả hương và hoa cứ bay cứ rơi, còn mang mang như liễu bên hồ, không để ý có khi người vô tình không thấy. Đi trong đêm, nhất là khuya Hà Nội, màu đêm đã lọc đi những âm thanh ồn ã, như lọc đi những tạp chất, để còn lại trong hồn ta sự tinh khiết, thanh tao, cho ta cảm nhận được hoàn toàn chất thiên nhiên tinh khôi trong hương thơm hoa lá. Đôi khi hiếm hoi bắt gặp từ ban công chuồng chim nhà ai một chút hương nhài khêu gợi mà kín đáo, lả lơi mà thắc thỏm, không đủ sức bay xa hoặc qua một ngõ nhà có ngôi chùa cổ kính trăm năm, một gốc bưởi cằn nào đó bỗng tỏa làn hương mộc mạc đồng quê, gợi nhớ đến đĩa bánh trôi bánh chay tháng ba có hội làng rộn rã, và có những làn mưa lây phây làm duyên cho cánh đồng, cây cỏ... Hương đêm Hà Nội không phải là nước thơm nhân tạo, mà là món quà thanh sạch của thiên nhiên, trời đất gửi cho người. Cái lồng nan ngực thiếu dưỡng khí thường xuyên kia được no nê những làn hương này sẽ tươi lại dòng máu, mát dịu lại cảm giác, trẻ trung lại tâm hồn, say đắm lại tình người...

Yêu biết bao nhiêu là những làn hương ấy và cũng là không uổng phí, nếu phải thức những đêm dài để đi dạo trên những con đường ngan ngát của Hà Nội thanh lịch.


Sưu tầm.
 
Ngõ Hà Nội

Người ở các nơi về Hà Nội thế nào cũng phải đến hai nơi: Bờ Hồ và chợ Đồng Xuân. Có thế mới là hoàn thành chuyến "đi Hà Nội". Nước xanh cầu đỏ, tháp nhọn đèn thiêng, hoa tươi cổ thụ... như thêu như dệt, như mời như đón. Phồn hoa tấp nập đấy mà lâng lâng thoát tục cũng ngay đấy. Giữa những đua chen mà có nơi trầm lắng tịch liêu. Bật ra khỏi bao chật chội là mây bay sóng đuổi thoáng đãng... Hồ Gươm đã thành niềm ao ước, say mê, lưu niệm của bao người. Đồng Xuân lại khác

- ấy là nói cái chợ chưa xây lại

- thiếu một vật cần dùng, người này dặn, kẻ kia nhờ, cứ đến Đồng Xuân là có, là xong. Nơi tập hợp mọi tài hoa, đủ thời trân, ngồn ngộn sản vật bốn phương tụ hội, từ hoa quả đến con cá lá rau, quí hiếm trái mùa cũng có, từ hàng cao cấp lấp lánh đến cái tầm thường rẻ tiền cho con trẻ như tờ giấy thấm, cái ngòi bút, con giống bằng bột nặn hay ngôi chùa bé bằng ngón tay để ông già gắn lên non bộ... Đồng Xuân đã thành niềm hò hẹn, chỗ đi về, nơi thỏa mãn nhu cầu cho trăm miền đất nước. Ai ở xa về chẳng phải đưa chân đến đó. Với người Hà Nội thì hai nơi ấy đã thành quen thuộc, quen như nét mặt vợ hiền lấy nhau từ thuở đôi mươi nay tóc đã ngả màu sương khói, quen như tấm áo suốt bốn mùa mưa gió nắng nôi, quen như chính tiếng nói, chính hơi thở, chính da thịt mình. Có một nỗi nhớ khác, một niềm vui khác. Khi lòng ngổn ngang, khi trí không yên ổn, cần một nơi tĩnh lặng mà trầm tư, suy lắng, mà hồi tưởng hay kiếm tìm với lòng mình... có ngõ Tràng An kia. Cái ngõ mang tên rất xa xôi như thời gian, như hoài niệm của ngôi chùa cổ gần như bị lãng quên giữa phố phường. Nó hiện hữu đấy. Tràng An không còn là kinh đô, là thành đô, nhưng ngõ Tràng An vẫn gợi trong lòng bao vang bóng. Ngõ Tràng An hiện diện như một nỗi bất ngờ ngay giữa phố Huế làm nhiều người phải ngạc nhiên khi gặp ngõ. Ngôi chùa cổ với ba chữ đẽi tự Tràng An Tự, có gốc ba tiêu, có cây đẽi cổ thụ, có khóm hoa mộc, thoảng một hơi mơ hồ ngâu chín, có thân cau như ngọn ô vẫy xóm thôn gần lại. Phố Huế, chợ Hôm vội vàng chen chúc ngay gần đấy, nhưng chỉ mấy bước chân, ta đã ở một không gian khác, một thế giới riêng. Ngõ tưởng là cụt bỗng mở ra một ngã ba, chợt ngoặt một đường thẳng. Phải chăng ngõ là một cây dương cầm chứa đầy bí mật, hay một sợi đàn bầu, càng chạm đến càng hứng khởi lạ kỳ. Mùi nhang thơm, tượng Phật vàng son lấp lánh, những tấm hình đã phai nước ảnh trong hương khói thời gian. Người thân của ai đó? Người đang vội vã thiết kế cho tương lai chẳng nên vào đây, bởi một chút hoài niệm sẽ níu chân ta, một hương hoa cau làm ta nhớ nhung day dứt một mái tóc xa xưa nào, một tiếng mưa trên tàu chuối làm đêm về khó ngủ. Cổ sơ đến cả ngọn cỏ ven tường, giàn nho hoang dã.

images1765359_ngo1.jpg

Ngõ Tràng An như một người già ký tên mình vào lặng im tịch mịch. Bầu trời ở đây thu hẹp mấy vuông sân xanh lơ và trắng đục theo mùa làm bâng khuâng cả tiếng chuông tiếng mõ, câu kinh từng khiêm cung nhè nhẹ như sợ đức Phật cũng giật mình, sợ tường nhà xao xuyến. Làng quê nào đó nhỉ, lưng đồi đâu chẳng có đôi bờ lau, ngô mía xạc xào và dòng sông lững lờ xuôi về đâu chẳng biết. Không. Đó chỉ là ảo giác do tiếng chuông tiếng mõ dội trong ta. Vào đây, lòng trần của người phồn hoa của đất bon chen cũng nguôi ngoai đi phân nửa. Hãy đùa chơi đi em bé thơ ngây, chỉ có gió dệt mây trên giàn nho và ô nắng mặt hè, không xe cộ nào đe dọa được. Hà Nội không thể có ngõ thứ hai như Tràng An đâu, dù sau này lớn lên, em phải nhiều công đi tìm đi khảo. Hình như linh hồn người đã khuất chẳng muốn rời ngõ, cứ nhớ thương mà tản mạn bay về, lẩn khuất đâu đây trong ấm cúng khói nhang trong mơ hồ siêu thoát. Bước hài thêu, nét giày nhung khua động không gian thấp thoáng sau cánh cửa ơ hờ chểnh mảng, khiến mình tưởng sắp có một kỳ nữ trong Liêu Trai Chí Dị bước ra. Không có hồ nước mà tim ta sóng sánh. Thảng hoặc một mùi ngô nướng khoai lùi thoáng bay từ đầu ngõ phía phố Huế làm ta chợt tỉnh với đời thường. Nếu ngõ Tràng An là một không gian khép kín đầy bất ngờ thì ngõ Phất Lộc lại có nét khác rất riêng. Tôi từng có một bà chị nuôi sống trong ngõ Phất Lộc. Chị hơn tôi gần chục tuổi, người chẳng đẹp, giữa thị thành mà chị vẫn âm thầm lẻ loi nên chị thường dồn âu yếm cho tôi. Chị ở trong ngôi nhà cổ, thấp, quá giang, câu đầu ám khói, tường vôi long lở. Ngõ cổ hay người cổ mà chị lây chất âm thầm, hở chị Quỳ của em? Ngõ Phất Lộc ăn thông từ Hàng Mắm sang phố Nguyễn Hữu Huân -phố Bắc Ninh cũ -thêm một nhánh ăn thông Lương Ngọc Quáến. ạng giám sinh họ Bùi làng Phất Lộc huyện Đông Quan Thái Bình lên đây dựng lều trọ học. Rồi thành xóm thành làng, thành tên ngõ đã mấy đời, chỉ còn đền thờ và ngôi chùa cổ nhưng hoang phế nửa phần. Kháng chiến chống Pháp, Phất Lộc là trung tâm của Khu Một, từng đón hoa đào Nhật Tân vào ăn tết, từng uống lẫn cả Uátki, Canhkina con Mèo với nước giếng, là thứ giải khát của chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Dân tản cư còn đeo kiềng vàng, hoa hột nhưng ngủ trên cánh cửa bức bàn ngả ra, gối đầu bằng tay nải. Không trầm tư không u uẩn. Đời thường đã xâm nhập khá nhiều vào Phất Lộc. Nhà đá rửa, ban công bên này sắp chạm ban công bên kia. Đầu ngõ đủ hàng quà: bánh cuốn, cà phê, bún mọc, phở gà, cháo tim gan... cả chè chén "nước mưa"...

