Chia Sẻ Chuyên đề "Tây Tiến"- Quang Dũng

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Chuyên đề này giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và xử lí các dạng đề liên quan.Quang Dũng đã xây dựng thành công tượng đài người lính Tây Tiến vừa bi tráng vừa lãng mạn, vừa hào hùng vừa hào hoa trên nền bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa dữ dội, hoang vu, hiểm trở vừa êm đềm, thơ mộng, trữ tình như thế nào?


đoàn binh tây tiến.jpg



KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Vài nét về tác giả, tác phẩm

a. Tác giả

+ Quê quán: Đan Phượng, Hà Tây.

+ Nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc > Dấu ấn hội họa và âm nhạc in đậm trong các thi phẩm của Quang Dũng.

+ Phong cách thơ: hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa > hào hoa là chữ nói lên hồn cốt con người cũng như thơ ca Quang Dũng.

b. Tác phẩm

+ Hoàn cảnh ra đời:

- Đoàn binh Tây Tiến:

· Thời gian thành lập: đầu năm 1947

· Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân Pháp ở Thượng Lào và miền tây Nam Bộ của Việt Nam.

· Địa bàn: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa (Việt Nam), Sầm Nưa (Lào) > địa bàn rộng lớn, hoang vu, hiểm trở, rừng thiêng nước độc.

· Thành phần: phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ vẫn sống rất lạc quan, vẫn giữ cốt cách hào hoa, lãng mạn.

· Sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.

- Cuối năm 1948: Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại Phù Lưu Chanh, tác giả viết bài thơ Nhớ Tây Tiến.

+ Nhan đề:

- Ban đầu Nhớ Tây Tiến > in lại đổi thành Tây Tiến.

- Ý nghĩa:

§ Đảm bảo tính hàm súc của thơ (Văn hay mạch kị lộ) > cảm xúc chủ đạo chi phối mạch thơ (nối nhớ) được giấu kín.

§ Làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm: đoàn quân Tây Tiến.

§ Bỏ đi từ Nhớ > vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến - không chỉ là một đoàn binh sống trong nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng mà trở thành một hình tượng bất tử trong thơ.

+ Bố cục:

Chia 4 đoạn

- Đoạn 1 (từ đầu – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi): Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

- Đoạn 2 (tiếp – Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

- Đoạn 3 (tiếp – Sông Mã gầm lên khúc độc hành): Chân dung người lính Tây Tiến.

- Đoạn 4 (còn lại): Khúc vĩ thanh (Lời thề gắn bó với đoàn quân và miền Tây)

2. Phân tích văn bản

a. Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

+ Hai câu đầu: Khơi mở mạch cảm xúc cho bài thơ

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

- Cảm xúc chủ đạo: “Nhớ”

- Đối tượng nỗi nhớ:

· Nhớ Sông Mã, nhớ “rừng núi”. Sông Mã không thuần túy là một địa danh vô hồn, là tên một dòng sông mà đã trở thành đất mẹ yêu thương, thành cả một miền nhớ đau đáu khôn khuây.

· Nhớ Tây Tiến > nỗi nhớ một đoàn quân đã gắn bó máu thịt với tác giả.

- Mức độ nhớ: “nhớ chơi vơi” > Nỗi nhớ không xác định, mang màu sắc của vô thức > nỗi nhớ vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mông, ám ảnh.

- Vần “ơi”> hai câu thơ giống như một tiếng gọi - tiếng gọi của nhớ thương vời vợi từ trong vô thức. Nó biến tên một địa danh, một đoàn quân trở thành hai miền nhớ thương, mang linh hồn. Nỗi nhớ làm hiển hiện bao nhiêu hình ảnh tươi đẹp. Là hoài niệm mà sống động như mới hôm qua.

> Hai câu thơ đầu khơi mở mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Đến các câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ được cụ thể hóa.

+ Câu 3 - 4: Hình ảnh đoàn binh hành quân trong đêm

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

- Vừa tả thực: “sương lấp”, “mỏi” > Sương vùng cao như chùm lấp và nuốt chửng đoàn binh > Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực chiến tranh vẫn bị khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Đằng sau hình ảnh những đoàn quân hùng dũng, hăm hở ra trận là những đoàn quân mỏi mệt.

Con người chứ không phải thánh thần. Có những lúc rệu rã, có những lúc hào sảng phấn chấn. Đằng sau vinh quang chiến thắng còn có cả những đau khổ hi sinh.

Quang Dũng dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nhắc tới cái bi bên cạnh cái hùng > Có một thời người ta né tránh “Tây Tiến” cũng bởi điều này.

- Vừa sử dụng bút pháp lãng mạn: “ hoa về trong đêm hơi” > Gợi không gian huyền ảo > Có thể là hình ảnh những đoàn quân, dẫu mỏi mệt đấy nhưng tâm hồn vẫn trẻ trung tươi tắn, vẫn cầm trên tay những đóa hoa rừng thơm ngát > hé mở vẻ đẹp hào hoa, lạc quan, yêu đời của người lính.

+ 4 câu tiếp: đặc tả hình sông thế núi hiểm trở nhưng cũng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên đừờng hành quân của người lính Tây Tiến.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thứớc xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

- Từ láy: “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3> sự gập ghềnh, ẩn chứa bao bất trắc, hiểm nguy, độ sâu của dốc núi.

-
Hình ảnh “Súng ngửi trời”: vừa đặc tả độ cao chót vót của dốc núi (cao đến mức khi người lính lên tới đỉnh núi thì mũi súng gần như chạm vào trời) vừa thể hiện “chất lính” tinh nghịch qua cách nói nhân hóa (ánh nhìn độc đáo trêu đùa làm giảm nỗi mệt nhọc trên con đường hành quân gian khổ)

- Phép đối: Ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống > hiện hình độ cao, chiều sâu, hình sông thế núi trập trùng, phần nào gợi nhịp thở khó nhọc của người lính trên chặng đường leo dốc.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
* Nhận xét:

· Gợi liên tưởng tới thơ cổ: “Hình khe thế núi gần xa/ Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao” (Chinh phụ ngâm), “Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên” (Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh – Thục đạo nan của Lí Bạch)

· Ba câu thơ giàu màu sắc hội họa vẽ lên bức tranh dốc đèo hoang vu, hiểm trở> đặc tả cái hùng vĩ của thiên nhiên đồng thời gợi hình dung về những cuộc hành quân leo dốc gian khổ.

