Chia Sẻ “Chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng về nghệ thuật, là vẻ đẹp cuộc sống.

Hide Nguyễn

Du mục số
Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đặt cho truyện ngắn nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” thật sâu sắc, một nhan đề đa nghĩa:

Đây là hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện trong phần mở đầu chuyện ngắn, theo nghệ sĩ Phùng, đó là một cảnh “đắt” trời cho, là vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”, khiến cho Phùng cảm động, tưởng như chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Như vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng về nghệ thuật, là vẻ đẹp cuộc sống.

Chuyên đề này nhằm giúp các em củng cố các vấn đề cơ bản xoay quanh tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
chuyện-ngắn-chiếc-thuyền-ngoài-xa-.jpg

- Tình huống nhận thức độc đáo

- Đổi mới trong cách nhìn hiện thực và con người của Nguyễn Minh Châu.

- Nghệ thuật tự sự đặc sắc.

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Khái quát

a. Tác giả

+ Tiểu sử - con người

(Theo tâm sự của chính nhà văn, lời kể của Vương Trí Nhàn và nhận xét của nhiều bạn bè, người thân).

- Từ bé tới lớn: rụt rè và vô cùng nhút nhát.

- Sống nội tâm, hay trăn trở, thích một mình để suy ngẫm, phân tích.

- Chân thành.

=> Thiên hướng nhận thức, phân tích, nghiền ngẫm hiện thực trong văn Nguyễn Minh Châu.

+ Sáng tác:

- Quá trình sáng tác: chia hai chặng rõ rệt.

o Trước thập kỉ 80: ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn.

o Đầu thập kỉ 80 – khi mất: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

- Đổi mới:

o Quan niệm mới về con người và cuộc đời:

 Con người không nhất phiến, đơn chiều, lí tưởng mà là con người bề bộn, phức tạp, được ánh xạ qua nhiều mối quan hệ với hiện thực (cả mặt tốt lẫn mặt xấu “rồng phượng và rắn rết”…)

 Cuộc sống đa chiều, đầy những vết nham nhở sần sùi, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động.

=> Khơi tìm những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn con người.

o Đề tài: con người cá nhân với các câu chuyện đời thường là trung tâm.

Không phải con người “trùng khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối” (Bakhtin) mà là con người hiện thực trong các mối quan hệ đa dạng.

=> “Đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa”.

+ Vị trí văn học sử:

Ngòi bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới – người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên Ngọc).

b. Tác phẩm:

+ Xuất xứ: Thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2.

+ Vị trí văn học sử:

- Tiêu biểu cho những đổi mới của Nguyễn Minh Châu.

- In đậm dấu ấn phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.

+ Tình huống truyện:

- Nhận diện: tình huống nhận thức.

- Mô tả: Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài đang trong giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh, khám phá ra vẻ đẹp “trời cho”của con thuyền biển buổi sớm mai thì chứng kiến đôi vợ chồng từ trên con thuyền bước xuống, lão đàn ông đánh vợ một cách hung bạo và vô lí.

Sự việc lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ thấy thái độ nhẫn nhịn, câm lặng chịu đựng của người đàn bà mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em Phác trước sự dã man của cha với mẹ.

Anh nhận rõ những ngang trái, nghịch lí trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em Phác, người đàn ông, người đồng đội (Đẩu) và chính bản thân mình.

+ Bố cục: 2 phần lớn

- Phần 1 (từ đầu - chiếc thuyền lưới vó đã biến mất): Hai phát hiện của Phùng.

- Phần 2 (còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

2. Phân tích

a. Hai phát hiện của Phùng.

+ Phát hiện thứ nhất: Phát hiện một.

- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).

- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

- Sự hình thành tác phẩm:

• Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.

• Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:

o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.

o Trạng thái, hành động:

o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.

• Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.

- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:

• Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

• “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” => cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.

Nhận xét:

Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

+ Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.

- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.

- Hình ảnh:

- Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.

- Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.

- Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

- Hành động:

- Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.

- Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

- Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.

- Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.

Nhận xét:

Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

+ Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)

- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.

b. Người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.

+ Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.

+ Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

- Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .

- Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

- Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng => một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?

+ Câu chuyện cuộc đời:

- Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.

- Nội dung câu chuyện:

- Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài

- Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.

- Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.

- Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:

- Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.

- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì cần một trụ cột.

- Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.

- Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.

- Nhận xét:

Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:

- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.

- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.

- Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

c. Hệ thống nhân vật

+ Người đàn bà: vô danh, phiếm định => khái quát cuộc đời, số phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác.

+ Người đàn ông:

- Xưa kia: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành”.

- Nay: vì nghèo đã biến đổi thành gã đàn ông hung bạo, vũ phu.

- Có sự gặp gỡ với các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao trước cách mạng.

+ Chị em Phác:

Nạn nhân bé bỏng, đau khổ => thêm vào tác phẩm một nét khắc dằn dữ của hiện thực.

+ Phùng:

- Là người lính vào sinh ra tử nơi chiến trường.

- Là một nghệ sĩ tài hoa, phát hiện ra vẻ đẹp tinh khôi, huyền mộng của nghệ thuật.

- Chứng kiến cảnh đánh đập lần thứ hai, “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” can thiệp => Ý nghĩa:

- Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp lung linh, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần.

- Thái độ cần có của người nghệ sĩ:

- Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời vì nghệ thuật chân chính luôn hướng tới cuộc đời.

- Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người sẵn sàng khám phá, dò tìm để thấu hiểu, yêu ghét mọi lẽ buồn vui đời thường và dám đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Chi tiết: hỏi người đàn bà một câu cắt ngang không ăn nhập: người chồng trước có đi lính nguỵ không => định dung cái nhìn trong chiến tranh để lí giải một hiện thực nghịch lí thời hậu chiến => Dụng ý: hiện thực cuộc sống mới hôm nay đã khác xa với hiện thực 30 năm chiến tranh, bề bộn, ngổn ngang, đa diện, bởi thế nó đòi hỏi một điểm nhìn khác, cách lí giải hiện thực khác. Không thể dùng cái nhìn địch – ta để phân tích mà cần nhìn nhận sâu sắc từ nhiều góc độ.

d. Một số đặc sắc về nghệ thuật.

+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.

- Con thuyền có thật.

- Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

+ Nghệ thuật tự sự độc đáo:

- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.

- Ngôn ngữ:

• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật).

• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)

CỦNG CỐ KIẾN THỨC

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”

Đề 3: Phân tích những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 4: Tính luận đề trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 5: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 6: Phân tích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy cái nhìn thấu hiểu trĩu nặng tình thương và nỗi lo cho con người.

Đề 7: Phân tích các nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để làm nổi bật tư tưởng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Gợi ý giải đề

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề.

+ Xuất xứ tác phẩm:

+ Ý nghĩa nhan đề:

- Con thuyền có thật trong cuộc đời

- Con thuyền biểu tượng cho nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

- Cái đẹp nghệ thuật dễ tìm hơn cái đẹp đích thực của con người

- Nghệ thuật phải quan tâm đến đời sống và phải quan tâm đến con người.

Đề 2: Tình huống truyện.

+ Giới thuyết:

+ Phân tích:

- Nhận diện

- Mô tả

- Ý nghĩa:

- Giúp nhà văn khám phá tính cách, vẻ đẹp nhân vật người đàn bà.