images1776821_images1765379_ngo3.jpg

Tiếng xe lên xuống cầu Chương Dương rất rõ. Phất Lộc không còn im lặng hoài niệm như thời chị tôi ở đó. Tạt vào đây xuyên qua ngõ chữ chi, nhà hai bên như vừa quen vừa lạ, phố chật người đông hòa cùng rêu phong cổ kính. Phất Lộc có vào tranh Bùi Xuân Phái không nhỉ? Ngõ sống mãi nhờ họa sĩ hay họa sĩ sẽ bất tử nhờ vào nét riêng biệt độc đáo của ngõ? Trụ cột trên nóc nhà, tường khấp khểnh nhấp nhô, nhà thò ra thụt vào, đường đi lắt léo, cái nậm rượu cửa chùa bằng xi măng đắp bẹt trông thẳng thì đầy rượu, trông nghiêng chỉ là mảnh bìa... đã thành một mảng tâm hồn Hà Nội hào hoa mà anh dũng, lam lũ mà kiên cường, đắm say mà dữ dội... Hà Nội có bao nhiêu ngõ như Tràng An, Phất Lộc? Còn ai là người sửng sốt khi gặp ngõ như gặp hoa lạ giữa rừng, gặp người yêu xa lâu đúng lúc mình không chờ đợi? Ngõ Tức Mạc có cây hoàng lan cổ thụ thơm suốt đêm thu. Ngõ Huế không có gì đặc biệt lắm, bị Mỹ ném bom tơi tả. Ngõ chợ Khâm Thiên lầy lội chật hẹp vất vả lem luốc. Ngõ Văn Chương ngoắt ngoéo chằng chịt. Ngõ Sầm Công ồn ào náo nhiệt bao nhiêu với mùi xào nấu món ăn tầu thì ngõ Liên Trì lại thanh vắng đạm bạc bấy nhiêu, suốt ngày như ngủ mệt mê. Người Hà Nội có lúc nào nhàn tản, tạm quên dằn vặt lo âu của đời thường lạm phát chóng mặt, quên những cơn sốt giá gạo, giá dầu, giá điện... tự cho mình thả hồn vào cái ngõ để lắng cùng hồn kinh kỳ xưa cũ, cùng hồn đất nước trường tồn, của quê hương ngàn năm văn vật... hẳn sẽ thấy mình giàu thêm cảm xúc, thương yêu thêm, nhân ái thêm, say đắm thêm... Hồ Tây bát ngát quá. Lăng Bác thiêng liêng và lạnh lẽo nữa. Bờ sông rộng dài quá. Cầu Thăng Long xa và cao quá. Viện bảo tàng trang nghiêm quá...

Ngõ Hà Nội thân thương hơn nhiều, nhỏ hẹp mà yên vui, cổ xưa mà đầm ấm, khuất khúc mà chẳng hững hờ... Xin một lần ghé thăm để đừng quên là Hà Nội vẫn còn nhiều ngõ nhỏ rất riêng Hà Nội, như tâm hồn ta vẫn còn những khoảng sâu lắng đôi khi mới có dịp lần giở đến... vào một hôm nào trở gió... Mong sao những ngõ nhỏ ấy, những góc sâu trong tâm hồn ấy đừng bị những ào ạt của xây dựng phá phách, xâm lăng mất. Cần bảo tồn lắm.

1990
 
Tiếp sức với bạn Hide nhé !

---

Mưa xuân


Nguyễn Xuân Diện



Ngày xưa tôi được bà tôi kể rằng Phật Bà Quan Âm là người có nhiều phép mầu nhiệm. Người có một cái bình đựng thứ nước quý, gọi là nước cam lộ và một cành dương liễu. Và Người thường nhúng cành cây đó vào bình nước rồi vảy vào chúng sinh, cứu họ thoát khỏi phiền muộn. Khắp nhân gian ai cũng chờ đợi sự tế độ của Người. Rồi tôi lại được nghe một chuyện nữa. Đó là chuyện thần Thái Bạch Kim Tinh có cây gậy mầu nhiệm; chỉ gậy vào cây đã héo, cây lại xanh tươi. Giờ tôi đã lớn, chẳng biết là có nên tin nữa hay không (trước kia thì tin lắm). Nhưng tôi biết có một điều tôi đã tin: sự hồi sinh của vạn vật khi mùa xuân đến - sự nhiệm màu của mùa xuân.

Mùa đông, cây trút lá. Ba tháng là 90 ngày cây khẳng khiu gầy guộc, chịu đựng gió sương, rét mướt. Để rồi một sớm, xuân về. Mưa xuân cũng theo về. Như đã hẹn lâu rồi.

Một năm bốn mùa đắp đổi, mỗi một mùa dường như có một cái gì đó nổi trội lên, mà qua đó người ta cảm nhận được bước đi của thời gian. Với Hạ là nắng, Thu là gió heo may, Đông là sương giá, riêng với Xuân, đó là mưa. Mưa xuân không dầm dề nát đất thối cỏ như mưa thu, cũng không ồn ào náo động như mưa rào tháng hạ.

Mưa xuân dịu dàng xuống phố. Mưa xuân êm êm giăng mắc bất ngờ, đúng cái lúc người ta rộn ràng sắm tết. Mưa xuân đã đi vào tiềm thức của người ta và để lại dấu ấn đậm nét. Bạn cứ tưởng tượng mà xem sẽ ra sao nếu từ ngày hai mươi tháng chạp đến chiều tất niên mà không có lấy một bụi mưa. Dường như là khi đi sắm tết, có vài bụi mưa thì mới ra không khí tết, mới ra khung cảnh tết nhất. Trời thương nhân gian, trời buông mưa vào chính lúc ấy. Đi chợ hoa xuân về, tay cầm cành bích đào hoa thắm đỏ giữa mưa xuân phố phường, trông tết lắm!

Ai cũng yêu mưa xuân. Nhưng thi nhân yêu mưa xuân hơn ai. Thi nhân mong mưa xuân. Mưa xuân bay và rồi ngưng đọng trong trang thơ họ. Xuân về, nhớ Nguyễn Bính. Chàng đã hơn một lần chen chân vào hội chèo ở một làng Đông làng Đoài nào đó rồi để lại một bài thơ về một cuộc tình lỡ muộn, để vương buồn bao năm. Thiên tình sử ấy được viết trên nền trời xuân mưa bay phấp phới.

Và lòng ta không thể không xao xuyến khi nhớ lại những mùa xuân xưa mưa đổ bụi trên những bến sông rụng tơi bời hoa xoan tím, trong ‘bức tranh quê’ êm đềm của nữ sĩ sông Thương.

Vào cữ tháng 2, cây bắt đầu hồi sinh. Từ trong lớp vỏ già nua, khô cứng ấy lớn dần lên một cái mấu nhỏ. Một mầm xinh nhú ra. Một sự sinh thành. Có sự sinh thành nào mà chẳng trải qua đau đớn, khó nhọc? Cây bàng góc phố kia mồ côi suốt mùa đông, cành gân guốc như bàn tay giơ ra giữa gió sương tê tái, bỗng hôm nay cựa quậy đâm chồi. Cả cây đa nghìn tuổi nữa, cũng vội vàng thay áo cho kịp sang hè xòe bóng mát, chep rợp nhân gian.

Những chồi xuân xinh xắn nhú ra, tràn đầy nhựa sống. Chồi xuân bắt đầu từ mưa xuân. ‘Mùa xuân xanh’ và ‘mùa xuân chín’ bắt đầu từ chồi xuân. Này em, hãy để tâm đến những cái mầm nhu nhú kia. Chồi xuân đấy. Nếu em không chịu nhìn thì chỉ mai thôi, em sẽ rất bất ngờ trước màu xanh mênh mông của muôn loài thảo mộc. Và em sẽ lại hỏi tôi rằng: Cây bắt đầu từ đâu? Xanh bắt đầu từ đâu? Em đã buồn vì mùa đông cây trút lá. Em đã buồn vì mùa đông nghiệt ngã âm u, vắng màu diệp lục. Vậy thì hôm nay, hãy để ý màu xanh ấy khi còn chưa là xanh. Và tôi tin em cũng sẽ vô tình hiểu thêm về loài thảo mộc, cũng mang nặng đẻ đau, quặn mình sinh nở, cũng bắt đầu bằng những gì nhỏ bé nhất.