- Câu thơ thứ 4 đối lập với ba câu trên: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”: toàn thanh bằng, âm vần “ơi” kết thúc dòng thơ > câu thơ nhẹ bẫng như nhịp thở thư giãn của người lính- đứng trên đỉnh núi, nhìn ra xa, thấy màn mưa giăng mắc, tạm dừng chân sau chặng đường leo dốc mỏi mệt để tận cảm cái bình yên, lãng mạn của núi rừng.

Hình ảnh người lính trên đường hành quân được tái hiện cụ thể trên nền thiên nhiên miền Tây đa dạng (vừa dữ dội hoang vu hùng vĩ vừa êm đềm ấm áp thơ mộng): có cái bi tráng của những cuộc hành quân nhọc mệt vừa có chất trẻ trung yêu đời, nghệ sĩ của tâm hồn những chàng trai tràn trề nhiệt huyết.

+ 8 câu tiếp:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

- Tiếp tục miêu tả hình ảnh người lính: cách nói giảm nói tránh về cái chết, vừa xót xa vừa ngạo nghễ: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” > tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng tượng đài người lính Tây Tiến.

- Cái hoang vu, hiểm trở của núi rừng đựợc cảm nhận theo chiều thời gian:

· Thời gian: chiều chiều, đêm đêm

· Âm thanh: “thác gầm thét”, hình ảnh: “cọp trêu người”

· Các thanh trắc ở âm vực trầm nhất (thanh nặng) > câu thơ đọc lên trúc trắc, khó nhọc

· Cách sử dụng các từ chỉ địa danh (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch…): lạ > gợi không gian hoang vu, rừng thiêng nước độc.

- Kết thúc đột ngột bằng 2 câu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

· Sau chặng đường hành quân vất vả, người lính dừng chân quay quần bên nồi xôi nếp đang bốc khói. . .

· Hương thơm: nếp xôi > nhớ những cảm giác tinh tế, nhớ những khoảnh khắc ngắn ngủi > Hương thơm dịu ngọt mong manh đi vào nỗi nhớ người lính mà vương vấn mãi không thể phôi pha > Nỗi nhớ đi vào chiều sâu, đau đáu khôn khuây (Liên hệ với “hương cốm mới” trong nỗi nhớ của Nguyễn Đình Thi ở bài “Đất nước”) > chất nghệ sĩ trong tâm hồn người lính Tây Tiến.

· “Mùa em”: kết hợp từ khá lạ, quan hệ từ bị lược bớt > khoảng mơ hồ ngữ nghĩa > tạo không gian huyền mộng, lãng mạn > gợi cảm giác êm dịu, ấm áp > tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

b. Đoạn 2 (tiếp – Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

+ Khái quát: Tráng qua lớp men say của hoài niệm, hình ảnh thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ, trữ tình.

+ Đêm liên hoan văn nghệ:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

- Không gian: “hội đuốc hoa”> huyền ảo, lung linh, rực rỡ.

- Âm thanh : “khèn” > vi vu, réo rắt.

- Nhân vật trung tâm: “em” với xiêm áo lộng lẫy (xiêm áo tự bao giờ) vừa e thẹn, tình tứ (e ấp) vừa duyên dáng trong điệu vu làm đắm say lòng người (man điệu).

- “Kìa em”: cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa mê say ngây ngất.

Ø Vẻ đẹp lung linh, hoang dại, trữ tình đến mê hoặc.

+ Cảnh sông nước miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Không gian: chiều sương, dòng nước > mênh mông, nhòe mờ, ảo mộng.

- Hình ảnh: “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” > những nét vẽ mềm mại, duyên dáng, khác hẳn những nét khắc bạo, khỏe, gân guốc khi đặc tả dốc đèo miền Tây.

* Nhận xét:

· Thiên nhiên và con người ở đây hòa hợp trong một vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, thơ mộng.

· Tác giả chỉ gợi mà không tả, vận dụng bút pháp của nhạc của họa để dựng cảnh > Đoạn thơ đầy chất nhạc, chất họa > Đúng với trạng thái “chơi vơi” của nỗi nhớ ở đầu bài thơ.

· Đoạn thơ thể hiện rõ chất tài hoa của hồn thơ Quang Dũng.

c. Đoạn 3 (tiếp – Sông Mã gầm lên khúc độc hành): Chân dung người lính Tây Tiến.

+ Khái quát: vẫn tiếp tục mạch cảm hứng về người lính Tây Tiến đã được triển khai lẻ tẻ ở các đoạn trước: vừa lãng mạn vừa bi tráng. Ở 8 câu thơ này, tác giả tập trung khắc tạc một tượng đài người lính trên nền thiên nhiên miền Tây đa dạng.

+ Hai câu đầu: Chân dung hiện thực của người lính

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

- Vừa bi: “không mọc tóc”: vừa để tiện lợi trong việc đánh giáp lá cà, vừa phản ảnh một thực tế - bị rụng tóc vì sốt rét, “quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét bệnh tật hành hạ. (Liên hệ: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” – trong Đồng chí của Chính Hữu, “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ” – trong Cá nước của Tố Hữu).

- Vừa hùng: Tác giả không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh đã lưu dấu trên hình dung người lính nhưng qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn:

· “Đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” > hào hùng.

· “Quân xanh màu lá” vẫn “giữ oai hùm” > oai phong, dữ dằn với tư thế lẫm liệt của chúa tể nơi rừng thiêng.

+ Hai câu tiếp: Giấc mộng lãng mạn của người lính

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

- Tả vẻ lẫm liệt uy phong của người lính, nhà thơ không cố công khắc tạc tượng đài trượng phu khô cứng không tim.

