Chân dung các nguyên thủ Pháp

Từ 24 tháng 5 năm 1873 đến 30 tháng 01 năm 1879

Nguyên soái Mac-Mahon xuất hiện​


Ngày 24-5-1873, sau khi lật đổ chính quyền của Thiers, Quốc hội đã đưa Nguyên soái Mac-Mahon, người vốn không có đối thủ, lên làm Tổng thống của nền Cộng hòa với 390 phiếu thuận trong tổng số 721 phiếu.

Từ 6 ngày trước đó, phe đa số đã quyết định đưa Mac-Mahon lên nắm quyền nhưng không thông báo cho nhân vật chính này, người đã nhiều lần khẳng định sự trung thành của mình với chính quyền Thiers.

Tuy nhiên, chính gia đình Mac-Mahon đã thuyết phục người lính già này không tham dự vào phiên họp ngày 24/5. Và trong khi phiên họp diễn ra với sự vắng mặt của Thiers, Nguyên soái Mac-Mahon đã đến thăm cựu Tổng thống để thuyết phục ông rút lại đơn xin từ chức.

Còn Thiers, vì biết rõ ý định của Quốc hội nên muốn đặt phe đa số vào thế bí bằng cách thuyết phục Mac-Mahon từ chối vị trí mà Quốc hội sẽ dành cho Nguyên soái: “Ngôi vị Tổng thống quả là một địa ngục, tôi sẽ không trở lại vị trí đó đâu. Và cả ông nữa, vị Nguyên soái đáng kính của ta, đừng có dấn thân vào chốn đó. Hiện nay quyền lực đang là một cái tổ ong bò vẽ mà với bản tính quân nhân của mình, chắc hẳn ông sẽ không giữ nổi bình tĩnh trong vòng 48 giờ đâu”.

Không hiểu được hàm ý chính trị sâu xa của Tổng thống, Nguyên soái Mac-Mahon nghĩ rằng Thiers đã thực sự chán ngán và từ bỏ quyền lực, nên tối ngày 24/5, khi văn phòng Quốc hội vừa thông báo Mac-Mahon được bầu làm Tổng thống thì giới thân cận của vị Nguyên soái này đã không mấy khó khăn thuyết phục ông rằng điều cần làm là ông không được né tránh trọng trách này.

Mac-Mahon trước tiên là một người lính

Nhân vật mà những người thuộc phe Bảo hoàng vừa đưa lên làm Tổng thống chắc hẳn là người ít phù hợp nhất để đảm nhận vị trí này. Ông tự hào là một người lính mà sự nghiệp chỉ có được nhờ vào lòng dũng cảm chứ không phải là nhờ vào những mưu mô chính trị. Ông bắt đầu binh nghiệp của mình dưới nền Quân chủ tháng Bảy và lòng can đảm, tinh thần dũng cảm của ông đã được tôn vinh tại Algérie.

Tiếng tăm về lòng dũng cảm của ông bắt đầu từ cuộc chiến tranh trên bán đảo Crimée (Ukraina). Nền Đế chế đã tạo điều kiện đưa vị tướng lĩnh quân đội hăng hái và nhiệt tình này đạt được mọi đỉnh cao. Đầu tiên là ngôi vị Công tước Magenta sau chiến tranh với Italia năm 1859, rồi đến chức Nguyên soái nước Pháp, và ở vị trí này, Mac-Mahon đã đạt được mọi tước hiệu danh phẩm cao quí.

Năm 1861, ông đảm nhận vai trò đại sứ đặc mệnh bên cạnh vua Guillaume nước Phổ. Năm 1864, Mac-Mahon giữ vị trí Toàn quyền ở Algérie. Năm 1870 thì ông thôi chức Toàn quyền trở về chỉ huy quân đội ở vùng Alsace. Tuy nhiên, quân của Mac-Mahon đã thua và thủ thế ở vùng lòng chảo Sedan, nơi trận chiến kết thúc ngày 1/9 khi Mac-Mahon bị bắt làm tù binh với vết thương nhẹ ở đùi.

Bị giữ làm tù binh ở Đức cho đến mùa xuân năm 1871, Mac-Mahon trở về Pháp để chỉ huy quân đội Versailles đang tập trung nhằm trấn áp phong trào Công xã Paris. Nhưng Mac-Mahon lo sợ rằng những thất bại trước đó sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của mình. Và ông rất nhạy cảm với nhận xét này của Thiers: “Hết rồi… hết tất cả rồi!”.
 
Đứng đầu nền Cộng hòa là một người theo chủ nghĩa chính thống​


Nguyên soái Mac-Mahon đã làm tất cả hài lòng khi ông là người chiến thắng trong cuộc đàn áp Công xã Paris, và ông rất có thể sẽ trở thành người giương cao ngọn cờ của phe đa số - những người muốn loại Thiers ra khỏi cuộc chơi của họ - bởi vì những tư tưởng chính trị của ông chỉ biến ông thành kẻ phục vụ những nhà quân chủ mà thôi.

Trên thực tế, Nguyên soái Mac-Mahon được biết đến như một người theo chủ nghĩa chính thống. Hơn nữa, chủ nghĩa chính thống đối với ông là một truyền thống gia đình hơn là một tư tưởng chính trị.

Mac-Mahon sinh năm 1808 trong một gia đình luôn lưu giữ một cách trung thành những hồi ức về các thế hệ các lãnh chúa Bourbon , những hồi ức đầu tiên của Mac-Mahon bắt đầu từ thời kỳ Vương quyền phục hưng mà cha mẹ ông đã đón nhận như một sự giải phóng. Kể từ khi Louis-Philippe lên ngôi, Mac-Mahon đã nghĩ đến việc từ bỏ quân đội; nhưng gia đình ông ngăn cản ông làm việc đó: vậy là ông phục vụ cho “vị hoàng đế của những rào cản” và nhanh chóng trở thành người được những người con của hoàng đế che chở và bảo vệ.

Trong cuộc Cách mạng 1848, ông là sĩ quan cận vệ của Công tước Nemours và thích nghi rất nhanh với chế độ mới. Cần phải làm gì trước sự sụp đổ của Louis-Philippe? Một lần nữa, ông lại nghĩ đến việc rút lui khỏi quân đội, nhưng Cavaignac, Bộ trưởng chiến tranh đã kêu gọi ông ra phục vụ: ngài Bộ trưởng cần ông để giữ gìn an ninh trật tự.

Vì vậy, Mac-Mahon đã chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa cũng giống như ông đã từng phục vụ nền Quân chủ tháng Bảy… Cuối cùng, mọi việc đã được giải quyết giống như trước kia: an ninh quốc gia yêu cầu cần có Mac-Mahon đứng ra bảo vệ. Từ năm 1858, Mac-Mahon trở thành Thượng nghị sĩ đế chế.

Người ta cho rằng Mac-Mahon chấp nhận phục vụ nền Cộng hòa đệ Tam với tư cách là một trong những người bảo vệ an ninh trật tự giống như ông đã từng phục vụ nền Cộng hòa đệ Nhị. Việc không can dự vào chính trị cũng như những tư tưởng theo chủ nghĩa chính thống này ở Mac-Mahon có thể dung hòa được với mọi chế độ chính trị rất khác nhau và điều này đã nhanh chóng gây được sự chú ý của Công tước Broglie khi phe đa số trong Quốc hội muốn tìm người thay thế Thiers.

Trước đó, những người theo chủ nghĩa chính thống đã từ chối chỉ định vị Tổng thống mà Broglie mong muốn: Công tước Aumale, Đại biểu quốc hội và là con trai của Louis- Philippe; những người này sợ rằng nếu bầu vị Công tước đó lên ngôi Tổng thống thì trước những khó khăn của triều đình, dòng quí tộc hoàng gia ở Orléans, dù đã có những cam kết trước đó vẫn sẽ tìm cách giành lại quyền lực từ tay dòng tộc con trưởng.

Một ứng cử viên khác cho chức Tổng thống: tướng Changarnier. Nhưng với tính cách độc đoán, vị Tướng già 80 tuổi này làm người ta sợ rằng đến một lúc nào đó, ông sẽ không chấp nhận rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho người khác. Mac-Mahon thì khác, ông sẽ phục vụ tận tâm và trung thành “nền Cộng hòa lâm thời” và sẽ cũng rút lui một cách đàng hoàng trước người thay thế ông sau này khi ông được yêu cầu làm điều đó, và trong thời gian chờ đợi, ông sẽ để cho phe đa số tha hồ tự giải quyết các vấn đề liên quan đến chế độ mà không can thiệp vào những cuộc xung đột cãi vã giữa các Đại biểu trong Hạ viện.

Chính vì lý do đó mà sau khi đã phục vụ 3 chế độ cách mạng, Mac-Mahon lại trở thành thủ lĩnh của chế độ chính trị thứ tư. Hơn thế, thời gian làm Tổng thống sau này của Mac-Mahon còn là điều quan trọng giúp người ta thấy rõ vị thế của Tổng thống trong các thể chế chính trị của nền Cộng hòa.
 
“Thiết lập lại Trật tự Đạo đức”​


Tối ngày 24-5, khi Công tước Broglie đến thăm Tổng thống mới tại nhà riêng, ông thấy Tổng thống đang ngồi cùng với Chủ tịch Quốc hội, ngài Buffet.

Hai người vừa soạn thảo xong lá thư chấp nhận chức vụ Tổng thống của Mac-Mahon sẽ gửi cho các Đại biểu Quốc hội đã bầu ông:

“Kính thưa các quí vị đại biểu,

Tôi xin tuân theo quyết định của Hạ viện, cơ quan đại diện cho chủ quyền quốc gia, và xin nhận nhiệm vụ được giao là giữ vai trò Tổng thống của nền Cộng hòa. Đây là một trách nhiệm nặng nề dành cho lòng yêu nước của tôi.

Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa và sự tận tâm của quân đội chúng ta - một đội quân của pháp luật, với sự trợ giúp của tất cả những con người chân chính, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục sự nghiệp giải phóng lãnh thổ và thiết lập lại trật tự đạo đức ở đất nước chúng ta, chúng ta sẽ gìn giữ nền hòa bình trong lãnh thổ và giữ vững những nguyên tắc cơ bản của xã hội chúng ta. Tôi xin nói tất cả những lời đó với quí vị với danh dự của một con người trung thực, chân chính và danh dự của một người lính”.

Broglie cảm thấy rất phấn chấn: người ta không thể đưa ra những nguyên tắc lãnh đạo nào tốt hơn thế cho phe đa số trong Quốc hội và ông sẽ điều khiển để bức thông điệp đó không chỉ được gửi tới từng Đại biểu quốc hội mà còn được dán ở khắp nơi trên nước Pháp. Theo cách đó, một chính phủ của “Trật tự Đạo đức” sẽ bắt đầu dưới sự bảo hộ của Mac-Mahon.

Công tước Broglie, vị nguyên thủ giấu mặt

Ngày 25-5-1873, chính phủ “Trật tự Đạo đức”, như những người Cộng hòa vẫn nói đùa, đã được thành lập. Theo luật pháp, Mac-Mahon sẽ điều hành và lãnh đạo bộ máy này, nhưng việc Tổng thống còn thiếu kinh nghiệm chính trị cộng thêm với điều luật mà Quốc hội thông qua vào tháng 3 đã hạn chế khả năng can thiệp của Tổng thống khiến cho việc thành lập chính phủ phải dựa trên sự hợp tác chặt chẽ của các nhà lãnh đạo trong phe đa số của Quốc hội.

Cho nên, chính Broglie đã thành lập chính phủ này thể theo yêu cầu của Mac-Mahon; ông là người điều khiển chính với chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và chức năng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, tất cả thống nhất là Broglie sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ chế độ chính trị trước Quốc hội bởi vì, khác với Mac-Mahon, Broglie hoàn toàn tự do trước cơ quan đại diện này.

Như vậy, việc Quốc hội vẫn không tin tưởng vào Tổng thống giống như trường hợp của Thiers trước đây đã làm nảy sinh một vấn đề cơ bản mà người ở vị trí quyền lực tối cao sẽ gặp phải trong suốt nền Cộng hòa đệ Tam: sự khác xa nhau giữa lý thuyết (Tổng thống phải là vị nguyên thủ có thực quyền tối cao) và thực tế (Tổng thống buộc phải nhường phần lớn quyền lực cho một người khác ban đầu xuất hiện với tư cách là trợ lý của Tổng thống); sự khác nhau giữa lý thuyết và thực tế này xảy ra trước khi logic của sự phát triển khiến cho Tổng thống thực sự là người có quyền lực tối cao; vai trò cá nhân của Mac-Mahon trong logic phát triển này là không thể phủ nhận được.

Kể từ năm 1873, Broglie là người lãnh đạo thực sự của đất nước, ngay cả khi Mac-Mahon điều hành Hội đồng Bộ trưởng và luôn tìm cách nắm được mọi thông tin. Nếu quả thực Mac-Mahon là người quyết định cuối cùng thì chính Công tước Broglie là người đã chuẩn bị sẵn những quyết định trước đó.
 
