Cafe !

Hide Nguyễn

Du mục số
Các mốc chính trong lịch sử cafe

850: Một chàng chăn dê tò mò đã khám phá ra café là một thức uống tuyệt vời. Giữa những năm 800: Những người Hồi Giáo ở Ađen được ghi nhận là những người uống café đầu tiên.
Thế kỉ thứ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập.

1453: Thổ Nhĩ Kì ban hành luật lệ mới, cho phép một phụ nữ li dị chồng mình nếu không chịu đưa café cho cô ta.

Café trở nên phổ biến ở châu Âu, tuy bị cấm ở một vài nơi.
Vua Pope Clement VIII cấm việc uống café.

1511: Thủ tướng một nước Hồi giáo, Khair Beg, ra lệnh cấm café vì sợ nó gây những ý kiến phản đối do luật lệ mà ông ta đặt ra. Kết quả là ông đã bị sát hại bởi những người Sultan.

1517: cà phê được biết đến lần đầu tiên ở Constantinople (Istanbul ngày nay).

1554: quán cà phê đầu tiên ở châu Âu đã được mở ở đây bất chấp sự phản đối của nhà thờ.

1570: Cùng với thuốc lá, café lần đầu tiên xuất hiện tại Venice

Cuối thế kỉ 15: café ngày nay được chế biến (người ta biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống)

1600: Thông qua những nhà buôn người Ý, các nước phương Tây lần đầu tiên biết đến café

1645: quán cà phê đầu tiên của Ý được mở ở Venezia

1650: café được ưa thích cuồng nhiệt tại Ấn Độ

1652: ở London lần lượt xuất hiện các quán cà phê đầu tiên của Vương quốc Anh.

1656: Việc uống café và mở tiệm café bị cấm tại Thổ Nhĩ Kỳ

1659: ở Pháp những quán đầu tiên được khai trương.

1669: café trở nên phổ biến ở Châu Âu

1683: Wien cũng có quán cà phê đầu tiên (do một người Ba Lan thành lập)

1672: Tiệm café đầu tiên ở Pháp được mở cửa

1690: Người Hà Lan trở thành những người đầu tiên kinh doanh và gieo trồng café như một thương phẩm, tại Ceylon và Java

1668: café đã thế chỗ bia, trở thành thức uống bữa sáng được yêu thích nhất tại New York

1697: Thuyền trưởng John Smith giới thiệu café với thị trường Bắc Mỹ

1700: Người Hà Lan và Pháp đã tiến hành cuộc chinh phạt và chiếm đảo Java và Martinique làm thuôc địa, bắt đầu việc gieo trồng cà phê ở đây. Hấu hết cà phê mà chúng ta gieo trồng ngày nay là giống hạt Arabica có xuất xứ từ Êtiôpia qua Yemen.

1710: người ta đã đem cây cà phê về châu Âu và trồng thử trong các khu vườn sinh vật

1714: café xuất hiện chính thức tại Mỹ

1721: Tiệm café đầu tiên ở Beclin được khai trương

1732: Johann Sebastian Bach sáng tác ra bản Kanata café (Coffee Canata)

1773: Uống café được coi là “nghĩa vụ quốc gia” đối với mỗi công dân Mỹ

Cuối thế kỉ 18 cây cà phê đã được trồng ở khắp các xứ sở nhiệt đới

1822: Máy espresso đầu tiên được tạo ra tại Pháp

1825: café xuất hiện ở Haoai

1850: Một người Pháp theo đạo Thiên Chúa Giáo đã đưa cà phê du nhập vào Việt Nam

1865: James Mason phát minh ra máy pha café(percolator)

1887: café xuất hiện ở Indochina

1896: café được giới thiệu với người Úc

Đầu những năm 1900: Uống café vào bữa trưa trở thành một thời gian “bắt buộc” ở Đức

1901: Luigi Bezzera phát minh ra máy chiết tách hương vị của café

1901: café uống liền (instant coffee) được phát minh bởi một nhà hoá học người Mỹ gốc Nhật

1908: Melitta Benz phát minh ra phin pha café

1909: café uống liền được tung ra thị trường

1938: Nescafé (café sấy bằng phương pháp đông lạnh) được phát minh

1942: Trong chiến tranh thế giới thứ hai, lính Mỹ được phát khẩu phần gồm cả café uống liền hiệu Maxwell House

1971: Hãng café Starbuck mở đại lý đầu tiên tại Seattle

*****


Giới (regnum): Plantae
Ngành (divisio): Magnoliophyta
Lớp (class): Magnoliopsida
Bộ (ordo): Gentianales
Họ (familia): Rubiaceae
Chi (genus): Coffea
Coffea arabica - Cà phê chè (Arabica)
Coffea canephora - cà phê vối (Robusta)

Cà phê là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảoRubiaceae). Họ này bao gồm khoảng 500 chi khác nhau với trên 6.000 loài cây nhiệt đới.

Chi cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên, không phải loài nào cũng chứa caffeintiếng Việt là cà phê chè (tên khoa học: Coffea arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ hai là cà phê vối (tên khoa học: Coffea canephoraCoffea robusta), chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea liberica và Coffea excelsaViệt Nam gọi là cà phê mít) với sản lượng không đáng kể.

Thân

180px-TCaphe.jpg


Thân cây cà phê vối, khi cưa đốn thường được dùng chạm trổ các đồ thủ công mỹ nghệ.
Cây cà phê chè có thể cao tới 6 m, cà phê vối tới 10 m. Tuy nhiên ở các trang trại cà phê người ta thường phải cắt tỉa để giữ được độ cao từ 2-4 m, thuận lợi cho việc thu hoạch. Cây cà phê có cành thon dài, lá cuống ngắn, xanh đậm, hình oval. Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn. Chiều dài của lá khoảng 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Rễ cây cà phê là loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1 đến 2,5 m với rất nhiều rễ phụ tỏa ra xung quanh làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng nuôi cây.