- Nỗi nhớ trong giấc mơ: Hà Nội, dáng Kiều thơm: đằng sau vẻ ngoài dữ dằn, oai nghiêm là trái tim khao khát yêu thương, đầy chất nghệ sĩ (họ mang dấu trong tim một bóng hình lãng mạn, không phải là “giếng nước gốc đa”, “gian nhà không” như nỗi nhớ của người lính nông dân trong Đồng chí của Chính Hữu)

* Nhận xét:

· Cảm hứng: có bi nhưng không lụy. Người ta thấy cái gian khổ khốc liệt của chiến tranh nhưng cũng cảm nhận được vẻ đẹp oai hùng, lãng mạn của người lính.
 
Tượng đài người lính Tây Tiến được dựng từ hai nguồn chất liệu nhuần nhuyễn: bi tráng và lãng mạn, hào hùng và hào hoa.

+ 4 câu tiếp: cái chết bi tráng và sự bất tử.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

- Tả cái chết nhưng không bi lụy.

- Hệ thống từ Hán Việt: biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành > không khí trang trọng thiêng liêng.

- Phủ định từ “chẳng” (so sánh với từ “không”: sắc thái trung tính, liên hệ với cách nói “mặc kệ” trong câu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” ở Đồng chí của Chính Hữu)> thái độ kiên quyết hi sinh vì nghĩa lớn.

- Nói giảm nói tránh “anh về đất”> vợi đi cảm giác đau thương.

- “Khúc độc hành”: âm thanh át đi cảm xúc bi thương > gợi về sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thửa xưa, gợi nhớ dáng hình lẫm liệt của Kinh Kha bên bờ Sông Dịch thủa nào. > đưa tiễn người là khúc độc hành của núi sông > bất tử hóa hình ảnh người lính Tây Tiến

> Nói về cái chết của người lính có đau thương nhưng không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.

d. Đoạn 4 (còn lại): Khúc vĩ thanh (Lời thề gắn bó với đoàn quân và miền Tây)

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi”

+ Khái quát: khép lại bài thơ, nhấn mạnh tinh thần chung của cả bài.

+ “Mùa xuân ấy”: thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại > mốc nhớ thương vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời.

+ Nhịp thơ: chậm, giọng thơ: buồn.nhưng tinh thần “chẳng về xuôi” vẫn mang linh hồn hào hùng của cả đoạn thơ.

* Lời thề vĩnh quyết của người lính, khúc vĩ thanh của bài thơ, lưu giữ mãi dư vang của một thời gian khổ khốc liệt nhưng không kém hào hùng lãng mạn.

CỦNG CỐ KIẾN THỨC

Đề 1: Nêu hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)

Đề 2: Phân tích/ bình giảng đoạn thơ sau

a. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

b. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

c. Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

c. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

d. Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

(Trích Tây Tiến – Quang Dũng)

Đề 3: Phân tích hình tựợng người lính trong Tây Tiến (Quang Dũng)

Đề 4: Bút pháp của Quang Dũng trong bài thơ “Tây Tiến” là bút pháp hiện thực hay lãng mạn? So sánh “Tây Tiến” với “Đồng chí” (Chính Hữu) để làm rõ.

Gợi ý giải đề

Đề 1:

+ Phân tích đề:

- Nội dung: hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)

- Hình thức: nêu, phân tích ngắn gọn.

+ Hướng dẫn:

Hs dựa vào phần kiến thức cơ bản để làm bài.

- Vị trí văn học sử của bài thơ: tác phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, của đời thơ Quang Dũng nói riêng.

- Hoàn cảnh ra đời

· Đoàn binh Tây Tiến.

· Thời gian và không Quang Dũng sáng tác.

- Ý nghĩa nhan đề

· Mô tả

· Ý nghĩa.

Đề 2:

+ Phân tích đề:

- Nội dung: một đoạn thơ trích trong Tây
 
Tiến.

- Hình thức: phân tích/ bình giảng.

+ Hướng dẫn:

- Tây Tiến là một bài thơ gần như toàn bích. Bất kì đoạn thơ nào cũng có thể được đưa ra để yêu cầu phân tích hay bình giảng.

- So sánh dạng bài Phân tích và Bình giảng:

· Đều có điểm chung: tôn trọng các qui tắc phân tích tác phẩm (đi từ văn bản và từ hình thức đến nội dung)

· Điểm khác biệt:

o Phân tích: làm rõ tất cả các yếu tố trong đoạn thơ.

o Bình giảng: được chọn phân tích một hay một vài yếu tố mà người viết thấy tâm đắc nhất. Quan trọng là phải nêu được những cảm nhận riêng, mang tính chất cá nhân về tín hiệu nghệ thuật mà mình tâm đắc trong đoạn thơ đó. So sánh là một thao tác hữu hiệu khi bình giảng để thấy được sự tối ưu trong lựa chọn nghệ thuật của tác giả.

- Hs dựa vào phần Kiến thức cơ bản để liên hệ, phân tích, bình giảng từng đoạn thơ.

Đề 3:

+ Phân tích đề:

- Nội dung: hình tượng người lính.

- Hình thức: phân tích cụ thể.

+ Hướng dẫn:

- Khái quát:

· Hai cảm hứng chủ đạo: lãng mạn và bi tráng > hình tượng người lính: vừa bi tráng vừa lãng mạn hào hoa.

· Hình tượng người lính được mô tả trên nền thiên nhiên miền Tây dữ dội, hùng vĩ, hoang vu, hiểm trở mà êm đềm, thơ mộng, thi vị, trữ tình.

· Hình ảnh trung tâm của bài thơ, được miêu tả rải rác ở tất cả các đoạn thơ nhưng tập trung trong đoạn 3 (Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/…/Sông Mã gầm lên khúc độc hành.)

- Phân tích:

Do 2 vẻ đẹp bi tráng và lãng mạn, hào hùng và hào hoa đan xen hòa quyện trong từng đoạn nên hs có thể không tách riêng 2 ý mà phân tích theo từng đoạn, tập trung vào 8 câu của đoạn 3 (Phân tích dựa vào phần kiến thức cơ bản).

Đề 4:

+ Phân tích đề:

- Nội dung: bút pháp của Quang Dũng trong Tây Tiến.