Chồi xuân. Đấy là nơi hy vọng của cây, hy vọng của người. Tôi tin chắc rằng, ngày ấy, trong cái năm mà chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều nhân tiết Thanh Minh, cánh đồng cỏ non xanh dợn chân trời ấy phải xanh hơn những mùa xuân trước đó.

Nhà tôi ở gần cánh đồng, cuối cánh đồng là dãy núi mờ xanh như sắp lẫn vào mây khói. Tôi vẫn thường đi chân trần trên cánh đồng quê hương. Tôi nghe thấy dưới chân mình những mầm non cựa quậy. Tôi nghe thấy dưới chân mình sự hồi sinh của muôn vàn tia cỏ vô danh, dù nhỏ nhoi vẫn cứ vươn mình, như thách thức, như khẳng định những điều bất diệt.

Mưa xuân màu nhiệm làm nên cuộc hồi sinh tuyệt vời của cỏ. Có phải mưa xuân là thứ nước cam lộ của Phật Bà trong tích truyện cổ mà bà tôi đã kể ngày xưa? Có phải mưa xuân là phép nhiệm màu của cây gậy thần hấp dẫn tôi suốt một thời thơ bé?


*Viết trong thời sinh viên. Bài đã đăng báo
 
Bài này mình đã đọc ở đâu đó rồi Hide ơi. Nhưng tệ cái là không biết đã post lên đây hay chưa ?

------

Hành trình say đắm


Tiếng gọi từ sâu thẳm, nghe mơ hồ lắm. Nghe chênh vênh như bên bờ vực. Hoa dại trắng muốt triền đê. Ngôi chùa cổ cong đầu đao vẫn thế. Cảnh vật không mới mà cũng chẳng cũ đi. Ai gọi mình nhỉ? Hà Nội mưa dài qua đêm để sáng hôm sau trời loang màu ghi đục như giấy dó bị thấm nước. Bờ tường hoa ti gôn mang những trái tim trườn mê mải đi tìm tình yêu. Phải rồi! Đó là tiếng gọi của tình yêu. Sau đêm mưa mây trời yêu nhau dữ dội. Hoa dại bừng lên tươi tắn. Nghệ sĩ thích lang thang. Trời đã vào thu se se hơi gió heo may. Tôi nghĩ miên man. Thích đọc những câu thơ bật ra trên môi không vần điệu. Không gian mát dịu tinh khiết hợp cho hồn thơ đi bộ hoặc cà tàng trên chiếc xe đạp cũ. Tiếng gọi nhỏ nhẹ của cảm xúc len lén về vờn nhẹ trên mắt, môi rồi lách vào trong tim. Sợ lắm là khi đi mãi trong không gian thu ấy mà không xốn xang. Ta sợ mình chai sạn. Sợ xô bồ. Nghệ sĩ nên mau chóng rút nhanh ra khỏi những cuộc vui thì mới còn trong sáng mà làm việc được. Thật đơn điệu và cười đùa mãi không ngày tháng. Nỗi buồn đôi khi lấy lại thăng bằng cho anh kịp lắng sâu, nhìn ngắm xung quanh và định thần.

Hà Nội sau mưa - những ô cửa sổ như mắt ướt. Có mắt vui. Mắt buồn. Nhìn ô cửa sổ trơ khung gỗ màu ghi long sơn như mếu máo với thời gian. Văn chương nghĩ cho cùng cũng vậy. Lúc thì văn lai láng. Khi thì buồn nẫu ruột rồi lại dở chứng chẳng viết được câu nào. Nhiều khi trên trường đời chợt gặp những gương mặt, suối tóc, ánh mắt, nụ cười đẹp đến mê hồn mà ta không dám lại gần sợ gặp gỡ, trò chuyện sẽ làm tan đi cái cảm xúc ấy hoặc kéo theo nỗi thất vọng. Cái đẹp nên xa ta một khoảng cách. Nhiều khi ảo mờ lại hay.

Miên man, tôi đi hết một triền đê, hết vòng cong của một đoạn hồ. Cổ điển mái chùa, trầu cau truyền thống lùi vào trong lòng Hà Nội, gắn với làng xã. Cuộc sống hiện đại đôi khi lạm dụng truyền thống mới chỉ là "hớt váng" truyền thống, mới được cái vỏ truyền thống. Sự thực truyền thống ở trong con người, ở thói quen di truyền tín ngưỡng tâm linh. Đời cha từng nói: - "Các cụ ngày xưa bảo thế, làm thế" - là gì?

Văn chương, hội họa thèm cái đẹp đích thực. Một vẻ đẹp hiền thục thiếu nữ Việt Nam kể cũng khó tìm. Cánh đạo diễn phim và sân khấu nhiều lúc chợt nhìn thấy người đẹp ngoại đạo cứ xuýt xoa tiếc rẻ cho gương mặt ấy giá mà làm diễn viên thì sang trọng cho tác phẩm biết chừng nào. Hà Nội nhiều, nhiều lắm những gương mặt như thế. Đôi khi ở bên những khuôn mặt mỹ lệ, duyên thầm cũng làm cho giới nghệ sĩ dịu lòng, và khêu dần cảm hứng sáng tạo vu vơ mà hiệu quả. Sâu thẳm đấy là tình yêu cuộc sống mà không có nó mọi sáng tạo đều vô hồn.

Cuộc sống là sự có mặt của đất, trời, con người, tình yêu mà thiếu một thành phần nào thì kết quả sẽ nảy sinh sự mất cân bằng và vô nghĩa sống.

Qua đi những gì gian truân, vất vả mà nghĩ lại sao thấy hay thế bởi ta đã vượt qua được thử thách để dần dần hoàn thiện mình. Lan man đi tìm ý nghĩa của sự tồn tại. Với nghệ sĩ cuộc sống là ân huệ của đất trời. Ai càng yêu nó lại càng sáng tạo được nhiều. Sợ nhất là sự vô cảm lấp đầy con mắt nghệ sĩ. Đấy là bi kịch. Nhiều khi phải nói vu vơ, có lúc huyên thuyên hoặc thơ ngây như trẻ nhỏ để giữ mình, giữ cho tâm hồn thanh sạch không bị chai lì. Hà Nội nhiều góc đẹp đến rùng mình ở bàn tay khéo léo của tạo hóa, tài khéo của nghệ nhân, văn minh của kiến trúc Pháp, trầm ấm của khu nhà cổ. Ở đó kéo hồn ta về phiêu du với quá khứ và hiện tại. Lẩn quất đâu đây là mắt huyền thiếu nữ, mái tóc xổ dài, cặp môi hồng thơm không son phấn. Đấy là ân huệ trời sinh cho mảnh đất thiêng hội tụ nhiều người đẹp. Mà tuổi trẻ trước năm 2000 đẹp và ưa nhìn. Cái đẹp phương Đông, hiền dịu, lịch lãm không gào thét. Cái đẹp âm thầm tự tỏa sáng để đạt tới sự vĩnh cửu. Thời gian sẽ minh chứng cho thể loại tranh chân dung thiếu nữ thịnh hành ở thế kỷ tới, như những chiếm lĩnh và ưu ái ở những thế kỷ trước.

Lá mùa thu bắt đầu rơi buồn buồn trong mắt nhìn họa sĩ. Góc phố thanh sạch, tĩnh lặng để mặc heo may ùa về. Gió ào vào đôi mắt trong veo, nâng nâng sóng tóc. Người Hà Nội bình dị, kín đáo, nói bằng ánh mắt, cử chỉ, bằng những ngón tay ra hiệu. Người Hà Nội cười đấy, nói đấy mà vẫn bí ẩn. Có một cửa sổ đi vào để tìm chất người Hà Nội, đó là thiên nhiên. Thấp thoáng cây cảnh hoa lá ở mỗi nhà. Bàn tay thiếu nữ Hà Nội cắm hoa đẹp và tinh tế.

Mùa thu nắng hanh, gió se se lòng. Hà Nội ồn ào bên sự thâm trầm. Hà Nội tốc độ bên lề của sự chậm rãi. Thoắt ẩn hiện ánh nhìn con gái, rập rình bờ vai trôi nơi đường phố.

ớm mai, vệt nắng qua màn cửa đổ dài trên bàn làm bật lên lớp bụi mờ li ti ở đồ vật khiến cho chúng có hồn.