“Dưới tên gọi Cộng hòa, thực chất là một nền quân chủ”​


Thiers đã bị đẩy đi, Mac-Mahon trung thành đã có vị trí của mình, Broglie đang nắm quyền lực, trong tình cảnh ấy, những người bảo hoàng thực sự là chủ cuộc chơi. Họ định thừa cơ hội này để cố gắng một lần nữa giành lại nền Quân chủ phục chế.

Ngay bản thân Mac-Mahon cũng không ngần ngại tuyên bố một cách công khai rằng việc Bá tước Chambord lên ngôi là “khát khao cháy bỏng nhất” mà ông chưa bao giờ nói đến. Nhưng vào năm 1871 lại nảy sinh vấn đề gây tranh cãi gay gắt về quốc kỳ, vì thế, vị thế của Chambord cũng không làm thay đổi được gì.

Một lần nữa, phe Quân chủ lại cử một phái đoàn đến để thuyết phục “Người kế vị ngai vàng” từ chối “lá cờ của Henri IV”. Phái đoàn này có thể vận dụng những lời khuyên của Tổng thống, người đã từ chối việc đích thân mình viết cho Chambord để không đi ngược với cam kết mà ông đã hứa trước đó là giữ quan điểm trung lập.

Tổng thống muốn Chambord biết rằng không thể áp đặt quân đội phải chấp nhận một lá cờ nào khác ngoài quốc kỳ tam tài. Thay vào những lời lẽ bóng bẩy của các nhà sáng tạo ngôn ngữ lịch sử: “Chỉ cần nhìn thấy lá quốc kỳ màu trắng thì những tay súng sẽ tự bỏ đi”, Mac-Mahon tuyên bố rằng: “Quân đội sẽ quyết sống chết với lá cờ tam tài; nếu lá cờ bị vò nát thì chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ xảy ra những xung đột khủng khiếp”.

Nhưng Chambord không có ý định bắt đầu ngôi vị cai trị đang rất gần của mình bằng những gì mà vị Bá tước này cho là một hành động thấp hèn. Khi Chesnelong, người dẫn đầu phái đoàn Quân chủ đến thuyết phục Chambord vụng về kể lại chuyến đi của mình cho bạn bè trong chính giới rằng Bá tước Chambord sẵn sàng nhượng bộ thì vị Bá tước đã đưa ra một lời cải chính gay gắt, lời phủ nhận này có thể cắt đứt mọi cầu nối và làm cho việc phục chế nền quân chủ mà chính Bá tước sẽ là người hưởng lợi trở thành một điều không thể:

“Một khi những hiểu lầm ngày càng chồng chất làm lu mờ chính sách của ta trước bầu trời rộng mở thì ta phải cảm ơn xứ sở này, đất nước này vì tất cả sự thật được phơi bày, nơi ta có thể không được biết đến và không là gì cả… Hôm nay người ta yêu cầu ta hãy vứt bỏ danh dự của mình… Ta không thể đồng ý bắt đầu một vương triều mới bằng một hành động đê hèn… Ta muốn luôn là chính mình. Nếu ngày hôm nay ta mềm yếu nhượng bộ, ngày mai ta sẽ hoàn toàn bất lực (…) Bản thân ta không là gì cả, nguyên tắc sống của ta mới là tất cả. Nước Pháp sẽ nhìn thấy kết cục những thử thách của mình khi nước Pháp muốn hiểu nguyên tắc đó của ta”.

Những người Cộng hòa do Thiers và Gambetta dẫn dắt thì mừng quýnh bởi chừng nào việc phục chế nền Quân chủ bị chậm lại thì chừng đó nền Cộng hòa còn giữ được. Phe Bảo hoàng bị giáng một đòn mạnh. Việc họ đặt niềm tin vào những người con của Hoàng gia đang theo đuổi chính sách của phe đa số đã khiến cho tình đoàn kết thống nhất giữa các gia đình vương tôn vốn rất khó khăn mới xây dựng được nay lại bị đe dọa nghiêm trọng.

Vì vậy, cần phải chờ cho Chambord biến khỏi chính trường, nhưng là chờ đợi trong khi vẫn để mọi điều diễn ra theo chiều hướng thuận lợi như hiện nay. Chính Hoàng tử Joinville, con trai của Louis Philippe đã áp đặt quan điểm của mình cho phe đa số: “Nước Pháp có Nguyên soái; cần phải giữ gìn và bảo vệ Nguyên soái, bản thân ta và tất cả chúng ta đều phải là những người theo và ủng hộ Mac-Mahon”. Quan điểm này đã chiến thắng dù cho một số người, ví dụ như Công tước Broglie, ngay lúc đó đã hiểu rằng tính không nhượng bộ của Chambord đã đặt cơ hội phục hồi nền Quân chủ vào thế hoàn toàn tiêu cực và nguy hiểm.

Trong hoàn cảnh đó, giải pháp tối ưu chính là giải pháp mà Thiers đã chủ trương theo đuổi và Broglie đã gọi tên giải pháp đó như sau: “Biến Mac-Mahon trở thành một vị nguyên thủ lâm thời thực sự dưới chức danh Tổng thống và biến nước Pháp đang núp dưới cái tên Cộng hòa trở thành một nền Quân chủ không có Vua mà thôi”. Nhưng vì mưu đồ chính trị này rất ít có cơ hội thành công nên phe đa số đã quyết định cải biến vị trí nguyên thủ quốc gia lâm thời. Vì vậy, dù lúc đó chưa có một văn bản nào qui định về chế độ chính trị của nước Pháp, ngày 18-11-1873, theo yêu cầu của Broglie, Quốc hội vẫn quyết định kéo dài thời hạn quyền lực của Nguyên soái Mac-Mahon bằng việc thông qua luật “nhiệm kỳ 7 năm”.

Trong khi các cuộc tranh luận đang diễn ra ở Quốc hội thì Tổng thống lại có viên sĩ quan tuỳ tùng của Bá tước Chambord đến thăm và báo với ông rằng người kế vị ngai vàng đang ở Versailles, muốn gặp Tổng thống để bàn bạc và đưa ra những điều kiện để Nguyên soái có thể nhường lại quyền lực của mình cho Chambord, bất chấp ý kiến của Quốc hội. Mac-Mahon rất hoảng hốt đã từ chối thẳng thừng cuộc gặp với Bá tước vì cho rằng như thế là người ta đã ép ông phản bội lại lòng tin của Quốc hội đối với ông.

Một lần nữa, “người lính trung thành” lại đặt nghĩa vụ của mình lên trên những tham vọng chính trị cá nhân, còn Chambord vô cùng thất vọng, sau này khi rời khỏi nước Pháp sang lưu vong hẳn ở Áo, vị Bá tước đã chua chát nói về Mac-Mahon: “Ta cứ tưởng rằng mình đã gặp được viên sĩ quan quân đội hàng đầu của nước Pháp, nhưng không ngờ ta chỉ gặp một tên “cớm” chỉ huy mà thôi”.

Trở thành người đứng đầu nền Cộng hòa với nhiệm kỳ 7 năm, Mac-Mahon sau đó đã tham gia tích cực vào việc củng cố thể chế chính trị này. Cũng trong khoảng thời gian đó, với chính sách mà mình theo đuổi, Broglie đã vô hình chung giúp những người Cộng hòa đứng lên dù đó không phải là điều Công tước mong muốn.
 
Quân chủ hóa xã hội, Cộng hòa hóa dư luận​


Dù không hề ảo tưởng về ý thức và tinh thần của Nguyên soái, những người Cộng hòa lúc đầu vẫn tỏ ra sẵn sàng chấp nhận Mac-Mahon: “Có ông ta thì chúng ta vẫn còn nền Cộng hòa”.

Đó là một nền Cộng hòa khá lạ lùng mà sau này Công tước Broglie đã nhanh chóng chỉ ra cho những người Cộng hòa thấy bằng việc áp dụng chính sách Trật tự Đạo đức, cái làm nên ngọn cờ tiên phong trong chiến dịch rầm rộ chống lại những người Cộng hòa, nhằm hất họ ra khỏi vị trí hành động và nhằm chuẩn bị điều kiện cho nền Quân chủ phục chế.

Xét một cách tổng thể, những thành viên Cộng hòa đã bị thanh trừ khỏi các cấp chính quyền, một đạo luật thì qui định Chính phủ có quyền chỉ định chức Thị trưởng cho các địa phương còn những chức danh Cộng hòa trong Toà thị chính lại do một đạo luật khác qui định. Không có bất cứ một dấu tích nào của nền Cộng hòa được thể hiện trong các văn bản nhà nước.

Chính phủ kiểm duyệt gắt gao việc in ấn và phát hành báo chí. Ngược lại, mối quan tâm của Chính phủ là làm thế nào truyền bá lại vào tư tưởng của quần chúng Pháp những khái niệm đã biến mất như việc tôn thờ và kính trọng giới chính quyền đã được tạo lập, tầng lớp thống trị và giáo hội có quyền lực trong xã hội.

Giới tăng lữ được các nhà lãnh đạo của phe đa số nhìn nhận như một trợ thủ đắc lực và tầng lớp này cũng dành được mọi sự quan tâm của Chính phủ; những người biểu tình chống lại tầng lớp tăng lữ bị truy đuổi, việc chôn cất dân thường bị cấm đoán, và “báo chí có tâm” thì nhận được sự trợ giúp từ các cấp chính quyền.

Phe đa số và các tổ chức đã giúp đỡ nhiệt tình cho việc khánh thành Nhà thờ Sacré-Coeur với tuyên bố rằng đó là “vì lợi ích công chúng”; sự trợ giúp của Chính phủ chủ yếu dành cho những cuộc hành hương ở Lourdes, Chartres và Paray-le-Monial, và tất cả cùng hát: “Hãy cứu lấy thành Roma và nước Pháp nhân danh Sacré-Coeur”. Vài năm sau đó, những người Cộng hòa thắng thế đã bắt giới tăng lữ phải trả giá đắt cho những mối quan hệ liên lụy trước đó của mình.

Trong khi công tác tuyên truyền đang lan rộng thì chính quyền Cộng hòa không ngừng có những tiến triển tích cực ở trong nước, đặc biệt là nhờ vào những hoạt động không mệt mỏi của Gambetta. Cuộc bầu cử chính quyền các cấp năm 1874 là một thắng lợi của nền Cộng hòa.

Và ngay sau đó, phe đa số đã chia rẽ rất nhanh; những người theo chủ nghĩa chính thống, mặc dù trước đó đã thông qua luật về nhiệm kỳ 7 năm của Tổng thống, mặc dù không dám nói ra nhưng vẫn thầm trách Broglie và Mac-Mahon về thất bại của người kế vị ngai vàng Chambord; nhất là phái giữa trong Quốc hội - những người ủng hộ dòng Orléans - đang lo sợ về một nguy cơ mới mà người ta nghĩ rằng nó đã biến mất: chủ nghĩa Bonaparte. Rouher , vị “Hoàng đế đệ Nhị”, cái tên đệm mà mọi người đặt cho ông, đã tụ tập những người đi theo và ủng hộ nền Đế chế vào Đảng “Kêu gọi dân chúng” và bắt đầu một hoạt động tuyên truyền tích cực nhằm ủng hộ cho con trai của Napoléon III, vị Thái tử vương triều.

Trước nguy cơ xuất hiện một chế độ độc tài mới, những thành viên thuộc phái trung tâm trong Quốc hội vốn nghiêng về chủ nghĩa tự do hơn là chủ nghĩa quân chủ đã tính ngay thấy mối nguy hiểm mà nước Pháp đang phải đối đầu, đó là tính bấp bênh không ổn định của chế độ lâm thời.

Rất nhiều người đã ngả theo lối nghĩ của Broglie rằng thà duy trì một nền Cộng hòa bảo thủ, trong đó Tổng thống nắm mọi quyền hành của một vị vua cai trị theo hiến pháp và được sự trợ giúp của Thượng viện, cơ quan đại diện cho quyền lợi của phe Bảo thủ và có trách nhiệm ngăn chặn mọi động thái kích động của Hạ viện - cơ quan được thành lập do bầu cử - còn hơn là để xuất hiện một nền chính trị chuyên chế. Nhưng sự hiện hữu của phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã ngăn cản phái giữa nêu ý kiến của mình.

Tháng 5-1874, khi Công tước Broglie trình bày trước Quốc hội chương trình Thượng viện của mình, lập tức một liên minh chính trị giữa những người Cộng hòa, người theo chủ nghĩa chính thống và những người theo chủ nghĩa Bonaparte đã lật đổ chính phủ: phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã tan tác; nền Cộng hòa được giải cứu.
 
Sửa đổi Hiến pháp của Wallon, bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam​


Quốc hội của những đại biểu quân chủ ra đời sau cuộc bầu cử năm 1871 đã không thể tìm ra một vị vua và chính họ lập ra nền Cộng hòa.

Kể từ sau thất bại của Broglie, rất nhiều đại biểu phe trung hữu bắt đầu ngả sang cánh trung-tả, bao gồm những người Cộng hòa ôn hòa theo tư tưởng của Thiers.

Léon Gambetta đã từ bỏ tư tưởng không nhượng bộ của mình và sự lớn mạnh của Gambetta đã thúc đẩy việc thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Phe đa số dễ dàng tan rã trong cuộc bỏ phiếu về những sửa đổi Hiến pháp: những sửa đổi nào có chứa từ “Cộng hòa” đều bị loại bỏ nhưng với số phiếu ngày càng ít; rõ ràng, việc tiến hành lật đổ phe đa số là không thể chậm trễ.