- Hình thức: phân tích và so sánh.

+ Hướng dẫn:

- Cơ sở của việc lựa chọn bút pháp: bản chất của hồn thơ (phong cách nghệ thuật), đối tượng miêu tả.

- So sánh:

· Chính Hữu:

o Hồn thơ mộc mạc, bình dị.

o Đối tượng hướng tới: những người lính nông dân.
 
Bút pháp miêu tả: bút pháp hiện thực > khắc họa hình ảnh người lính gắn với cái bình thường, cái hang ngày (ngoại hình in đậm dấu ấn hiện thực khốc liệt của chiến tranh “Áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”…; nỗi nhớ và những tâm sự mộc mạc “giếng nước gốc đa”, “ruộng nương”, “gian nhà không”)

· Quang Dũng:

o Hồn thơ hào hoa, lãng mạn.

o Đối tượng miêu tả: lính Tây Tiến phần đông là thanh kiên đất kinh kì, hào hoa và lãng mạn.

Ø Bút pháp lãng mạn: tô đậm hình ảnh người lính ở cái phi thường, cái khác thường (ngoại hình, nỗi nhớ…)

Đỗ Thị Thúy Dương
Giáo viên Hocmai.vn
 
Con đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây tiến được Quang Dũng miêu tả như thế nào? Phân tích kĩ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc.
Bức tranh thiên nhiên ở miền Tây lần lượt hiện ra qua khung cảnh, địa bàn hoạt động. Đoàn binhTây Tiến phải trải qua một đoạn đường hiểm trở trên một địa bàn rộng với các địa danh Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu

Dốc lên khúc khuỷu , dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.


Câu thơ diễn tả con đường gian khổ mang dáng nét tạo hình thông qua 5 thanh trắc, hai từ “dốc”ngăn cách nhau bởi dấu phẩy gợi cảm tưởng cho người đọc chưa vượt qua được dốc này lại đến dốc khác. Các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, các hình ảnh ”heo hút”, ”cồn mây”, ”súng ngửi trời” đã diến tả sự hiểm trở, trùng điệp của núi đèo miền Tây. Để diễn tả độ cao vòi vọi của con dốc chỉ cần ba chữ ”súng ngửi trời”. Đây là hình ảnh rất thực, lãng mạn, vừa ngộ nghĩnh vừa mang tính chất tinh nghịch, táo bạo. Người lính nhuư đang đi trong mây, mũi súng chạm mây trời.

Con đường đi lên đầy chông gai, nguy hiểm nhưng co đường đi xuống cũng không dễ dàng:



“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Hình ảnh thơ đối xứng, câu thơ như được gấp lại, thanh điệu biến đổi, từ chỉ số lượng “ngàn thước” đã diễn tả các dốc núi hút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng.

Ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ được vẽ bằng những nét mềm mại, đằm thắm ( toàn thanh bằng )


Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ diễn tả trận mưa đều đều không ngớt, rộng, xa với chân núi trắng trời, mưa nhẹ trong không gian lớn, mịt mùng, thấp thoáng những mái nhà như đang trôi bồng bềnh. Vẻ dữ dội, hoang dại còn được miêu tả không chỉ theo hướng không gian mà còn theo chiều thời gian.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người


Không gian rừng núi hoan vu hiểm trở, luôn là mối de dọa của con người, làm cho con người trở nên ốm yếu, da xanh, tóc rụng…


Nguồn: Sưu tầm
[F
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh

Hình ảnh những người lính TÂY TIẾN qua nét vẽ của Quang Dũng đã hiện lên trong bài thơ cũng thật khác thường .Khác thường ở sự giankhổ cùng cực , ăn đói, mặc rét, bệnh tật , sốt rét đến xanh da trụi tóc, khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào , ông đã dồn đúc các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả đoàn quân , dùng lối vẽ phiếm chỉ để khái quát nên chân dung tiêu biểu rất oai hùng của người chiến sĩ vô danh , dám xả thân vì nghĩa lớn ,đã khiến cho kẻ thù kinh hoàng khiếp sợ.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Khác thường ở chỗ những người lính dũng mãnh ấy tâm hồn cũng thật dụi hiền và lãng mạng:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nghĩ cho cùng , giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt ấy, nếu người lính không biết mơ mộng , thi vị hoá cuộc sống vì một mục đích cao xa hơn thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt ấytrước khi ngã ngục vì viên đạn của kẻ thù . Chất men lãng mạng -mơ mộng nồng say ấy chính là phẩm chất giúp con người có sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh đê chiến thắng . Nhờ thế, mặc dù tác giả mô tả rất đậm sự gian khổ khốc liệt của chiến trường , của đời lính chinh chiến nơi miền Tây hoang vu mà bài thơ không đợm chút sắc màu u ám , bi quan nào khiến con người run sợ nản lòng.

Nét đặcsắc của ngòi bút Qang Dũng trong Tây Tiến còn ở chỗ ông viết về chiến tranh nhưng không có 1 chữ nào về trận đánh , về tiếng súng, về đau khổ hay về kẻ thù , bài thơ chỉ đơn giản nói về những người chiến sũ tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào- Việt Nam 1947 , nhưng người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh . điều lạ lùng là bài thơ có tới 3 lần , nhà thơ Quang Dũng nói tới cái chết của những chiến sĩ Tây Tiến trong những trường hợp khác nhau , nhưng không một lần ông nhắc đến từ chết hoặc hy sinh như các nhà thơ về sau vẫn dùng đến . Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã thay thế từ "chết"bằng các cụm từ giản dị :về đất , bỏ quên đời, hồn về...để hạ gam , bình thường hoá cái chết theo đúng quan niêm của các tráng sĩ cách mạng thời kì đầu kháng chiến còn đang tưng bừng đầy hào khí . Họ dám sả thân vì sự nghiệp độc lập - tư do của Tổ Quốc và họ biết rất rõ những gì chờ đợi họ khi họ dấn thân , nên đã coi cái chết " nhẹ tựa lông hồng " :

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Ở đây lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho chàng trai chất anh hùng và cả chất men say lang mạn đáng yêu nữa , ngay cả khi họ chết cũng phản phản phất nét tài tử :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cho đến bây giờ , sau gần nửa thế kỉ đất nước ta đánh giặc , đã từng có rất nhiều bài thơ viết về sự hy sinh dũng cảm của người chiến sĩ trên chiến trường như : Núi Đôi của Vũ Cao , Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu...nhưng Tây Tiến vẫn có một vị trí đặc biệt và mang màu sắc riêng khó có bài thơ nào về sau này sánh nổi khi miêu tả sự hy sinh của người chiến sĩ ...