Hà Nội - cảm thức giữa quá khứ và hiện tại, truyền thống và hiện đại cứ thế đan tết lại với nhau để làm nên người Hà Nội vừa cũ, vừa mới, vừa bình thản, vừa say đắm, lặng lẽ và nồng nàn đi hết đời này sang đời khác, đi dọc thời gian.


Sưu tầm
 
Rơm​


Thỉnh thoảng tôi cứ hay bị những ý nghĩ lẩn thẩn len ngang vào công việc.
Một vài trong những ý nghĩ bám dai dẳng nhất lại liên quan đến rơm. Chẳng hạn bỗng dưng tôi thấy thèm mùi rơm tươi, thèm một giấc ngủ bọc chặt bằng rơm, thèm được thả bộ trên những con đường trải đầy rơm, nghe chân mình ngập sâu trong cảm giác êm ái, tin cậy. và có lúc tôi thấy cứ thương những đứa con của tôi, sinh ra ở phố, có hoàn cảnh xuất thân may mắn hơn bố rất nhiều, cũng bằng cái ý nghĩ lẩn thẩn: chúng không được lăn tuổi thơ vào rơm.

Suốt những năm tuổi nhỏ, lăn lộn trên rơm, thấy bất cứ sợi rơm nào cũng có thể bắc ngang bầu trời! khi mệt mỏi tôi phó thác cho rơm. Khi buồn hoặc trốn đòn, tôi tìm đến rơm như tìm đến một sự che chở. Không hiểu sao tôi cứ tin rằng mẹ tôi sinh ra tôi trong một cái ổ rơm.

Mùa đông, đêm đêm tôi đem rơm cho trâu ăn trong ánh lửa đỏ lập lòe tỏa ra từ chiếc nùn rơm. Từ nhỏ tôi được bà dặn rằng: rơm mà chưa lên cây thì thóc chưa vào bồ. Tôi chưa kịp có trong ký ức một nghìn năm lội trong nhọc nhằn, đói rét từ thuở be bờ lập ấp để có thể hiểu được điều đúc kết sâu xa đó. Rơm là gì mà quan trọng với bà đến thế? Một đêm nọ tôi hiểu ra điều ấy khi bất nhờ tiếng trâu cọ sừng vọng ra từ gió bấc hun hút khiến bóng bà đổ dài trên vách khẽ rùng mình. Tôi cuộn tròn trong ổ rơm nghe tiếng thì thầm từ kiếp trước: rơm ủ hy vọng cho tương lai.

Tôi bỏ tuổi thơ lại phía sau những năm tháng dâu bể. Tôi ngốn ngấu đủ các loại sách báo, đào bới những kho kiến thức vô tận. Nhưng không ở đâu tôi tìm thấy sự bình yên, mà ngược lại. sự bình yên đã vĩnh viễn không còn kể từ khi tôi trốn khỏi giấc mơ, đồng thời như một ẩn dụ: tôi biến thành sợi rơm trong một cuộc hóa xác thánh thiện.

Là bao xa? – từ tôi đến sợi rơm vàng?


Nguồn : nguoihanoi.net
 
NHỮNG LÍ DO ĐỂ BẠN TỚI HÀ NỘI

Lê thị Liên Hoan (ĐD Lê Hoàng)


Những lí do để bạn tới Hà Nội

1. Bạn phải biết hồ Gươm khi ở Việt Nam. Cũng như bạn phải biết “Hồ Thiên nga” khi ở nước Nga.

2. Bạn phải ăn kem Tràng Tiền, sau đó tự hỏi kem đã làm nên Tràng Tiền hay Tràng Tiền đã làm nên kem.

3. Bạn phải ăn bánh tôm hồ Tây để hiểu lý do gì họ không có bánh tôm hồ Than Thở.

4. Bạn phải ngồi uống nước chè trên vỉa hè để biết đấy không phải là quán nước. Đấy là diễn đàn.

5. Bạn phải tới phố Hàng Đào, và sẽ hiểu lý do gì ở đấy họ bán đủ các thứ, trừ quả đào.

6. Bạn sẽ được ngửi mùi hoa sữa và được hoa sữa ngửi lại mình bằng cách rắc sữa lên đầu.

7. Bạn sẽ được biết thế nào là một thành phố đang ngủ. Trong khi ngủ, thỉnh thoảng nó cựa mình và nghiến răng.

8. Bạn sẽ gặp những ông lái xe ôm mặc complê và đi giày tây.

9. Nếu may mắn, bạn sẽ được gặp cụ rùa. Bạn nhìn cụ và cụ nhìn bạn. Hai bên đều thán phục lẫn nhau.

10. Bạn sẽ được tới chùa Một Cột, và hiểu vì đâu chả cần đến cái cột thứ hai.

11. Bạn sẽ gặp một nhà thơ nhưng vẽ tranh, một nhà vẽ tranh nhưng lại xây nhà, một ông xây nhà nhưng lại là đạo diễn và một ông đạo diễn nhưng lại thiết kế dự án.

12. Bạn sẽ được ăn bánh chưng nhưng rán lên, sẽ được ăn quả sấu tuyệt ngon nhưng đựng trong những cái lọ tuyệt xấu và ăn những cái bánh gai không hề có gai.

mua_thu_ha_noi.jpg



Những lý do để bạn tới Hà Nội nhưng không ở lâu


1. Ở lâu sẽ quen nhiều. Quen thì sẽ phải về nhà ăn cơm. Không ăn sẽ bị coi là khinh người.

2. Ở lâu sẽ có nhiều chiêm nghiệm và tưởng niệm. Sẽ được tìm ra và mời họp lớp từ lớp một đến đại học.

3. Ở lâu thế nào cũng nghiện nước chè. Và nghiện cả cách uống một chén nước bé tí cả giờ đồng hồ.
0


4. Ở lâu thế nào cũng ăn nhiều ô mai. Và phát hiện ra nhiều thứ ô mai khá giống nhau.

5. Ở lâu sẽ phát hiện ra Hà Nội ít trẻ bán báo, nhưng nhiều trẻ đánh giày.

6. Ở lâu phát hiện ra nhiều chỗ ăn ngon. Nhưng cũng hiểu, muốn ngon phải leo trèo hoặc phải đi vòng vèo.

7. Ở lâu sẽ yêu một cô gái Hà Nội. Và nhận ra cô ấy thông minh, nhưng đáo để.

pho-co-ha-noi-01.jpg



Những lý do để bạn không tới Hà Nội

1. Tất cả những gì mua ở chợ̣ Đồng Xuân, bạn đều có khả năng mua ở chợ Bến Thành.

2. Khi có một kế hoạch được thông báo chỉ cần năm phút nữa là xong, bạn cứ yên tâm là ít nhất năm năm nữa.

3. Khi vào tiệm mua một món nào đấy, bạn có thể bị mắng là đừng cậy có tiền.

4. Khi có việc đi xa, bạn không sợ đường sá, mà hãy sợ ông lái xe.

5. Đi bộ trên vỉa hè phải cẩn thận, vì đó là đi trên quầy hàng của người ta.

6. Khi ăn bánh cuốn Thanh Trì, phải biết nó được làm ở nhiều nơi, trừ Thanh Trì.

7. Người mặc quần áo đẹp, cả nam lẫn nữ, chưa chắc đã là người không văng tục.

8. Bạn sẽ được gọi là “sếp”, mặc dù chả lãnh đạo ai cả, chỉ cần bước vào một quán karaoke.

9. Bạn sẽ phải bỏ giày hay dép khi vào nhà, không có gì chắc chắn bạn sẽ nhận lại đúng dép và giày của mình khi đi ra.

10. Khi bị ai đó đụng vào – nhất là thanh niên – để an toàn, bạn nên xin lỗi trước.

11. Ghế đá công viên không phải để ngồi. Nó để nằm.

12. Giấy vệ sinh là giấy chùi đũa hoặc chùi mồm.

13. Đừng nhìn đồng hồ taxi. Hãy nhìn vào túi tiền mình.
 
OBLADI OBLADA


Obladi Oblada là tên một ca khúc nổi tiếng của The Beatles do Paul viết, tựa đề bài hát được Paul lấy từ một câu tiếng Nigeria có nghĩa là “Cuộc sống vẫn tiếp diễn”

Hắn nhìn vào gương và thấy một sợi tóc bạc dài trên đầu chìa ra, cười... hắn có tóc bạc... chả có điều gì lạ cả, bạn hắn như thằng Ngọc còn lấm tấm trên đầu cơ mà, ở cái tuổi 18 này có một hai sợi tóc bạc cũng hay, chẳng phải là dấu hiệu rằng mình đã già, chỉ có nghĩa là mình đã trưởng thành lên một phần nào đấy. Nghĩ vậy, hắn lúc lắc cái đầu, sợi tóc bạc ánh lên trên nền mái tóc đen như một sợi cước, tự nhiên hắn lẩm bẩm “ Hoá ra mình chẳng còn là trẻ con nữa....”