Hoa

180px-Coffee_Flowers.JPG


Hoa cà phê

Hoa cà phê màu trắng, có năm cánh, thường mọc thành chùm đôi hoặc chùm ba. Màu hoa và hương hoa dễ làm ta liên tưởng tới hoa nhài. Hoa chỉ nở trong vòng 3 đến 4 ngày và thời gian thụ phấn chỉ vài ba tiếng. Một cây cà phê trưởng thành có từ 30.000 đến 40.000 bông hoa.
Ngay từ khi cây cà phê ra hoa kết quả người ta đã có những đánh giá đầu tiên về vụ mùa cà phê. Ở các nước sản xuất cà phê lớn điều này đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra những nhận định về giá cả và thị trường. Tuy vậy những đợt rét đậm hoặc hạn hán có thể làm đảo lộn mọi sự tính toán và đẩy thị trường vào tình thế hoàn toàn khác.


Quả

200px-CoffeeCatucai.jpg


Quả cà phê chè

Cà phê là loài cây tự thụ phấn, do đó gió và côn trùnganh đào. Trong thời gian chín, màu sắc của quả thay đổi từ xanh sang vàng rồi cuối cùng là đỏ. Quả có màu đen khi đã chín nẫu. Do thời gian đâm hoa kết trái lâu như vậy mà một vụ cà phê kéo dài gần một năm trời và có thể xảy ra trường hợp trên một cây vừa có hoa, vừa có quả.

Thông thường một quả cà phê chứa hai hạt. Chúng được bao bọc bởi lớp thịt quả bên ngoài. Hai hạt cà phê nằm ép sát vào nhau. Mặt tiếp xúc giữa chúng là mặt phẳng, mặt hướng ra bên ngoài có hình vòng cung. Mỗi hạt còn được bảo vệ bởi hai lớp màng mỏng: một lớp màu trắng, bám chặt lấy vỏ hạt; một lớp màu vàng rời rạc hơn bọc ở bên ngoài. Hạt có thể có hình tròn hoặc dài, lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh. Thỉnh thoảng cũng gặp nhưng quả chỉ có một hạt (do chỉ có một nhân hoặc do hai hạt bị dính lại thành một).
Niên vụ (năm sản xuất)

Ở Việt Nam, nước hiện đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê vối (robusta), niên vụ được tính từ tháng 10 đến hết tháng 9 năm sau (theo dương lịch). Thời gian thu hoạch tại các tỉnh Tây Nguyên -- là nơi sản xuất khoảng 80 % tổng sản lượng của Việt Nam -- thường kéo dài trong 4 tháng, tính từ cuối tháng 10 đến hết tháng 1.

Ngay sau thu hoạch là thời gian nông dân trồng cà phê vối bắt đầu tưới nước cho cây và bón phân, chia thành nhiều đợt ngắn. Giai đoạn này kéo dài đến tháng 4 hàng năm.

(Sưu tầm)
 
Các phương pháp pha cafe trên thế giới

Mỗi người chúng ta có thể hiểu cà phê một cách riêng nhưng cà phê chỉ có hai thành phần không bao giờ thay đổi, đó là nước và bột cà phê.

Sự khác biệt giữa một ly cà phê kiểu American và một ly espresso là ở phương pháp chiết xuất hương thơm của cà phê từ bột cà phê đã được xay từ hạt cà phê rang. Đây chính là mảnh đất nơi óc sáng tạo của loài người sản sinh ra muôn vàn phương pháp pha cà phê khác nhau, tiến hóa qua nhiều thế kỷ. Mỗi phương pháp tuân thủ trình tự khác nhau mà làm thành Mocha hay Espresso, Americano hay Neapolitan.

Pha cà phê không phải là một việc khó. Chỉ cần bạn có một hỗn hợp bột cà phê mà bạn thích, một số thiết bị và vài phút rảnh rỗi. Có nhiều phương pháp pha cà phê khác nhau thỏa mãn thị hiếu khác nhau. Cà phê Espresso đẫm đầy tính cách, cà phê Thổ nhĩ kỳ (Turkish) nhiều hương thơm, cà phê kiểu Mỹ (Americano) nhẹ, nhiều nước và uống lâu mới hết. Tất cả các phương pháp này có một điểm chung, bột cà phê được xử lý trong nước nóng sau đó dung dịch cà phê được lọc ra đầy hương và vị. Thứ nước uống kỳ diệu này sẽ có tính chất khác nhau khá nhiều, tùy thuộc vào phương pháp pha. Sau đây là một vài ví dụ căn bản.

Cà phê nhỏ giọt (filter drip - thường được biết đến với tên gọi là American styled coffee)

drip%20coffee%20maker%20with%20gold%20filter.jpg


Đặc tính của loại cà phê pha theo kiểu này là không đặc lắm (not much body) và vị và hương cũng rất nhẹ. Kiểu pha cà phê này được yêu thích ở khắp Bắc Mỹ, Bắc Âu và Pháp. Ngày nay ở các nước đó người ta sử dụng nhiều loại máy pha cà phê nhỏ giọt có phễu lọc. Máy gồm 2 phần, phần phía trên là một cái phễu bằng thủy tinh, nhựa hay kim loại, phần phía dưới là một cái bình bằng thủy tinh có thể được hâm nóng tự động bằng dây mai xo nằm dưới cái bình này. Trong cái phễu người ta đặt một cái lọc bằng giấy dùng một lần để lọc bỏ bột cà phê.

Để pha cà phê kiểu này người ta thường dùng bột cà phê xay thô, không mịn (coarsely ground coffee). Ở Châu Âu người ta cho 1/2 thìa tablespoon còn ở Mỹ thì người ta cho nguyên 1 thìa teaspoon. Đối với kiểu pha này, nước nóng được đổ lên bột cà phê, cà phê theo trọng lực chảy xuống dưới. Gạt bỏ yếu tố đun nước tự động và hâm nóng cà phê đã pha ra thì dù không có máy pha người ta vẫn có thể pha cà phê kiểu này bằng cách sử dụng cùng loại phễu lọc giấy (mua ngoài siêu thị) đặt vào một cái phễu thông thường, đun nước sôi và đổ thật chậm lên trên phễu đó. Toàn bộ quá trình pha hết từ 6 đến 8 phút và kết quả là một thứ cà phê nhẹ, nhạt, và hơi chua một chút (slightly acidic coffee).

