Chia Sẻ Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến?

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Tây Tiến là một bài thơ đầy ắp nỗi nhớ. Mở đầu, tác giả đưa người đọc vào một chân trời nhớ nhung mênh mông:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.

“ Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng rộng, không bấu víu vào đâu cả. “ Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian.

Tây tiến quang dũng.jpg



Có người nói, cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến. Hãy bình giảng đoạn thơ sau để làm sáng tỏ ý kiến trên: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.


BÀI LÀM

Lâu nay, nhiều người khi tiếp xúc với Tây Tiến của Quang Dũng thường bị mê hoặc bởi một âm điệu lạ lùng.
Chỉ phần đầu của bài thơ thôi, cảm xúc về một thế giới Tây Tiến đã mở ra, rồi đóng lại mãi:


Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi


Phải chăng thế giới ấy đã chiếm một vị trí riêng có, duy nhất trong lòng nhà thơ khiến người Tây Tiến – Quang Dũng không thể nào quên?

Tây Tiến mở đầu bằng một tiếng kêu có phần thảng thốt, buộc miệng mà kêu:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Liền sau đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ tràn về, bất chợt và ào ạt, đến nỗi không còn hiện tại. Con người chìm đắm trong quá khứ, sống với thời đã qua. Và thơ, đã hiện tại hóa cái thời đã mất ấy, biến nó hiển hiện trước mặt. Khả năng hiện thực hóa của thơ mạnh đến nỗi nếu ngắt đi hai câu đầu và hai câu cuối của đoạn thứ nhất, người ta nghĩ mình đang sống với Tây Tiến:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
……
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người


Nhưng thực ra, đó là hiện thực qua nỗi nhớ, hiện tại trong hoài niệm.

Trong tình cảm của con người, buồn, nhớ là những tâm trạng phức tạp, nhiều cung bậc nhất. Khi nhớ, người ta thường rơi vào trạng thái đặc biệt khôn tả, nhiều khi không rõ ràng, mất cả định hướng. Trong bài thơ Việt Bắc, một loại trữ tình tiêu biểu của Tố Hữu và của cả nền thơ kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn có những câu “lạ kỳ”:

Tiếng ai thiết tha bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi


hoặc:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương…


Song, đấy là những câu thơ diễn tả rất đúng tâm trạng con người.

Ở Quang Dũng, đó là nỗi “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ khiến lòng người hóa thành chông chênh, bồng bềnh, lơ lửng. Khi đã “chơi vơi” thì khoảng cách không gian như xích lại gần, thời gian đồng hiện. Vì thế, trong một đoạn thơ không dài (14 câu) nhưng xuất hiện hàng loạt địa danh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu và có lẽ còn nhiều địa điểm vô danh khác: dốc khúc khuỷu; dốc thăm thẳm; heo hút cồn mây; ngàn thước lên cao; ngàn thước xuống; gục lên súng mũ… Nếu kể các địa danh ở những khổ thơ còn lại, Tây Tiến có thể là bài thơ có nhiều địa danh vào bậc nhất. Chắc chắn, các địa danh, địa điểm ấy phải ở rất xa nhau. Các sự kiện (xảy ra trong từng thời gian) cũng ào ạt xuất hiện: sương lấp, hoa về, mưa xa khơi, thác gầm thét, cọp trêu người, cơm lên khói… Lẽ dĩ nhiên, trong thực tế các sự kiện không thể xảy ra cùng một lúc. Nhưng trong nỗi nhớ Tây Tiến, nó ùa về, đồng hiện và tràn ngập hồn người. Và, thật kỳ diệu, quá khứ không mất đi mà nguyên vẹn cả hình hài, vóc dáng. Với Quang Dũng, một người Tây Tiến, đã “sống” với Tây Tiến lần thứ mấy. Còn với những ai, không phải người Tây Tiến, qua thơ, Tây Tiến như đang hiển hiện. Tố Hữu từng nói, văn học giúp con người sống cuộc đời khác nhau là như vậy!