...Có thể nói Tây Tiến - đó chính là tượng đài bằng thơ bất tử mà nhà thơ Quang Dũng với cả tấm chân tình đã dựng lên để tưởng niệm cả 1 thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau cách mạng tháng tám đã hăm hở ra đi giữ nước và nhiều người đã không trở về.
 
Phân tích 2 khổ thơ đầu

Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”



* Bài làm

Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng.

Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”.

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh

“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”.

Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây Tiến" của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.
 
"Tây Tiến" (Quang Dũng)

"Tây Tiến" (Quang Dũng)

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng sau đây :
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
(…)
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."


* Yêu cầu:
- Cảm nhận rõ tính chỉnh thể của đoạn thơ, bài thơ
- Phân tích, giải thích những câu thơ, hình ảnh, từ ngữ tiêu biểu, tương phản.
- Hình dung bức tranh tinh thần của đoạn thơ cùng ý nghĩa và giá trị của nó.


Gợi ý làm bài:

1. Mở Bài:


Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Quang Dũng, cứ nói tới Quang Dũng là người ta nghĩ ngay tới Tây Tiến. Nhưng Tây Tiến được chú ý vì đó là một trong những bài thơ đặc sắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, từng được hiểu lầm, đánh giá thấp, nhưng với thời gian bài thơ càng được bạn đọc trân trọng, yêu mến.

Bài thơ có 34 dòng , chia làm ba đoạn, đây là đoạn đầu thể hiện tập trung khung cảnh , địa bàn rừng núi và tâm hồn người lính Tây Tiến cũng như chủ đề nỗi nhớ của bài thơ.


2. Thân Bài:

Tây Tiến là đơn vị bộ đội đặc biệt thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ chiến đấu ở vùng biên giới Lào – Việt, Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Lính Tây Tiến đã đặt chân qua nhiều nơi, từ Mai Châu , Mộc Châu sang Sầm Nứa , về phía Tây Thanh Hóa. Bài thơ Tây Tiến viết vào năm 1948, sau hơn một năm Quang Dũng hoạt động ở đơn vị , với nhan đề Nhớ Tây Tiến ( sau đổi thành tên như hiện nay), chứng tỏ đối với tác giả , Tây Tiến là cả một cuộc đời gian khổ nhưng đầy hào hứng không bao giờ quên.

Tây Tiến là một bài thơ đầy ắp nỗi nhớ. Mở đầu, tác giả đưa người đọc vào một chân trời nhớ nhung mênh mông:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.


“ Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng rộng, không bấu víu vào đâu cả. “ Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Hoài niệm đầu tiên về Tây Tiến là hoài niệm về sương núi, hơi đá. Thời gian như trôi trong màn sương:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.


Đúng như một nhà thơ đã nhận xét tinh tế. “ Sài Khao sương lấp đoàn quân” là một hình ảnh hùng tráng, mĩ lệ, nhưng nhà thơ lại thêm chữ “ mỏi” – “ đoàn quân mỏi”, thì hình ảnh bài thơ trở nên bình dị. Đoàn quân chẳng thần thánh chút nào, họ cũng mỏi mệt như ai. Nhà thơ như cảm nhận cái hùng vĩ của sương núi cùng một lúc với cái mỏi mệt của chính mình. “ Mường Lát hoa về” là một hình ảnh thơ mộng, nhưng “trong đêm hơi”, tức hơi đá lại rất man dại, heo hút.

Cùng với mù sương là kí ức về độ cao, một độ cao thăm thẳm, vượt lên trên cả các tầng mây ( cồn mây), nơi heo hút không có sự sống:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
.

Nhiều người nhận xét cái dốc khúc khuỷu, thăm thẳm có ý vị thục đạo nan của Lí Bạch, nhưng không có ý vị trang nghiêm của một đường lên trời, bởi “ súng ngửi trời” là một hình ảnh ngộ nghĩnh, hóm hỉnh. Mặt khác, độ cao đổi thay chóng mặt: “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, xuống dưới những cồn mây, và đột ngột, nhận ra nơi xa xăm bóng dáng của sự sống con người:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

“ Khơi” là vùng biển xa bờ. “ Xa khơi” còn xa bờ hơn nữa, ở đây chỉ khoảng cách rộng. Đã thế lại còn “ mưa xa khơi”, làm cho nhà ai như nhòe đi trong đợi mong. Cả câu thơ dùng toàn thanh bằng như một tiếng reo vui, hồi hộp, ngân xa.

Bóng dáng người lính xuất hiện đầu tiên trong bài thơ này là một trường hợp hi sinh rất bình dị, đời thường:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời
.

Anh không chết trong cuộc đấu gươm, đọ súng,mà chết vì kiệt sức trên đường hành quân. Anh hành quân đến hơi sức cuối cùng. Không bước nữa, nghĩa là gục xuống chết, lặng lẽ như “ bỏ quên đời”

Rừng núi oai linh hiện ra với tất cả vẻ đe dọa dữ dằn của nó:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
.

Nhưng rừng núi đã mất đi vẻ rùng rợn , vì ba chữ “ cọp trêu người”. Hình ảnh nhớ nhung nhất của đoạn này là ngọn khói no ấm ở Mai Châu mùa nếp với các cô thiếu nữ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.


Cả ở câu này chất thơ của “ cơm lên khói”, “ Mai Châu mùa em thơm” cũng hòa hợp tương phản với chất văn xuôi của “ nếp xôi”.