Và cũng đã đến cái ngày Đại biểu Quốc hội Wallon, người công giáo theo chủ nghĩa tự do, vừa hôm qua thôi hãy còn là người của phái Orléans, đã đưa ra cho Quốc hội thống nhất với đa số đối với sửa đổi hiến pháp có thể được coi là bản khai sinh nền Cộng hòa đệ Tam: “Tổng thống nền Cộng hòa được bầu theo đa số phiếu trong Thượng nghị viện và Hạ nghị viện của Quốc hội. Tổng thống được bầu với nhiệm kỳ 7 năm và có thể được tái cử”.

Vậy là chức vị Tổng thống cá nhân của Mac-Mahon được thay bằng khái niệm mới về một vị Tổng thống vô danh, có thể được tái cử và những điều kiện bầu cử được chỉ ra trong một văn bản có giá trị liên tục. Và điều sửa đổi này của Wallon đã đánh dấu bước thắng lợi hoàn toàn của nền Cộng hòa sau 4 năm tồn tại một cách bấp bênh.

Phe Cộng hòa đã giành được thắng lợi, công việc còn lại chỉ là phải qui hoạch và xây dựng chế độ mới. Hiến pháp năm 1875 đã đáp ứng đòi hỏi này. Nhưng vì hiến pháp phải do Quốc hội phê duyệt và sửa đổi cuối cùng nên bản hiến pháp phải chịu sự chi phối của các thành phần khác nhau trong Quốc hội.

Có nghĩa là bản hiến pháp được thông qua phải là kết quả của một thỏa thuận giữa những người thuộc phái Orléans luôn theo dõi sát sao xem hiến pháp có phù hợp với một nền Quân chủ mà họ vẫn chưa hết hi vọng sẽ phục hồi sau này không - với phái trung-tả gồm những người đã từ bỏ ý định về một sự phục hồi nền Quân chủ nhưng ít nhất vẫn muốn các quyền lợi của phe Bảo thủ mà họ đại diện được bảo vệ, và những người Cộng hòa ôn hòa luôn có tham vọng vĩnh cửu hóa chế độ Cộng hòa, tất cả được tiến hành trên cơ sở những nhượng bộ về thể chế.

Bên cạnh Hạ nghị viện được thành lập sau cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu trực tiếp, một Thượng viện cũng được thành lập tương tự với một bộ phận nhỏ gồm 75 Thượng nghị sĩ không thể bị bãi miễn, lúc đầu do Quốc hội bầu ra và sau đó được các Nghị sĩ trúng cử bầu bổ sung, và một phần lớn gồm 225 nghị sĩ do Ban bầu cử gồm chủ yếu là đại diện các Hội đồng thành phố và tỉnh bầu ra, nghĩa là các Thượng nghị sĩ được bầu ở nơi quyền lực thuộc về những người bảo thủ địa phương.

Tuy vậy, Thượng nghị viện cũng sẽ được hưởng những quyền lực tương tự như Hạ nghị viện (thông qua các luật và ngân sách, giám sát hoạt động của các bộ) và có thể làm tê liệt những ý kiến do các đại biểu được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu đưa ra.

Mối quan tâm của phe đa số cũng được thể hiện qua một điều khoản khác trong Hiến pháp. Điều khoản này qui định Hiến pháp có thể được sửa đổi bởi một thủ tục rất dễ dàng và do hai Viện thông qua tại Hội nghị nhóm họp các đại biểu, qui định này được đưa ra bất kể những phản ứng của phe Cộng hòa - những người cho rằng điều đó có thể tạo điều kiện cho việc phục hồi nền Quân chủ - vài năm sau đó, để đề phòng nguy cơ nói trên, các đại biểu đã quyết định rằng thể chế Cộng hòa không thể bị đem ra làm đối tượng của việc sửa đổi Hiến pháp.
 
Quyền của Tổng thống trong Hiến pháp năm 1875​


Trước hết, bản Hiến pháp năm 1875, vốn vẫn giữ nguyên tư tưởng bảo thủ và chủ nghĩa Quân chủ, đã qui định mọi quyền lực của Tổng thống nền Cộng hòa.

Những quyền lực này đã đi ngược với mối quan tâm của hai phái chính trị: những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn trang bị cho Tổng thống những quyền mà sau này có thể chuyển giao cho Vua nếu nền Quân chủ được phục hồi, và những thành viên của phe trung hữu muốn biến Tổng thống thành con người của những kẻ có thế lực chứ không phải do bầu cử phổ thông đầu phiếu vì họ sợ rằng sẽ lại phải chứng kiến những biến cố như trong nền Cộng hòa đệ Nhị.

Điều này cũng giải thích vì sao Tổng thống không do dân chúng bầu ra như năm 1848 mà do hai Viện nhóm họp tại Hội nghị. Tổng thống chỉ đạo và điều khiển những buổi lễ trọng thể của quốc gia, cắt cử người đảm nhận những vị trí quân sự và dân sự, Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của quân đội.

Về mặt tư pháp, Tổng thống có quyền ân xá. Tổng thống cũng là người đảm bảo chính sách đối ngoại của nước Pháp vì Tổng thống là người đàm phán, phê chuẩn các hiệp ước và giám sát luôn quá trình áp dụng các hiệp ước đó (nhưng trong trường hợp này, hai Viện phải phê chuẩn).

Liên quan đến chính sách đối ngoại, Tổng thống cũng có những quyền rất quan trọng: chỉ Tổng thống mới có quyền đưa ra các dự luật (quyền này mang tính cạnh tranh với hai Viện) và trong trường hợp không đồng ý với một trong hai Viện, Tổng thống có thể đề nghị Viện đó xem xét thảo luận lại về một dự luật. Tổng thống có quyền triệu tập hai Viện họp, có quyền hoãn lại cuộc họp sau một tháng nhưng nhiều nhất là hai lần trong vòng một kỳ họp.

Và cuối cùng, một điều khoản quan trọng trong Hiến pháp nữa đó là Tổng thống có thể liên hệ với những nhân vật quan trọng để làm cho cuộc bầu cử thất bại, vì Tổng thống có quyền giải tán Hạ nghị viện sau khi có sự đồng ý của Thượng nghị viện. Những người theo chủ nghĩa chính thống đã lên tiếng phản đối việc Tổng thống buộc phải tham khảo ý kiến của Thượng nghị viện thì mới có thể quyết định giải tán Hạ nghị viện. Nhưng phe trung hữu trong Quốc hội, đại diện cho những người có thế lực và vẫn còn nhớ thái độ của Charles X khi một mình quyết định giải tán Hạ nghị viện năm 1830, thì không phản ứng gì trước quyết định trên.

Tuy nhiên, các bên đều dễ dàng đi đến thống nhất quyết định rằng Tổng thống sẽ không phải chịu trách nhiệm trước hai Viện: về phía những người thuộc chủ nghĩa chính thống, họ không thể chấp nhận việc một vị Vua phải sử dụng đến uy tín của mình để phân bua, giải thích những việc làm của mình trước hai Viện; còn phe trung hữu thì muốn rằng thực quyền phải được trao cho một vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được giới quí tộc tin tưởng.

Như vậy, điều khoản miễn trách này đã khoác trách nhiệm lên một nhân vật mà Hiến pháp không hề đề cập. Vì vậy, phải lấy thực tế hoạt động của chế độ đại nghị để giải quyết những vấn đề chưa được qui định trong Hiến pháp. Và như vậy, sau hai năm, quyền lực của Mac-Mahon mới được xác định một cách hợp pháp. Tuy nhiên, chính sách của Tổng thống lại đặt Hiến pháp trước thách thức.

Sau khi hết nhiệm kỳ của Mac-Mahon, những hậu quả do thái độ ứng xử và hành động trước đó của Tổng thống mang lại đã cho thấy rõ trong thực tế những mặt hạn chế của chức danh Tổng thống.
 
Cách Mac-Mahon trở thành người tiên phong giương cao ngọn cờ của Đảng Bảo thủ​


Sau thất bại của Broglie, Mac-Mahon đã thành lập một chính phủ gồm những kĩ thuật viên do người bạn cũ của ông là tướng Cissey điều khiển.

Sau đó, đến lượt phe đa số thành lập một chính phủ Buffet mờ nhạt nhưng kể từ sau khi bỏ phiếu thông qua luật hiến pháp thì đời sống chính trị dường như đã chỉ còn mối quan tâm duy nhất đó là viễn cảnh phân chia Quốc hội đang đến rất gần khi mà nó đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Đằng sau những lời phát biểu trước công chúng, mỗi đảng phái đều đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử sắp tới, ngầm hi vọng có thể thao túng nền Cộng hòa non trẻ vừa mới thành lập. Những người Cộng hòa hi vọng sẽ thắng trong cuộc bầu cử và họ đặt niềm tin vào hoạt động kép của hai thủ lĩnh của mình, hai người trước đây từng là đối thủ của nhau nhưng nay đã hòa hợp trở lại, đó là Thiers và Gambetta.

Gambetta trong một bài diễn văn rất hùng hồn đã công bố sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới: “những tầng lớp xã hội mới xuất hiện từ sau cuộc Cách mạng Pháp và bầu cử, đã hòa hợp với tầng lớp tiến bộ của xã hội cũ, như vậy, cuối cùng chúng ta sẽ có thể kết thúc cuộc cách mạng vĩ đại bắt đầu diễn ra từ năm 1789 bằng một liên minh chặt chẽ và ngày càng rộng khắp giữa tầng lớp tư sản và tầng lớp vô sản”. Là đại diện cho tầng lớp tư sản đó, Adolphe Thiers là gương mặt đáng tin cậy của đảng Cộng hòa, Đảng có phương châm mà người ta thường nhắc đến: “Nền Cộng hòa hoặc sẽ là bảo thủ hoặc sẽ không còn là nó nữa”.

Đối lại Đảng Cộng hòa, phe đa số cũng xuất hiện trước cử tri với bản tổng kết những kết quả to lớn mà mình đã đạt được từ năm 1871, với uy tín lẫy lừng của Mac-Mahon nhưng đồng thời cũng thể hiện khiếm khuyết nặng nề của phe này, đó là việc chia rẽ nội bộ. Và để lảng tránh điều này, phe đa số sau đó đã nhấn mạnh và đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến thuật của mình hình ảnh Nguyên soái - Tổng thống Mac-Mahon.

Phe này đã tư vấn Mac-Mahon ký vào một lời kêu gọi “sự đoàn kết của những người luôn đặt sự bảo vệ trật tự xã hội, sự tuân thủ pháp luật, sự tận tụy hết lòng vì Tổ quốc lên trên những hồi ức quá khứ, những ham muốn và những mục tiêu của đảng mình”. Điều đó đã làm cho Tổng thống trở thành người giương cao ngọn cờ tiên phong của Đảng Bảo thủ và khiến đảng này bị thất bại trong cuộc bầu cử. Và cuộc bầu cử 2-1876 đã đem lại thắng lợi cho những đại biểu Cộng hòa khi phái này trở thành đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện.
 
Jules Simon, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: khủng hoảng thể chế bắt đầu​


Cuộc bầu cử năm 1876 đã buộc người ta phải lựa chọn giữa hai quan niệm về chức danh Tổng thống nền Cộng hòa, một vị trí mà theo qui định của Hiến pháp đã bị đặt dưới ảnh hưởng kép của những người theo chủ nghĩa chính thống luôn muốn có một Tổng thống nắm trong tay nhiều quyền lực và những cựu thành viên của phái Orléans vẫn luôn rất gắn bó với chế độ đại nghị.

Hai quan niệm này chỉ có thể cùng tồn tại nếu phe đa số trong Quốc hội và Tổng thống hoàn toàn thống nhất với nhau, còn nếu có xung đột xảy ra thì người ta buộc phải chọn một trong hai quan điểm đã nêu. Liệu Tổng thống có phải là vị nguyên thủ thực sự nắm quyền hành pháp không hay đó chỉ là một nhân vật có tính chất trang trí, còn thực quyền thì lại trao cho một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Quốc hội tin tưởng?

Vấn đề này chưa được đặt ra ngay lập tức khi Mac-Mahon đã tìm được một cách cho phép ông vẫn tôn trọng được ý kiến quần chúng trong cuộc bầu cử mà không mất đi niềm tin của mình. Ông chỉ định một người bạn của Thiers là Dufaure lên nắm quyền, Dufaure vốn là người gia nhập muộn vào Đảng Cộng hòa và là người đại diện cho cánh ôn hòa nhất trong Đảng Cộng hòa. Dufaure muốn lãnh đạo trong hòa khí với Hạ nghị viện của những người Cộng hòa, Thượng nghị viện của phe bảo thủ và với Tổng thống không kém bảo thủ.

Nhưng đó là điều không thể và Dufaure đã trở nên suy yếu dần: Mac-Mahon không tin tưởng chính sách của Dufaure, ông tức giận khi thấy người lãnh đạo mới này, vì chịu sức ép của Quốc hội mà hi sinh những tỉnh trưởng đã phục vụ rất trung thành cho chính phủ “Trật tự Đạo đức”; về phần mình, phe đa số mới trong Quốc hội cũng nổi cáu trước tính nhút nhát của Dufaure và thái độ nể nang Tổng thống quá rõ ràng của ông ta.