Cà phê lọc ép (còn được gọi tên là cà phê kiểu Pháp)

Kiểu pha cà phê này được người ta quen gọi là cà phê kiểu Pháp, mặc dù dụng cụ pha cà phê do một người Ý sáng chế ra sau đó bán bản quyền patent cho một người Thụy Sỹ từ năm 1933. Rất nhiều người thích uống cà phê pha theo kiểu này bởi vì rất nhanh và dễ, đồng thời chiết xuất được rất nhiều hương thơm từ bột cà phê. Dụng cụ pha cà phê gồm một cái xy-lanh thủy tinh (cylindrical glass container) và một cái lọc khít như một cái piston bên trong cai xy-lanh đó. Người ta cho bột cà phê vào trong xy-lanh, rót nước sôi vào khuấy đều, để nguyên từ 4 đến 5 phút. Sau đó người ta cho cai piston-lọc vào và ấn nhẹ và chậm để tách bột với dụng dịch cà phê đã pha xong. Cà phê lúc đó đã có thể uống được và không còn nóng lắm nữa. Ưu điểm của phương pháp này là không phải tốn 1 cái phễu lọc giấy mỗi lần pha cà phê . Chú ý, bột cà phê phải chọn loại xay vừa phải (medium ground coffee) nếu không sẽ dễ bị uống bột cà phê lẫn trong cà phê. Nên cho khoảng 1 teaspoon trên một ly cà phê là vừa đủ.

Cà phê Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish coffee)

Kiểu pha cà phê này phổ biến nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, một số nước Đông Âu và Trung Đông. Người ta sử dụng một dụng cụ truyền thống gọi là cái "ibrik". Một cái bình đựng làm bằng đồng đỏ và đồng thau, hình một cái phễu lộn ngược và bị cắt cụt, có tay cầm rất dài. Trước hết người ta đun nước sôi liu riu nhỏ lửa trong cái ibrrik, sau đó người ta nhấc cái ibrik ra và cho cà phê xay mịn vào (khoảng 2 thìa teaspoons cho 1 ly), cho cả đường và nhiều khi cả một số loại hương liệu khác như là cardamom hoặc cloves. Sau đó người ta ngoáy đều cái hỗn hợp đó rồi đặt cái ibrik trở lại bếp đun sôi lại. Khi hỗn hợp sôi và xầu bọt gần trào ra, người ta nhấc cái ibrik ra khỏi bếp tiếp tục khuấy đều. Khi cà phê đã hơi nguội, người ta lại đặt trở lại bếp đun lửa thật nhỏ. Cứ nhấc ra nhấc vào 3 lần thì xong. Kết quả là một thứ cà phê đặc quánh, đen, xầu bọt mà không thể đổ ngay ra chén mà uống được mà phải ngồi đợi đến khi bột cà phê đã lắng xuống đáy và khi đó cà phê đã nguội.

Cà phê luộc kiểu Norway

Cà phê pha kiểu này được yêu thích ở Norway và các nước trên bán đảo Scandinavia. Cũng tương tự như cà phê Thổ, người ta luộc bột cà phê trong 10 phút, chỉ khác là người ta sử dụng bột cà phê xay thô, và hạt cà phê chỉ được rang sơ, không kỹ. Khoảng 2 thìa teaspoons cho 1 ly cà phê. Người uống cũng phải ngồi đợi đến khi bột cà phê lắng xuống mới uống được.

Cà phê tan uống liền (freeze-dried coffee)

Dĩ nhiên đây là loại cà phê dễ pha nhất. Chỉ việc đổ một thìa teaspoon bột cà phê tan vào một ly nước nóng khuấy đều và cho thêm creme hay đường tùy ý. Nhưng cà phê pha kiểu này có thể có vị hơi chua nên phải cho thêm đường vào thì mới uống được. Nhiều người nhạy cảm với cafeine có thể cảm thấy tim đập mạnh, hồi hộp khi uống cà phê tan. Trong trường hợp này nên dùng loại đã decafeinated, tức là đã loại bỏ cafeine. Cà phê mua ở máy bán cà phê tự động thường là loại cà phê này. Người ta chứa bột cà phê trộn sẵn đường, creme bên trong máy, khi mình cho tiền xu vào thì máy nó xịt nước sôi vào một lượng bột định sẵn, chảy toẹt ra cốc giấy cho mình uống. Phải nói thật là cà phê này kém ngon và có uống cũng chỉ vì bất đắc dĩ.

Cà phê Espresso (còn được gọi là cafe kiểu Ý)


espresso1.jpg


Là phương pháp pha cà phê chuẩn mực của cà phê Italy. Độc đáo và thông minh. Máy pha cà phê espresso là tác phẩm nghệ thuật thực sự do người Italy sáng tạo ra. Cà phê được pha ở áp suất rất cao. Một cái bơm bơm nước qua một ống xoắn bằng đồng. Nước được đun nóng nhanh trong hệ thống ống đồng đó lên đến nhiệt độ gần 100°C (không dưới 90°C). Áp lực đẩy nước qua bột cà phê được nén chặt trong một cái lọc. Nước chảy nhanh qua bột cà phê, qua một cái lọc kim loại thẳng vào cốc chỉ trong vài chục giây. Kết quả là một ly cà phê nóng, đặc (full body and condensed) và đẫm đầy hương thơm (intense aroma), tuy thế mà vẫn không đắng mà êm và xốp nhẹ như kem. Đến ngày hôm nay phương pháp pha cà phê này được coi là ưu việt nhất bởi vì những lý do sau: Pha ly nào xay bột cà phê cho ly đó, cà phê giữ được hương thơm hơn, mà người uống có thể yêu cầu điều chỉnh để bột cà phê xay thô, xay vừa hay xay mịn, tùy ý thích. Nước nóng già nên hương thơm của cà phê được chiết xuất ra ở hiệu suất tối đa và không bị bay đi mất.

espresso.jpg


Nước nóng được xục qua nhanh, bột cà phê không bị cháy nên không đắng và lượng cafeine tan vào nước cũng không quá nhiều như khi luộc cà phê trong nước trong thời gian dài hơn. Bộ lọc tinh có thể sử dụng được, nhờ áp lực cao của nước, vì thê trong cà phê không có vẩn đục như khi chỉ nhờ trọng lực để đẩy nước chạy qua cà phê.

