Câu 7 : Em có suy nghĩ gì về những người xung quanh Nhĩ.
- Những người xung quanh Nhĩ là những người rất tốt. Họ có lẽ sống ân tình, quan tâm đến mọi người. Hình ảnh cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khoẻ, một lời động viên, an ủi ân cần : « Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khoẻ ra nhỉ ? » thật cao quý và ấm áp nghĩa tình. Các cháu Huệ, Hùng, Vân, Tam, xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch chỗ nằm từ mép tấm nệm ra mép tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại « toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với ». Huệ đã giúp nhiều nên đã quen với việc đỡ cho Nhĩ nằm xuống. Đặc biệt là vợ con Nhĩ. Tuấn không hiểu mục đích của chuyến đi, nhưng vẫn sẵn sàng nghe lời bố, dẹp thú đọc sách lại để đi sang bên kia sông. Vợ Nhĩ thì vì chồng mà từ một cô thôn nữ trở thành người đàn bà thị thành, vẫn mặc áo vá, tần tảo và chịu đựng, không kêu ca một lời. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình yêu thương của gia đình và quê hương như thế ?
Câu 8 : Nhận xét nào sau đây đúng với câu : « Đêm qua lúc gần sáng, em có nghe thấy tiếng gì không ? »
A. Chỉ là một câu hỏi bình thường, không có hàm ý gì ?
B. Có hàm ý nói đến việc đất lở ven sông .
C. Có hàm ý nói đến việc đất lở ven sông, gợi sự đổ vỡ, mất mát, gợi sự liên tưởng đau lòng đến tình trạng nguy kịch của người chồng đang ốm, khiến anh lo buồn thêm.
(Câu C đúng với câu đó)
Cau 9 : Giải thích nhan đề truyện « Bến quê ».
- Đặt tên cho truyện ngắn « bến quê », điều ấy vừa bình thường, vừa có gì khác thường. Nó bình thường ở chỗ « : Bến quê là nơi sinh hoạt đông vui ở làng quê như bến nước, mái đình, cây đa… ; bến quê còn là nơi bến đậu của con đò quen thuộc, của những con người quê hương đã từng bôn ba đây đó, đã từng trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời nay trở về sống những ngày tháng cuối cùng, cảm thấy được che chở và bình yên. Bến quê với họ lúc này là nơi trú ngụ êm đềm nhất trong cuộc đời mỗi con người bởi con người ta ai chẳng có một quê hương để một đời gắn bó. Còn khác thường là ở chỗ : cái bến quê ấy, cái bãi bồi bên kia mà nhân vật Nhĩ hướng về chưa hẳn là nơi chôn rau cắt rốn của anh ? Có lẽ đó là quê hương của những người mà anh nhìn thấy : cả một đám khách đợi đò, quê hương của những người đi bộ hay dắt xe đạp, rõ hơn nữa, trong số ấy có « một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy » đằng kia. Với nhân vật Nhĩ, đây chỉ là một miền tưởng nhớ, một mơ ước xa xôi. Con đò sang bên kia sông cũng là con đò chở niềm ao ước gần gũi mà xa vời của anh. Và con đò đến bến bờ cũng là thực hiện niềm ao ước ấy. Nhan đề truyện cho thấy cách lựa chọn đề tài của tác giả thật dung dị nhưng mang tính biểu tượng sâu sắc. Đó là một đặc điểm nghệ thuật bao trùm của « Bến quê » tạo nên cách hiểu đa dạng và ý nghĩa nhiều tầng của thiên truyện.