Tháng 12-1876, Dufaure rút khỏi chính trường và Mac-Mahon lại gọi Jules Simon lên thay. Jules Simon, một người Cộng hòa ôn hòa nhưng lại đối đầu với Gambetta, là kẻ đáng sợ nhất đối với những lãnh tụ phe đa số dù rằng thiên hướng chính trị của Jules Simon đang ngày càng chuyển rõ sang ôn hòa.

Tuy nhiên, khác với Dufaure, Jules Simon là Đảng viên Cộng hòa đã từ lâu và nhân vật này không muốn phải đóng vai trò lá chắn giữa Tổng thống và Quốc hội giống như người tiền nhiệm của mình đã chấp nhận: “Nội các mà các ngài đang có trong tay là một nội các và luôn muốn là một nội các theo chế độ nghị viện. Cho nên nhiệm vụ của chúng ta chỉ còn là việc làm theo những gì mà vị quan chức cao nhất của nền Cộng hòa chỉ ra, vị lãnh đạo này trong mọi điều kiện luôn cố gắng tuân theo nguyên tắc của một chính phủ hành động theo hiến pháp”.

Với lời tuyên bố trên trước Hạ nghị viện, Jules Simon vừa vẽ ra chính sách lý tưởng của mình vừa đồng thời gửi thông điệp đến Tổng thống rằng ông ta chỉ chấp nhận điều hành đất nước trong trường hợp hoàn toàn thống nhất với Tổng thống và Quốc hội: từ đó, khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.
 
Cuộc khủng hoảng ngày 16-5-1877​


Giữa Tổng thống và Quốc hội có một vấn đề tạo hố sâu ngăn cách, đó là vấn đề tôn giáo. Bản thân Jules Simon đã từng cấm đoán việc thông qua một đơn kiến nghị đòi ngăn chặn chính sách chống tầng lớp tăng lữ của chính phủ Italia và điều này đã bị những tín đồ Thiên chúa giáo trong Hạ nghị viện lên án kịch liệt.

Jules Simon đã trả lời một cách ôn hòa và kiên quyết và chỉ ra sự thái quá của một “thiểu số” các tín đồ Thiên chúa giáo, đồng thời tuyên bố rằng nước Pháp sẽ không can thiệp vào các vấn đề hoàn toàn riêng tư của Italia. Tổng thống Pháp khen ngợi Jules Simon về bài diễn văn, nhưng phe đa số của những người Cộng hòa, với chất kết dính duy nhất là việc chống lại chủ nghĩa tăng lữ, thì hi vọng Chính phủ sẽ xem xét một cách nghiêm khắc những người theo chủ nghĩa tăng lữ.

Và ngay từ ngày 4-5-1876, Gambetta cũng đã bước lên diễn đàn phát biểu một bài diễn văn hùng hồn, ông nói: “Một người Thiên chúa giáo mà có lòng yêu nước, điều này thật hiếm có biết bao!” và ông kết thúc bài diễn văn của mình bằng một câu nói nổi tiếng sau đó đã trở thành một lời kêu gọi liên kết của phe Cộng hòa: “Chủ nghĩa tăng lữ, đó là kẻ thù!”

Sau đó, một chương trình nghị sự đã được thông qua, chương trình này lên án những âm mưu của thế lực ủng hộ quyền lực Giáo hoàng. Sau khi đọc bản báo cáo các cuộc tranh luận, Tổng thống vô cùng tức giận. Tổng thống không còn là người ngây thơ về chính trị như người ta vẫn thường đồn đại nữa, ông hiểu rằng việc chỉ trích chủ nghĩa tăng lữ chính là việc kết tội chính sách của Trật tự Đạo đức; nhất là ông không thể chấp nhận việc Jules Simon bỏ qua mà không phản bác câu nói của Gambetta khi ông này nghi ngờ chủ nghĩa yêu nước của những người theo Thiên chúa giáo, câu nói mà Tổng thống cho rằng đã nhằm thẳng vào ông. Tổng thống tìm cách thoát ra khỏi tình huống khó xử đó.

Nhưng Broglie thì hiểu rằng cắt đứt quan hệ với chính phủ Trật tự Đạo đức có nghĩa là sẽ đối đầu với Hạ nghị viện, sẽ buộc phải tiến hành giải tán và như vậy sẽ phải chấp nhận cuộc bầu cử để giải quyết vấn đề tôn giáo theo chiều hướng không có lợi cho phe Bảo thủ. Vì vậy, Broglie đã khuyên Mac-Mahon hãy kiên nhẫn chờ thời.

Ngày 15-5, thời cơ đã đến; Hạ nghị viện sau khi bãi bỏ một đạo luật của thời kỳ Trật tự Đạo đức, đã báo cáo lên các thẩm phán nhân dân thông tin về những vi phạm pháp luật về báo chí mà Chính phủ của Broglie đã trao cho toà hình sự trước đó. Jules Simon đã phớt lờ đạo luật mà không can thiệp vào việc này.

Ngày hôm sau, 16-5, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nhìn thấy trên bàn của mình một bức thư của Tổng thống:

“Thưa Ngài Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tôi vừa mới đọc được trong Công báo bản báo cáo về phiên họp hôm qua. Tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy rằng cả Ngài và Ngài Bộ trưởng Bộ Tư pháp đều không ai đứng trên diễn đàn để nêu lên và nhấn mạnh những lý do chính có thể đã gây nên việc bãi bỏ đạo luật về báo chí đã được thông qua cách đây gần hai năm […]

Mọi người có thể đã rất ngạc nhiên khi thấy Hạ viện thông qua một vài điều khoản của một đạo luật địa phương trong những phiên họp vừa qua - đạo luật mà ngay chính bản thân ngài, trong cuộc họp với Hội đồng Bộ trưởng, đã thừa nhận tính nguy hiểm của nó […] dù Ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã không tham gia thảo luận trong phiên họp này.

Thái độ này của người đứng đầu nội các khiến người ta tự hỏi liệu người đó có dùng ảnh hưởng cần thiết đối với Hạ nghị viện để áp đặt quan điểm của mình hay không.

Việc này cần phải được giải thích; bởi vì, nếu tôi không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội như Ngài thì tôi lại phải có trách nhiệm với nước Pháp, điều mà hiện nay, hơn lúc nào hết, tôi đang phải quan tâm…”

Với lá thư trên, Tổng thống muốn khẳng định rằng nhân danh trách nhiệm của mình với nước Pháp, Tổng thống có quyền khiển trách một Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Hạ nghị viện tin dùng. Jules Simon và các Bộ trưởng trong nội các của ông từ chức ngay lập tức và Mac-Mahon đã bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng một nhân vật mới là Công tước Broglie, người này chắc chắn sẽ chỉ đối đầu với phe đa số của Đảng Cộng hòa trong Hạ viện.

Ngày 18-5, Broglie đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống. Trong bức thông điệp này, Tổng thống đã tuyên bố rằng hai Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với tham vọng lãnh đạo cùng với những người Cộng hòa ôn hòa đều đã phải chịu kết cục thất bại trước những thành viên của Đảng Cấp tiến; rằng trong những điều kiện này, một chính phủ bền vững, ổn định chỉ có thể được hình thành nếu những Đảng viên Đảng Cấp tiến được mời ra nắm quyền để thực hiện những ý tưởng của họ:

“Thế nhưng, Tổng thống đã tuyên bố, lương tâm của tôi cũng như lòng yêu nước trong tôi đều không cho phép tôi gắn mình với chiến thắng của những ý tưởng đó, dù chỉ là từ xa và trong tương lai mà thôi. Tôi không tin rằng những ý tưởng đó hợp với thời đại ngày nay cũng như sau này. Nếu ở vào thời đại nào đó mà những ý tưởng trên được coi là có giá trị thì nó cũng sẽ chỉ tạo nên sự lộn xộn và suy yếu của nước Pháp mà thôi. Bản thân tôi không muốn thử áp dụng những ý tưởng đó và cũng không khuyến khích những người kế cận tôi áp dụng nó. Chừng nào tôi còn là người nắm quyền, chừng đó tôi còn sử dụng khả năng mình có, với tất cả những hạn chế do pháp luật qui định về quyền Tổng thống, để chống lại những gì mà tôi cho là làm tổn hại đến quốc gia”.

Mac-Mahon đã sử dụng những điều khoản trong Hiến pháp qui định Tổng thống là vị lãnh đạo nắm quyền hành pháp để đòi hỏi quyền được đưa ra chính sách riêng của mình và chống lại chính sách của Hạ nghị viện nếu Tổng thống thấy chính sách đó là nguy hiểm và có hại. Đối với Hiến pháp vừa mới được thông qua, chẳng có gì cần nói ngoài việc bản Hiến pháp rất đúng luật, nhưng khi Tổng thống khiến người ta nghi ngờ về những tư tưởng Cộng hòa của ông ta và khi Tổng thống đối đầu với phe đa số Cộng hòa trong Hạ nghị viện thì vấn đề lại trở nên khác đi.

Khi Tổng thống đòi hỏi một số quyền của mình thì người ta nhận thấy đó là một cố gắng cuối cùng để cáo giác nền Cộng hòa theo nguyện vọng của phe Quân chủ giấu mặt. Đây là điều tối quan trọng trong cuộc khủng hoảng ngày 16-5 và những hậu quả của nó.
 
Cuộc bầu cử năm 1877: “Cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”​


Thứ Sáu, 26/06/2009, 18:30 (GMT+7)

Cuộc bầu cử năm 1877: “Cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”

TTO - Sau khi đọc trước Hạ nghị viện bức thông điệp của Tổng thống, Broglie lại cho đọc một sắc lệnh về việc hoãn họp Quốc hội sau 1 tháng.

Khoảng thời gian này sẽ cho phép Chính phủ có thể chuẩn bị cho cuộc bầu cử sẽ diễn ra sau khi giải tán Hạ nghị viện. Và thực tế, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cựu thành viên của chủ nghĩa Bonaparte, ông Fourtou, đã cách chức hơn 200 công chức là người Cộng hòa và thay thế họ bằng những người theo chủ nghĩa Bonaparte vốn đã quen với việc xử lý đám đông bằng những cú đấm và giúp cho những ứng cử viên là quan chức thắng cử.

Về phần mình, những người Cộng hòa bắt đầu tập hợp và tổ chức công việc. Ý thức rõ về vai trò của cuộc bầu cử, những người này chủ trương không coi nhẹ bất cứ điều gì để có thể giành thắng lợi và đảm bảo quyền của Hạ nghị viện trong nền Cộng hòa.

363 Đại biểu Cộng hòa trong Hạ nghị viện đã nhóm họp bất chấp sắc lệnh hoãn họp và công bố bản tuyên ngôn do một người bạn của Gambetta là Eugène Spuller soạn thảo: “Nước Pháp muốn có nền Cộng hòa, nước Pháp đã tuyên bố như vậy ngày 20/2/1876, và nước Pháp còn tiếp tục khẳng định điều đó… Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy lên tiếng thể hiện quan điểm và sự lựa chọn của mình giữa một bên là chính sách phản động đầy mạo hiểm sẽ phá huỷ một cách tàn nhẫn những gì mà chúng ta đã vất vả mới giành được từ 6 năm nay, và một bên là chính sách khôn ngoan và kiên quyết, vì hòa bình và phát triển mà các bạn đã thấy… Nền Cộng hòa sẽ ra đời từ những hòm phiếu nhân dân và lớn mạnh hơn bao giờ hết”.

Và vào ngày 16-6-1877, khi Hạ nghị viện tụ họp một lần nữa thì các bên đều đã sẵn sàng cho cuộc chiến. Fourtou tuyên bố trước phe đối lập: “Chúng tôi không có cùng niềm tin với các ngài và các ngài cũng không có cùng niềm tin với chúng tôi…”.

Hạ nghị viện đã đáp trả bằng cách thông qua một chương trình nghị sự trước những đòi hỏi của Mac-Mahon nhằm khẳng định nguyện vọng của mình là Hiến pháp phải được áp dụng theo chế độ đại nghị: “Xét thấy Chính phủ […] đã được huy động để giải quyết các vụ việc trái với luật đã được các kỳ Quốc hội thông qua - đạo luật đóng vai trò là nguyên tắc hành động của Chính phủ theo chế độ đại nghị, đồng thời cũng thấy rằng Chính phủ chỉ đại diện cho liên minh chính trị giữa các đảng thù địch với nền Cộng hòa, một liên minh được dẫn dắt bởi những người khởi xướng các hoạt động biểu tình của giới tăng lữ đã bị Hạ nghị viện lên án […], Hạ nghị viện tuyên bố Chính phủ không được sự tín nhiệm của các Đại biểu quốc hội đại diện cho quốc gia…”.

Ngày 25-6-1877, được sự đồng ý của Thượng nghị viện, Mac-Mahon đã giải tán Hạ nghị viện: chiến dịch tranh cử quan trọng nhất trong lịch sử nền Cộng hòa bắt đầu. Tướng Mac-Mahon liên tục gửi đi những thông điệp, thay đổi cách xử lý việc ứng cử của quan chức (“Chính phủ của tôi sẽ chỉ ra trong số các ứng cử viên những ai tôi có thể trông cậy được”).