Ở trên, mới chỉ nói đến cái thế, cái uy của nỗi nhớ Tây Tiến. Bây giờ, nói rõ hơn về hiện thực mà nỗi nhớ ấy đã kéo về.
Đầu tiên là cảnh vật, thiên nhiên vùng Tây Bắc mà ngay từ đầu tác giả đã định danh: “rừng núi”, tức là một không gian rộng lớn, ngút ngàn. Ở đó, có sương khói lấp cả bóng người, có đèo dốc khúc khuỷu, có vực sâu thăm thẳm, có cồn mây heo hút, có gió mưa mịt mù… Rõ ràng là một địa hình phức tạp với khí hậu nghiệt ngã, đúng là nơi chốn người xưa thường nói: ma khiêng nước độc! Nhưng với nhiều tâm hồn lãng mạn, dũng mãnh, ưa khám phá thiên nhiên ấy có lẽ khá kỳ vĩ, thậm chí đẹp nữa. Vả lại, vùng đất ấy còn có “hoa về trong đêm hơi”, có bóng nhà thấp thoáng “mưa xa khơi”, có mùi thơm ấm nồng của “nếp xôi”. Cảnh vật thiên nhiên kỳ vĩ, mới lạ nhưng hấp dẫn lòng người. Nếu bài thơ dừng lại ở câu Mai Châu mùa em thơm nếp xôi hoặc tiếp tục phát triển theo hướng đó thì bảo đây là bài thơ “thơ đường rừng” cũng chẳng sai. Có lần, Quang Dũng tâm sự, hồi còn đi học, nhà thơ rất say mê Thơ mới. Trong số các nhà thơ mới, Thế Lữ là người ông thích hơn cả, “đặc biệt bài thơ Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó”. Nhà thơ còn nói: Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và sau vô tình tôi mới nhận ra…


Nhưng đây không phải là “thơ đường rừng” mà là thơ về anh bộ đội ở trong cuộc đời thực. Khi nhớ về rừng núi cũng là nhớ về nơi chốn, con đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, nhớ về người Tây Tiến. hình bóng đoàn quân ấy thấp thoáng từ xa, trong sương mù lấp kín rồi hiện dần lên trong cuộc chinh phục địa hình:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi


Cái hay của khổ thơ là nói về địa hình trắc trở, không một ngôn từ nào chỉ người (trừ đại từ ai chỉ nơi xa) nhưng bóng dáng con người vẫn hiện ra. Hơn nữa, đó là cuộc hành quân khó khăn, đầy thử thách. Đọc đoạn thơ, người ta không chỉ hình dung từng bước đi khó khăn mà cả hơi thở gấp gáp, mệt mỏi lẫn thế đứng chênh vênh của người vượt dốc. Xưa nay, nhiều người khi phân tích đã chỉ ra rất đúng sự khó khăn của địa hình đối với người lính Tây Tiến trên đường hành quân: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Ở câu thơ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống có sự cân đối giữa chiều cao và chiều sâu: lên hay xuống đều ghê gớm cả! Song, cấu trúc ba câu thơ này còn nhiều đặc biệt hơn nữa, không hẳn là sự đối xứng mà là sự gia tăng, chất chồng:

Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây / súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống


Đối với người lính Tây Tiến, đường hành quân còn gian nan cứ dài lên mãi và con người cứ phải vượt lên, cứ phải đi tới. Điều lạ là họ không bị địa hình quái ác ấy khuất phục. Phút giây ngắm nhìn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi càng chứng tỏ là những người băng rừng vượt dốc, nhưng không bị gian nan đè chặt tâm hồn, con đường không biến thành nỗi sợ hãi. Bởi vậy, đoạn thơ kế tiếp nêu lên những “thế lực” khác vây lấy người lính Tây Tiến mà chẳng ai sợ hãi:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.


Có lẽ, nỗi sợ hãi được thay thế bằng sự tò mò, khám phá. Nên nhớ, những thập niên 30, 40 của thế kỉ trước, nhiều thanh thiếu niên Việt Nam rất thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích rày đây mai đó để thoát khỏi cuộc sống chật hẹp, nhàm chán. Trước năm 1945, Quang Dũng đã là người như thế. Còn nhiều anh bộ đội Tây Tiến vốn là các chàng trai của đất Hà thành. Ở môi trường mới, hoàn cảnh mới, những nét tính cách kia vẫn còn chăng? Và một khi được khám phá cái mới lạ, dù nguy hiểm con người vẫn thích thú hơn là sợ hãi.

Nếu hiểu như vậy thì hai câu thơ: Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Không nên cho đấy là cái chết như có người đã phân tích. Hiểu đó là những phút giây mệt mỏi (vì dãi dầu) người lính tạm dừng bước trên đường hành quân sẽ phù hợp hơn. Cũng có thể hiểu thêm, gốc gác lính Tây Tiến là những chàng trai Hà Nội nên cốt cách đôi khi kiêu bạc, bất cần đời, bạ đâu nghĩ đó, không như người lính trong Đồng chí của Chính Hữu hay Nhớ của Hồng Nguyên. Vả lại, đây chưa phải là lúc Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến với những hi sinh, mất mát như ở đoạn thơ cuối. Càng không thể cho đây là cái chết bởi hai câu thơ liền kề, kết thúc một trường đoạn hoài niệm, là hình ảnh rất thi vị:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi


Câu thơ diễn tả khung cảnh thật thanh bình, dường như không hề có chiến tranh. Đó là những khoảnh khắc có thật, dù ít ỏi đi chăng nữa, trên đường hành quân khắc nghiệt của đoàn quânTây Tiến. Thời gian càng lùi xa, càng phủ lên làn khói cơm chiều ấy vẻ đẹp của sự bình yên và thân thuộc, càng gây thêm mùi nhớ của hương vị nếp xôi thơm nồng. Câu thơ trên với ba vần trắc: nhớ, Tiến, khói như chạm khắc làn khỏi cơm chiều vào bầu trời ký ức. Câu thơ thứ hai hầu hết là vần bằng (chỉ có một vần trắc: nếp) lại đưa đẩy, khuyếch tán cái vị ngọt ngào ấy vào sâu tâm hồn con người.

Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi cũng có một từ đặc biệt: mùa em. Khi tiếp xúc với Tây Tiến, ai cũng thừa nhận chính từ ấy đã làm cho câu thơ trở nên lạ lùng và … khó hiểu! Chắc là trước Quang Dũng chưa ai sử dụng từ Mĩ đó. Điều mà mọi người đều thừa nhận là khi đã trở thành anh Vệ quốc quân, nhà thơ của chúng ta vẫn là chàng trai hào hoa và lãng mạn. Ở bài thơ viết năm 1949, sau Tây Tiến một năm, Đôi mắt người Sơn Tây, một bài thơ nói về những mất mát trong chiến tranh còn thảm khốc hơn nhiều, Quang Dũng vẫn còn có những hình ảnh và ngôn từ sang trọng, không kém phần mĩ lệ:

Vầng tráng em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương…


Chiến tranh không làm mất đi nét hào hoa và lãng mạn ở Quang Dũng. Có lẽ, ở nhà thơ này còn có một thước đo riêng. Đó là thước đo của cái đẹp và từ phía Đẹp. Thiên nhiên, thời gian cũng được nhà thơ đo bằng thước đo ấy. Người đời đã có mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Quang Dũng, với Tây Tiến, có thêm ít nhất một mùa nữa. Mùa ấy có chiều kích ở đôi mắt và tâm hồn của chính thi nhân.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi… thêm nếp xôi là một trường đoạn trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về Tây Tiến.

Nỗi nhớ ấy làm hiện lên một vùng đất với thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa khắc nghiệt, vừa đầy thơ mộng vừa hết sức nguy nan. Nhưng xao động lòng người vẫn là chân dung của Người lính Tây Tiến rất đỗi hào hùng và hào hoa. Cho dù thời gian có biến tất cả trở thành quá khứ nhưng Tây Bắc và người lính Tây Tiến qua thơ Quang Dũng vẫn còn đọng lại mãi.

Lê Thị Mỹ Trinh*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua.

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
 
Tây Tiến là một bài thơ đầy ắp nỗi nhớ. Mở đầu, tác giả đưa người đọc vào một chân trời nhớ nhung mênh mông:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.


“ Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng rộng, không bấu víu vào đâu cả. “ Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Hoài niệm đầu tiên về Tây Tiến là hoài niệm về sương núi, hơi đá. Thời gian như trôi trong màn sương:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.


Đúng như một nhà thơ đã nhận xét tinh tế. “ Sài Khao sương lấp đoàn quân” là một hình ảnh hùng tráng, mĩ lệ, nhưng nhà thơ lại thêm chữ “ mỏi” – “ đoàn quân mỏi”, thì hình ảnh bài thơ trở nên bình dị. Đoàn quân chẳng thần thánh chút nào, họ cũng mỏi mệt như ai. Nhà thơ như cảm nhận cái hùng vĩ của sương núi cùng một lúc với cái mỏi mệt của chính mình. “ Mường Lát hoa về” là một hình ảnh thơ mộng, nhưng “trong đêm hơi”, tức hơi đá lại rất man dại, heo hút.

Cùng với mù sương là kí ức về độ cao, một độ cao thăm thẳm, vượt lên trên cả các tầng mây ( cồn mây), nơi heo hút không có sự sống:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
.

Nhiều người nhận xét cái dốc khúc khuỷu, thăm thẳm có ý vị thục đạo nan của Lí Bạch, nhưng không có ý vị trang nghiêm của một đường lên trời, bởi “ súng ngửi trời” là một hình ảnh ngộ nghĩnh, hóm hỉnh. Mặt khác, độ cao đổi thay chóng mặt: “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, xuống dưới những cồn mây, và đột ngột, nhận ra nơi xa xăm bóng dáng của sự sống con người:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

“ Khơi” là vùng biển xa bờ. “ Xa khơi” còn xa bờ hơn nữa, ở đây chỉ khoảng cách rộng. Đã thế lại còn “ mưa xa khơi”, làm cho nhà ai như nhòe đi trong đợi mong. Cả câu thơ dùng toàn thanh bằng như một tiếng reo vui, hồi hộp, ngân xa.

Bóng dáng người lính xuất hiện đầu tiên trong bài thơ này là một trường hợp hi sinh rất bình dị, đời thường:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời
.