- Thể hiện rõ nét tư tưởng

+ Đánh giá

- Tình huống bất ngờ và kì lạ

- Khơi gợi tư duy và cảm hứng người đọc.

- Tình huống có “sức xoáy”

Đề 3: Những phát hiện của nghệ sĩ Phùng

+ 2 phát hiện

+ Phân tích dựa vào phần Kiến thức cơ bản.

Đề 4: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống

+ Hiện thực cuộc sống: bề bộn, nhiều chiều, phức tạp, không nhất phiến, lí tưởng mà đầy ngang trái.

+ Vẻ đẹp của con người vì thế cũng khó phát hiện hơn, đòi hỏi phải có một góc nhìn khác.

Đề 5: Phân tích các nhân vật để làm nổi bật tư tưởng

Dựa vào kiến thức cơ bản để làm bài.

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Tìm hiểu tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
I.Tìm hiểu chung
1.Tác giả


- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"

- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

2.Tác phẩm

a.Xuất xứ: Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.

b.Tóm tắt tác phẩm :

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án toà án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng anh không ngờ chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài và lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình.Phùng chưa kịp xông ra can ngăn thì thằng Phác, con lão, đã kịp tới để che chở người mẹ đáng thương. Biết Phùng chứng kiến sự tàn bạo của cha mình, thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu được người đàn bà ấy dù bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có chồng, cần một người đàn ông sức vóc trên chiếc thuyền ngoài biển khơi để kiếm sống nuôi đàn con. Phùng thấm thía: không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

c.Tình huống truyện độc đáo

Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến một “cảnh “đắt” trời cho” làm người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, anh lại phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng”, đó là cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo.

Tình huống đó được lặp lại lần nữa; bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình.

Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống

d.Ý nghĩa nhan đề

“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện gắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đặt cho truyện ngắn nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” thật sâu sắc, một nhan đề đa nghĩa:

Đây là hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện trong phần mở đầu chuyện ngắn, theo nghệ sĩ Phùng, đó là một cảnh “đắt” trời cho, là vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”, khiến cho Phùng cảm động, tưởng như chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Như vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng về nghệ thuật, là vẻ đẹp cuộc sống.

Theo diễn biến truyện: Chiếc thuyền ngoài xa vào gần bờ, một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền. Người đàn bà đi vào bãi xe tăng hỏng chờ đợi, người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người vợ chấp nhận với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục”

Người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết. Thật ngạc nhiên, người đàn bà “lạy quí toà” và van xin: “bắt tội”, “bỏ tù” cũng được nhưng “đừng bắt con bỏ nó”. Sự thật được giải đáp khi người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình. Người đàn bà chấp nhận những trận đòn một cách “tự nguyện” là bởi ở thuyền “phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”, bởi đàn bà ở thuyền “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Như vậy, “Chiếc thuyền ngoài xa” còn là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh tồ của gia đình hàng chài với cuộc sống bấp bênh, đầy khó khăn, bất trắc.

Nếu chiếc thuyền ấy không vào gần bờ, không có câu chuyện của người đàn bà trên thuyền kể lại, chỉ nhìn “chiếc thuyền” khi nó ở “ngoài xa” thì làm sao thấu hiểu sự thật? Đây chính là tư tưởng cốt lõi của truyện ngắn: Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái nhìn toàn diện về cuộc sống, cần có một cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất thật về cuộc sống và con người.

“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành tấm ảnh đẹp, treo ở nhiều nơi, nhất là ở trong các gia đình sành nghệ thuật, nhưng có ai hiểu được câu chuyện con người trên chiếc thuyền ấy. Chỉ có nghệ sĩ Phùng, mỗi khi ngắm nhìn tấm ảnh bao giờ cũng “thấy người đàn bà ấy dang bước ra khỏi tấm ảnh”, một người đàn bà lam lũ, cam chịu, giàu tình thương, lòng vị tha. Đó cungz là thông điệp của tác giả gửi tới người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời

e.Chủ đề
Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

II.Luyện tập:

Đề : Cảm nhận của anh chị về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

Gợi ý:

1.Mở bài:

Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu:với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

2.Thân bài:

Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,người bạn chiến đấu năm xưa,giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.

Tác phẩm không dừng lại ở đó,người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa” bước ra là một người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn,ác độc,coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng…lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà,lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két..”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”,một sự thật còn trớ trêu,cay đắng nữa:Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông..liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”.Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái,bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa.Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp,nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp.Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao)

Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình,tốt đẹp.Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất.Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện.Bề ngoài,đó là một người đàn bà nhẫn nhục,cam chịu,bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”,nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa..Quý tòa bắt tội con cũng được,phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ nó”.Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba,để cùng làm ăn nuôi nấng..phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”.Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.Qua câu chuyện của người đàn bà,Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.Người đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông.Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác.Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác,cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào?Những người nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?!

Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão.Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.

Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo.Lời kể trở nên khách quan,chân thật giàu sức thuyết phục.Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người:giọng lão đàn ông thô bỉ,lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.Kết bài:

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Có thể khẳng định:Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ,dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta.Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản,và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.


(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu


I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả


- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"

- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

- Tác phẩm chính (SGK)

2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.

Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

II. ĐỌC- HIỂU

1. Bố cục


- Truyện chia làm 2 đoạn lớn:
+ Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biết mất"). Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Đoạn 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

2. Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

- "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu .... tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".

- Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc - đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu . Trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm nhận cái đẹp toàn bích, hài hoà, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm hồn mình được thanh lọc.

3. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

- Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu .... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Hành động đó nói lên nhiều điều.

4. Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện

Là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi....

Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.

5. Về các nhân vật trong truyện

- Về người đàn bà vùng biển: Tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn bà”. Điều tác giả gây ấn tượng chính là số phận của chị. Ngoài 40, thô kệch, mặt rỗ, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng. Bà thầm lặng chịu mọi đau đớn khi bị chồng đánh không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy, “tình thương con cũng như nỗi đau, sự thâm trầm trong cái việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng để lộ ra bên ngoài”.... - Một sự cam chịu đáng chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.

- Về người đàn ông độc ác: Cuộc sống đói nghèo đã biến “anh con trai” cục tính nhưng hiền lành xưa kia thành một người chồng vũ phu. Lão đàn ông “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn người của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.

- Chị em thằng Phác: Bị đẩy vào tình thế khó xửa khi ở trong hoàn cảnh ấy. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình ảnh thằng Phác khiến người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
- Người nghệ sĩ nhiếp ảnh: Vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra sự bạo hành của cái xấu, cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên biển. Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy làm ột người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

6. Cách xây dựng cốt truyện độc đáo

Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng” đó.
Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình.
Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.

7. Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm

- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.

- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.

III. TỔNG KẾT

Vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp con người còn tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người.