Cà phê Mocha - Giải pháp tiện dụng và ngon

Từ những năm 1930s, các công ty của Italy ở Pavia, Milan và Turin đã phát triển và hoàn thiện dụng cụ pha cà phê bằng hơi nước và sáng tạo ra các kiểu ấm pha cà phê khác nhau. Ấm pha cà phê thành công nhất mang tên là "Moka Express", do tác giả Alfonso Bialetti đăng ký bản quyền năm 1933 và đến tận ngày nay hãng Bialletti vẫn bán, và bán rất nhiều cái ấm này, và nó vẫn giống hệt cái ấm được bán từ những năm sau Thế Chiến II. Chính vì tiện dụng, rẻ và ngon mà phương pháp pha cà phê này được nhiều người yêu thích. Vào nhà người Italy dù nghèo đến đâu bạn cũng sẽ tìm thấy ít nhất một ấm pha cà phê mocha. Cái ấm mocha có 3 phần gắn liền với nhau. Phía dưới là một cái bình nhỏ chứa nước (nồi hơi), ở giữa là một cái lọc bằng nhôm đồng thời là chỗ nén cà phê, và phía trên cùng là nơi chứa thành phẩm, cả 3 phần gắn với nhau đều có roăng cao su kín hơi. Người ta đổ lượng nước vừa đủ với lượng cà phê muốn có vào trong "nồi hơi", rồi cho bột cà phê vào trong bộ lọc (cà phê xay mịn hay thô tùy sở thích, hai thìa teaspoon cho một ly cà phê), sau đó vặn chặt và đun. Khi nước sôi, hơi nước bốc lên và gặp bột cà phê liền ngưng tụ thành nước sôi, nước cất sôi, đảm bảo 100°C (hay ít nhất cũng 99°C). Nước mới ngưng tụ hòa tan cà phê và sản phẩm được đẩy tiếp lên trên và đọng lại ở bình chứa phía trên. Chỉ chưa đầy 1 phút cà phê đã pha xong, nóng sẵn sàng để uống.

mocha-frappe.jpg


Bình mocha làm ra cà phê đặc trung bình (medium body), màu đen, vị đậm, hương rất thơm. Nếu dùng bột cà phê mịn thì sẽ đắng hơn, đậm hơn là bột cà phê xay thô. Không nói thì mọi người cũng thấy rõ rằng, cái ấm Bialetti loại cá nhân, pha được 1 đến 2 ly cà phê với gia tiền khoảng 5USD, nhỏ gọn và nhẹ, có thể bỏ vào trong vali xách trên đường đi du lịch đi học, không cần ổ cắm điện, adapter gì hết, cứ ở đâu có bếp điện, bếp lò và nước là ở đó ta có cà phê uống. Và theo những tay pha cà phê chuyên nghiệp kiểu Italy, cà phê pha bằng ấm mocha chỉ đứng thứ 2 về độ ngon so với cà phê espresso pha bằng cả cỗ máy lớn có thể trị giá tới trên 5000USD. Nếu bạn có thời gian, bạn có thể cầu kỳ chọn và thử các độ mịn khác nhau của bột cà phê (chỉ cần đọc trên túi giấy coarse/medium/fine ground), các giống cà phê khác nhau (robusta/arabica) và các mức độ rang khác nhau (light, medium or well roasted) rồi bạn sẽ tìm ra sở thích của mình. Sau một thời gian, bạn chỉ nhấp cà phê là có thể biết được cà phê này được rang, xay và pha thế nào


Đôi điều nói thêm về pha cà phê ở Việt Nam


Cách pha cà phê ở Việt Nam chủ yếu có 2 kiểu,

Pha luộc (pha vợt)

Cà phê cho vào túi vải luộc được rất nhiều cửa hàng sử dụng và kiểu pha cà phê phin được dùng khi người uống sành gọi đến thì nhà hàng mới mang ra. Lý do có lẽ vì cà phê luộc kinh tế, dễ làm (chỉ việc hâm nóng bằng cái xong nhôm là xong) mà lại nặng hơn cà phê phin nhiều. Cà phê luộc dở ở chỗ hại sức khỏe mà hương thơm không nhiều, vì bị bay mất nhiều rồi.

Pha phin

Cà phê phin ngon hơn, nhưng khó làm, bởi vì nhiều yếu tố. Trời lạnh, nước sôi rót vào phin nguội nhanh. Tráng phin trước là một cách, đổ nước vào làm 2-3 lần là một cách khác tăng độ nóng, nhưng đều chỉ tăng hiệu suất lên một chút thôi. Nếu nén cà phê chặt, nhỏ giọt lâu mới xong, cà phê hơi nhiều cafeine vì bị ngâm nước lâu, hơi nguội một chút khi uống. Nếu nén không chặt, cà phê chảy xuống có pha lẫn bột cà phê, hương thơm chiết ra chưa được hết. Làm sao mà huấn luyện được tất cả nhân viên nhà hàng biết cách nén cà phê vừa tay trong phin đây? Phin pha cà phê nếu dùng loại bằng inox, lỗ phin khá nhỏ, có ren xoáy là hay nhất vì có thể chỉnh độ chặt, lỏng cho vừa. Nếu dùng phin nhôm, lỗ phin to lọt cả bột cà phê xuống, lại không thể nào chỉnh được độ chặt, thì e rằng cà phê khó ngon. Bất đắc dĩ mà phải dùng phin nhựa, thì thật là phí cà phê.