[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/cx0236X9zd[/FLASH]

Ôi trẻ con, đôi khi hắn thấy mình vẫn còn là trẻ con, mà có gì khác giữa một đứa trẻ và một gã trai 18 tuổi. Lại nghĩ thử một cái, đứa trẻ con hay bi bô hát, đôi khi gã nghêu ngao đứt đoạn một khúc nhạc sến đến não lòng. Rồi thì bọn trẻ con thích ăn kem, còn với gã thì hiếm có cái thú nào hơn là được chấm mút một cây kem lạnh tê lòng giữa cái hơi ẩm buốt giá của mùa đông Hà Nội. Nhưng mà bọn trẻ con có biết tán gái không, rồi hắn tự nhớ xem cái hồi hắn gọi là “trẻ con” ấy hắn có tán đứa con gái nào không, mà ôi dời, cái thời mộng mị, hắn lại nắc nẻ cười một mình và lẩm nhẩm một câu thơ của Xuân Diệu:

“ Tôi dại khờ quá ngu ngơ quá

Chì biết yêu thôi chẳng hiều gì”


Tại sao hắn lại nghĩ thế nhỉ, đã sắp 19 tuổi rồi, theo cách nói của các cụ thì là cái tuổi sửa soạn phải khăn gói vào đời. Mệt. Mà hắn cũng đang dấn thân vào cái vòng xoay đấy còn gì, thử phác hoạ chân dung hắn: 18 tuổi 6 tháng, sống một mình trong một thành phố xa lạ với cái nơi hắn ra đi và cũng xa lạ với nơi mà hắn muốn dừng chân. Hắn làm những gì hắn cho là đúng và cần làm hay ít ra là không sai. Chẳng ai bảo hắn phải làm thế này hay thế kia. Gia đình hắn ư, nhiều tình cảm lắm nhưng chẳng hiểu sao hắn cũng ngại liên hệ, hoạ hoằn một hay hai lần một tháng có một cú điện thoại, về điểm này thì có lẽ hắn có vẻ hợp với việc sớm tách ra khỏi gia đình - thứ tế bào của xã hội đã đùm bọc và nuôi dưỡng hắn đến mức mà trước khi ra đi hắn chưa bao giờ có một ý niệm mơ hồ nào về cuộc sống tự lập cả. Gì nữa, à, hắn có một vài mục tiêu để giành giật trong vài năm, vài tháng, vài tuần và thậm chí cả cho ngày mai. Cuối cùng, hắn có một đứa con gái để yêu và có một đứa con gái yêu hắn....

“ ...Anh ơi, Hà Nội đã lập đông rồi đấy, em vẫn nhớ anh kể là anh thích mùa đông Hà Nội, mùa đông có Tết, có khí lạnh và có gió mùa. Mùa đông năm nay rét đặc biệt đến xao lòng. Em ngồi trên xe buýt đến trường, hơi thở của mọi người trong xe đều bám cả lại trên kính, nhìn ra ngoài chỉ thấy một màn mờ mờ như sương qua các ô cửa sổ thuỷ tinh. Em thích lấy tay nghịch loăng quăng vẽ lên trên cái nền mờ mịt ấy, có lúc em thấy hình như từ phía sau ô kính có gương mặt anh. Nhớ cái ngày đầu tiên mình gặp nhau, cũng là một sáng mùa đông trên xe buýt... Anh à, anh bảo rằng cái lạnh của mùa đông Hà Nội làm cho người ta yêu nhau và gần nhau hơn, sao mà bây giờ anh lại ở xa thế hả anh...”

Sự khác nhau giữa một đứa trẻ con và một thằng đàn ông là đứa trẻ con không bị đặt vào các ràng buộc xã hội, nó cười, nó khóc, nó ăn vạ, tất cả đều theo ý nó. Trẻ con ghét bị chỉ đạo, nó diễn tốt vai diễn của bọn nó theo kịch bản của trẻ con nhưng lại là một kịch sĩ tồi theo sự chỉ đạo của người lớn. Đối với bọn nó - những cái tâm hồn non nớt ấy, thì: cái kẹo này ngon, đồ chơi kia đẹp, bố xấu lắm, con ghét bố lắm, ứ chơi với bố nữa, mẹ ơi sao má mẹ hiền thế... Xét về mặt xã hội, hắn thấy hình như cái tuyên bố “Trẻ con là trung tâm của vũ trụ” là sai toét, bọn trẻ là lũ duy nhất có tư duy độc lập, không chịu chi phối của ngoại cảnh. Còn hắn, hắn sợ cái này, lo cái nọ, làm điều gì cũng phải chỉn chu, hắn như một con rối trong cái vai diễn quá đạt mà các sợi dây nối hắn với bên ngoài dường như là vô tận, đè hắn ngụp lặn trong suy nghĩ đến nghẹt thở. Hắn làm điều hắn cho là đúng, nhưng đúng theo một nghĩa nào đó, một chuẩn mực mà vô hình chung xã hội đã lên khuôn, còn lũ trẻ con, chả có khuôn vàng thước ngọc nào đo đếm những cái mà chúng nó cho là hay ho, là hấp dẫn cả. Hắn sống trầm, đôi khi lại sôi nổi, đôi khi trăn trở, nhiều khi hắn hối tiếc, người ta bảo hắn hay hoài niệm, nhưng thực ra là do hắn cảm thấy bế tắc, bế tắc ngay trong việc thể hiện quá tài tình vai diễn của mình...


“ Nhóc con, anh ở đây mãi thành quen rồi, trời ở đây cũng rét nhưng khô nát cả người ra. Mọi thứ trôi qua nhanh, thời gian đếm như nước, trôi vèo một cái là hết một tuần, rồi lại luận, lại thi cử, lại đề tài khoa học mới, lại nghỉ cuối tuần, rồi lại luận, lại thi cử, lại đề tài khoa học, lại cuối tuẩn... Cái vòng luẩn quẩn ấy làm anh mệt chết. Nhận được thư của em anh vui lắm, nhớ Hà Nội, nhớ trường cũ và nhớ em...”

Lúc này hắn đang ngồi thừ trên bàn, mắt rà đi rà lại cái lá thư con mà hắn đang viết dở. Hắn viết dòng nào xong rồi lại đọc lại, thấy vừa quen vừa lạ. Hắn viết cho ai ? Ai nhận ? Có thật là hắn nghĩ thế không ? Chẳng biết. Lá thư cũng chỉ như một trong các sợi dây rối khác trói hắn với cái xã hội bên ngoài nhộn nhạo kia, cái sợi dây giằng hắn ra khỏi cái góc riêng phần mà hắn muốn níu kéo....

Tháng này ở Pháp trời vẫn còn rét. Thời tiết thành Paris hoa lệ sao mà như một cô nàng kiêu kì, đôi khi đang nắng ửng bỗng đổ mưa như trút đến chưng hửng, rồi lắm lúc mưa lất phất, nhấm nhẳn như mưa xuân ở Hà Nội tưởng như đến hết ngày chẳng ngớt thì khoang trời đầy mây xám chợt rùng mình rũ nước và tạnh khoảnh. Nhớ lại trưa chủ nhật, hẳn ngồi nhâm nhi một cốc Expresso đặc quánh trong góc một quán cà phê nhìn ra vườn Luxembourg thì trời buông mưa, đám bồ câu gần đấy bay tán loạn, xô đổ cả ly cà phê của hắn. Lúc đấy hắn chợt nghĩ, chẳng biết giữa mình và đám bồ câu kia có điểm gì chung không ? Cũng bối rối, ngượng ngập khi phải đứng trước những biến đổi đến kì lạ của cuộc sống ? Không hẳn, trời mưa thì đám bồ câu đâu được báo trước, còn hắn, mọi thứ đều là do hắn lựa chọn cả, hắn vẫn đang đi trên con đường mà hắn đã ngắm nghía. Mọi đường gấp khúc kì lạ trên cái đồ thị của hắn chẳng phải cũng đều do hắn vẽ cả đó sao... Cười...