(Sưu tầm)
 
Đặc điểm lời người kể chuyện trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"
A/Mở đầu:


Trong thời kì văn học sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên nhưng lại là một trong “những nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Hướng đổi mới trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thể hiện rõ rệt trên tất cả các phương diện. Về nội dung, Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm của mình đã nới rộng phạm vi hiện thực, bổ sung vào hiện thực quen biết những mảng còn chưa được nói đến hoặc còn né tránh trong văn học thời kì trước đó. Chẳng hạn như tính chất bi kịch và mặt trái của chiến tranh đối với số phận con người, phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lí, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong cuộc sống thường nhật… Về nghệ thuật, tính đơn giọng, độc thoại đã bị phá vỡ, thay vào đó là tính đa thanh, đối thoại. Lời người kể chuyện dù khách quan hay chủ quan đều không phải là cái nhìn thuần nhất. Tính trữ tình- triết luận của lời kể gắn với kiểu nhân vật tự ý thức…

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu, thể hiện rõ nét những đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 nói chung và của Nguyễn Minh Châu nói riêng. Tác phẩm là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và con người. Góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với độc giả một cách tự nhiên, bên cạnh việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống thì đặc điểm lời người kể chuyện được quy định bởi ngôi kể, điểm nhìn cũng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu đặc điểm lời người kể chuyện trong tác phẩm này ở các tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể vận dụng vào công việc giảng dạy của bản thân sau này.

B/Nội dung:

I/Những vấn đề lí thuyết về lời nói nghệ thuật

1.Phong cách học và phong cách học lời nói

Phong cách trong phạm vi ngôn ngữ học theo nghĩa phổ biến nhất chính là đặc trưng của sự lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Như vậy, khái niệm phong cách bao hàm trong nó cả phong cách ngôn ngữ và phong cách lời nói. Khái niệm “phong cách” của phong cách học cũng không hoàn toàn biệt với khái niệm phong cách của nghiên cứu văn học mà có mối liên quan nhất định. Nó bao hàm vấn đề đặc trưng của sự lựa chọn, tổ chức hình thức ngôn từ của văn bản nghệ thuật

“Phong cách học là khoa học nghiên cứu đặc trưng phong cách của hệ thống các phương tiện ngôn từ và giá trị của các kiểu lựa chọn, kết hợp những phương tiện này trong các hoàn cảnh giao tiếp nhất định” (4, 401)

Phong cách học lời nói là một phạm trù quan trọng của phong cách học. Theo PGS. TS Nguyễn Thái Hòa, “phong cách lời nói là phong cách học lấy lời nói làm đối tượng nghiên cứu của mình, trong đó kể cả các văn bản và văn bản nghệ thuật” (2, 184). Là một bộ phận của phong cách học, phong cách học lời nói không chỉ nghiên cứu lời nói- ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng ngày mà còn nghiên cứu ngôn ngữ viết trong văn bản nói chung, văn bản nghệ thuật nói riêng trong tính đối thoại của nó.

2.Lời nói nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật

Theo TS Nguyễn Thị Ngân Hoa trong cuốn Nhập môn ngôn ngữ học thì: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương . Trong một tác phẩm văn học cụ thể, ngôn ngữ nghệ thuật được tổ chức theo mục đích thẩm mĩ của chủ thể, xuất hiện trong những hình thức cấu trúc riêng biệt, cụ thể. Ngôn ngữ được vận dụng trong tác phẩm có tính cá thể hóa cao độ, bao gồm nhiều thành phần, kiểu, dạng phụ thuộc vào các nhân tố: chủ thể, người kể, nhân vật, điểm nhìn, giọng điệu….Vì vậy, khi đề cập đến các thành phần trong cấu trúc ngôn ngữ của một văn bản cụ thể, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thi pháp học sử dụng khái niệm “lời nói”: lời người kể, lời nhân vật, lời đối thoại, lời độc thoại, lời trực tiếp, lời gián tiếp, lời nửa trực tiếp…” (4, 406-407).

3.Các thành phần của lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự sự; đặc điểm lời người kể chuyện:

3.1.Các kiểu và các dạng thức của lời nói nghệ thuật được phân loại chủ yếu theo hai tiêu chí: kết cấu và chức năng. Theo tiêu chí chức năng, lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự sự bao gồm: lời người kể chuyện, lời nhân vật và các kiểu lời trung gian

3.2.Lời người kể chuyện, xét về chức năng tổ chức cốt truyện “là nhân tố cơ bản có chức năng liên kết toàn bộ các kiểu lời nói, các cấu trúc lời nói khác nhau trong tác phẩm” (1, 192), tạo nên quá trình hình thành và phát triển của cốt truyện, đảm bảo cho các biến cố trong tác phẩm diễn ra. Qua đó bộc lộ quan điểm, cách đánh giá của nhà văn về con người và hiện thực được nói tới. Do đó lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể… Trong văn xuôi tự sự điểm nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất.

Xét về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời người kể thành lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình (lời bình luận trực tiếp).

Lời người kể chuyện nếu không nhất trí với khuynh hướng yêu ghét của tác phẩm, tạo thành người tràn thuật không đáng tin cậy. Ngược lại, nếu lời của người trần thuật nhất trí với nhân vật, với tác giả hàm ẩn trong tác phẩm thì người trân thật là đáng tin cậy.

4.Mối quan hệ giữa các thành phần của lời nói nghệ thuật với điểm nhìn, giọng điệu trong văn xuôi tự sự:

Các thành phần của lời nói nghệ thuật lien quan mật thiết đến điểm nhìn, giọng điệu, là cơ sở để nhận diện điểm nhìn, giọng điêu. Ngược lại, chính cách lựa chon điểm nhìn và ý đồ thể hiện giọng điệu đã quy định cấu trúc lời nói nghệ thuật trong tác phẩm.

II/Đặc điểm lời người kể chuyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

1.Người kể, vai kể

Trong Chiếc thuyền ngoài xa người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất-xưng tôi, đồng thời là nhân vật chính của truyện. Người kể chuyện xuất hiện với tư cách một nghệ sĩ nhiếp ảnh, ngoài ra còn với tư cách “một người lính giải phóng từng mười năm cầm súng”.

Với tư cách người nghệ si nhiếp ảnh, người kể chuyện đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình: Được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây, sau nhiều ngày phục kích, anh ngẫu nhiên gặp được một cảnh trời cho: “ …trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng ngay sau cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” anh đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi còn ở ngoài xa. Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông và một đàn bà. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Chúng mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.Còn người đàn bà nhẫn nhục cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc khiến “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố. Lão đàn ông ‘dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Phía sau họ, “tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng” với ánh mắt ngơ ngác. “Như trong câu chuyện cổ tích đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”.

Lần thứ hai chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu hành hạ người đàn bà, dường như bản chất người lính từng chiến đấu vì chính nghĩa đã khiến anh không thể làm ngơ, không thể đứng ngoài với thái độ bàng quan trước những hành động phi nhân tính, người kể chuyện đã xông vào can thiệp: “tôi nện hắn (…) bằng bàn tay rắn chắc của người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”.

Khi ở tòa án, người kể chuyện tiếp tục bị bất ngờ bởi những nghịch lí: người đàn bà chấp nhận chịu đựng những trận đòn man rợ chứ nhất định không chiu bỏ gã chồng vũ phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu nói của người đàn bà khiến người kể chuyện “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”.Có lẽ với cái nhìn vốn chỉ quen nhìn thấy những nét thơ mộng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã không thể hiểu và không thể chấp nhận được cách xử sự kì lạ của người đàn bà. Sự đơn giản trong cái nhìn của “tôi” còn thể hiện qua việc anh hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy không?” để tìm nguyên do của những hành động dã man của gã chồng vũ phu.

Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà do chính chị ta kể ở tòa án mà người kể chuyện vừa là người chứng kiến (và kể lại) vừa là người trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại với chị ta đã dần dần cho anh câu trả lời về những điều nghịch lí mà anh đã chứng kiến. Lão chồng vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” nhưng đã trở nên độc ác là vì khổ quá. Còn người đàn bà lạy van những người đại diện công lí “đừng bắt con bỏ nó” là vì: “…đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dười chục đứa. Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được”.Câu nói giản di, chân chất của người đàn bà đã có tác động sâu xa tới nhận thức của chánh án Đẩu và cũng là nhận thức của người kể chuyện: “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị bao công của cái phố huyện vùng biển” thật ra cũng là “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu” người nghệ sĩ. Trước đó người kể chuyện “tin là nếu chiếc Prati-ca trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước”- tức là hoàn toàn tin vào sự cảm nhận của mình về vẻ đẹp của cuộc sống. Nhưng sau khi chứng kiến tất cả những gì liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy, sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, anh không còn giữ cái nhìn ban đầu. Hôm đó anh đã xách máy ảnh đi lang thang trên bãi biển đến khuya và sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, anh luôn có cảm giác: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vần thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”

Như vậy, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể chính là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Người kể không chỉ kể lại những điều mắt thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Trong truyện, vai kể có khi được chuyển sang nhân vật khác (người đàn bà) và đi cùng với nó là sự thay đổi điểm nhìn. Tất nhiên vai trò chính vẫn thuộc về người kể chuyện xưng tôi nói trên vì lời kể của nhân vật người đàn bà nằm trong lời kể của người kể chuyện. Sự lựa chon vai kể, điểm nhìn như trên nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

2.Đặc điểm, tính chất lời người kể chuyện

2.1.Tính chủ quan- chân thực

Việc chọn vai kể ngôi thứ nhất, người kể tự kể lại câu chuyện của mình trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang lại tính chủ quan- chân thực cho lời kể.

Tính chủ quan- chân thực trước hết bộc lộ trong việc tả thiên nhiên. Là nghệ sĩ cho nên người kể chuyện có khả năng phát hiện, cảm nhận những phương diện nên thơ của cảnh vật thiên nhiên. Đây là vẻ đẹp của vùng phá nước: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá- chiếc thuyền đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả”. Và đây là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa: “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.

Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để miêu tả cũng thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của một nghệ sĩ.

Tính chủ quan- chân thực thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả tâm lí. Cũng như các nhân vật nghệ sĩ trong những tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu, người kể chuyện- nghệ sĩ Phùng tỏ ra là người có đời sống nội tâm phong phú Những trạng thái tâm lí của người kể chuyện hết sức đa dạng. Trước hết đó là sự rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên được bộc lộ trực tiếp ngay khi miêu tả đối tượng: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” hoặc khi kể lại những khoảnh khắc đứng trước vẻ thơ mộng của ngoại cảnh:

“Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh đắt trời cho như vậy (…) đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”

Có khi là nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong giọng kể: “Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh kắp cả một vùng phá nước mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết ở vào một khoảng đất nào”

Khi kể lại những việc được chứng kiến, người kể chuyện luôn bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình một cách chân thành và thường bộc lộ trực tiếp bằng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí: “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “tôi cảm thấy (…) ngột ngạt quá”.

Tính chủ quan- chân thực còn được thể hiện qua tính hướng nội của lời kể: Trong lời kể thường có những từ ngữ miêu tả trực tiếp các hành vi bên trong, các ý nghĩ, cảm xúc, cảm giác của nhân vật: tôi trở nên bối rối…, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy…, tôi chắc mẩm…, tôi kinh ngạc…, tôi cảm thấy…, tôi mới sực nghĩ ra…,v.v…

Còn khi diễn tả những gì không thể trực tiếp quan sát được người kể chuyện thường dùng những từ ngữ có tính chất phỏng đoán:

“khuôn mặt (…) dường như đang buồn ngủ”, “có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết”, “người đàn bà dường như lúc này mới thấy đau đớn”, “hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.v.v…

Có thể thấy tính chủ quan- chân thực của là một đặc điểm nổi bật của truyện ngắn này. Bởi các sự kiện trong truyện được kể lại từ chính điểm nhìn chủ quan của người kể, những cảm xúc, suy tư trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống con người được chính người kể bộc lộ.

2.2.Tính khách quan- đáng tin

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể ngôi thứ nhất đem lại tính chủ quan- chân thực cho lời kể như đã nói ở trên. Song điều đó có thể làm cho câu chuyện thiếu tính khách quan, và vì vậy sức thuyết phục của những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm có thể bị giảm sút. Những hạn chế trên đã được khắc phục bằng một số thủ pháp:

Thứ nhất là chuyển vai kể và điểm nhìn nhưng vẫn không làm mất đi vai trò của vai kể chính. Việc chuyển vai kể làm tăng tính khách quan cho câu chuyện: Cách ứng xử kì lạ của người đàn bà khiến người kể chuyện từ kinh ngạc đến phẫn nộ và không hiểu nổi. Nguyên do đã được lí giải bằng chính lời kể của người đàn bà về cuộc đời mình. Lời kể của nhân vật này không chỉ giải thích cho cách ứng xử kì lạ của chị ta mà còn giúp người nghe hiểu được phần nào nguyên nhân của thói vũ phu ở người đàn ông đó. Lời kể ấy giúp cho Phùng, Đẩu và cả chúng ta nhận ra cuộc đời người đàn bà này không hề đơn giản, suy nghĩ của chị ta không phải là “cái sự lạc hậu” như chị ta nói mà là của một người “thấu hiểu các lẽ đời”. Lời kể ấy còn khiến ta cảm động trước lòng vị tha, đức hi sinh của người đàn bà khốn khổ. Điều quan trọng hơn nữa là nó mang lại ấn tượng về tính khách quan cho câu chuyện, bởi đây là lời của nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự nói lên những suy nghĩ của mình.

Thứ hai là đưa vào lời người kể chuyện những đánh giá, những cách nhìn nhận khác nhau về cùng một vấn đề. Chẳng hạn, về hành động của người đàn ông, người kể chuyện cho đó là hành động tàn nhẫn, anh đã nghĩ có thể lão ta độc ác là do đi lính ngụy. Thằng bé Phác cũng căm phẫn hành động của cha và nó đã bảo vệ mẹ bằng cách đánh chính người cha của mình. Cô y tá ở trạm xá thì “kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh các trong vùng này- do phong tục để lại”. Còn người đàn bà thường xuyên bị chồng đánh đập lại cho rằng chồng mình trở nên độc ác như vậy là vì hoàn cảnh. Chị xác nhận: “ Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Qua những cách nhìn khác nhau ấy về người đàn ông, người đọc nhận thấy không thể nhìn nhận, đánh giá một con người một cách đơn giản, một chiều mà cần phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa đẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Người đàn ông ấy vừa đáng bị lên án bởi tính vũ phu, tính ích kỉ nhưng anh ta cũng có chỗ đáng được cảm thông, chia sẻ, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt.