Ông cũng xuất hiện ở hầu hết các vùng của Pháp với một niềm hạnh phúc không giống nhau ở từng nơi: nếu chuyến đến thăm nơi hành hương Saint-Anne d’Auray của vùng Bretagne là một thắng lợi thì ở Bordeaux lại là cảnh những gã ranh con đu mình trên những cây đèn đường hay bủa kín lấy xe của Mac-Mahon mà hét lên: “Nền Cộng hòa muôn năm!”. Khi đó, những người Cộng hòa vốn tỏ ra chỉ đối đầu với Chính phủ và còn nể nang Tổng thống thì nay vội thoát ra khỏi vỏ bọc ôn hòa của họ. Ở Lille, Gambetta đã đọc một bài diễn văn cáo giác Mac-Mahon: “Khi hàng nghìn người Pháp phải lên tiếng thì sẽ không ai, dù ở vị trí nào, bậc nào trong nấc thang chính trị, có thể chống lại được. Một khi nước Pháp muốn nói lên tiếng nói độc lập chủ quyền của mình thì xin các ngài hãy tin điều này: cần phải nhượng bộ hoặc từ chức”.

Chính phủ truy cứu Gambetta vì những lời lăng mạ Tổng thống, điều này đã khiến những gì ông nói được lan truyền rộng rãi và hơn nữa còn làm hại thanh danh của Nguyên soái. Không gì có thể có lợi hơn thế cho những người Cộng hòa. Nếu thắng cuộc, phe Cộng hòa đã có nhân vật để thay thế Tổng thống, nhân vật đó chỉ có thể là người biết trấn an tầng lớp tư sản thương nhân: Adolphe Thiers.

Người này thực sự là thủ lĩnh của Đảng Cộng hòa, đã có những cố gắng lớn và là ứng cử viên tại hòm phiếu ở quận IX của Paris. Ông đang chuẩn bị một bản tuyên ngôn để đọc trước cử tri. Tham gia vào cuộc bầu cử lần này, ông muốn phục thù cho thất bại ngày 24-5-1873.
 
Mac-Mahon chịu nhượng bộ​


Điều kiện thuận lợi trên đã không phát huy tác dụng với Thiers: một tháng trước khi diễn ra cuộc bầu cử, Thiers chết vì chứng sung huyết.

Bị mất đi người tiên phong, những người Cộng hòa rất lo lắng: họ sẽ lấy ai thay thế Thiers? Họ sẽ thay Thiers bằng Gambetta, một người quá gần gũi và quen thuộc với quần chúng ư? Như vậy chẳng phải là họ mạo hiểm làm cho tầng lớp tư sản khiếp sợ vì tầng lớp này luôn thấy Gambetta là một tông đồ của cuộc Cách mạng xã hội?

Cẩn trọng hơn, họ chọn nhân vật máu lạnh Jules Grévy , người mà Thiers tin tưởng từ năm 1871. Sự lựa chọn này kết thúc một cách tốt đẹp: cuộc bầu cử đã đem lại chiến thắng cho 315 Đảng viên Cộng hòa và 199 đảng viên đảng bảo thủ. Dĩ nhiên là phe đa số Đảng Cộng hòa đã giảm đi nhưng chắc chắn nó vẫn còn là đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện.

Bị đánh bại, Mac-Mahon sẽ chấp nhận nhượng bộ hay từ chức? Ông ta sẽ lần lượt làm từng bước một. Trước khi nhượng bộ, ông còn cố lần chần né tránh. Broglie chỉ quyết định từ chức hai tuần sau cuộc họp của Hạ nghị viện mới. Vì vậy, Tổng thống đã chỉ định một trong những người thân cận của mình là Tướng Rochebouet ra lãnh đạo chính phủ, vị Tướng này thành lập một chính phủ gồm những người không có chân trong Quốc hội.

Nhưng Quốc hội từ chối không quan hệ với vị Tướng này. Mac-Mahon không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào: Broglie, vị cố vấn mà Tổng thống vẫn nghe lời nhất thì khuyên ông nên từ chức nếu không muốn trở thành thứ đồ chơi trong tay những người Cộng hòa; nhưng Công tước Audiffret-Pasquier, Chủ tịch Thượng nghị viện thì lại khuyên Tổng thống nên nhượng bộ và ông này tuyên bố rằng Thượng nghị viện sẽ không tán thành việc giải tán Hạ nghị viện một lần nữa.

Đã nhiều lần, Mac-Mahon định làm theo ý kiến của Broglie và định dứt khỏi quyền lực. Nhưng Tổng thống bị giới cận thần gồm những người theo chủ nghĩa chính thống và những sĩ quan quân đội ngăn cản vì những người này lo sợ hậu quả sẽ xảy ra nếu Tổng thống từ chức nhường lại lãnh địa của mình cho phe Cộng hòa. Cuối cùng, Mac-Mahon triệu tập Đảng viên Cộng hòa ôn hòa nhất mà người ta có thể tìm thấy, đó là Dufaure.

Nhưng nhân vật này, do đã quá thấu hiểu sự tình nhờ những sự kiện vừa xảy ra, nên không muốn một lần nữa dấn thân làm mồi cho những sự chỉ trích và trách cứ mà trước đây người ta đã làm với mình, không muốn mình bị coi là hình nộm của Tổng thống nên trước khi nhận lời, Dufaure đặt ra một số điều kiện.

Chính phủ mới được thành lập sẽ chỉ gồm Dufaure và những người Cộng hòa mà bản thân ông sẽ chọn, chính phủ sẽ hoàn toàn độc lập với Điện Élysée và Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký một bức thông điệp công khai trong đó Tổng thống khẳng định sẽ một mực tôn trọng những qui định của Quốc hội.

Vậy là Nguyên soái đã nhượng bộ, và theo sự dẫn dắt của Dufaure, ông đi từ sự phục tùng này sang sự nhượng bộ khác: trước tiên ông sẽ phải xa rời viên Cảnh sát trưởng Voisin, rồi sau đó là một số người cộng tác thân cận của mình như Hầu tước Harcourt vì người ta cho rằng vị Hầu tước này đã khởi xướng cho Tổng thống chính sách chống lại nền Cộng hòa; cuối cùng, Tổng thống sẽ phải chấp nhận ký vào một bức thông điệp nổi tiếng có sửa đổi chút ít để khỏi quá làm mất thể diện:

“Hiến pháp năm 1875 đã lập ra một nền Cộng hòa đại nghị với điều khoản miễn trách cho tôi trong khi nó lại đòi hỏi sự đồng trách nhiệm của các Bộ trưởng. Vì vậy mà nghĩa vụ và quyền lợi của chúng ta được thiết lập lần lượt. Sự độc lập của các Bộ trưởng là điều kiện để qui trách nhiệm cho họ. Những nguyên tắc được rút ra từ Hiến pháp này là những nguyên tắc điều hành của tôi”.

Do vậy Dufaure rất bằng lòng về mọi phương diện: về mặt chính trị, Tổng thống hầu như không còn quyền lực. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Marcère đã miêu tả thái độ của Tổng thống cho Hội đồng

Bộ trưởng đầu tiên được thành lập sau khi thành lập chính phủ của Dufaure: “Nguyên soái bước vào. Ông đỏ mặt, rất xúc động và gần như cảm thấy nhục nhã; ông giống như một tên lính phải hạ vũ khí. Ông nói một vài lời ngắn gọn và không giấu nổi việc ông đã phải cố gắng kìm nén như thế nào trước mặt chúng tôi. Ông nói ông phải thành lập một chính phủ không như mong muốn mà bị bắt buộc, rằng đáng ra ông đã có thể rút lui cùng với những người cùng ông làm nên ngày 16/5; nhưng sở dĩ ông không làm như vậy là vì cảm thấy đó là một nghĩa vụ; ông đồng ý rằng sự hiện hữu của mình với tư cách lãnh đạo chính phủ là cần thiết cho nước Pháp trên phương diện ngoại giao […] giọng ông rất xúc động […] gương mặt ông run lên”.
 
Mac-Mahon từ chức​


Nếu Mac-Mahon đã từng chấp nhận ở lại vị trí Tổng thống là bởi vì Thượng nghị viện với phe đa số thuộc Đảng Bảo thủ cũng có những phương tiện hành động như Hạ nghị viện nên có thể giúp Nguyên soái đưa ra những lý lẽ đủ mạnh trước Chính phủ.

Thực tế, Chính phủ cảm thấy bị buộc phải nương nhẹ với Mac-Mahon và đặc biệt là để cho Tổng thống theo dõi một cách sát sao những sự vụ trong quân đội; Tổng thống đã yêu cầu cử Tướng Borel, sĩ quan tuỳ tùng cũ của mình làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh cho dù Dufaure không dám phản đối việc này.

Dường như đã có vài tháng đình chiến chính trị giữa Tổng thống và phe đa số vì một sự kiện diễn ra: ngày 1-5-1878, Mac-Mahon được khánh thành Cuộc triển lãm Quốc tế Paris và tổ chức những buổi lễ xa hoa tại Điện Élysée, nơi tụ họp những vị vua chúa châu Âu; đặc biệt, Tổng thống được điều khiển những cuộc duyệt binh hoành tráng. Nhưng đó là những đốm lửa cuối cùng của Mac-Mahon ở cương vị Tổng thống.

Ngay sau khi cuộc triển lãm kết thúc thì cuộc hưu chiến chính trị cũng đến hồi kết. Tháng 1-1879 đã diễn ra cuộc bầu cử bầu lại một phần ba số đại biểu trong Thượng nghị viện; những bước tiến lớn của Đảng Cộng hòa trong các chiến dịch tranh cử được minh chứng bằng kết quả bầu cử cấp quận năm 1877 và bầu cử cấp xã năm 1878 và điều này đã có tiếng vang lớn đến cuộc bầu cử Thượng nghị viện; thắng lợi của những người Cộng hòa khiến cho trước đây họ chỉ chiếm thiểu số trong Thượng nghị viện thì nay họ đã có 60 phiếu đa số.

Hiện tại, Mac-Mahon không còn quyền lực về chính trị, và những người Cộng hòa biết rất rõ điều đó, họ bèn từ bỏ những nương nhẹ, nể nang mà họ vẫn buộc phải dành cho Tổng thống cho đến tận thời điểm đó. Dưới sức ép của Hạ nghị viện, Dufaure yêu cầu tướng Borel phải từ chức, nhưng Nguyên soái ngay lập tức lại thay Borel bằng một Tướng tin cẩn khác của mình.

Bị vượt quyền, Tổng thống phải ký sắc lệnh cách chức rất nhiều quan chức cấp cao đã từng giúp đỡ các nhân vật của ngày 16-5 và phải hi sinh nhiều tổng kiểm sát trưởng, trưởng khu giáo dục, tỉnh trưởng, quan chức cấp cao trong ngành tài chính, những người đã từng phục vụ chính phủ của ông vài tháng trước đó.

Nhưng ngày 28-1-1879, Bộ trưởng mới phụ trách Bộ Chiến tranh yêu cầu Tổng thống ký một sắc lệnh quyết định thuyên chuyển 5 Tư lệnh quân đội và cho nghỉ việc 5 người khác thì Mac-Mahon rất giận dữ và từ chối ký. Các Bộ trưởng đều đã có vị trí của mình, còn Mac-Mahon vì không muốn chấp nhận sự nhượng bộ cuối cùng này nên đành phải dùng giải pháp “từ chức”. Ngày 30-1, Tổng thống gửi cho các Chủ tịch Thượng nghị viện và Hạ nghị viện bức thông điệp sau:

“Thưa Ngài Chủ tịch, Ngay từ khi khai mạc phiên họp này, Chính phủ đã trình lên quí Ngài chương trình về các dự luật của mình, những dự luật này, vì để làm hài lòng dư luận, nên có thể sẽ được thông qua mà không nguy hại gì cho an ninh quốc gia và việc điều hành đất nước. Không kể đến mọi ý kiến cá nhân khác, tôi đã đồng ý với chương trình trên, bởi vì tôi không bỏ qua bất cứ một nguyên tắc nào mà lương tâm mình bảo mình phải trung thành với nó.

Hôm nay, vì tin rằng sẽ được đa số các đại biểu của hai Viện ủng hộ, Chính phủ yêu cầu tôi phải thực hiện một số biện pháp đối với các tướng lĩnh quân đội mà tôi cho rằng những biện pháp đó đã xâm hại đến danh dự và an ninh của quân đội cũng như của quốc gia. Tôi không thể nhượng bộ chuyện này.

Với lời từ chối này, Chính phủ sẽ ngãng ra. Thực ra thì bất kỳ một chính phủ nào được hình thành từ những thành viên của hai Viện đều sẽ áp đặt những điều kiện tương tự với tôi.

Cho nên tôi tin rằng mình cần phải rút ngắn nhiệm kỳ mà Hạ nghị viện đã tin tưởng trao trách nhiệm cho tôi. Tôi xin đệ đơn từ chức Tổng thống nền Cộng hòa.