“ ..Lúc này trời vẫn đang mưa anh ạ, có lẽ vì trời mưa nên hơi lạnh được vương thêm một phần nào đó chứ Hà Nội đã hết rét rồi. Cũng gần đến tháng ba âm lịch, chẳng biết bao giờ thì rét Nàng Bân. Anh có biết sự tích Nàng Bân may áo cho chồng không ? Nàng Bân may áo cho chồng ở biên cương mặc khỏi rét, nhưng may ba tháng ròng mới được một ống tay, đến lúc may xong thì đã hết cả mùa đông. Nàng ngồi khóc, trời rủ lòng thương và ban xuống trần gian một đợt rét đậm vào tháng ba, thế là người chinh phu ở nơi chiến địa nhận được manh áo của vợ mà qua cơn rét. Anh thấy không, người con gái bao giờ cũng khổ, chỉ có đám con trai các anh là sướng thôi, thích đi thì, chẳng để lại điều gì cả. Anh ơi, bao giờ thì anh về hả anh...?”

Mưa... mưa rơi lõm bõm chà vào khung cửa sổ phòng hắn, hắn bỗng nhớ tiếng mưa rơi long bong trên mái tôn ở nhà bà ngoại hồi bé, cái thời trẻ con xa tít tắp của hắn – cãi quãng thời gian mà mọi người gọi là thời thơ ấu vụt đi không trở lại hay cái gì mà giấc mơ thời niên thiếu. Hắn không nghĩ nhiều như thế, cũng chẳng bao giờ hắn gọi tên kỉ niệm, chỉ đơn giản mọi thứ là màu sắc, là âm thanh, là những mảnh chắp vá găm vào cái đầu bù xù của hắn...

“.. Thế nào hè này anh cũng về nhóc ạ, về để tìm lại một cái gì đấy bỏ quên, cũng không hẳn là bỏ quên, chỉ đơn giản là về đề nhìn lại những cái xưa cũ giờ đã khác ra sao, để lại hưởng cái thú lang thang trong lòng phố cổ mà nếm cái này cái nọ trong ngồn ngộn ẩm thực phố phường. Ấy mà cuối cùng cũng là để nhặt lai một thứ anh bỏ quên quẳng ở nhà thật... Có điều cái thứ ấy nó chạy nhanh lắm, có lẽ anh phải dắt nó sang Pháp thôi... Anh đảm bảo với em là em sẽ thích mê mùa thu của Paris...”

“.. Hôm nay em đi xe buýt đi học thì gặp anh Quang bạn anh, mãi mới nhận ra cái lão lù xù trong mớ tóc dài đến bẩn, đúng là dân Rock, thế mà chẳng hiểu sao lại làm em nhớ đến cái mái tóc cũng rù rù của anh mới chết. Hai anh em ngồi nói chuyện với nhau một quãng, thế nào lại xoay nói đến người ra đi. Anh Quang cứ cười ngày xưa hồi lớp 12 anh là đứa suốt ngày trốn tiết đi loăng quăng với hết cô bé này đến cô bé khác mà chả lo học hành gì, đến chiều thì lại la cà hết hiệu sách này đến quán xá nọ. Anh ơi, khi nào anh về mình lại đi nghe Guitar ở Nhạc Tranh nhé, thỉnh thoảng em đến đấy một mình, anh chủ quán cứ hỏi mãi cái gã tồ tồ ngày xưa hay đến đây nghe nhạc cùng em bây giờ ở đâu... Anh có thích hoa bất tử không anh?Loài hoa mộc mạc, không đẹp chút nào nhưng giản dị và có thể dẻo dai đứng được trước mọi thách thức của thời gian. Anh bảo em là anh không tin vào tình yêu vì tình yêu đẹp quá, mà cái gì đẹp cũng dễ vỡ, cũng không thật, không bền, cái gì đẹp như tình yêu chỉ là ảo ảnh mà thôi. Thế nhưng em lại thấy tình yêu cũng như loài hoa bất tử, nhẹ nhàng, không nổi bật nhưng có thể bám được gần như vĩnh viễn trong lòng của những người đang yêu anh ạ.....”

“ Nhóc con, anh có nhiều dự định quá, chẳng biết anh có làm hết được không. Đôi khi anh muốn quẳng hết tất cả, quẳng cái gánh lo đi mà vui sống, mà quay về một góc nhỏ của Hà Nội rồi làm một cái gì đó thật bình thường. Rồi lại dắt tay em đi loanh quanh Hồ Gươm và kể cho em nghe về sự tích Tháp Rùa. Thế nhưng hình như thằng con trai nào cũng dán chặt với những quyền và nghĩa vụ vô hình nào đó. Nhiều khi anh không biết được là nếu anh ở nhà thì bây giờ thế nào, chỉ biết là anh đang ở Pháp và đang làm những điều mà anh thấy cần làm....”


Lúc này mưa vẫn nhỏ đều, gió thổi luồn qua khe cửa lạnh buốt, hắn thấy rùng mình, mọi thứ ở xa hắn quá, hắn ở xa quá, hắn đã tách mọi thứ ra xa quá, mọi thứ với hắn chỉ lờ mờ, mọi cảm giác chỉ lờ mờ, chỉ có vai diễn của hắn là thật..


Con người không phải là một cá thể độc lập mà chỉ là một nguyên tố gắn liền trong liên kết bền vững của toàn xã hội. Nhiều khi hắn muốn thoát ra khỏi cái vòng kim cô luẩn quẩn ấy mà không được, mà có lúc chính hắn lại chằng vào đầu hắn cái vòng kim cô ấy. Cuộc sống là như vậy, giữa đám người đang đi lại ngoài đường kia có một trường hấp dẫn giằng hắn ra khỏi dao động riêng của bản thân mà hoà nhịp cùng với vũ điệu xô bồ kì lạ của cuộc sống. Có lẽ vì thế mà chẳng ai có thể sống cho ảo ảnh của riêng mình, chẳng ai đủ kiên nhẫn để mơ trọn giấc mơ trong đêm, để rồi khi thức giấc lại tiếc hùi hụi, lại ước gì được mơ tiếp, ước gì rũ được cái 24 giờ thường nhật trong ngày với những mớ bùng nhùng. Mơ... cũng chỉ có đám trẻ con tin vào giấc mơ, vào ông già Noel. Trên đời này giấc mơ làm gì có thật, chỉ có con người trong những vai diễn hoàn hảo.... Tự nhiên hắn muốn khóc nấc lên.... Cái giọng trong điện thoại của thằng Ngọc từ tuần trước hình như vẫn cứ rỏ vào tai hắn từng câu ù ù:

“ Có chuyện này mày đừng sốc nhé, mày phải thật bình tĩnh... Mày hứa với tao đi ............Hôm kia Phương đi học, tắc đường ở Ngã Tư Sở, xe buýt không đi được, Phương bắt xe ôm về nhà thì gặp tai nạn ở Cửa Nam...

Hắn chẳng đặt tên cho kỉ niệm nên làm sao gọi ra được, hắn chẳng sống nối bằng ảo ảnh, con người hắn gắn chặt quá vào nghĩa vụ và vai trò... Hắn muốn vùng ra khỏi nó. Hoà lẫn với bản giao hưởng đêm mưa đang gõ nhịp đều đều vào cửa sổ là những câu nhạc Yesterday ngân lên da diết: “Why she had to go ? I don’t know, she didn’t say......Now I long for Yesterday...”

Bức thư đến muộn quá và hắn vẫn cứ đọc tiếp những nét chữ nhỏ nhắn xinh xinh...

“ Anh đi nhanh quá, vẫn còn một câu mà em vẫn chưa kịp nói với anh, nhưng không sao, để khi nào anh về em sẽ nói cho. Bí mật....”

“ Còn một điều mà anh muốn nói với em, nhóc con....”

Mưa tạnh hẳn... Hắn thấy lạnh ngắt.. hắn đang khóc... Hắn đang viết... Hắn đang khóc.. Hắn đang viết...

“... Anh đã quên em rồi.”

Hắn 18 tuổi và hắn đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, hắn đang trói hắn vào các ràng buộc, hắn đang chập chững hoàn thiện vai diễn hắn đối với lịch sử. Hắn không dừng lại mà hắn phải đi tiếp. Hắn bỏ lại giấc mơ và ảo ảnh. Nói gì về hắn, hắn là kẻ hoài niệm nhưng không gặm nhấm quá khứ. Nói gì về hắn: một diễn viên hoàn hảo.

Không một con người nào là một hòn đảo, tự bản thân là một thể hoàn chỉnh hết thảy; mỗi người là một mảnh của đại lục, một phần của đất liền; và nếu sóng cuốn xuống biển một mỏm đá ven bờ thì cả Châu Âu sẽ bé đi. Cái chết của một người sẽ làm chính tôi bé đi... ( John Don)

Hải Sơn
 
Tháng tư - Mùa hoa bách hợp


Một sớm tinh sương, khi không gian thành phố vẫn còn im ắng. Đâu đó chỉ có tiếng gió trong veo xen lẫn mùi ngai ngái của cỏ cây mới thức giấc. Có mùi hương thơm lạ, nồng nàn len lỏi như muốn khẳng định mình, đó là hương thơm của loài hoa bách hợp.