Một vài tips trong cách gọi cà phê ở quán ngoài Việt Nam


Trước hết hãy nhìn máy của hàng, nếu máy có bộ xay cà phê tại chỗ ở một bên, bộ xục khí ở một bên (để tạo bọt cho cà phê hoặc sữa tươi khi cần), ở giữa thấy có bộ lọc lớn nhỏ nhiều cỡ, đó là dấu hiệu cà phê có thể ngon. Bạn được quyền yêu cầu dùng bột cà phê cỡ nào, nhưng nếu bạn không yêu cầu thì người ta thường sẽ cho bạn uống medium. Nếu bạn khoái espresso, thích uống nhiều thì gọi 2 ly, đừng gọi một ly đúp (double shot), vì nếu bạn gọi ly đúp người ta sẽ dùng bộ lọc đôi. Gấp đôi cà phê, gấp đôi nước, gấp đôi thời gian. Bột cà phê bị nước nóng xục qua quá lâu sẽ đắng hơn. Hai ly đơn hơn 1 ly đúp là vì thế. Nếu bạn gọi cà phê khác thì người ta thường cũng sẽ pha ra một ly espresso. Nếu bạn gọi Americano, thì người ta pha 1 ly espresso đó với 2 chén nước nóng, một chén sữa, ngoáy đều và xục khí là xong. Nếu bạn gọi café latte thì người ta pha 1 ly espresso với 2 ly sữa, xục khí lên là xong. Có thể thêm cream, bột quế lên trên nếu bạn gọi. Chả có gì là magic lắm trong các tên gọi cả, Americano chẳng qua là nhạt, nhiều nước, còn latte là sữa mà thôi.

Sưu tầm.
 
Văn hóa cà phê: "Đa dạng tính cách"

Có người nói: "Cà phê không phải là thú thanh thản như trà, càng không mạnh mẽ bạo liệt như rượu. Người thưởng thức nhẹ nhàng cho rằng cà phê là gạch nối giữa niềm vui và nỗi buồn. Với ai đang muộn phiền, cà phê càng day dứt như một bản nhạc có nhiều dấu lặng. Còn những kẻ môn đồ của giáo phái cà phê thì cho đó là người đàn bà mang bùa ngải trong mình...."

Chính vì thế một nghịch lý đã xảy ra, khi cuộc sống càng đầy đủ bận rộn thì vai trò của cà phê càng trở nên quan trọng hơn trong đời sống thường nhật, nhất là đối với giới mày râu. Đàn ông không chỉ uống cà phê như một nhu cầu giải khát sinh học mà từ lâu nó đã trở thành một "thú thưởng thức" mang nhiều tính cách cá nhân.

Cũng ngần đó loại cà phê nhưng mỗi người lại đến với cà phê theo mỗi cách khác nhau.
Những người đàn ông có tuổi, người mang nhiều tâm sự hoặc sống hướng nội không thích những chốn ồn ào, sôi động. Họ thường tìm đến những góc quán có không gian trầm lắng, nhẹ nhàng, thông thoáng. Trong ngõ sâu hoặc trên những con phố vắng người để trải lòng với những tách cà phê, đắm mình trong những bản nhạc dịu êm hoặc một không gian thiên nhiên thư thái bên giỏ lan, bên con suối nhân tạo róc rách.

Những người này có thể bỏ hàng giờ, hàng buổi thậm chí là cả ngày để được uống cà phê và quên đi mọi tâm sự của mình. Họ xem đó cũng là một kiểu giải toả stress "không đắt tiền". Nổi tiếng nhất đối với những quán cà phê dạng này là cà phê Sỏi Đá, Tuấn Ngọc, Thiên Thai, Tĩnh lặng, Tưởng Niệm, Niết bàn,... (Sài Gòn) hay Phố Cổ,... (Hà Nội).

Riêng những người bạn trẻ là sinh viên, học sinh hoặc những người mới đi làm thường tìm đến những góc quán vui nhộn, sang trọng và trẻ trung họ thường đi thành nhóm và nói chuyện rất sôi nổi bên tách cà phê. Quán họ tìm đến là quán có không gian hiện đại, mang màu sắc Âu và thường nằm ở những con phố lớn, có view hướng ra đường, hầu hết đều có máy điều hoà nhiệt độ và màn hình ti vi lớn.
Bước vào quán là bước vào một thế giới sôi động, náo nhiệt với những bản nhạc rock nảy lửa hay những bộ phim hành động "ác chiến". Giới trẻ tìm đến đây vì những quán dạng này mang đến cho họ những cảm giác hết sức thoải mái, họ tha hồ nói chuyện cười đùa, ăn uống mà không sợ gây ảnh hưởng đến những người xung quanh. Papilon, cafe Nhân... (Hà Nội), Hình Như Là, Viet"s Top, cát Đằng, Bờ Hồ, Grammy... (Sài Gòn) là những quán dạng này.

Hai chiếc ghế nhựa hoặc gỗ, một ngồi và một để cà phê. Có thể ngồi trên vỉa hè, trong hẻm nhỏ nào đó vào bất cứ thời điểm nào. Đó là kiểu uống cà phê bình dân nhất, phổ biến hiện nay nhất ở Việt Nam. Đối tượng uống cà phê kiểu này đủ mọi thành phần, lứa tuổi. Họ uống cà phê như một nhu cầu giải khát hay một thói quen thường nhật nên không câu nệ về không gian.

Riêng ở Hà Nội, không biết từ bao giờ uống cà phê dạng này như đã trở thành một nét văn hoá. Chỉ cần dạo qua con phố Nguyễn Du, Lý Thái Tổ bạn sẽ dễ dàng bắt gặp cảnh đông đúc người ngồi bên vỉa hè uống cà phê dù vào mùa hè hay mùa Thu. Những quán dạng này tuy hơi xô bồ, bụi bặm nhưng trái lại người uống cảm thấy rất thoải mái và tiện lợi, giá cả lại phải chăng. Ở Sài Gòn, quán Môri trên đường Hồ Văn Huê là quán cà phê vỉa hè lớn nhất và được dân nghiền cà phê vỉa hè gọi vui bằng cái tên "chốn về bình yên".

Đối với dân văn phòng thì điểm đến quen thuộc và thường xuyên nhất có lẽ vẫn là cà phê wifi phủ khắp khuôn viên quán cộng với không khí dễ chịu, thoải mái là điểm thu hút nhất. Thần dân của quán là những người không thích môi trường làm việc gò bó của văn phòng, họ tìm đến đây như một cách làm việc tự do. Ngồi ở đây, vừa làm việc vừa có thể nhâm nhi cà phê hay tán gẫu cùng bạn bè. Mà họ vẫn gọi là "vừa làm vừa chơi".