Khi từ bỏ quyền lực, tôi muốn khẳng định rằng trong suốt 53 năm phục vụ đất nước mình với tư cách là một người lính, và một công dân, tôi chưa bao giờ để mình bị chi phối bởi bất cứ thứ tình cảm nào khác ngoài ý thức về danh dự và nghĩa vụ cũng như một lòng tận tụy với Tổ quốc…”.
 
Một nhân vật bù nhìn trong vai trò vật trang trí​


Vậy là, gần hai năm sau sự kiện ngày 16-5, Mac-Mahon đã rút ra những bài học logic về thất bại của mình.

Nhưng vào thời điểm rút lui khỏi vị trí Tổng thống, người từng theo chủ nghĩa Quân chủ này, dù không muốn, đã vô hình chung cho người ta thấy rõ những đặc tính của chức danh Tổng thống trong suốt giai đoạn tồn tại của nền Cộng hòa đệ Tam.

Trong hai cách hiểu về vai trò Tổng thống mà Hiến pháp năm 1875 đưa ra thì cuộc khủng hoảng ngày 16-5 đã khiến người ta thấy cách hiểu có giá trị thực tế là: Tổng thống chỉ như một nhân vật để trang trí và bị tước mọi thực quyền. Chắc chắn nếu như Mac-Mahon bị buộc phải nhượng bộ thì đó là bởi vì phe đa số của những người Cộng hòa hoàn toàn có quyền nghi ngờ chính sách ủng hộ chủ nghĩa Quân chủ của Tổng thống.

Nhưng khi Mac-Mahon ra đi, những người Cộng hòa kế nhiệm ông được thừa hưởng từ Tổng thống một thứ quyền lực mà thực tế 4 năm qua đã cắt xén mất. Từ nay trở đi, Tổng thống nền Cộng hòa có thể đưa ra một chính sách khác với chính sách của phe đa số trong Quốc hội, Tổng thống cũng có thể điều hành chính phủ một cách thực sự dù điều đó không đúng hoàn toàn với câu chữ trong Hiến pháp.

Sử dụng những vũ khí hợp pháp mà pháp luật trao cho có nghĩa là Tổng thống lựa chọn các Bộ trưởng, chỉ định hoặc tự mình cách chức các quan chức hay sĩ quan, yêu cầu hai Viện tiến hành thảo luận lại các dự luật; còn nếu hành động như Mac-Mahon có nghĩa là đã hành động như một kẻ đi ngược với nền Cộng hòa.

Cũng theo logic trên thì thấy rằng sử dụng quyền giải tán Quốc hội như Mac-Mahon đã làm ngày 16-5 có nghĩa là đưa ra một chính sách cá nhân; và nếu như vậy thì quyền giải tán Hạ nghị viện sẽ bị bỏ xó, dù đó là một vũ khí cơ bản của Tổng thống, một đối trọng không thể thiếu để chống lại quyền lực tuyệt đối của Quốc hội theo tinh thần của Hội đồng lập hiến năm 1875. Sau ngày 16-5, không một Tổng thống nào của nền Cộng hòa đệ Tam còn dám giải tán Hạ nghị viện.

Từ đó, các vị Tổng thống đều sẽ xóa đi dấu ấn của mình đằng sau vị trí Tổng thống. Sẽ không có gì là thái quá khi nói rằng chính sự kiện ngày 16/5 chứ không phải là Hiến pháp năm 1875 đã tạo nên chức danh Tổng thống trong giai đoạn nền Cộng hòa đệ Tam.
 
Thời của hoa Cúc? (1879 - 1958)​


Trong suốt gần 80 năm nền Cộng hòa sống trên di sản thể chế do cuộc khủng hoảng 16-5 để lại (trừ những năm gián đoạn từ năm 1940 - 1946 khi nước Pháp bị chiếm đóng, chế độ độc tài Vichy và các chính phủ lâm thời nối tiếp nhau đã bỏ qua các qui tắc của nền chính trị dân chủ ở Pháp).

Điều này có nghĩa là Tổng thống của nền Cộng hòa tuy vẫn giữ vai trò đại diện chính trị nhưng chỉ còn là Tổng thống trên danh nghĩa. Sự thất bại trong cuộc chiến cộng với việc Mac-Mahon từ chức đưa chức vụ Tổng thống đến gần với vai trò mà phe Cộng hòa, lúc đó đang chiếm đa số trong cả hai Viện, dành cho ông ta.

Vai trò của Tổng thống trong tình thế như vậy được Tướng De Gaulle gọi một cách cay nghiệt là ‘’khai mạc những bông hoa cúc‘’. Và trên thực tế, đúng là dù Tổng thống có là Chủ tọa của Hội đồng Bộ trưởng thì cũng không còn là người lãnh đạo nền Cộng hòa nữa.

Những quyền quan trọng mà bản Hiến pháp năm 1875 trao cho Tổng thống từ nay sẽ do chủ tịch của Hội đồng Bộ trưởng đảm nhiệm. Nhân vật này không tồn tại về mặt thể chế nhưng lại đảm nhiệm những vai trò chính trị mà thực tế không còn cho phép Tổng thống thực hiện nữa, chẳng hạn như thành lập chính phủ thông qua việc chỉ định các vị Bộ trưởng dựa trên hai tiêu chí là năng lực (có thể có) và khả năng thích nghi của họ để có thể thành lập một đa số tại nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tam, tại Hạ nghị viện dưới thời Cộng hòa đệ Tứ; xác lập và lãnh đạo chính sách của quốc gia, bảo vệ hoạt động của chính phủ trước hai Viện…

Về phần mình, Tổng thống phải từ chối sử dụng những vũ khí mà các văn bản hiến pháp đã dành cho mình vì sợ bị kết tội phá hoại nền Cộng hòa. Các quyền này là: quyền giải tán nghị viện, quyền yêu cầu thảo luận lại một lần nữa các dự thảo luật đã được thảo luận tại nghị viện nếu như Tổng thống không đồng ý với nội dung của các dự thảo đó.

Dưới con mắt của người dân Pháp, một Tổng thống tốt là người vượt lên trên các vấn đề chính trị, đại diện cho đất nước một cách hoàn thiện, làm vinh danh đất nước bằng sự oai vệ, bằng tài hùng biện, thậm chí là bằng sự lịch lãm của mình. Nói cách khác là khi người ta được bầu vào Viện công tố tối cao, người ta phải rời bỏ chính trường năng động để đi vào trường danh vọng không quyền lực.

Trong tình hình như vậy, nhắc đến hàng loạt đời Tổng thống Pháp từ Jules Grévy đến René Coty (dân chúng Pháp đã quên phần lớn các nhân vật này) có vẻ như là một việc làm đẹp đẽ nhưng vô nghĩa. Vấn đề là ở chỗ, trong chính trị, có được sự trùng hợp giữa một bên là vẻ bề ngoài mang tính đại diện và một bên là thực tế không hề dễ dàng.

Bị bó buộc bởi sức nặng của hoàn cảnh, rồi truyền thống chính trị sau ngày 16-5, bởi sự khiêm tốn đến mức xóa nhòa chính mình, các vị Tổng thống của nền Cộng hòa không phải vì thế mà không có vai trò quan trọng gì. Về điểm này, tính cách riêng của từng người là một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua. Bên cạnh những Tổng thống như Sadi Carnot hay Albert Lebrun muốn tự giới hạn mình bởi những đặc quyền mà truyền thống Cộng hòa trao cho họ thì có những Tổng thống khác như Casimir-Périer hay Alexandre Millerand muốn tìm lại những quyền lực mà bản Hiến pháp đã thừa nhận cho họ.

Những vị Tổng thống này đã cố gắng tới mức phải chịu nhiều thua thiệt. Bỏ ngoài tai sự mỉa mai chua cay của Clemenceau, người khuyến cáo là cần phải dồn phiếu một cách có hệ thống cho một nhân vật không tầm cỡ làm Tổng thống, người sẽ để mặc cho nghị viện lãnh đạo, các vị Tổng thống của Cộng hòa đệ Tam và đệ Tứ không hề là những con rối: nhiều người trong số họ đã biết sử dụng những lợi thế mà hệ thống chính trị Pháp dành cho mình một cách kín đáo và khéo léo.

Trước hết, đó là quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Không giống như ở Anh, nơi có chế độ lưỡng đảng trong đó thủ lĩnh của phe đa số đương nhiên chiếm cương vị Thủ tướng. Ở Pháp, trong một chế độ đa đảng, quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không hề mang tính chất thủ tục.

Điều này được thể hiện qua việc Jules Grévy muốn tách nhân vật có cá tính mạnh như Gambetta xa rời quyền lực càng lâu càng tốt; việc Vincent Auriol đã chỉ định Antoin Pinay vào chức vụ Thủ tướng Chính phủ vào tháng 3-1952, hay René Coty bổ nhiệm Guy Mollet vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chứ không bổ nhiệm Pierre Mendès France vào năm 1956. Đó là những hành động chính trị quan trọng kéo theo nhiều hệ quả lớn.

Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thường đảm nhiệm vai trò của mình trong một khoảng thời gian ngắn, Tổng thống có thời gian làm việc rất dài cho phép ông hiểu biết rất rõ các vấn đề cần giải quyết và do đó, họ trở thành người cố vấn quí giá và kín đáo cho người đứng đầu chính phủ ngay cả khi những người này chẳng buồn nghe những lời khuyên ấy. Cuối cùng, Tổng thống là biểu tượng và đại diện cho cả đất nước. Điều này làm Tổng thống có vai trò quốc tế nếu như ông này muốn và điều khiển nó trong các cuộc công du chính thức ở nước ngoài hay tiếp đón các nguyên thủ quốc gia.

Điều này đem lại cho Tổng thống vai trò thực sự trong chính sách ngoại giao. Tổng thống còn là người ký kết các điều ước quốc tế nhân danh nước Pháp, bổ nhiệm đại sứ ở nước ngoài, đôi khi Tổng thống có thể áp đặt sự lựa chọn của mình. Ông ta không phải là kẻ chỉ khoanh tay đứng xem trong lĩnh vực ngoại giao và trên thực tế, Jules Grévy hay Poincaré đều biết giữ một vai trò quan trọng và đôi khi chính yếu trong lĩnh vực này.

Như vậy, người ta không thể cười nhạo một cách dễ dàng, như thường vẫn thấy dưới thời Cộng hòa đệ Ngũ, những vị Tổng thống thời này. Đó thực ra là những nhân vật thường có một nhân cách lớn và họ luôn cố gắng, đặc biệt với những người mạnh nhất trong số họ, phục vụ đất nước mà cuộc bầu cử đã chọn họ làm đại diện cho đất nước ấy, trong khuôn khổ gò bó của truyền thống Cộng hòa.

Nhất là trong hoàn cảnh đất nước ấy lại không trao cho họ những phương tiện hành động cần phải có để hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị của họ.
 
Jules Grévy: Vị tổng thống cộng hòa đầu tiên!​


Jules Grévy là người Pháp thứ tư mang danh hiệu Tổng thống nền Cộng hòa nhưng ông là người Cộng hòa đầu tiên nắm giữ cương vị này (30 tháng 01 năm 1879 - 3 tháng 12 năm 1887).

Tổng thống của nền Cộng hòa đệ Nhị là một người rắp tâm lên làm Hoàng đế. Còn Quốc hội đầu tiên của nền Cộng hòa đệ Tam muốn đưa một người lên làm vua nước Pháp.

Trong lúc chờ đợi tìm ra người thích hợp, Quốc hội đã bổ nhiệm một Tổng thống đến từ vùng Orléan và khi ông này bộc lộ dù là một cách muộn màng khuynh hướng Cộng hòa, nghị viện đã bổ nhiệm một vị Nguyên soái theo phái chính thống vào vị trí này.

Những người theo phái Cộng hòa, chiếm đa số ở hai Viện, và vừa đẩy Mac Mahon khỏi vị trí Tổng thống đã có thể đưa một người trong phe của mình vào Viện công tố tối cao. Ngày 30-1-1879, hai Viện đã nhóm họp ở Versailles sau khi đã nghe bản từ chức của Mac Mahon. Kết quả bầu cử 563 phiếu thuận trên 713 phiếu bầu đã đưa nhân vật lãnh đạo phe Cộng hòa Jules Grévy lên nắm quyền Tổng thống.

‘’Tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí quốc gia”

Vẻ bề ngoài của vị Tổng thống này là một lợi thế của ông: một dáng vẻ đầy tư thế với bộ râu ngắn ôm trọn những đường nét hài hòa trên khuôn mặt. Grévy là người tiêu biểu của tầng lớp tư sản, đạo mạo, nghiêm túc, là người giàu có nhờ công việc làm ăn của chính mình, tôn trọng luật pháp, cần kiệm và cương nghị. Ai có thể tốt hơn trong việc đại diện cho những người Cộng hòa vốn gắn bó với việc làm yên lòng tầng lớp tư sản Pháp hơn Grévy?

Sinh ở Mont-sous-Vaudrey (Jura) ngày 15-8-1807, Jules Grévy xuất thân từ một gia đình nông thôn trong vùng, nằm giữa Dole và Poligny. Cách mạng 1848 làm ông trở thành một thành viên đại diện cho phe Cộng hòa. Vốn ôn hòa, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa đủ sức làm nhân dân yên lòng. Trong lĩnh vực lập hiến, ông muốn xây dựng một nền Cộng hòa không có Tổng thống…Dưới thời Đế chế đệ Nhị, vai trò của ông hết sức mờ nhạt. Chỉ đến năm 1868 vai trò này mới thay đổi khi ông là thành viên của Đoàn lập pháp.