Tháng tư về rồi! Cái nắng ấm đầu hè đã bắt đầu xuất hiện để xua tan lạnh giá. Tạm chia tay với những khăn len, áo choàng ấm áp, người ta thích thả mình trong những bộ đồ nhẹ nhàng hơn, lang thang trên phố và mỉm cười vì biết mùa hoa bách hợp đã về.


195Hop310310-1.jpg


Những bông hoa bách hợp rung rinh trong sớm mai

Nếu nói tháng tư là tháng của mùa hè thì không đúng, nhưng nếu là tháng của mùa xuân thì cũng hoàn toàn sai, đây là tháng chuyển giao giữa hai mùa của năm. Khoảnh khắc giao mùa có nhiều điều thú vị, và hoa bách hợp xuất hiện ở thời điểm đó, không nổi bật, không kiêu sa nhưng lại vô cùng cuốn hút.

Cái thú vị ở đây chính là cảm giác được bất chợt phát hiện thấy hoa bách hợp trên phố vào một sáng như sớm nay. Những bông hoa rung rinh ướt đẫm sương đêm toả thứ hương nhè nhè, nồng nàn. Hoa theo chân những chiếc xe rong toả vào thành phố đánh thức những tâm hồn nhạy cảm.



Hop310310-3.jpg

Màu trắng hoa bách hợp dịu dàng, thanh khiết

Chẳng biết từ bao giờ, tôi yêu loài hoa này. Yêu những cánh hoa màu trắng mỏng manh nhưng vô cùng tinh khiết. Chắc tại vì hoa xuất hiện vào tháng tư, vào thời điểm cái lạnh vẫn chưa bị xua đi hẳn nên những cánh hoa bách hợp đầu mùa còn gầy và xanh. Vậy nhưng điều đó cũng chẳng hề ngăn cản được những cánh hoa bách hợp bừng nở vươn lên khẳng định mình.

Yêu hoa bách hợp, yêu cả tháng tư. Tôi gọi hoa bách hợp là hoa tháng tư, vì bách hợp nhắc nhở tôi rằng tháng tư đã về, Hà Nội lại được thay áo mới. Hoa bách hợp làm Hà Nội của tôi đẹp hơn, có lẽ vì nó gắn với một kỷ niệm khó quên nên mùa hoa bách hợp luôn là mùa thật đặc biệt với tôi trong năm.

Thật khó có thể tưởng tượng rằng, giữa những hồng cúc lan đua nhau kheo đủ màu sắc mà những cánh hoa bách hợp vẫn trở nên thật nổi bật. Dù được bọc bởi một lớp giấy bóng kính nhưng những bông hoa vẫn rực rỡ và tinh khiết đến lạ thường.


Hop310310-2.jpg


Hà Nội mùa hoa bách hợp

Bách hợp là loài hoa không cầu kỳ kiểu cắm, cũng chẳng quá kén lọ cắm và điều quan trọng hơn là bạn không thể cắm xen bất cứ loại hoa nào với hoa bách hợp. Dường như vẻ đẹp của loài hoa này quá hoàn mỹ đến mức chẳng cần thứ màu mè nào để phụ hoạ.

Bách hợp có hương thơm nhẹ nhàng, ngọt dịu chứ không ngào ngạt đến chóng mặt như hoa ly. Mười hai tháng mà chỉ có một tháng dành cho hoa bách hợp, sợ mùa hoa mau chóng qua đi nên nhiều người có khi dành cả tháng chỉ để cắm loài hoa này và thân thương gọi bằng cái tên tháng hoa bách hợp.

Tôi vẫn thường thắc mắc với mẹ rằng vì sao mẹ có thể ngồi rất lâu để cắm hoa hồng trong khi đó tôi chỉ cần có vài phút để cắm hoa bách hợp. Những lúc đó mẹ chỉ cười mà không nói. Và giờ thì tôi hiểu rằng sự cầu kỳ tinh tế sẽ làm tôn lên cái đẹp rực rỡ của hoa hồng, thế nhưng sự cầu kỳ đó lại phá vỡ cái thần của hoa bách hợp, loài hoa sang trọng trong mộc mạc, thanh lịch trong giản đơn và kiêu sa trong tinh khiết.

Bảo Anh_Dantri.
 

Linh phiêu trong mắt rồng



173_1257760776_5_thanglong1495_400.jpg


Thăng Long trong mắt rồng triều Trần là ngọn lửa hồng rực đỏ trên biển cả của bao phen chồn ngựa đá. Ngọn lửa tràn hào khí Đông A giữ cho xã tắc vững âu vàng. Thăng Long trở nên rực sáng hơn mỗi lần gặp nguy khó.

Tôi đã viết trong niềm thiên khải của mình những câu thơ như rút ra tự ngàn kiếp: "Đất nước vóc Rồng dáng Tiên/ Đôi mắt nghìn trùng trông ra biển". Một dải nước non hình chữ S đẹp xinh như hình hài rồng lượn bay quanh vòng tròn Thái cực, hướng ra đại dương trùng khơi với một tư thế và tâm thế hùng phiêu và kiêu tráng luôn là hình ảnh đẹp đẽ trong tâm thức nhiều thiên định của tôi.

Nếu dãy Trường Sơn là xương sống của rồng, bờm rồng là vi vút điệp trùng miền Tây Bắc thì Thăng Long chính là nhãn tinh rồng. Đôi mắt ấy luôn phóng chiếu cái nhìn ra nơi trùng dương sóng vỗ thể hiện nhiều khát vọng và mãnh lực tồn sinh, phát triển. Tôi cũng đã viết trên An ninh thế giới Cuối tháng về một Thăng Long thảo mặc, một Thăng Long kiêu tráng, một Thăng Long hồn phách với những phẩm cách, thuộc tính đó, dù là ngàn năm hay trong một khoảnh khắc vô thường của thời gian.

Khi ngày Đại lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long đang đến thật gần, tôi lại suy tưởng về một Thăng Long khác, vừa cổ kính vừa nên thơ, vừa hiện đại vừa xa xăm, một Thăng Long trong ánh nhìn của những con rồng, với tất cả những thanh lịch và bộn bề của mảnh đất đế đô đang trên đà dựng xây và hội nhập.

Thăng Long trong mắt rồng

Khi tất cả đã trầm tích sâu vào lòng đất, trầm tích qua ngàn thu thì Thăng Long vẫn tinh anh thể phách. Khi tất cả đã lùi sâu về quá khứ, lắng sâu thành linh phách thì Thăng Long vẫn vẹn nguyên kiêu tráng. Kiêu tráng ngàn năm. Những dấu tích còn sót lại vẫn thâm nguyên hồn khí để khi phát lộ vẫn lấp lánh ánh xưa. Như loài sen, ngàn sau vẫn nở. Nền cũ cung điện đã tịch bóng nguy nga nhưng hình ảnh về một mặt trời hắt nắng trên thềm rồng, trên cổng Hoàng thành vẫn hiện lên rực rỡ tráng lệ. Như ngàn thu còn vương tỏa hương sen. Và còn đây, trên lối xưa, vẫn kiêu hùng đôi rồng đá. Kiêu hùng thiên thu...

Thăng Long trong hình dung của nhiều bậc thức giả là một kinh đô rồng. Điều đó thật đúng và ứng với lịch sử và huyền thoại của chính mảnh đất này. Còn Thăng Long trong mắt rồng là gì? Là một hình ảnh mặc định trong linh thức hay chuyển động những hình ảnh đầy dư phiêu? Là một cổ ngoạn thăng trầm cùng những biến thiên lịch sử, tinh hoa và thu thảo với những cung điện Càn Nguyên, Thiên An, Kính Thiên nhiều đường nét đậm hồn khí thâm nguyên, với những chiếc đại hồng chung âm thanh kỳ phiêu, với những viên gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên chạm khắc lá bồ đề hay hoa sen, với giếng cổ chứa trong mình những giọt mưa từ thuở vị vua đầu khai sáng? Hay là một nơi chốn của rồng để sinh sôi nảy nở, chầu về đây với châu ngọc thần tiên? Hoặc chăng là nơi thủy tụ, là khí vận xung thiên, là đất trời mang đầy huyền sử. Là con tàu ra khơi nơi trùng dương ngàn sóng với bản lĩnh những tay chèo…

Cứ đặt ra nhiều giả thuyết thế để không khỏi bất ngờ trước sức sống Thăng Long, nhiệt huyết Thăng Long trong những tao đoạn khó khăn của tháng năm lịch sử cũng như những thử thách cam go phía trước khi lên đường ra biển lớn.