Dạng quán cà phê độc đáo nhất vẫn là dạng quán chuyên về một thú chơi nào đó. Chẳng hạn, quán nhạc Trịnh là nơi hội tụ của dân mê nhạc Trịnh, quán xe cổ - là nơi trưng bày nhiều bộ sưu tập về xe máy cổ, Yoko là quán dành cho các fan nhạc rock, Đồng Quê - quán tái hiện lại không gian của làng quê thuần Việt với những vật trang trí thân quen như cái cày, bộ quang ghánh, cái liềm, lợp mái tranh... thậm chí, trong thời gian gần đây, khi thị trường chứng khoán rộ lên như một cơn sốt, thì xuất hiện những quán cà phê chuyên cập nhập thông tin chứng khoán để hút khách.

Cá tính và độc đáo là "tính cách" của quán hay cũng chính là tính cách của những người đến đây. Họ tìm đến quán vì họ nhận thấy "gu" của quán hợp với gu của mình. Do đó quán là điểm gặp gỡ thường xuyên của những người có cùng sở thích, đam mê. Đây là kiểu cà phê in đậm dấu ấn cá nhân rõ nét nhất nhưng lại chiếm số lượng nhiều nhất.
Đi vào đời sống tự nhiên như không có gì đặc biệt. Nhưng người ta dễ dàng nhận thấy, càng ngày cà phê càng định hình rõ nét như một sắc màu văn hóa đối ẩm chẳng khác gì trà. Và trong cơn lốc của thị trường, của cuộc sống đó không phải là điều khó lý giải đối với giới mày râu.

Theo Netlife
 
1.
Hôm rồi, có người bạn bên Úc gởi qua điện thư cho tôi một "sưu tập" khá thú vị. Đó là những mẩu chuyện so sánh rất tinh tế về Sài Gòn và Hà Nội, từ thời tiết như mưa nắng cho đến đường phố, cây cối và nhiều nhất là những sinh họat hàng ngày như ăn, uống, vui chơi, giải trí v.v... Trong đó, có một mẩu so sánh về việc "uống cà phê" như sau:
Uống Cà phê

Ở Sài Gòn: thường uống cà phê có nhiều đá vào buổi sáng trước khi đi làm
Ở Hà Nội: thường uống cà phê khi đi chơi vào buổi tối trước khi... đi ngủ

Nếu bạn gọi một ly nâu

Ở Sài Gòn: bạn sẽ được chủ quán mang cho một ly cà phê đen
Ở Hà Nội: bạn sẽ được 1 ly cà phê có thêm sữa

Nếu bạn muốn uống cà phê sữa

Ở Sài Gòn: cho xin 1 ly bạch sửu
Ở Hà Nội: nếu bạn gọi 1 ly bạch sửu bạn sẽ nhận được câu trả lời - không có, hoặc bạn bị coi là... hâm.

Đọan so sánh về ly "bạch sửu" làm sống lại trong tôi những quán cà phê Tàu, những quán cà phê đã làm nên một đặc tính "văn hóa cà phê" rất Sài Gòn. Thực ra, chữ bạch sửu có lẽ là do đọc trại đi từ "bạc xỉu", gọi tắt của cụm chữ "bạc tẩy xỉu phé". Mấy chữ đó là âm từ tiếng Quan Thọai, thứ tiếng Tàu khá phổ thông trong số những người Tàu sống ở Sài Gòn. Bạc là màu trắng, Tẩy là cái ly không, Xỉu là một chút, và Phé là cà phê. Rõ nghĩa hơn, đó là một thức uống theo ý khách hàng : Sữa nóng thêm một chút cà phê. Sữa đặc pha với nước sôi thường có mùi hơi khó uống, nên chút cà phê thêm vào sẽ làm cái mùi ấy mất đi. Ở những quán cà phê bình dân của người Tàu (những năm 50s, 60s, Sài Gòn đầy dẫy những quán cà phê bình dân kiểu này, chúng thường chiếm vị trí thuận lợi ở mỗi đầu con hẻm), khi khách hàng Việt gọi một món thức ăn, thức uống bằng tiếng Việt, phổ ky (người hầu bàn) thường có thói quen đứng từ bàn của khách nói vọng vào bếp (cũng được đặt ngay trong một góc gần ngay chỗ thực khách ngồi ăn uống) món thức ăn, uống ấy bằng tiếng Tàu. Dần dà, người khách Việt thuộc lòng món ăn, uống ưa thích bằng tiếng Tàu và sau đó, đã sử dụng luôn chúng trong lúc gọi thực đơn. Và từ đó, ngôn ngữ Việt đã đồng hóa một số từ thức ăn, thức uống trong tiếng Tàu thành ngôn ngữ riêng của mình, trong đó có từ "bạc xỉu". Vì đó là đặc tính "văn hóa cà phê" riêng của Sài Gòn nên Hà Nội làm sao biết được. Ngay cả Sài Gòn bây giờ, có mấy người trẻ hiểu được thói quen của mấy ông bà lớn tuổi, vào quán cà phê bình dân đầu hẻm, khi vừa ngồi xuống đã vội kéo một chân lên ghế (đẩu), vừa lớn tiếng gọi "cho cái xây chừng coi !" (xây chừng : ly cà phê đen nhỏ), hay "sang"hơn một chút : "Phổ ky ! cho cái xây nại !" (xây nại : ly cà phê sữa nhỏ).

Để nói về "văn hóa cà phê" của Sài Gòn những năm đó, người ta cần cả một pho sách.