Được bầu lại vào năm 1871, Grévy hợp tác với Thiers và với phái Orléans. Với vị trí người hòa giải, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Nghị viện Cộng hòa năm 1876 chọn ông làm Chủ tịch một lần nữa cùng với người đồng cấp Thiers. Sau khi Thiers mất năm 1877, Grévy trở thành thủ lĩnh phe Cộng hòa. Sau khi Mac Mahon từ chức, việc bầu Grévy vào chức Tổng thống đã được bàn định từ lâu; chính vì thế việc Grévy trở thành Tổng thống không làm bất cứ ai ngạc nhiên, thậm chí đến cả ông cũng vậy.

Được bầu làm Tổng thống trong những điều kiện như thế, Grévy không thể làm gì khác hơn là đảm nhiệm cương vị của mình theo đúng những gì phe Cộng hòa mong đợi, phe vừa buộc vị Nguyên soái già nua phải từ chức. Ngay từ khi nhậm chức, ông đã rút được kinh nghiệm từ bài học này và đưa nó thành học thuyết mà các nhà làm luật gọi một cách châm biếm là ‘’Hiến pháp Grévy”. “Thần phục một cách chân thành luật pháp của chế độ nghị viện, tôi sẽ không bao giờ đi ngược lại ý chí của quốc gia do các cơ quan hiến pháp thể hiện’’.
 
Nền chính trị Pháp là nền chính trị của Jules Grévy​


Liệu tuyên bố trên có đồng nghĩa với việc người lãnh đạo nhà nước thừa nhận rằng phe chiếm đa số trong Nghị viện là người lãnh đạo nền chính trị Pháp và rằng Tổng thống phải từ bỏ những vũ khí mà bản Hiến pháp trao cho ông ta?

Liệu Tổng thống còn có thể biến thành một cực đối trọng của Nghị viện trong trường hợp cần thiết như Hiến pháp đã định hay không? Liệu có phải Grévy cam chịu trở thành một Tổng thống bù nhìn? Phe Cộng hòa cho là như vậy và chưa bao giờ họ thấy ở ông hình ảnh của một nhà làm luật đáng kính cả.

Đó là bởi vì Grévy đã biết khéo léo giấu kín tính tình độc đoán và niềm say mê quyền lực ở ông, điều làm phe Cộng hòa rất lo ngại như trường hợp của thành viên Viện Dự luật Gambetta.

Nhưng trong suốt 9 năm làm Tổng thống (ông được tái đắc cử năm 1855), Grévy đã có ảnh hưởng kín đáo nhưng sâu sắc. Ông chấp nhận không đưa ra một chính sách của riêng mình nhưng lại sử dụng hai trong các quyền của Tổng thống, như sau này Poincaré sẽ làm, và làm cho hai quyền ấy được chấp nhận rộng rãi nhất có thể được: ông coi mình như người đảm bảo của chính sách ngoại giao của Pháp và từ vị trí ấy ông không ngần ngại can thiệp vào các sự vụ quốc tế nhân danh quyền lợi quốc gia mà ông cho rằng mình là người đại diện.

Ông có quyền lựa chọn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và trong một chế độ đa đảng, ông có thể sử dụng quyền này để đòi đưa một nhân vật mà ông thấy hài lòng và người đó không nhất thiết cứ phải là thủ lĩnh của phe đa số. Điều này đã có thể là một sự bắt buộc nếu như nước Pháp muốn bắt chước mô hình của Anh theo hệ thống lưỡng đảng.

Như vậy, từ năm 1879 đến 1887, nền chính trị Pháp trong một chừng mực nào đấy đã là nền chính trị của Jules Grévy ngay cả khi nó được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Sử dụng quyền của Tổng thống đã được công nhận là chỉ định Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Grévy sẽ đặc biệt chú ý để không chọn những người quá nổi bật khiến ông ta bị nấp bóng. Nỗi lo lắng lớn nhất của ông trong thời gian đầu làm Tổng thống là tách một nhân vật tầm cỡ ra xa quyền lực: Léon Gambetta.

Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Bộ trưởng do Grévy chọn là người nổi tiếng trung thực: Waddington, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Mac Mahon và là người được Grévy giữ lại để làm an lòng các nước châu Âu. Nhưng người được Tổng thống yêu quí lại là Charles de Freycinet.

Ông này là người mềm mỏng và khiêm tốn, biết xóa nhòa sự hiện diện của mình và tỏ ra rất chú ý đến công việc chung bằng cách nhận trách nhiệm về các hành động quyền lực. Khi một ‘’người cánh tả’’ trở nên cần thiết cho mình, Grévy đã sử dụng Jules Ferry, người đã trở nên bảo thủ trong lĩnh vực xã hội dưới thời Công xã nhưng nổi tiếng bởi quyết tâm chống chủ nghĩa tăng lữ một cách sâu sắc. Một vài năm sau, khi Jaurès yêu cầu Grévy phải nói rõ các mục tiêu của mình, Grévy nói:

- Mục tiêu của tôi là xây dựng loài người không có Chúa và không có Vua.

- Nhưng không phải là không có ông chủ, Jaurès đã thêm vào.

Grévy đã lãnh đạo đất nước với nhóm cộng sự là những người mềm mỏng và có cùng niềm tin với ông. Tuy nhiên, năm 1881, ông phải buộc lòng viện tới Gambetta. Nhưng cựu thành viên Viện Dự luật đã già trước tuổi và mệt mỏi; quyền lực của ông đã suy giảm sau những cuộc tranh đấu liên miên tại Nghị viện. ‘’Nội các lớn’’ mà ông thành lập với những nhân vật mờ nhạt chỉ kéo dài được 3 tháng.

Vài tháng sau, ông này mất và Grévy có thể một lần nữa mời Freycinet rồi Jules Ferry ra giúp sức. Các đời Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lâm thời kế tiếp nhau thực hiện một nền chính trị mà Grévy mong muốn đều có tính cách yếu hơn Grévy. Như vậy, ông đã giữ một vai trò hi hữu trong giai đoạn lịch sử này đó là trong số những người quyết định nền chính trị Pháp, ông là người duy nhất có lợi thế to lớn mà dưới thời Cộng hòa đệ Tam và đệ Tứ tất cả các nhà lãnh đạo nhà nước Pháp mơ ước có được: liên tục tại quyền.

Về mặt chính trị, bản tổng kết thời kỳ làm Tổng thống của Grévy sẽ như thế nào? Có thể nói là những người Cộng hòa đã sắp xếp lại nền Cộng hòa với nhiều cải cách như luật giáo dục qui định phổ cập giáo dục tiểu học bắt buộc cho trẻ em từ 6 đến 13 tuổi; giáo dục phải miễn phí và trung lập về mặt tôn giáo; áp dụng luật đương thời chống lại các giáo đoàn; thiết lập tự do hội họp và tự do báo chí; cho phép thành lập hội đoàn nghề nghiệp; quyền cho Hội đồng thành phố được bầu Thị trưởng; bỏ chức Thượng nghị sĩ suốt đời, phát triển hệ thống xe lửa Pháp với mục tiêu chính yếu là giải toả nông thôn và mở cửa nông thôn cho tiến bộ và như thế là làm cho nền Cộng hòa tiến bộ.

Đây là các chương trình của giới tư sản Cộng hòa, chống chủ nghĩa tăng lữ, tự do, tin vào tiến bộ và văn hóa được tiến hành dưới sự lãnh đạo tư sản của Tổng thống Grévy.
 
Grévy liên kết với Bismarck chống lại tư tưởng phục thù​


Chủ Nhật, 05/07/2009, 02:30 (GMT+7)

Grévy liên kết với Bismarck chống lại tư tưởng phục thù

TTO - Ảnh hưởng của Grévy lên chính sách đối ngoại chắc chắn còn rõ nét hơn nữa. Sử dụng các đặc quyền mà Hiến pháp trao cho mình, Tổng thống không ngừng can thiệp vào việc lựa chọn các đại sứ của Pháp ở nước ngoài và vào chính sách đối ngoại. Ông không giấu giếm đã tuyên bố rằng ông muốn có một chính sách đối ngoại hòa bình.

Ông cho rằng nước Pháp không được lợi lộc gì trong một cuộc chiến mới với nước Đức; cần phải bỏ hi vọng chiếm lại Alsace-Lorraine; cần phải giữ mối quan hệ hòa hảo với kẻ chiến thắng. Quan điểm này khá kỳ lạ ở thời kỳ đó khi ‘’phục thù’’ là chủ đề phổ biến nhất trong nền chính trị Pháp thời đó, một chủ đề đáng được nhấn mạnh; nhất là khi đó không chỉ là một quan điểm mang tính nguyên tắc.

Phần lớn quyền lực của Grévy dựa trên niềm tin mà ông cho rằng mình có được ở châu Âu. Một trong những người ủng hộ Tổng thống Pháp mạnh mẽ nhất là thủ tướng Đức Bismarck. Nhưng ông này ủng hộ Grévy không phải để Grévy được lòng các nghị viên Pháp, mà thực ra, niềm tin mà Thủ tướng Đức trao cho Tổng thống Pháp là vì chế độ mà ông đại diện chứ không phải là sự khôn ngoan của ông. Ý tưởng lớn của Bismarck, một ý tưởng theo thời gian đã trở thành một sự ám ảnh, là tránh một sự trả thù nào đó từ nước Pháp khi nước Pháp bị cô lập.

Vì thế, ông lo lắng rằng, sau khi Thiers đổ, khả năng nước Pháp có quay lại chế độ Quân chủ. Thủ tướng Đức lo rằng nền Quân chủ với một chính phủ mạnh sẽ kéo nước Pháp vào con đường ‘’phục thù’’. Về điểm này, chiến thắng của nền Cộng hòa (tức là theo quan điểm của Bismarck là chiến thắng của một chính phủ bất lực) làm ông ta yên tâm nhất là khi nền Cộng hòa được những kẻ cơ hội chủ nghĩa lãnh đạo, những người này cam tâm với tình trạng hiện tại, chứ không phải những người cấp tiến như Clemenceau. Những người theo Clemenceau luôn dán mắt vào ‘’đường kẻ xanh của dãy núi Vosges’’.

Nhưng năm 1885, những người cấp tiến đã thắng trong cuộc bầu cử và theo lời khuyến cáo của Clemenceau, một trong những người có uy tín nhất trong số họ là Tướng Boulanger đã trở thành Bộ trưởng Bộ Chiến tranh. Ông này đã biết lấy lòng quân đội bằng những biện pháp nâng cao đời sống quân nhân nhưng nhất là với sự kiên quyết mà ông thể hiện trong vụ Schnaebelé (Cảnh sát trưởng của Pháp, bị quân Đức bắt cóc ở Pagny-sur-Moselle vì bị tình nghi là gián điệp) đã biến ông thành ‘’vị Tướng báo thù’’ trong mắt dư luận.

Nhưng với Grévy và những thành viên trong chính phủ của ông, Boulanger đã tỏ ra hớ hênh và thiếu trách nhiệm và đó là sự nguy hiểm với nước Pháp. Grévy đã nhấn mạnh vào điểm yếu này để Boulanger bị gạt khỏi quyền lực nhất là khi ông này đang ngày càng được lòng những người đối nghịch với chính quyền đương thời.

Vì những lý do này mà Boulanger bắt đầu trở thành người lãnh đạo của những người bất mãn. Sau khi chính phủ được sắp xếp lại, Boulanger đã bị tách ra khỏi quyền lực và được bổ nhiệm về Clermont-Ferrand, nơi người ta hi vọng là ông sẽ bị rơi vào quên lãng. Ngày Boulanger ra đi, một cuộc biểu tình của quần chúng đã nổ ra ở nhà ga Lyon nhằm ngăn cản chuyến lưu đày.

Cuộc biểu tình này cho thấy sự suy giảm lòng tin mà sau vài năm cầm quyền, nền Cộng hòa cơ hội chủ nghĩa phải hứng chịu trong một số lĩnh vực. Điều này được thể hiện qua việc phong trào quốc gia chủ nghĩa lên cao. Phong trào này mơ ước có một người mạnh mẽ đứng đầu nền Cộng hòa. Đối diện với cuộc khủng hoảng này, Grévy đã biết tỏ ra là người bình tĩnh và từ chối không nhượng bộ bất kỳ yêu cầu nào của những người theo chủ nghĩa Sô-vanh hiện đang kích động.

Như vậy là với Jules Grévy, chế độ Tổng thống của nền Cộng hòa đã mất đi một vài đặc điểm cố hữu của nó. Từ nay, người ta phải công nhận là về mặt nguyên tắc, Tổng thống để người đứng đầu chính phủ, người được ông lựa chọn, nhưng có sự tin tưởng của Nghị viện, quyết định nền chính trị Pháp.

Nhưng Tổng thống về mặt luật pháp vẫn là người đứng đầu quyền lực hành pháp và hoạt động như một người hướng dẫn, một vị trọng tài. Nếu tính cách của Tổng thống mạnh, đặc biệt là mạnh hơn tính cách của người đứng đầu chính phủ, thì không gì có thể ngăn được việc Hội đồng Bộ trưởng quan tâm hơn đến ý kiến của Tổng thống với điều kiện là một vị Bộ trưởng phải có trách nhiệm ký nháy vào tất cả các văn bản được thảo ra theo cảm hứng của ông.
 