Qua sự trôi chảy của dòng thời gian, trong cái nhìn của những con rồng khác nhau, Thăng Long cũng sẽ hiện lên với những khúc thức, sự linh phiêu khác nhau. Thăng Long trong mắt rồng đời Lý là một toà sen, nở viên mãn trong đời sống nhân gian. Ngôi chùa Một Cột vẫn nguyên là bông sen cách điệu trong giấc chiêm bao vua Lý Thái Tông. Giấc mơ hình hoa sen đã trở thành công trình đặc sắc như nhắc nhớ về một nỗi niềm sâu kín được sẻ chia là sự thôi thúc bên trong tâm hồn, là mong muốn giải tỏa những khuất khúc trong đời sống tâm linh của mình.

Thăng Long trong mắt rồng triều Trần là ngọn lửa hồng rực đỏ trên biển cả của bao phen chồn ngựa đá. Ngọn lửa tràn hào khí Đông A giữ cho xã tắc vững âu vàng. Thăng Long trở nên rực sáng hơn mỗi lần gặp nguy khó. Gió không dập tắt được ngọn lửa Thăng Long. Thăng Long trong mắt rồng thời Lê là cây tùng rừng trúc, cương trực và kiên nghị cái tinh thần của hoa mai và ánh sáng của sao Khuê, tiềm ẩn cái khát vọng của gươm thiêng Lục thủy và ngọn bút Tả thanh thiên. Vừa ẩn dật vừa nhập thế. Vừa dân dã vừa cao sang…

Thăng Long hiện lên trong mắt rồng trên những mái đình làng Việt là nguyên vẹn viên ngọc châu, như giọt mồ hôi ngàn năm của ông cha từ độ mang gươm đi mở cõi. Thăng Long trong mắt rồng nơi bia tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám là pho sách thơm của tổ tiên còn chảy truyền nguyên khí quốc gia… Ở bất cứ nơi nào có rồng Việt lại hiện lên một Thăng Long hùng linh.

Rồng trong tinh thần Thăng Long

Trong đôi mắt rồng, Thăng Long là viên đá ngậm ngọc, viên đá đó (cần và đang được mài giũa để) trở nên linh phiêu cùng thời gian. Sinh ra từ huyền thoại, đẹp như huyền thoại, Thăng Long mang trong mình cốt cách của rồng. Chúng ta vốn mặc định trong tâm thức Việt như thế và tin rằng vậy. Tất nhiên không chỉ sống bằng niềm tin, đó chỉ là động lực tinh thần bên trong để ta vững bước trên con đường đi tới tương lai. Mảnh đất linh đô nay đã ngàn năm. Hà Nội - một Thăng Long đương đại - đang cựa mình với biết bao biến thiên của thời cuộc, sự vần xoay của thế sự, bộn bề toan lo.

Ngàn năm trước, khi Lý Công Uẩn dời đô về đây, thành Đại La chỉ bấy nhiêu thôi, Thăng Long chỉ với 36 phố phường và các cửa ô. Vậy mà, sau cái chớp mắt ngàn năm của thời gian, Thăng Long đương đại - Hà Nội bây giờ thật hoành tráng, Top 20 Thủ đô to rộng nhất thế giới. Đứng trên nền điện Kính Thiên này trông ra, vút xa tầm mắt là đỉnh Ba Vì mờ xanh, là Tùng lâm Hương tích… Thăng Long giờ có thêm cả xứ Đoài, tích hợp thêm vùng địa linh nhân kiệt, vốn là đất hai vua, là quê lụa giàu truyền thống văn hóa.

Quyết định hợp nhất, một "chiếu mở đô" của Thăng Long đương đại được ban ra với nhiều kỳ vọng mới về một thủ đô xứng tầm thời đại, là thành phố anh hùng, thành phố vì hòa bình nhưng cũng nhiều thách thức mới không phải nhỏ cho một thành phố trên đường hội nhập. Vẫn còn ngổn ngang một quy hoạch tổng thể cho tầm nhìn 2050. Vẫn còn bao vướng mắc trong xây dựng và quản lý đô thị văn minh hiện đại. Mái ngói lô xô thì đẹp trong tranh phố Phái nhưng lố nhố thấp cao hay siêu mỏng những ngôi nhà mặt phố thì thật là phản cảm. Và vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết về môi trường, giao thông, về hệ thống tiêu nước để Hà Nội không biến thành sông…

Bằng bản chất rồng trong tinh thần ngàn năm, chúng ta đã thấy Thăng Long quật khởi trong những lúc vận mệnh ngàn cân treo sợi tóc. Không có tinh thần rồng sẽ không có những hồn thơ hào sảng và dũng khí tráng liệt đến nhường này: Từ thuở Vua Hùng, Đại Việt, Vạn Xuân/ Máu, nước mắt, mồ hôi bao đời thấm vào hồn sông núi/ Cây cỏ nước Nam không bao giờ tàn lụi/ Núi sông không một phút cúi đầu! Và ngày nay, chúng ta cũng đã thấy một phần và sẽ thấy Thăng Long đương đại vươn lên mạnh mẽ trong hội nhập bằng nội lực rồng của mình. Đó chính là rồng trong tinh thần Thăng Long.

Hân hoan ngày Đại lễ

Một nghìn chiếc trống hội cùng âm vang. Một nghìn ngọn đèn lồng lung linh thắp sáng đêm Hồ Gươm. Một nghìn bông sen thoang thoảng gió Hồ Tây. Dàn nhạc đại giao hưởng một nghìn nhạc công. Một nghìn cây mai phương Nam. Một nghìn cổ vật Thăng Long. Một nghìn chiếc áo dài thướt tha trong trời thu Hà Nội. Một nghìn nhân kiệt Thăng Long. Một nghìn bức thư pháp treo khắp phố phường Hà Nội. Một nghìn câu thơ tài hoa… Tất cả đều quyện hưởng hân hoan trong ngày Đại lễ Thăng Long ngàn năm. Đại long khí trong những mạch rồng được truyền từ thuở vua Lý Thái Tổ vẫn chảy theo thời gian năm tháng cho đến hôm nay, cho tới ngày Đại lễ này và mãi muôn sau, không thể mất đi.

Trở về đây, bên Hoàng thành Thăng Long, chân đã chạm chín bậc thềm điện cũ, tay lần theo dấu vân gió lưng rồng, hãy lắng lại đây trong cảm xúc ưu miên với giếng Ngọc, với: "Những viên gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên/ Mang hình bóng, in dấu chân những vị vua hiền/ Hạ lễ tịch điền ngày xuân/ Cùng dân chăm lo, mở mang khai phá bờ cõi/ Mở tao đàn, thăng vút câu thơ/ Bồi sức dân, chiêu hiền đãi sĩ/ Lắng nghe lẽ phải lời hay/ Lúc loạn lạc, nhảy lên lưng ngựa, gươm tuốt sáng lòa/ Khi thái hòa, rời yên cương, khoác áo nâu, chống gậy trúc, lên núi hóa Phật thành sen".

Trở về đây, thấy ngàn năm kiêu tráng và thảo mặc, với những linh vật của Thăng Long tứ trấn, hàng hàng lớp lớp những ngựa xe như trong buổi thiết triều, hồi vọng những âm thanh đưa ta tới ngàn mây với muôn ngàn những thế rồng bay, lúc uốn lượn khi cuộn mình, lúc vờn mây khi ẩn sóng, lúc cuốn thủy khi phun lửa, lúc ngậm ngọc khi tàng long. Trở về đây, trò chuyện cùng đôi rồng đá, thì thầm với những mảnh vỡ hoa văn Lý - Trần...

Thăng Long ngày Đại lễ sẽ hội đủ tứ bất tử Việt, có Hoàng thành được phát lộ và đang được đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thăng Long ngày Đại lễ sẽ có hậu duệ dòng họ Lý từ Hàn Quốc tìm về cội nguồn sau hơn 900 năm. Sẽ có Thăng Long của ngàn xưa và Thăng Long trong những giây phút thiêng liêng ngưng đọng của lịch sử, những khoảnh khắc thăng hoa ấn tượng in dấu vào lịch sử và Hà Nội ngày nay cùng về đây tham dự vào ngày Đại lễ. Sẽ có ngựa trắng đền Bạch Mã, trâu vàng Hồ Tây, sẽ lại có cụ Rùa ngoi lên trên mặt nước hồ Gươm. Sẽ lại có bóng rồng thiêng trên trời Hà thành. Như huyền thoại, để bay vào tương lai…

Theo Báo Công An Nhân Dân
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top