2.
Nhưng, "văn hóa cà phê" là gì ? *

Để "nắm bắt" được khái niệm mơ hồ ấy, rất đơn giản. Một buổi sáng đầu thu nhàn rỗi nào đó, với chút không khí se lạnh đầu ngày, bạn mở cửa bước vào một nhà sách quen thuộc(Barnes & Noble chẳng hạn). Điều đầu tiên bạn chú ý là mùi cà phê ngào ngạt "quánh" lại giữa không gian, phát ra từ một góc (trái hoặc phải, hoặc ngay chính giữa) của tiệm. Đó là quán cà phê mang cái tên khá quen thuộc với người Mỹ : Starbuck hay có thể là một cái tên nào khác. Điểm chính là một quán cà phê nằm ngay trong tiệm sách. Khách đến mua sách (hay chỉ đến để xem "cọp" như các cô cậu sinh viên cần tài liệu nào đó cho homework của mình, hay đơn giản, thói quen đi dạo hàng sách của những con mọt chữ - như kẻ viết bài này) có thể cầm vài quyển sách của các tác gỉa quen thuộc, ngồi xuống một góc bàn, mua ly cà phê, vừa nhâm nhi vừa say mê trên những trang sách thánh hiền. Cà phê và sách vở. Hai thứ ấy thường đi chung với nhau. Nhiều văn hào lừng danh trên thế giới (như vợ chồng triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir) khi ngồi xuống bàn viết, ngòai xấp giấy trắng phải luôn luôn có ly cà phê nóng trước mặt. Từ thế kỷ 15, 16 ở Châu Âu đã xuất hiện khái niệm "văn hóa cà phê", ám chỉ những quán cà phê thường có sự lui tới của các văn nghệ sĩ, các triết gia. Họ đến đó, trước hết như là nơi thường xuyên gặp gỡ hàng ngày, để ăn uống, trao đổi bàn bạc những bản thảo họ đang thai nghén, hay để chia sẻ những ý kiến riêng về các vấn đề văn hóa thời sự nóng hổi. Nhiều tác phẩm quan trọng có tầm vóc thay đổi thế giới đã ra đời từ những quán cà phê như thế. Franz Kapka, nhà văn gốc Do Thái, đã đọc lại bản thảo tác phẩm lừng danh "Hóa Thân" (Metamorphosis) tại quán cà phê Café Stefan ở Prague (thủ đô Tiệp Khắc). Tiệm cà phê cổ nhất ở Paris, khai trương năm 1686 (và đến nay vẫn còn họat động (?)), Le Procope, với vị trí thuận lợi tọa lạc gần hí viện La Comédie-Francaise, đã được sự chiếu cố đặc biệt của các nghệ sĩ, các nhà viết kịch (Molìere, Racine v.v..) nên đã tồn tại một thời gian kỷ lục. Lịch sử về văn hóa cà phê tại châu Âu đã ghi nhận sự ra đời của gần 40 quán cà phê, đến nay vẫn còn họat động tại 20 thành phố, từ Budapest (Hung Gia Lợi) diễm lệ sang trọng đến một góc phố tồi tàn của St. Petersburg (Nga). Ở Sài Gòn, trước năm 1975, có quán cà phê La Pagode, nằm trên đường Tự Do (bây giờ là Đồng Khởi), chỗ đối diện với công viên Hòa nhạc phía bên kia đường, cũng là nơi tụ tập của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của miền Nam. Cái tên La Pagode đã có chỗ đứng rất trang trọng trong nhiều tác phẩm văn, thơ xuất bản cả trước lẫn sau 1975. Cũng từ quán cà phê Cái Chùa (La Pagode), một nhóm các nhà văn, nhà thơ lúc ấy đã "lăng–xê" mốt "trí thức thời thượng": kính trắng và ống vố (pipe). Và tất nhiên, trước mặt phải có ly cà phê bốc khói, và cái lọ đựng những viên đường thẻ trắng tinh.

Từ năm 1983, nước Mỹ, vốn bị các trí thức Châu Âu gọi mỉa mai là "anh trọc phú" (anh nhà giàu ngu dốt), đã xuất hiện hệ thống tiệm cà phê Starbuck, mà chỉ hơn 20 năm sau nó đã trở thành hiện tượng "văn hóa" đáng chú ý không những chỉ ở nước Mỹ, mà còn ở các quốc gia có "nền văn hóa cà phê" lâu đời ở châu Âu. "Rót cả tâm hồn vào đáy cốc" (tôi muợn câu chuyển ngữ tuyệt vời của Trần Kiêm Đòan từ nhan đề quyển sách viết bởi người sáng lập nên hệ thống cà phê Starbuck : Pour Your Heart into It : How Starbucks Built a Company One Cup at a Time của Howard Schultz), đó là triết lý chảy qua từng giọt cà phê Starbuck sóng sánh. Thứ triết lý đi từ đáy cốc đến từng tế bào não bộ của khách mộ điệu đứng xếp hàng mỗi buổi sáng trước 12 ngàn quầy cà phê Starbuck có mặt khắp nơi trên thế giới, từ thành phố Wichita nhỏ bé ở một tiểu bang nông nghiệp quê mùa của nước Mỹ đến những khu phố tráng lệ của Nữu Ước, sang trọng của Seattle, cổ kính của Boston, đến cả thủ đô Paris, cái nôi của văn hóa châu Âu, thành trì kiêu hãnh một thời của giới trí thức châu Âu.

Ngày nay, khi nói đến văn hóa cà phê, người ta (giới trí thức châu Âu) đã không thể bỏ qua "văn hóa cà phê Starbuck”. Dù vậy, vẫn có kẻ ganh tị với anh "trọc phú Mỹ", biện luận rằng Starbuck vốn có gốc gác từ một quốc gia châu Âu khác là Ý, mà người sáng lập ra nó là Howard Schultz đã mang nó về từ một chuyến du lịch thành phố Milan. Nhưng nếu không có anh trọc phú Mỹ nhúng tay vào thì liệu cái thứ cà phê có gốc gác từ Milan ấy đến nay có bao nhiêu người biết. Cũng như cái món Pizza (cũng có gốc gác từ Ý) lừng danh thế giới, nếu không được giới thiệu đầu tiên ở nước Mỹ từ một cái Lều (Hut) nằm khiêm tốn trong một khu hẻo lánh của khuôn viên trường Đại Học Wichita State University (Wichita –Kansas) năm 1958 thì ngày nay mấy ai biết đến Pizza Hut. Mặt khác, phải khâm phục óc sáng tạo kinh tế nhưng lại mang màu sắc văn hóa của những người đầu não Starbuck. Họ đã kết hợp thành công hai tính cách tưởng chừng như đối nghịch nhau, như sao Hôm, sao Mai không bao giờ gặp.Đó là tính cách khoan thai, tà tà, nhàn nhã của châu Âu, biểu tượng qua những giọt cà phê phin (filter) chậm rãi vào buổi đầu ngày và tính cách "Fast Food" của người Mỹ, mọi chuyện đều phải "ăn liền" (instant), ngay tức thì, kể cả ly cà phê buổi sáng, biểu tượng qua bình cà phê Folgers hay Maxwell đầy ắp đủ uống cho nhiều người chỉ trong 1, 2 phút sau khi bấm nút máy pha (coffee maker). Hãy thử so sánh, khỏang thời gian trung bình của một người Mỹ từ lúc họ ghé xe vào trạm "Drive-thru" để đặt mua bữa ăn trưa cho đến khi họ trả tiền và nhận gói thức ăn từ tay người bán : từ 2 cho đến 4 phút. Có khi nhanh hơn : dưới 2 phút. Bây giờ, trong những buổi sáng ngày làm việc, họ sẵn sàng đứng xếp hàng chờ mua ly cà phê Starbuck với khỏang thời gian chờ đợi từ 7 đến 15 phút. Có thể nói, với ly cà phê Starbuck, người Mỹ đã "tự điều chỉnh" nhịp độ hối hả của họ, và sống "nội tâm" hơn.