Thật ra tất cả những cái nhìn khác nhau của các nhân vật đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình.

Đưa vào trong lời kể chuyện những cách nhìn khác nhau, cái nhìn chủ quan của vai kể đã được khách quan hóa, tạo ra tính đối thoại, thể hiện khuynh hướng dân chủ hóa của văn học. Nhà văn không áp đặt thông điệp của mình cho người đọc mà bằng cách để cho vấn đề hiện lên một cách đa chiều, phức tạp buộc người đọc phải vào cuộc để cùng tìm câu trả lời với tác giả.

2.3.Tính trữ tình- triết luận

Lời kể hay tả trong lời người kể chuyện đều thấm đượm chất trữ tình.

Chất trữ tình thể hiện rất rõ trong lời tả thiên nhiên. Những đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của vùng phá nước, của chiếc thuyền ngoài xa là sự phát hiện chất thơ trong những cái tưởng như bình thường, quen thuộc, khơi dậy ở con người “những khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

Lời kể tái hiện sự việc, con người song việc tái hiện ấy nhằm hướng tới những tâm trạng, cảm xúc, chiêm nghiệm: những phát hiện về cuộc sống với bao nghịch lí dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cách nhìn về cuộc sống của Phùng.

Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng chất trữ tình gắn với tính triết luận.

Tính triết luận có khi thể hiện qua những suy ngẫm có tính chất triết lí được rút ra sau một sự việc nào đó. Chẳng hạn, sau khi buộc phải đi cảnh biển có sương theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng suy nghĩ về vai trò của hoàn cảnh: “Ở đời cái gì cũng thế, con gnười bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”. Sau khi ngẫu nhiên chụp được một cảnh đắt trời cho, Phùng “nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật nếu không thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba bao nhiêu, anh cũng chỉ thu được những tấm ảnh …vô hồn”. Suy nghĩ ấy chứa đựng triết lí về mối quan hệ giữa tài năng và ngẫu nhiên. Anh còn suy ngẫm về bản chất của cái đẹp: “Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”. Rõ ràng lời kể thuật lại những suy ngẫm có tính cá nhân nhưng những suy ngẫm ấy đã vượt qua giới hạn của những hiện tượng cá biệt, vươn tới tầm khái quát.

Tính triết luận còn thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu tuợng: “Chiếc thuyền ngoài xa” với vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống khi người nghệ sĩ tiếp cận nó ở cự li, khoảng cách “xa”- xa ở đây không đơn thuần về mặt không gian, địa lí. Tất cả những nghịch lí mà Phùng chứng kiến đều có liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy là một trong muôn vàn những cảnh ngộ éo le có thể gặp trong cuộc sống đời thường. Nhưng nó còn là biểu tượng cho những phương diện khuất lấp, phức tạp của cuộc sống mà với cái nhìn hời hợt, đơn giản, người nghệ sĩ khó có thể phát hiện ra. Hình ảnh cuối truyện: “…tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là ấn tượng chủ quan của người kể chuyện. Ấn tượng ấy là sự khúc xạ “những điều trông thấy” của người kể chuyện. Nó gợi ra cái nhìn mà người nghệ sĩ chân chính cần phải có: bằng vốn sống, sự trải nghiệm, người nghệ sĩ cần nhận ra không chỉ những gì thuộc bề mặt mà cần thấu suốt bề sâu của cuộc sống vốn nhiều bộn bề, phức tạp.

C/ Kết luận:

Như vậy việc lựa chọn người kể vai kể trong truyên ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Với việc chọn vai kể ngôi thứ nhất- một nghệ sĩ nhiếp ảnh tự kể chuyện mình- nhưng trong quá trình kể có sự dịch chuyển vai kể và điểm nhìn, lời người kể chuyện trong tác phẩm vừa mang tính chủ quan- chân thực vừa mang tính khách quan- đáng tin đồng thời có tính trữ tình- triết luận. Những đặc điểm trên tạo nên giọng điệu vừa triết lí suy tư, vừa trữ tình sâu lắng, phù hợp với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đó là những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống về cuộc đời, về con người: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; cần phải nhìn con người và cuộc sống một cách đa diện nhiều chiều thì mới có thể tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Có thể nói, đặc điểm lời người kể chuyện đã góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với người đọc một cách tự nhiên mà thấm thía. Đồng thời nó tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng của nhà văn.


(Hoàng Thúy Hằng CHK18 - Lí luận ngôn ngữ)

------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2004, 297 tr
2. Nguyễn Thái Hòa, Từ điển tu từ- phong cách- thi pháp học, nxb Giáo dục, 291 tr
3. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết, Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học sư phạm, 2007, 258 tr
4. Nhiều tác giả (Mai Ngọc Chừ chủ biên), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, 2007, 587 tr
5. Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb văn học, 1999, 645 tr
6. Trần Nho Thìn, Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, Nxb Giáo dục, 2008, 216 tr
7. Trần Đình Sử, Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, 2006, 226 tr
8. Lưu Thị Lan Phương, Đặc trưng phong cách cấu trúc lời nói nghệ thuật trong Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Luận án thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2007, 138 tr

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thể hiện phong cách tự sự triết lý về cuộc đời như thế nào?

[FONT=&quot]Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thể hiện phong cách tự sự triết lý về cuộc đời như thế nào?[/FONT]
[FONT=&quot]
[/FONT] [FONT=&quot]Chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. (Lê Ngọc Chương) - Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu)

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.

[FONT=&quot]
[/FONT]
[FONT=&quot]Nguồn: Sưu tầm.[/FONT][FONT=&quot]
[/FONT]
[/FONT]
 
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế nào:

[FONT=&quot]Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế nào:[/FONT]
[FONT=&quot]
[/FONT] Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ.

Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn.


Sự thay đổi cách nhìn người nghệ sĩ khi chứng kiến nghịch cảch:

Sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho.Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này người yêu người, sống để yêu nhau (Tố Hữu).

Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình.

Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”.

Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.


[FONT=&quot] Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả.

Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.

Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.


[/FONT]
Nguồn: Sưu tầm
 
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
I . Mở bài


Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài , một người lao động lam lũ , bất hạnh , trải đời và sáng đẹp tình yêu thương , đức hi sinh , vị tha .

II. Thân bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của nhân vật Phùng . Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương. Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng . Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện . Cuộc đời , số phận , tính cách , cảnh ngộ của chị gây xúc động , trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc .

Ấn tượng đầu tiên về người đàn bà là khi chị bước ra từ chiếc thuyền đánh cá đẹp như mơ . Nhưng đối lập với vẻ đẹp mờ ảo được nhìn từ xa , khi lại gần , những nét khắc khổ trong số phận của chi hiện rõ trên dáng vẻ khuôn mặt . Nhà văn không đặt tên cho nhân vật mà chỉ dùng danh từ chung “ người đàn bà hàng chài” như một mẫu số khái quát nên số phận bất hạnh , cực khổ của bao người phụ nữ hàng chài khác trong xã hội . Chị bước ra từ con thuyền , xuất hiện ngay trước mắt nghệ sĩ Phùng với dáng người to lớn , thô kệch , mặt rỗ , khuôn mặt tái nhợt sau một đem thức trắng kéo lưới , dáng vẻ mệt mỏi . Chị lặng lẽ để cho chồng đánh : lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Rồi thằng Phác , thằng con trai mà chị yêu quý nhất lao vào bố khiến tim chị đau nhói , xấu hổ , thương con , lo lắng , sợ hãi con trai có thể làm điều gì dại dột với bố . Nước mắt chị tràn ra , thấm vào những nốt rỗ chằng chịt trên mặt . Chỉ bằng vài chi tiết chọn lọc , nhà văn đã gợi ra bao điều đau xót về bi kịch cuộc đời của một người phụ nữ cực khổ , lam lũ , bất hạnh .