3. Kết bài:

Đoạn thơ mở đầu bằng hoài niệm và khép lại bằng hoài niệm. Hoài niệm là ý thức về thời đã qua, và thông thường nó nhuốm màu lí tưởng hóa, lãng mạn hóa. Nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng ở đây mang một nội dung thẩm mĩ cực kì phong phú, đầy tương phản , cao cả và bình dị, oai linh và ngộ nghĩnh, chất thơ và văn xuôi, hùng tráng và trữ tình. Quang Dũng mở rộng tâm hồn đón nhận cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến từ mọi phía, không theo khuôn mòn nào và nhà thơ thực sự mở rộng thế giới cảm xúc của thơ.

(Sưu tầm)
 
Phân tích đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng:

“…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…

BÀI LÀM


“Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (“ Nhớ” – Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy thương yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt người Sơn Tây – 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượngnguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương Việt – Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”

Bài thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ… Đoạn thơ trên đây gồm có 16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh đầy tự hào về đồng đội thân yêu.

Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của Mai Châu,… và hương của tình thương mến.

Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

“Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách,… như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.

Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “chiều sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ mộng lại hiện lên và ùa về:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có thấy”… rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như những kỉ niệm trở về… Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.


Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài hoa.

Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân vô cùng gian khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ, đang ngắm nhìn, đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm vóc mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh không mọc tóc”, “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” là tầm vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống xây thành chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “ mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ.

Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ…” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu.
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động như thế:

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước”

(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm)

Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai đã “lấy đá ven rừng chép chiến công”? “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến tranh, mấy ai đi chinh chiến còn trở về?
Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến.

Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam.

(Cô Huỳnh Thị Thanh Xuân giới thiệu)
 
TÂY TIẾN

TÂY TIẾN

- Quang Dũng -



I. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

Câu 1: Trình bày vài nét chính về nhà thơ Quang Dũng.

- Quang Dũng (1921 – 1988), tên thật là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Nội (Hà Tây), 2001 được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Từng tham gia binh đoàn Tây Tiến.
- Một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng trước hết ông là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, tinh tế mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn.
- Tác phẩm chính: Rừng biển quê hương, Rừng về xuôi, Mây đầu ô,…

Câu 2
: Cho biết hoàn cảnh sáng tác của Tây Tiến.

- Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập vào đầu năm 1947 có nhiệm vụ tiêu hao lực lượng địch ở biên giới Việt Lào. Địa bàn hoạt động là một vùng rừng núi rộng lớn hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Lính Tây Tiến phần lớn là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp, điều kiện sinh hoạt rất thiếu thốn nhưng họ vẫn hết sức lạc quan, thể hiện vẻ đẹp hào hùng của tuổi trẻ.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng rời đơn vị Tây Tiến đi nhận nhiệm vụ khác. Tại Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ này, lúc đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, về sau tác giả đổi lại là Tây Tiến.
- Tây Tiến tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, in trong tập Mây đầu ô.

Câu 3: Nêu giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.

- Qua nỗi nhớ da diết về đoàn quân Tây Tiến, tác giả khắc hoạ chân dung người lính buổi đầu kháng chiến chống Pháp, kỉ niệm về những cuộc hành quân gian khổ, về con người, cảnh vật thiên nhiên miền Tây vùng biên giới Việt Lào, đồng thời ca ngợi hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp yêu nước, anh hùng, chịu đựng gian khổ, hy sinh mà vẫn lãng mạn, yêu đời.
- Bút pháp lãng mạn trên cơ sở hiện thực, có những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu.

II.
LÀM VĂN:

Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
...............................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Dàn bài

Mở bài:

- Giới thiệu vài nét chính về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Giới thiệu đoạn thơ (chép lại).

Thân bài:


1.
Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội; được khắc hoạ bằng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc:

- Một loạt địa danh lạ tai: “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”,…gợi lên cảm giác xa xôi, hoang dã.
- Nhiều từ láy đầy chất tạo hình: “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, có sức diễn tả mạnh mẽ, gây ấn tượng, làm hiện rõ hình ảnh núi rừng gập ghềnh, hiểm trở.
- Phối thanh tài hoa, lối tiểu đối đặc sắc: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” – “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, góp phần vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoành tráng, hoang sơ với núi cao, dốc đứng, lại vừa thơ mộng, trữ tình, tạo cảm giác êm ái, thanh thản.

2.
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong những cuộc hành quân gian khổ:

- Đối mặt với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, cảnh thâm u, huyền bí của rừng thiêng: “súng ngửi trời”, “thác gầm thét/cọp trêu người”.
- Hy sinh giữa chặng đường hành quân: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” (cách nói giảm độc đáo của Quang Dũng).
- Ấm áp tình quân dân sau những ngày hành quân vất vả: “nhớ ôi…cơm lên khói…thơm nếp xôi”.

Kết bài:

Bằng bút pháp lãng mạn có những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ giọng điệu, Quang Dũng không những khắc hoạ được một cách sinh động cảnh núi rừng hiểm trở, dữ dội, hoang vu mà còn diễn tả được sự ngang tàng rắn rỏi và chất hồn nhiên, tinh nghịch của người lính Tây Tiến.

Đề 2
: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
.....................................
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Dàn bài:

Mở bài:

- Giới thiệu vài nét chính về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Giới thiệu đoạn thơ (chép lại).

Thân bài cần phân tích mấy ý chính: Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên qua đoạn thơ với:

- Diện mạo khác thường, dáng vẻ oai phong dữ dội: “đầu không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng”.
Người lính với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo, cuộc sống sinh hoạt thiếu thốn làm tóc rụng, da xanh xao, nhưng ngòi bút lãng mạn của nhà thơ đã phủ lên hiện thực khắc nghiệt ấy một màn sương mờ ảo, làm cho sự gian khổ dường như giảm đi. Trong gian nan thử thách, dáng dấp người lính vẫn toát lên khí phách làm kinh sợ kẻ thù.

- Tâm hồn lãng mạn: hướng về Hà Nội với những “dáng kiều thơm”.
Đoàn quân Tây Tiến gồm những chàng trai vừa xếp bút nghiên, bỏ lại Hà Nội sau lưng, sẵn sàng chiến đấu cho Tổ quốc, nhưng bản chất hào hoa của người lính Hà thành vẫn có chỗ cho một “dáng kiều thơm”.