Một nhà tư sản ở Điện Élysée​


Như vậy, thái độ của Grévy sẽ định ra cách ứng xử của các nhà chính trị Pháp mong muốn đóng vai trò nổi trội: vì sợ bị tách ra khỏi quyền lực bởi Tổng thống quá độc đoán, họ sẽ ủng hộ một Tổng thống kém nổi trội, mang tính chất trang trí nhiều hơn là hiệu quả.

Jules Grévy cũng đã mở đầu cho một truyền thống mới trong phong cách của Tổng thống.

Mong muốn đóng một vai trò thực tế mà không bị bao trùm bởi cái bóng của các nhà lãnh đạo phái Cộng hòa. Grévy đã hiểu rằng sự khiêm tốn trong phong cách sống và ngoại hình của mình là điều không thể thiếu được trong sự thành công của các dự án mà ông đưa ra; chắc chắn là sở thích của một nhà tư sản nghiêm túc và cần kiệm sẽ thuận lợi cho toan tính chính trị của ông.

Với Grévy, Điện Élysée đã mất đi tính chất hào nhoáng mà Ngài đại quí tộc Mac-Mahon đã mang lại trong thời gian trước đó: rất ít các buổi tiếp tân, không có những chuyến du lịch; giới tư sản đã thay thế giới quí tộc trong lâu đài Tổng thống tráng lệ. Giới quí tộc trả thù bằng cách đưa ra nhiều giai thoại về tính bủn xỉn của Grévy. Henri Rochefort, nhà tranh luận đang tìm lý do cho một trận khẩu chiến đã thuật lại câu chuyện này: một chàng trai bị bắt khi anh ta đang ăn trộm bánh mì.

Khi được thả ra anh ta tiết lộ rằng mình vừa ra về sau bữa ăn tối ở điện Élysée! Khiêm tốn, cẩn trọng, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn là những chuyện vặt vãnh, an ninh hơn là danh vọng, thực tế hơn là những lời đao to búa lớn: ở Grévy, giới tư sản Pháp thế kỉ XIX thừa nhận ông là người trong giới của họ; ông ta có nhiều phẩm chất nhưng cũng có nhiều điểm xấu và thậm chí có một số tật. Đáng chú ý là quyền lực thực tế mà Gvévy có, nhưng trong bóng tối, bị xóa đi bởi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đầu tiên mà nền Cộng hòa gặp phải trong những năm 1886 - 1887.

“Tai hại thay khi có một thằng con rể!”: Vụ tai tiếng huân chương

Tháng 9-1887, cảnh sát phát hiện một ổ buôn bán huân chương. Bà chủ của ổ này là Limouzin có quan hệ với tướng Caffarel, Phó tham mưu trưởng quân đội Pháp. Cả hai bị bắt và vụ việc liên quan tới nhiều nhân vật quan trọng trong đó có Nghị sĩ Daniel Wilson, con rể của Jules Grévy. Tai tiếng của nhân vật này càng làm cho vụ việc trở nên không có gì ngạc nhiên. Sau khi sống bê tha dưới thời Cộng hòa đệ Nhị, Wilson dấn thân vào chính trường. Được bầu là Nghị sĩ, chuyên gia về các vấn đề tài chính và đặc biệt nổi tiếng là một Nghị sĩ mánh khoé, Wilson đã dính líu đến tất cả các vụ móc nối bí mật, liên quan đến tất cả các vụ việc ít nhiều mờ ám.

Năm 1881, Wilson làm một phi vụ đặc biệt khi cưới cô Grévy. Ông Tổng thống, vốn là một người cha yếu đuối nay lại là một người bố vợ biết thông cảm đã đưa con rể vào Điện Élysée làm việc. Do đó Wilson đã biết được các bí mật của Hội đồng Bộ trưởng. Ông ta có ảnh hưởng trực tiếp đến những người cao cấp nhất của Nhà nước, nhiều người tỏ ra không lo lắng về đường quan lộ của mình khi làm mất lòng một nhân vật rất gần gũi với Tổng thống. Đây thực sự là một cơ hội tuyệt vời để làm giàu đối với một nhân vật vốn không ngại bất cứ việc gì!

Vậy là hết rồi thời của những vụ làm ăn cỏn con, những phi vụ nực cười! Wilson bắt đầu dùng ảnh hưởng để làm ăn ngang tầm vị trí mới của mình. Wilson cần nhiều phòng làm việc, một bộ phận của Élysée sẽ cung cấp cho ông ta. Wilson cần người giúp ư? Chỉ cần lấy trong đám nhân viên của Phủ Tổng thống. Nanh vuốt của Grévy là tài sản lớn của Wilson; các đơn đặt hàng của nhà nước cho phép các tờ báo và nhà in mà Wilson gợi ý làm ăn phát đạt; những chiếc Huân chương bắc đẩu bội tinh được phân phát một cách tự do để làm phần thưởng cho lòng yêu nước của các nhà cung cấp đủ yêu nước để thể hiện mình chiều lòng con rể của Tổng thống.

Khi vụ việc bị phát giác, vụ tai tiếng nổ ra trên diện rộng. Báo chí và dư luận xúc động và yêu cầu Grévy không được bênh vực con rể. Tổng thống mời Wilson ra khỏi Điện Élysée. Nhưng theo nguyện vọng của phe đối lập, vụ việc nay lại mang tính chất chính trị. Clemenceau đã chất vấn nội các về vụ việc này; chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Rouvier, người đã thử hoãn lại các phiên thẩm vấn, đã bị lật đổ. Báo chí và dư luận sôi sục chống lại Grévy, người cho rằng mình vô tội và bảo lưu ý kiến của mình.

Người ta thấy có một bức biếm họa trên đó Tổng thống Grévy đang khoan khoái bên bàn ăn trong một nhà hàng, mồm ngậm xì gà, nở một nụ cười mỉa mai trong khi con rể của ông ta trả tiền mua một tấm Huân chương bắc đẩu bội tinh! “Ôi, có một thằng rể mới tai họa làm sao!’’ đó là tiêu đề một bài hát nhanh chóng trở nên phổ biến.

Một người khác trả lời cho bài hát đó: “Ôi, có một ông bố vợ mới hạnh phúc làm sao!” Bài hát thứ ba kết luận: “Chúng ta hãy ôm hôn nhau đi, ôi con rể quí hóa của ta!’’ Rất nhanh, dưới mắt công chúng Grévy là người liên quan trong các hoạt động của con rể. Qua Tổng thống, phe Cộng hòa tin rằng người ta đang ám chỉ nền Cộng hòa. Sau khi mong muốn cho sự việc trôi qua, họ muốn rằng vụ việc phải được thảo luận nơi công cộng và Grévy, thủ phạm của việc thiếu cảnh giác gây tác hại đến chế độ phải từ chức.
 
Jules Grévy từ chức​


Tổng thống Grévy, người được làm Tổng thống thêm một nhiệm kỳ 7 năm nữa vào năm 1885, không hề muốn rời bỏ cương vị này.

Vốn là một luật gia tinh tế, ông tranh luận về việc ông có vô trách nhiệm hay không và không đồng ý từ chức; ông nhấn mạnh với các Nghị sĩ về sự nguy hiểm đã xảy ra trước đây khi một vị Tổng thống bị buộc phải từ chức.

Và khi đám đông hát bài hát Tổng thống - kẻ cố vị thì các Nghị viên Cộng hòa tự hỏi làm thế nào để buộc một vị Tổng thống vô trách nhiệm từ chức. Khi Rouvier đã từ chức, Grévy đã tuyên bố ý định kêu gọi một vị Chủ tịch mới của Hội đồng Bộ trưởng. Giải pháp này sẽ cho phép Grévy thực hiện quyền lực của mình và qua đó giữ nguyên quyền lực, điều mà Nghị viện không muốn để xảy ra bằng bất kỳ giá nào.

Như vậy giữa Tổng thống và các nghị sĩ xảy ra một cuộc chạy đua hi hữu trong đó Grévy phát hiện ra rằng mình có tính kiêu ngạo và một sự bướng bỉnh của tuổi già. Ông đã đề nghị một cách không mệt mỏi, hết lần này đến lần khác trao cương vị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho những người lãnh đạo phái Cộng hòa để cứu vãn tình thế.

Nhưng những người này đều lần lượt từ chối: Freycinet, Goblet, Brisson, Ribot và thậm chí là cả Clemenceau, người mà Grévy đã dùng thủ đoạn để cắt đứt quyền lực cho đến lúc đó. Nhưng đến khi cả Clemenceau cũng đã từ chối, thì Grévy bèn thử dùng mẹo. Ông cam kết từ chức với hi vọng rằng lời hứa của mình sẽ làm dịu tình hình ở Nghị viện và Nghị viện sẽ chấp nhận việc ông đưa ra một nội các mới. Nhưng Grévy đã lần lữa mãi và ngấm ngầm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía những người bảo thủ vì cả những người cấp tiến và cơ hội chủ nghĩa đều đã chối từ giúp đỡ.

Mệt mỏi bởi những lần không giữ lời hứa của vị Tổng thống già, Nghị viên hai Viện đã quyết định vào ngày 1-12-1887 sẽ quyết định không rời nghị viện để đợi Tổng thống nói lời từ chức. Vì vậy, Grévy đành phải rút lui. Vào 6h30 tối, thông điệp từ chức của Tổng thống đã được đọc trước hai Viện. Tổng thống nói đến sự bế tắc của các văn bản pháp lý, thanh minh hùng hồn cho thái độ của mình, một sự chỉ trích nặng nề những người đảm nhiệm việc bức ông phải từ chức:

“Thưa các Quí Ngài Nghị sĩ,

Khi tôi chỉ phải đối đầu với những khó khăn chồng chất trong thời gian gần đây trên con đường của tôi như: báo chí công kích, những người mà nền Cộng hòa kêu gọi phải ở bên tôi thì không thấy đâu, không thể thành lập được nội các,… tôi đã đấu tranh và ở lại ở nơi mà phận sự của tôi gắn bó với nơi ấy.

Nhưng khi công luận được soi sáng hơn đã làm tôi hi vọng thành lập được một chính phủ mới, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đã bỏ phiếu cho một nghị quyết kép. Nghị quyết này, dưới dạng một trát đòi vào một giờ cố định để đợi một thông điệp đã được hứa có giá trị như việc thúc nợ Tổng thống của nền Cộng hòa buộc phải rời bỏ quyền lực.

Nghĩa vụ của tôi và quyền lợi của tôi có lẽ là phải chống lại điều ấy nhưng trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, một cuộc tranh chấp giữa quyền hành pháp và Nghị viện có thể kéo theo những hậu quả làm tôi phải dừng lại. Sự thông thái và lòng ái quốc buộc tôi phải nhượng bộ.

Tôi để lại cho những ai chịu trách nhiệm về một tiền lệ như thế này và những hậu quả mà nó có thể kéo theo. Như vậy, tôi bước xuống mà không hối tiếc nhưng không phải là không buồn về quyền lực mà tôi đã được đưa lên hai lần mà không đòi hỏi phải có quyền lực ấy và ở vị trí đó tôi ý thức được rằng mình đã làm tròn nghĩa vụ của mình. Tôi gửi lời kêu gọi tới nước Pháp!

Nước Pháp nói với tôi rằng trong suốt 9 năm, chính phủ của tôi đã đảm bảo hòa bình, trật tự và tự do cho người; rằng chính phủ của tôi đã làm cho thế giới phải tôn trọng Người; rằng chính phủ ấy đã làm việc không ngơi nghỉ cho sự phục hồi của nước Pháp và giữa một châu Âu đầy vũ khí thì nước Pháp đã được gìn giữ và hoàn toàn có khả năng bảo vệ danh dự và quyền lợi của mình. Và cuối cùng, trong nội bộ đất nước, chính phủ của tôi đã biết giữ cho nền Cộng hòa đi đúng trên con đường thông thái mà quyền lợi và ý chí của đất nước đã vạch ra.

Nước Pháp nói rằng đổi lại, tôi đã bị buộc rời khỏi cương vị mà niềm tin của nước Pháp đã trao cho tôi. Khi rời bỏ đời sống chính trị, tôi chỉ có một mong muốn: đó là nền Cộng hòa không bị tổn hại bởi những âm mưu chống lại tôi và nước Pháp sẽ hân hoan thoát khỏi những nguy hiểm mà người ta đang đe dọa…’’.

Thực ra, các điều kiện của việc Grévy từ chức đã làm thay đổi chiều hướng của nhiệm kỳ Tổng thống. Từ nay, Tổng thống vô trách nhiệm sẽ không được chống đối ý chí của Nghị viện. Chức vị Tổng thống được những nhà lập hiến năm 1875 lập ra như một đối trọng với Nghị viện trong trường hợp cần thiết sẽ chỉ còn là một cơ quan phụ thuộc vào Nghị viện. Vị trí ấy như vậy đã mất một chút cái bóng của quyền lực mà cuộc khủng hoảng ngày 16-5 để lại.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top