10. Nhận xét nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên trong truyện « Bến quê ».
- Thiên nhiên trong truyện ngắn « Bến quê » không mang vẻ đẹp như thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác mà ta đã được biết. Nếu như trong các tác phẩm « Cô Tô » của Nguyễn Tuân, « Sang thu » của Hữu Thỉnh, « Đoàn thuyền đánh cá » của Huy Cận, hay « Lặng lẽ Sa Pa » của Nguyễn Thành Long… cảnh thiên nhiên đẹp rực rỡ, lung linh, huyền ảo, mộng mơ được cảm nhận qua tâm hồn rung cảm của người nghệ sĩ thì trong truyện ngắn « Bến quê », thiên nhiên hiện lên dung dị hơn qua cảm nhận của một người con quê hương. Đoạn truyện đã thể hiện rõ cái cảm quan hiện thực của người viết - một cái nhìn thiên nhiên, khung cảnh rất đời, rất gần gũi. Trong những giây phút cuối đời, anh nhìn ra ngoài cửa sổ, nhận thấy những thay đổi rất nhỏ nhặt như « những cánh hoa bằng lăng dường như thẫm mầu hơn- một màu tím thẫm như bóng tối ». Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khung cửa gian gác nhà Nhĩ một một thứ màu vàng thau xen lẫn màu xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở của đất màu mỡ ». Những sắc màu thân thuộc như khí trời, hơi thở, gần gũi như đời sống nhưng dường như lần đầu tiên Nhĩ mới nhận ra, mới thấm thía hết vẻ đẹp của nó. Phải chăng, trong cuộc sống bình dị cũng có những nét đẹp của nó nhiều khi không dễ nhận ra. Trong câu hỏi anh hỏi vợ : « Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không ? » ta bắt gặp những âm thanh quen thuộc mà bình thường Nhĩ cũng chẳng bận tâm, nhưng giờ đây với anh nó thật thân thuộc và quý giá biết bao ! Hình ảnh cánh buồm nâu cứ trở đi trở lại trên con sông như đọng lại trong tâm tưởng của Nhĩ, anh quá hiểu rằng mình chỉ có thể sang bờ đất mơ ước trong tâm tưởng mà thôi. Cánh buồm tượng trưng cho sự nghèo đói của quê hương được nhìn dưới con mắt đầy tình yêu thương và xót xa của Nhĩ. Mảnh vá trên cánh buồm hay trên tấm áo của Liên…. đó là tất cả hình ảnh quê hương gần gũi, yêu thương mà nặng trĩu niềm xót xa, thương cảm. Hình ảnh quê hương trong văn học Việt Nam vốn hiện lên với nét đẹp rất thơ mộng… Trên trang văn của Nguyễn Minh Châu thì khác hẳn, quê hương vất vả tiêu điều, trong sự tần tảo sớm hôm. Đằng sau sự gắn bó với quê hương, với bờ bãi bên kia sông gần gũi mà xa lắc, ẩn dưới nó là nỗi niềm day dứt gần như xót xa. Cái nhìn thiên nhiên của Nhĩ là một cái nhìn rất hiện thực, rất đời, rất tỉnh táo mà chan chứa tình yêu thương da diết.
Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm thía. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.
PHẦN TẬP LÀM VĂN :
Đề 1 : Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Nhĩ trong truyện « Bến quê » của Nguyễn Minh Châu
Gợi ý :
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu chuyện là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội tâm phong phú đầy trải nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình tượng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức tỉnh sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã từng bôn ba, được tiếp xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới nhưng đến cuối đời lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra vùng đất bên kia sông- nơi bến quê quen thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh chưa một lần đặt chân đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần, chu đáo của vợ, anh mới nhận ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Và anh khát khao cháy bỏng được đặt chân một lần lên bến quê - bờ bãi bên kia sống, cái miền đất thật gần gũi mà bây giờ với anh trở nên xa lắc.
=> Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật Nhĩ
a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong nhiều thi phẩm khác chẳng hạn như : Cô Tô - Nguyễn Tuân, hay « Sang thu » của Hữu Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật ấy dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng. :
+ Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ Đặc biệt là anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê - đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông : H/ả con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. có cảm giác như lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm nghiệm : « Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến » Phải chăng đây là tâm trạng của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Anh đang phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay « cũng chỉ cảm thấy như hôm qua ». Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình « vừa bay được một nửa vòng trái đất ». Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này « cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt, giật mình như bấm đốt ngón tay : « hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ? ». Trước những lời anh hỏi vợ và sự im lặng của Liên, ta cảm nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết đến dần với anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở trường hợp thứ hai.
b. Cảm nhận của Nhĩ về Liên (vợ anh).
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ.
- Anh nói với chị Liên : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh ». Còn Liên đã trả lời : « Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này »..
- Nhìn vợ bước xuống cầu thang với tiếng bước chân « rón rén quen thuộc suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm », anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : « Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này »
- Thật là đau đớn với anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng đời còn trẻ với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn « Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im lặng ? Nhưng dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp của lương tâm bởi tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức nhận ấy đã đọng lại trong niềm khát khao cháy bỏng của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được bờ sông bên kia , với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ « cái bên kia sông » mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ : con người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới mơ ước kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, thật dung dị « cả trong những nét tiêu sơ ».
- Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã đến được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là « một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Những hành động, cử chỉ của cậu con trai phải chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được điều anh nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận của riêng anh : « con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình »
- Đó là triết lí của một người đã trải nghiệm « Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia », đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn trẻ vô tình bỏ qua những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của hai thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên mỗi chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần trân trọng những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên ta.
d. Hành động cuối truyện :
- Đây là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng người đọc. Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất khác thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm thía. ». Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Cho nên hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên « long lanh » một cách khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Thời gian không thể chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác ! Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả. Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự nhiên mà sâu sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh Châu đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật Nhĩ. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để khắc hoạ tính cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.
- Từ những « nhận thức đau đớn và sáng ngời » của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí sâu sắc ở đời : Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc chùng chình ». Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê hương ».
- Mỗi chúng ta hãy luôn tự ngẫm về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của mình trong lúc chưa quá muộn.
Đề 2 : Bình luận truyện ngắn « Bến quê » của Nguyễn Minh Châu
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
B. Thân bài :
1. Bình luận về tình huống nghịch lí của truyện
+ Nhĩ bị liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
- Cả cuộc đời Nhĩ đã đi khắp mọi nơi nhưng rồi cuối đời anh chỉ muốn nhích tới bên cửa sổ mà khó khăn « như phải đi hết nửa vòng trái đất ». Cho đến cái bãi bồi bên kia sông Hồng thật gần gũi nhưng anh chẳng bao giờ có thể đặt chân lên mảnh đất ấy thì đây quả là thêm một nghịch lí đáng buồn.
- Rồi cậu con trai anh không sao hiểu nổi cái khát vọng kì cục mà lớn lao của bố : Nó sa vào một đám chơi cờ thế, rất có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày => đó cũng là một điều nghịch lí.
- Ngay cả người vợ một đời tần tảo, giàu tình yêu thương nhưng phải đợi đến lúc sắp giã biệt cõi đời, Nhĩ mới cảm nhận thấm thía được lại càng là nghịch lí và trớ trêu…
=> Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Bình luận về những cảm xúc của nhân vật Nhĩ.
- Nhĩ nằm đó, trong cái mớ rối rắm bòng bong những nghịch lí để tự hồi tưởng, tự phân tĩnh, tự sám hối và nhận ra những điều không có gì là xa lạ.
a. Cảm xúc về thiên nhiên.
- Cảnh vật được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng : sự thay đổi sắc màu của những bông hoa bằng lăng ; của con sông Hồng, của bầu trời thu, của cái bãi bồi bên kia sông, con đò có cánh buồm nâu bạc…. gợi ra một không gian vừa có chiều sâu, vừa có chiều rộng.
- Cảnh vật ấy cứ dần dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng và chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc thật tinh tế của một con người sắp từ giã cõi đời.
+ Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
+ H/a con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra vốn cũng chỉ là hình ảnh của cái đẹp bình dị, gần gũi, gắn bó bao đời, vậy mà giờ đây bỗng trở nên xa xôi quá, ngăn cách quá vì cả đời Nhĩ đã vòng vèo, chùng chình nên đến giờ mới nhận ra được điều đơn giản ấy.
+ Ngay cả cái vòm trời màu thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Vậy mà cũng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. Đây là « một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa bao giờ đi đến ». Phải chăng đây là tâm trạng của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
b. Cảm xúc về vợ :
- Phát hiện thấy ở Liên những tình cảm dịu dàng, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng.
+ Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc vuốt ve chồng, lảng tránh trả lời khi Nhĩ hỏi.