- Sự hi sinh bi tráng: chẳng tiếc đời xanh, áo bào (mĩ từ) thay chiếu, về đất (nói giảm), sông Mã gầm lên (nhân hoá); biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường, khúc độc hành: những từ Hán Việt gợi không khí trang trọng, cổ kính. Chân dung người lính Tây Tiến phảng phất hình bóng tráng sĩ thời xa xưa.

Bằng bút pháp lãng mạn trên cơ sở hiện thực, Quang Dũng đã khắc hoạ bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa và sự hi sinh bi tráng với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một phẩm chất người lính bộ đội cụ Hồ.
Tây Tiến là thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau 1945, thời gian càng làm sáng lên vẻ đẹp và giá trị bền vững của bài thơ.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về thiên nhiên miền Tây và tình quân dân qua đoạn thơ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
.......................................
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Dàn bài:

Mở bài:

- Giới thiệu vài nét chính về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Giới thiệu đoạn thơ (chép lại): Đoạn trích thuộc phần hai của bài thơ, là hồi ức của Quang Dũng về những đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

Thân bài:

Trái ngược với đoạn thơ mở đầu bài thơ, thiên nhiên và con người trong đoạn này là một thế giới khác. Đó là những nét vẽ mền mại, uyển chuyển, tài hoa, tinh tế, thấm đẫm chất thơ, chất nhạc, chất hào hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

a. Bốn câu đầu: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ.

- Với nét vẽ khoẻ khoắn, mê say, Quang Dũng dẫn ta vào một đêm liên hoan văn nghệ. Đây là nhũng kỉ niệm đẹp, hấp dẫn nơi xứ lạ, một đêm liên hoan văn nghệ hiếm có giữa binh đoàn Tây Tiến và nhân dân địa phương. Cảnh thực mà như mơ, vui tươi mà sống động.
- Cả doanh trại bừng sáng dưới ánh lửa bập bùng, tưng bừng hân hoan như một ngày hội, ngày cưới. Trong ánh đuốc lung linh kì ảo, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, những cô gái Thái lộng lẫy, rực rỡ trong bộ trang phục, dáng điệu e thẹn tình tứ trong vũ điệu đậm sắc màu dân tộc đã thu hút hồn vía chàng trai Tây Tiến.
- Cảnh vật, con ngươì như ngả nghiêng, ngất ngây, bốc men say rạo rực vì vui sướng được sống trong những giây phút bình yên. Dư âm của chiến tranh tàn khốc dường như bị đẩy lùi xa để chỉ còn lại những tâm hồn lãng mạn trong tiếng nhạc, hồn thơ.

b. Bốn câu sau: Cảnh thiên nhiên, con người miền Tây Bắc cũng thật trữ, thơ mộng để lại trong tâm hồn thi sĩ kí ức khó phai.

- Cảnh thơ mộng trữ tình của sông nước miền Tây Bắc được nhà thơ diễn tả qua chi tiết: trên sông chiều sương giăng mắc mênh mang kì ảo, dòng sông trôi lặng tờ mang đậm sắc màu cổ tích, có dáng người mền mại, uyển chuyển đang lướt trên con thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng nước như vẫy chào tạm biệt người ra đi.

- Cảnh đẹp như mộng, chỉ vài nét chấm phá mà tinh tế, tài hoa: Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, cảnh thiên nhiên không phải vô tri vô giác mà phảng phất trong gió trong cây như có hồn người: “ Có thấy hồn lau néo bến bờ”.

- “Hồn lau” trong thơ của Quang Dũng là “hồn lau” của biệt li phảng phất một chút buồnnhưng không xao xác, xé rách, lãng quên mà đầy nỗi nhớ, lưu luyến. Nỗi nhớ, lưu luyến đó đã được nhà thơ thể hiện trong những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy”. Tình yêu đối với cỏ cây, hoa lá, dòng sông, dáng người…đã làm cho cuộc sống đầy hi sinh, gian khổ của những người lính có thêm nhựa sống. Bốn câu thơ làm hiện lên bức tranh thuỷ mặc nhưng lại không tĩnh tại mà sống động, thiêng liêng.

- Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát. Nhạc điệu ấy dường như cất lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, lãng mạn của “cái tôi” trữ tình giàu cảm xúc-Quang Dũng.

Kết bài:
- Với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã đưa người đọc trở về với hoài niệm năm xưa, để được sống lại với những giây phút bình yên hiếm có của thời chiến tranh. Đặc biệt bốn câu thơ sau như đưa người đọc vào thế giới cổ tích với dòng sông huyền thoại, với thế giới của cái dẹp, của cõi mơ, cõi âm nhạc du dương, chất thơ, chất nhạc, chất hoạ thấm đẫm, quyện hoà đến mức mà khó tách biệt.
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với câu thơ xuất thần, đã dâng hiến cho người đọc những dòng thơ, ngững giây phút ngất ngây, thi vị.

Đề luyện tập
:


Đề 1
: Phân tích hình ảnh thiên nhiên miền Tây và đoàn quân Tây Tiến trong hoài niệm của tác giả qua đoạn thơ từ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!...Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Đề 2
: Cảm nhận của anh/chị về thiên nhiên miền Tây và tình quân dân qua đoạn thơ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Đề 3
: Phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến qua đoạn thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.


Sưu tầm
 
1. Hoàn cảnh sáng tác bài TÂY TIẾN – Quang Dũng .

“Tây Tiến” là đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào ,tiêu hao lực lượng địch ở thượng Lào cũng như miền Tây Bắc bộ VN.
Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là sinh viện, học sinh Hà Nội. Quang Dũng là đại đội trưởng.
Năm 1948, sau một năm hoạt động đoàn bình tây tiến về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác.
Tại đại hội thi đua toàn quân (Phù Lưu Chanh) Quang Dũng viết bài thơ, lúc đầu có tên “NHỚ TÂY TIẾN” .Bài thơ in lần đầu năm 1949 – đến năm 1957 được in lại và đổi tên “TÂY TIẾN” .