Số phận , cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện theo yêu cầu của chánh án Đẩu , bạn chiến đấu cũ của nghệ sĩ Phùng sau khi anh can ngăn bạo lực trong gia đình chị và bị lão chồng vũ phu của chị đánh bị thương . Ban đầu khi đến toà án , chị rất sợ sệt , khép nép , một điều quý toà , hai điều quý toà , xưng con , chỉ dám ngồi mon men ở mép ghế . Khi nhận được lời khuyên “ chị không sống nổi với người chồng vũ phu ấy đâu” của chánh án , người đàn bà ra sức van xin “ quý toà bắt tội con cũng được , bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” . Lời van xin ấy chứa đựng bao éo le mà người ngoài cuộc đều ngạc nhiên , không hiểu được . Khi chánh án Đẩu nghiêm giọng , nói rõ chủ trương của toà , chị bỗng thay đổi hẳn thái độ ,xưng chị với Phùng và Đẩu . Chị kể lại câu chuyện cuộc đời mình như lời giải thích cho việc chị phải chấp nhận một người chồng vũ phu mà không thể bỏ .

Câu chuyện bắt đầu từ việc chị lấy chồng. Chị vốn mặt rỗ , xấu gái , may được người thanh niên đánh cá thương và lấy làm vợ . Khi ấy hắn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm , không bao giờ đánh đập chị . Cuộc sống trở nên khó khăn trong những ngày biển động . Vợ chồng con cái cả tháng liền toàn ăn xương rồng luộc chấm muối . Thuyền thì nhỏ mà con thì nhiều , nhà nào cũng cũng gần chục đứa . Đàn ông trên thuyền nếu không uống rượu thì đánh vợ mỗi khi khổ quá . Chị khẳng định bao nỗi vất vả , cực khổ nếu trên thuyền không có đàn ông , đặc biẹt là khi biển nổi giông bão . Trên thuyền bắt buộc phải có người đàn ông chèo lái , làm chỗ dựa và cùng nuôi nấng một đàn con đông đúc . Chị tâm sự rằng trên thuyền cũng có nhiều lúc vui, vui nhất là vợ chồng sống hoà thuận , nhìn đàn con được ăn no . Chị khẳng định , đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không sống cho mình .

Những lời giãi bày chân thực trên là câu chuyện xúc động, éo le về cuộc đời người đàn bà hàng chài. Câu chuyện đó đã đưa ra những lí do sâu sắc mà chị không thể nghe theo lời khuyên giản đơn của chánh án Đẩu mà bỏ chồng . Cách xử sự của chị là không thể khác . Bởi , nếu bỏ chồng , chị không thể một mình nuôi nấng đàn con chị vô cùng thương yêu. Một mình người đàn bà không thể chèo lái con thuyền trên biển khơi rộng lớn . Giọng văn sâu lắng của tác phẩm bộc lộ xót thương trước hoàn cảnh thân phận của người đàn bà và thái độ trân trọng của nhà văn trước tình yêu thương , đức hi sinh , lòng vị tha cao cả của chị . ở chị , dù cái nghèo khổ có lấn át đến đâu , chị vẫn toả sáng vẻ đẹp cao thượng của người phụ nữ Việt Nam .

Đồng thời, qua câu chuyện , nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình được bộc lộ rõ . Nạn bạo hành gia đình có nguồn gốc từ chính sự nghèo khổ , từ nhận thức hạn hẹp của người dân về xã hội . Câu chuyện ấy đưa ra bài học nhân sinh sâu sắc : không nên nhìn đời và giải quyết mội việc một cách đơn giản phiến diện mà cần phải có cái nhìn đa chiều , thấu hiểu mọi góc khuất của cuộc sống . Qua đó ta hiểu được cái nhìn đầy trăn trở của nhà văn về đời sống nhân dân sau chién tranh. Kẻ thù của nhân dân là sự đói nghèo, tối tăm, lạc hậu về văn hoá, sự tha hoá về nhân cách .


III . Kết bài

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng thân phận cay đắng , đầy bi kịch , nghèo khổ của người đàn bà hàng chài, đã bộc lộ những lo lắng , trăn trở của nhà văn về nhân cách đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu .

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nỗi trăn trở của người nghệ sĩ
Trong phần kết truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết:

" Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. . .Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông".

Đọc lại nhiều lần đoạn kết trên, tôi ngẫm nghĩ vì sao Nguyễn Minh Châu lại có cái kết luận đầy ám ảnh như vậy? Qua cách nhìn lại tấm ảnh của nghệ sĩ Phùng, tác giả muốn gởi gắm điều gì cho người đọc?

Tấm ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được những người yêu nghệ thuật đánh giá cao. "Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau" nó vẫn còn giữ ngyuyên giá trị. Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng đựơc treo trong những phòng khách sang trọng của những người sành điệu. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để "phục kích" nhiều ngày mới chộp đựơc nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất. Và ai đã sưu tầm được nó, chắc hẳn đã tự hào rất nhiều. Nghệ thuật là vô giá!

Nhưng đối với Phùng ( hay nói cách khác, đối với Nguyễn Minh Châu ) chưa hẳn là như vậy. Tuy chụp được tấm ảnh toàn mĩ nhưng dường như tâm trạng của Phùng vẫn còn nhiều băn khoăn, ray rứt. Bởi vì Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh , những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có thể nhiều người chỉ nhìn bề ngoài thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu . . . rồi quên lãng! Còn Phùng "mỗi lần ngắm kĩ", nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại "nhìn lâu hơn" . Điều đó nói lên, đằng sau tấm ảnh, vẫn còn có điều gì khiến anh trăn trở.

Bao giờ anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. Người phụ nữ hàng chài nghèo khổ vừa phải lo cái ăn, cái mặc cho một lũ con, vừa bị chồng đánh liên miên "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Cái khổ, cái nghèo của chị hiện ra trong hình dáng "tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ mệt mỏi, đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm". Hình ảnh nhẫn nhục, cam chịu của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Ngoài ra, còn thằng Phác, chị nó, và cả lão đàn ông cục mịch, vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng vẫn là hình ảnh người phụ nữ hàng chài.Chị là đại biểu cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều. Hạnh phúc trong cuộc đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng không phải bao giờ cũng có được ( lúc gia đình hòa thuận, vui vẻ, / lúc nhìn đàn con được ăn no . . .).

Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, vô danh không ai biết đến nhưng họ là số đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất nầy "bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông". Họ chính là đám đông đã bám gốc rễ trên trên hành tinh nầy từ thuở có loài người. Nhưng khổ nỗi, đám đông ấy dường như xa lạ với những bức ảnh tuyệt mĩ thể hiện cuộc sống của họ, nói cách khác, tấm ảnh nghệ thuật Chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những cuộc sống rách rưới, đói nghèo. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật!

Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Điều nầy không mới. Cách ta hơn sáu mươi năm, Nam Cao chẳng đã từng nói "Nghệ thuật không cần phải là . . .không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than. . ." ( Trăng sáng - 1943 ). Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bị ám ảnh mỗi khi nhìn lại tấm ảnh, vì có thể anh nghĩ rằng tấm ảnh đó sang trọng quá, xa cách quá với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc của những mảnh đời bất hạnh mà những người không trực tiếp chứng kiến như anh thì sẽ không bao giờ cảm nhận được một cách đầy đủ đằng sau tấm ảnh kia chứa đựng những gì. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn cón một khoảng cách. Anh muốn thấu hiểu, chia xẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thế mà anh "ngắm kĩ" rồi lại "nhìn lâu hơn", Phùng muốn đào bới những gì trong một tấm ảnh rất quen thuộc của chính mình? Âu đó cũng là cái tâm của người say mê nghệ thuật.

Có lẽ vì vậy mà Phùng dường như còn muốn làm điều gì xa hơn, cụ thể hơn chăng để cho nghệ thuật gắn liền với cuộc đời. Bằng không thì tấm ảnh đẹp như một giấc mơ đó mãi mãi vẫn là Chiếc thuyền ngoài xa !

Một điểm nữa, Nguyễn Minh Châu cũng làm cho người đọc không thể bỏ qua trong cách nhìn lại tấm ảnh của Phùng "tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai" . Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng . Nhưng nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng kia bị che lấp bởi vô vàn cái bùng nhùng, rối rám của cuộc đời - cũng như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ hàng chài kia tưởng như không có gì đáng nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện ở chị những phẩm chất đáng quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quanh niệm về con người và cuộc sống.

Tóm lại, qua đoạn kết, phải chăng Nguyễn Minh Châu muốn nói Chiếc thuyền ngoài xa chính là vẻ đẹp của ước mơ, của lí tưởng mà người nghệ sĩ luôn khát khao vươn tới. Nhưng để cho nó có máu thịt của cuộc sống, người nghệ sĩ khi thể hiện nó cần có một tấm lòng trân trọng, cảm thông. Nó là nỗi dằn dặt, đau đáu khi người nghệ sĩ cảm thấy mình chưa thể hiện được hết điều muốn nói.

Cái mĩ luôn luôn đi kèm với chân và cái thiện để trở nên hoàn mĩ, hoàn thiện. Bản chất cái đẹp cũng là đạo đức. Đó cũng là điều mà Đốt-xtôi-epxki đã từng nhắn nhủ : " Cái đẹp sẽ cứu vớt cho nhân loại".
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chiếc thuyền ngoài xa – con người trần trụi đời thường:

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp”(Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩmChiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ:“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. . Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống:“Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.”. Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng:“Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Ngườiđàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. ”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc.Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu:“Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi).
Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu: Tên thực ứng với đời thực?

Trái ngược với cái tên Minh Châu “đẹp như mộng”, thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con “thêm nếm” (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho.

Minh Châu là một cái tên thật đẹp. Có lẽ vì vậy mà trong kỷ yếu “Nhà văn Việt Nam hiện đại” xuất bản lần gần đây nhất, hai chữ này đã xuất hiện trong bút danh của… bốn nhà văn, gắn với bốn cái họ khác nhau: họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Nông, họ Tạ. Trong đó, ông Minh Châu họ Nguyễn được giới văn học nhắc tới nhiều hơn cả. Kể thì cũng dễ hiểu: Trong “tứ trụ Minh Châu” nói trên, đến nay Nguyễn Minh Châu vẫn là nhà văn duy nhất đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.

Thế nhưng, trong một lần trò chuyện với bà Nguyễn Thị Doanh, quả phụ của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tôi đã thực sự bất ngờ khi được biết rằng: Trái ngược với cái tên Minh Châu “đẹp như mộng” ấy, thuở mới lọt lòng, nhà văn tài năng của chúng ta đã được các cụ thân sinh đặt cho cái tên thậm xấu: Nguyễn Thí. Vâng, Nguyễn Thí, vì đó là đứa con “thêm nếm” (tức con út) mà các cụ được Trời Phật ban cho. Còn vì sao sinh trưởng trong một gia đình khá giả mà ông lại bị cha mẹ đặt cho cái tên đáng ngán ngẩm như vậy? “Thì cũng là cách đặt tên cho dễ nuôi như quan niệm của phần đông dân ta khi ấy”- bà Doanh giải thích.

Cũng theo bà Doanh cho biết: Chỉ đến khi Nguyễn Thí đến tuổi đi học, bố mẹ ông mới tìm cách đặt lại tên cho ông (là Minh Châu). Như vậy, cái tên Minh Châu không phải do nhà văn chọn lựa khi cầm bút viết văn.

Không biết có phải do mặc cảm với cái tên Nguyễn Thí bố mẹ đặt cho từ thuở lọt lòng mà bình sinh, ông nhà văn vốn dĩ có nhiều độc giả này lại rất e ngại khi phải đối mặt với… đám đông. Trong những ghi chép cuối cùng (có tên gọi “Ngồi buồn viết mà chơi”) được thực hiện trong những ngày nằm điều trị tại Viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét: “Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ”.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn từng kể (trong sách “Nghiệp văn” - NXB Văn hóa - Thông tin, 2001), quãng năm 1973, 1974 gì đó, vào độ giáp Tết, Nguyễn Minh Châu không may bị bệnh phải đi nằm viện. Khi ông hồi phục, ra viện thì cũng vừa hay… hết Tết. Trái ngược với tâm trạng của bạn bè, người thân (áy náy, thương cảm vì ông không được hưởng những ngày vui), Nguyễn Minh Châu lại có một thái độ rất thoải mái. Theo ông tiết lộ thì việc nằm viện vậy là ông “đã tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên”. Ý ông muốn nói, ông đã thoát được những ngày con người phải sống với những lễ lạt, giao tiếp căng thẳng.

Nguyễn Minh Châu tự nhận mình không thuộc diện lợi khẩu. Chính vì thế ông rất ngại khi được mời phát biểu trong các buổi tọa đàm, hội thảo. Ông thật thà kể: “Tôi rất sợ máy micrô. Một lần ở thư viện của một thành phố, người ta cứ nằng nặc bắt tôi nói trước máy để cả đám đông của hội trường có thể nghe. Vừa nói được vài câu qua máy, tôi đã mất bình tĩnh vì vừa nói tôi vừa nghe thấy cái tiếng nói của mình và tự nhiên phát hoảng, không còn là tiếng nói hàng ngày của mình nữa mà y như có ai đang nhại mình bằng một thứ giọng ma quỷ”. Lại một lần khác, ông bị người ta kéo đi nói chuyện với học sinh một trường cấp III. Từ trên bục diễn giả nhìn xuống, ông thấy hai phần ba thính giả là nữ, và các cô gái này cứ nói chuyện rào rào, không có vẻ gì là đang nghe ông nói. Bị mất hứng, giọng nhà văn cứ ỉu dần, ỉu dần và mới được có nửa buổi ông đành phải cho kết thúc bài và xin phép… cáo từ.