+ Nhĩ nhận ra sự nghiệt ngã của thời gian, không còn bao lâu nữa anh sẽ mãi mãi ra đi, Nhĩ đành phải xót xa nói ra một điều ân hận nhất : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh ! »
+ Liên vẫn ân cần, vẫn yêu thương, lặng thầm hi sinh, chịu đựng : Anh cứ yên tâm.. Miễn là anh sống, luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này. »
- Giờ thì Nhĩ đã hiểu thật sâu, thật đau với một sự thấu hiểu, một sự ân hận và lòng biết ơn sâu sắc nhưng cũng đã muộn màng. (so sánh với Khúng và Huệ trong « Phiên chợ Giát »). Tại sao không nương tựa vào nhau để đi qua cuộc đời, qua số phận và bám lấy mảnh đất quê hương để mà sống, để tạo lập cuộc sống, để khẳng định con người trên mảnh đất này ? Sao không thể có được một cuộc đời tuy lầm lũi mà hạnh phúc như lão Khúng với mụ Huệ trong truyện « Phiên chợ Giát » dù cho cuộc đời có thấm đẫm đầy máu và nước mắt ? Phải chăng cũng bởi những cái vòng vèo, chùng chình không dứt ra được khiến cho Nhĩ từ lâu đã không nhận ra được tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng ấy của Liên ? Và để rồi cuối cùng mới nhận ra được cái đẹp trong tâm hồn vợ : cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
- Cách so sánh đầy tính triết lí trên đây của tác giả không chỉ là lời ngợi ca, sự nhìn nhận xứng đáng dành cho Liên mà còn là một phát hiện vốn cũng rất bình thường nhưng cũng đã bị chính cái vòng vèo, cái chùng chình làm cho con người ta đã phót lờ nó, xem thường nó, coi đó như là một lẽ đương nhien. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn « Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im lặng ?
c. Cảm xúc về quê hương (từ những cảm nhận về thiên nhiên, cảm nhận về Liên, Nhĩ chợt nhận ra cái đẹp muôn thuở của quê hương)
- Thì ra « suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất » vậy mà giờ đây, nằm trong căn phòng nhìn qua cửa sổ, Nhĩ mới thấy được tất cả vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi của cái bãi bồi bên kia sông khi mình sắp từ giã cõi đời.
d. Cảm xúc về bản thân và bình luận về tâm trạng khao khát của Nhĩ muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
- Bãi đất ấy đã làm bừng dậy một niềm khao khát vô vọng là được đặt chân lên một lần đến đó.
- Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường, sâu xa trong cuộc sống vốn thường bị người ta lãng quên và chỉ có thể cảm nhận được khi đã ở cái độ từng trải.
- Thật là đau đớn vì đối với Nhĩ đó cũng là lúc cuối đời, cận kề với cái chết. Cho nên sự thức tỉnh tình yêu quê hương, yêu cái đẹp dung dị, bình thường, gần gũi có xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa : « hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia ». Và cũng chỉ có anh mới nhận ra được điều đó, ngay cả đứa con anh cũng không sao hiểu được điều anh mơ ước. Nó ra đi một cách miễn cưỡng rồi bị cuốn hút vào trò chơi giải cờ thế trên vỉa hè, rất có thể nhõ chuyến đò ngang. Quả thật là « con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình » vậy.
- Nhĩ thất vọng nhưng ôm nỗi buồn riêng không hề trách móc một ai. Vì « vả lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu ! » Nhĩ chỉ còn biết thu hết tàn lực vào cái giờ phút không thể dừng lại được nữa khi thấy con đò ngang vừa chạm vào mũi vào đất lở bên này sông »… « để đu mình, nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc.. khoát khoát… »Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyền đò ? Phải chăng anh đang cảm nhận cái ngắn ngủi của thời gian không hề chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác. Hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn nữa : đó là ý muốn của nhân vật (cũng như của nhà văn) là thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời. Hãy mau mau dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời vì như trên đã dẫn theo lời của tác giả là « cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan ». Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả. Do đó nhận vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho một giai tầng nào đó trong xã hội hay cho chính nhà văn. Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự nhiên mà sâu sắc.
4. ĐÁnh giá những thành công về nghệ thuật xây dựng truyện.
- Miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật mang đầy ý nghĩa triết lí về con người.
- Sáng tạo những hình ảnh giầu ý nghĩa biểu đạt và hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. (Dẫn chứng : hình ảnh hoa bằng lăng, hình ảnh bãi bồi bên kia sông, của con đò, của cánh buồm nâu đã bạc mầu… những tảng đất lở bên bờ sông…. hình ảnh cuối truyện….)
C. Kết luận.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi được xa nhất trên con đường đổi mới văn học, trong thời kì mà văn học đang « tự thay máu » của mình. Nhân vật thể hiện được những chiêm nghiệm, những điều trở trăn của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh, minh chứng cho sự đổi t hay của một thời kì văn học mới.
- Tác phẩm mang phong cách hiện đại, tính nhân văn sâu sắc.
ĐÀO CHÍ HƯỚNG