2. Tìm hiểu bài thơ


· Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng

· Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít nh­ưng l­ưu đ­ược ấn t­ượng sâu trong lòng ng­ười đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài ng­ười lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến”

· “Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy đ­ược thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của ng­ười lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như­ những th­ước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của ngư­ời lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những ngư­ời lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân.

· Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ như một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có l­ượng, không ai cân đong đo đếm đ­ược nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con ngư­ời, khiến con ngư­ời nh­ư sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.

· Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, M­ường Lát, Pha Luông, M­ường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít ng­ười từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những ngư­ời lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái tr­ường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn t­ượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đ­ương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “s­ương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.

· Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đ­ường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như­ cũng khúc khuỷu như­ bị cắt đoạn như­ đư­ờng núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đư­ờng mà ng­ười lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng ngư­ời in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”

· Đây là cách nói thậm x­ưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy đ­ược cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng nh­ư thách thức cùng gian khổ của ngư­ời lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh ng­ười lính Tây Tiến đ­ược nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn th­ước lên cao, ngàn th­ước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu tr­ước nh­ưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho ngư­ời đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những ng­ười lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vư­ợt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những ng­ười lính.

· Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có đ­ược một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của ng­ười lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông m­ưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nh­ưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng đ­ược thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mư­a rừng mà tạo cảm giác đứng tr­ước biển lại người lên vẻ đẹp của ng­ười lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mư­a lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.

· Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con ng­ười. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can tr­ường trong dãi dầu nh­ưng có khi gian khổ đã v­ượt quá sức chịu đựng khiến cho ng­ười lính đã gục ngã, nh­ưng gục ngã trên t­ư thế hành quân.

“Anh bạn dãi dầu không b­ước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời”
· Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như­ không. Dường nh­ư ngư­ời lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và b­ước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa tr­ương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nh­ưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

· Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm M­ường Hịch cọp trêu ngư­ời

· Cảnh hiểm trở cheo leo nh­ưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nư­ớc như­ một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.

· Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

· Trong gian khổ thiếu thốn ng­ười ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu t­ượng cho ng­ười dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình ng­ười. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như­ một nét vẽ tư­ơi sáng của bức tranh.
· Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ nh­ư một bức tranh thủy mặc cổ điển đ­ược phác thảo theo lối tạo hình phư­ơng đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và ngư­ời lính Tây Tiến.

· Đoạn 2. Con ng­ười Tây Bắc duyên dáng và tài hoa

· Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ng­ười. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ d­ường như­ đ­ược tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này đ­ược xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

· “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng ng­ười đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
· “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra d­ưới những cánh rừng, ng­ười đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh t­ượng này trong đêm quả thật nhìn như­ hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên t­ưởng, t­ưởng t­ượng cho ngư­ời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

· “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sư­ớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr­ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phư­ơng xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như­ tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

· Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với ng­ười lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ng­ời đọc như­ đ­ược chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận đ­ược em như­ một nàng tiên kiều diễm và ta nh­ư lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư­ời lính Tây Tiến thực sự ngất ngây tr­ước ng­ười và cảnh.

· Sẽ rất thiếu sót nếu như­ chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Ngư­ời đi Châu Mộc chiều s­ương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng ng­ười trên độc mộc
Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa.

· Một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sư­ơng khói hiện lên nh­ư một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
· Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu s­ương, sông n­ước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận đư­ợc hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện:

Có nhớ dáng ng­ời trên độc mộc

· Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và ngư­ời cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như­ ngây ngất đắm say trư­ớc cảnh và ngư­ời. ở đây cảnh như­ làm duyên với ng­ười.

Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa

· Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với ng­ười. Cảnh và ng­ười hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nư­ớc độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
· Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Đoạn 3: Ng­ười lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa

· Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về ngư­ời lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t­ượng đài về chân dung ng­ười lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung ng­ười lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tư­ởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thư­ờng.

· Chân dung đoàn binh Tây Tiến đ­ược chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết nh­ư lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ng­ười lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói ngời, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

· Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi như­ng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y nh­ư là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.

· Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác th­ường của cuộc đời ngư­ời lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nh­ưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi th­ường tự bên trong phát ra từ tư­ thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật t­ương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thư­ờng của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như­ hình ảnh tráng sĩ tr­ượng phu một thuở qua hai câu tiếp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

· “Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây ng­ười lính Tây Tiến đ­ược đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung ng­ười lính sinh động chân thực. Thế như­ng v­ượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ng­ười lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hư­ớng về phía trận mạc như­ng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại h­ướng về phía sau cũng là h­ướng về phía tr­ớc, phía t­ương lai hẹn ­ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
· Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những ng­ười chiến binh:

Rải rác biên cư­ơng mồ viễn xứ
Chiến tr­ường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.

· “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đ­ường hành quân, nhưng không thể cản đ­ược ý chí quyết ra đi của ngư­ời lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con ng­ười đứng cao hơn cái chết:
Chiến trư­ờng đi chẳng tiếc đời xanh.

· Chính tình yêu quê h­ương đất nư­ớc sâu nặng đã giúp ng­ười lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên nh­ư giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như­ một lời thề đúng là cái chết của bậc tr­ượng phu:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

· Nếu nh­ư ng­ười tráng sĩ phong kiến thuở tr­ước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của ngư­ời lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến tr­ường. Nó cũng gợi đ­ược hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trư­ờng lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói đ­ược thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của ngư­ời tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, ng­ười lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê h­ương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dư­ỡng ra mình. Tr­ước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đ­ưa.
· Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của ngư­ời lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

· Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của ngư­ời tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau th­ương mà vẫn hùng tráng.

· Bốn câu kết:

· Bốn câu thơ kết thúc đ­ược viết như­ những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng chữ ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ Vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”

· “Mùa xuân” có thể đ­ược dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất n­ước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
· Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đư­ờng hành quân .“Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý t­ưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đ­ường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm h­ửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
 
Tây Tiến Nữ Sinh Hát Cực Hay Học Siêu Dễ Thuộc

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top