Nhà thơ Vũ Cao, nguyên Chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nơi Nguyễn Minh Châu có thời kỳ làm biên tập văn xuôi cũng từng kể: “Trong những buổi họp cơ quan hoặc họp chi bộ, hễ thấy anh giơ tay xin phát biểu ý kiến thì lập tức tôi nói khẽ với đồng chí ngồi cạnh: Này, ông Châu lại sắp nói sai đấy. Và quả nhiên, anh chỉ nói hẳn hoi được một hai câu, còn sau đó là “sai” hết. Tôi nói “sai” là so với cách nghĩ thông thường của nhiều người khác…”. Vũ Cao cũng nhớ lại những ấn tượng của ông khi lần đầu gặp Nguyễn Minh Châu: “Một con người nhỏ bé, đi chân chữ bát, đầu hơi cúi xuống. Anh có vẻ nhút nhát”.

Không chỉ là nhút nhát, vụng về trong phát biểu, nói năng, mà trong công tác cũng như trong sinh hoạt thường ngày, Nguyễn Minh Châu cũng luôn thể hiện là người không thật… nhanh nhẹn. Nói chính xác thì ông hầu như là người “chỉ biết viết thôi, chẳng biết gì” (cải biên từ một câu thơ của Xuân Diệu). Hiện nhiều anh em trong Quân đội còn lưu truyền câu chuyện về thời kỳ Nguyễn Minh Châu làm lính trinh sát cho một đại đội thuộc Đại đoàn Đồng Bằng. Một lần, chỉ huy đơn vị kéo ông cùng đi thị sát chiến trường, chuẩn bị cho một trận công đồn. Đêm tối như hũ nút, theo chân Nguyễn Minh Châu, vị chỉ huy lần lượt vượt qua những vạt ruộng, những bờ tre… mà không gặp phải trắc trở nào cả. Không gian im ắng đến không ngờ. Cứ vậy, đến gần sáng, khi gà te te gáy, nghe tiếng kẻng vang xa, vị chỉ huy chắc mẩm đó là tiếng kẻng báo thức phát ra từ đồn địch… Nào ngờ, trước mặt lại chính là điểm trú quân của bộ đội ta. Sau đận đó, nghe nói Nguyễn Minh Châu được điều làm việc khác. Nhận xét về chuyện này, vị chỉ huy nói trên đã buông một câu: “Chẳng sao, đồng chí ấy tuy là một trinh sát tồi nhưng viết văn giỏi”.

Nhà văn Lê Lựu, trong một lần kể chuyện Nguyễn Minh Châu giúp vợ chồng ông tìm mua nhà, đã không quên nhắc lại sự hồn nhiên đãng trí của Nguyễn Minh Châu: “Hút hết điếu thuốc lá, nhấp một ngụm nước chè tôi vừa pha, anh mới nói đầy vẻ tự tin: Mình kiếm được nhà cho ông rồi”. Lê Lựu mừng rỡ, muốn kêu lên vì sung sướng: “Không thể ngờ anh lại đem đến cho tôi một niềm vui lớn, đột ngột đến thế”. Nhưng khi ông hỏi nhà văn đàn anh “ở chỗ nào hở anh?” thì Nguyễn Minh Châu bất chợt lúng túng “chết chửa, mình lại quên không để ý số nhà”. “Thế ở phố nào ạ?”. “Phố..ả…à…à. mình… cũng không nhớ nữa”. Phu nhân của nhà văn Lê Lựu nghe vậy, sốt ruột không đừng được, chêm vào: “Thế bác có nhớ ở mạn nào không ạ?”. Nguyễn Minh Châu xem chừng… bất lực. Ông thở dài, đứng dậy: “Thôi, để mình đi lại”.

Có lẽ vì tật đãng trí như vậy mà trong làng văn, hiện vẫn lưu truyền câu chuyện vui về việc Nguyễn Minh Châu tập đi xe máy mãi mà vẫn không phân biệt được rạch ròi đâu là số, đâu là côn, là phanh, để rồi rốt cục, ông không tài nào điều khiển được xe đi, xe dừng. Để đỡ tốn sức, tốn thời gian, Nguyễn Minh Châu bảo bạn: “Thôi vậy ông ạ, với tôi xe đạp vẫn thuận hơn”. Từ đó, người ta lại thấy nhà văn bạn đường với chiếc xe đạp tòng tọc, lủng lẳng bên tay lái chiếc mũ lá (xem “Giai thoại làng văn Việt Nam “- NXB Văn hóa Dân tộc, 1999).

Về việc này, tôi đã có dịp hỏi chuyện bà Nguyễn Thị Doanh. Bà Doanh cho hay: Cả đời, chưa bao giờ chồng bà tập đi xe máy, vì đối với vợ chồng bà, xe máy bấy giờ là một thứ quá xa xỉ. Suốt đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu chỉ đi chiếc xe đạp mà ông được mua từ năm 1959. “Nhà tôi dùng nó suốt 30 năm, tới khi anh ấy mất - Bà Doanh nhớ lại - Nó tróc ghẻ, lọc xọc. Đến nỗi, có hôm khách khứa ngồi chờ, tôi nghe thấy tiếng lọc xọc ngoài đường, tôi bảo, nhà tôi về rồi”. Ông khách ngạc nhiên hỏi: “Sao chị biết?”. Tôi nói: “Chỉ cần nghe tiếng xe kêu là tôi biết”. Hiện chiếc xe tôi vẫn giữ cái khung. Có ông sửa xe gạ mua, nhưng tôi không bán. Tôi dành để tặng nó cho Bảo tàng Nhà văn”.

Theo bà Doanh, có thể người ta “nhầm chuyện xe máy với chuyện nhà tôi sử dụng máy chữ. Chẳng là, gần nhà tôi có anh An đánh máy chữ rất giỏi. Nhà tôi trông thấy thèm lắm, mơ ước mua được một cái. Đến khi có máy rồi, nhà tôi kỳ cạch xoay xoay gõ gõ mấy ngày liền, xong cũng chẳng chữ nào ra chữ nào”.

Lý giải việc nhà văn Nguyễn Minh Châu không thạo những việc xem ra rất đơn giản đối với đại đa số những người… bình thường, bà Doanh cho rằng, vì chồng bà là con út, hồi bé lại được bố mẹ cho đi học suốt nên “lớn lên có biết làm gì đâu”. Bà Doanh lấy ví dụ: “Tôi nhớ, có lần nhà tôi nối được cái dây may so ở bếp điện khiến nó đỏ lên được, anh ấy mừng lắm, cứ xuýt xoa chờ vợ con khen. Tôi động viên anh: “Bố nó tiến bộ quá”. Thế là anh ấy thích lắm”. Và bà kết luận: “Nói chung, nhà tôi là một người quan sát việc đời rất tinh tế nhưng lại rất lóng ngóng việc nhà. Bản thân tôi cũng cố để anh ấy không phải dúng tay vào những việc này. Về nội trợ trong nhà, việc duy nhất mà tôi hướng dẫn anh ấy làm được là việc… rang cơm”
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản. Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy - Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?

Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người “ thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.

Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì “ Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top