Anh không chết trong cuộc đấu gươm, đọ súng,mà chết vì kiệt sức trên đường hành quân. Anh hành quân đến hơi sức cuối cùng. Không bước nữa, nghĩa là gục xuống chết, lặng lẽ như “ bỏ quên đời”

Rừng núi oai linh hiện ra với tất cả vẻ đe dọa dữ dằn của nó:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
.

Nhưng rừng núi đã mất đi vẻ rùng rợn , vì ba chữ “ cọp trêu người”. Hình ảnh nhớ nhung nhất của đoạn này là ngọn khói no ấm ở Mai Châu mùa nếp với các cô thiếu nữ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.


Cả ở câu này chất thơ của “ cơm lên khói”, “ Mai Châu mùa em thơm” cũng hòa hợp tương phản với chất văn xuôi của “ nếp xôi”.
 
TÂY TIẾN - tượng đài bất tử về người lính vô danh

Hình ảnh những người lính TÂY TIẾN qua nét vẽ của Quang Dũng đã hiện lên trong bài thơ cũng thật khác thường .Khác thường ở sự giankhổ cùng cực , ăn đói, mặc rét, bệnh tật , sốt rét đến xanh da trụi tóc, khác thường ở chỗ tác giả cố ý không miêu tả một gương mặt chiến sĩ riêng biệt với tên tuổi cụ thể nào , ông đã dồn đúc các phẩm chất tốt đẹp của những tráng sĩ Tây Tiến thành gương mặt chung của cả đoàn quân , dùng lối vẽ phiếm chỉ để khái quát nên chân dung tiêu biểu rất oai hùng của người chiến sĩ vô danh , dám xả thân vì nghĩa lớn ,đã khiến cho kẻ thù kinh hoàng khiếp sợ.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Khác thường ở chỗ những người lính dũng mãnh ấy tâm hồn cũng thật dụi hiền và lãng mạng:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Nghĩ cho cùng , giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt ấy, nếu người lính không biết mơ mộng , thi vị hoá cuộc sống vì một mục đích cao xa hơn thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt ấytrước khi ngã ngục vì viên đạn của kẻ thù . Chất men lãng mạng -mơ mộng nồng say ấy chính là phẩm chất giúp con người có sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh đê chiến thắng . Nhờ thế, mặc dù tác giả mô tả rất đậm sự gian khổ khốc liệt của chiến trường , của đời lính chinh chiến nơi miền Tây hoang vu mà bài thơ không đợm chút sắc màu u ám , bi quan nào khiến con người run sợ nản lòng.

Nét đặcsắc của ngòi bút Qang Dũng trong Tây Tiến còn ở chỗ ông viết về chiến tranh nhưng không có 1 chữ nào về trận đánh , về tiếng súng, về đau khổ hay về kẻ thù , bài thơ chỉ đơn giản nói về những người chiến sũ tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào- Việt Nam 1947 , nhưng người đọc vẫn hình dung rất rõ gương mặt và không khí của chiến tranh . điều lạ lùng là bài thơ có tới 3 lần , nhà thơ Quang Dũng nói tới cái chết của những chiến sĩ Tây Tiến trong những trường hợp khác nhau , nhưng không một lần ông nhắc đến từ chết hoặc hy sinh như các nhà thơ về sau vẫn dùng đến . Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã thay thế từ "chết"bằng các cụm từ giản dị :về đất , bỏ quên đời, hồn về...để hạ gam , bình thường hoá cái chết theo đúng quan niêm của các tráng sĩ cách mạng thời kì đầu kháng chiến còn đang tưng bừng đầy hào khí . Họ dám sả thân vì sự nghiệp độc lập - tư do của Tổ Quốc và họ biết rất rõ những gì chờ đợi họ khi họ dấn thân , nên đã coi cái chết " nhẹ tựa lông hồng " :

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Ở đây lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho chàng trai chất anh hùng và cả chất men say lang mạn đáng yêu nữa , ngay cả khi họ chết cũng phản phản phất nét tài tử :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cho đến bây giờ , sau gần nửa thế kỉ đất nước ta đánh giặc , đã từng có rất nhiều bài thơ viết về sự hy sinh dũng cảm của người chiến sĩ trên chiến trường như : Núi Đôi của Vũ Cao , Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu...nhưng Tây Tiến vẫn có một vị trí đặc biệt và mang màu sắc riêng khó có bài thơ nào về sau này sánh nổi khi miêu tả sự hy sinh của người chiến sĩ ...

...Có thể nói Tây Tiến - đó chính là tượng đài bằng thơ bất tử mà nhà thơ Quang Dũng với cả tấm chân tình đã dựng lên để tưởng niệm cả 1 thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau cách mạng tháng tám đã hăm hở ra đi giữ nước và nhiều người đã không trở về.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top