Nói cách khác, cà phê, ngòai tính cách "văn hóa" còn đóng vai trò tác động vào lối sống (lifestyle). Nó có thể làm trì trệ thêm lối sống vốn đã trì trệ của một số người, nhưng cũng có thể có tác dụng tích cực, như ly cà phê Starbuck và lối sống Mỹ.

3.
Sáng nay cà phê một mình
Sài Gòn chợt mưa chợt mưa
(Cà phê một mình- Ngọc Lễ)

Câu hát thật dễ thương. Lại nhớ đến Sài Gòn và những quán cà phê buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối. Người Sài Gòn lúc nào cũng uống cà phê được. Bạn bè gặp nhau là rủ nhau ra quán cà phê. Tình nhân hẹn hò là lấy điểm hẹn ở một quán cà phê quen thuộc. Giới làm ăn hẹn nhau ra quán cà phê để trao đổi những điều cần thỏa thuận cho công việc mà các bên cùng quan tâm. Ngay đến hình thức quán cà phê cũng đã rất đa dạng. Từ quán cóc vỉa hè có thể bắt gặp ở bất cứ góc đường nào của thành phố, đến những quán cà phê Tàu có bình trà bằng thiếc to tướng (ngày xưa chúng tôi hay gọi đùa là trà Thiếc Quan Âm), rồi đến những quán cà phê lộ thiên trang nhã dưới một gốc cổ thụ (như cà phê Bạch Tùng Diệp đối diện với Dinh Gia Long cũ), những quán cà phê cửa kính có máy lạnh, có nhạc Trịnh Công Sơn. Đó là Sài Gòn ngày xưa, với không khí văn hóa cà phê, trí thức hay bình dân tùy theo hình thức của quán.

Dù bình dân hay trí thức, thì không khí của quán là thứ không khí mà, nói theo nhà văn quá cố Hòang Ngọc Tuấn, ở nơi đó ai cũng quen nhau. Ở đó, những người khách xa lạ ngồi cùng bàn (thậm chí khác bàn) có thể nói chuyện với nhau tự nhiên như đã quen nhau từ trước. Ở đó, một bác xích lô có thể tranh luận kịch liệt với ông giáo sư trung học về một sự kiện thời cuộc nào đó vừa được đăng trên nhựt trình (báo ngày). Kể cả những lời ta thán, rủa xả một cách hành xử mất lòng dân của chính quyền đương thời v..v…

Nói cách khác, thời đó, quán cà phê là một bức tranh xã hội sinh động, giúp những người thực sự quan tâm đến dân chúng bắt mạch được nhu cầu đích thực của một thành phần công chúng.

Ngày nay, theo lời của nhiều người am hiểu trong nước, quán cà phê vẫn là một hình thức sinh họat văn hóa, nhưng phức tạp hơn, đa dạng hơn và "trần tục" hơn.

Dân Sài Gòn bây giờ gọi những hình thức khác nhau của những quán cà phê là "phong cách". Phong cách càng lạ, càng sang trọng, càng thu hút khách. Vẫn còn những quán cà phê vỉa hè, nhưng "phong cách nghèo nàn, bình dân" ấy không phải là đầu đề để dân sành điệu cà phê Sài Gòn chuyện trò bù khú. Phải là quán cà phê Panorama tọa lạc ở từng thứ 33, từng cao nhất, của Sài Gòn Center. Người ta đến đây không phải để uống cà phê, mà là để mua chỗ ngồi ngắm thành phố từ trên cao chót vót. Hay cà phê Skyview tại tầng thứ 13 của Diamond Plaza (khu gần Vương Cung Thánh Đường), nơi dành cho những vị khách chuộng không gian lịch sự, lặng lẽ. Hoặc cà phê Highlands dưới chân tòa nhà Metropolitan ở đường Tự Do. Chỉ cần ngồi ở đây một hai tiếng đồng hồ, người ta có thể bắt đúng được nhịp tim đập của thành phố. Từ bảnh sáng đến khuya khoắt mịt mù, hiếm khi nào quán vắng khách. Có mặt đủ lọai các celebrities (những người nổi tiếng) ca sĩ, nhạc sĩ, người mẫu, đại gia, công tử, dân chơi v.v… Ở những quán cà phê "đầy phong cách" như thế, không khí của nó là biểu hiện cho một lối sống, chắc hẳn là không thuộc về đại đa số người dân kiếm ăn từng bữa. Vì thế, khi nói về văn hóa cà phê, người ta vẫn phải nhìn vào những nơi tụ họp đông đảo giới lao động cùng với những lo âu, vui buồn bày tỏ trong lúc họ ngồi nhâm nhi ly cà phê với giá cả phải chăng.

Ở Hà Nội, trước đây cũng có những quán cà phê ra đời từ những năm 50s như cà phê Giảng, cà phê Nhân. Cà phê Giảng, theo lời những người lớn tuổi, là điển hình cho cà phê phố cổ Hà Nội. Cà phê Nhân, năm 1954 đã di cư vào Sài Gòn, và mở lại ở một căn nhà nhỏ xinh xắn mặt tiền đường Lý Thái Tổ, kế bên tiệm phở Tàu Bay và gần nhà thờ Bắc Hà. Sau này, theo giới sành điệu cà phê của Hà Nội, đất ngàn năm văn vật có thêm các quán cà phê đầy "phong cách văn hóa trữ tình và lãng mạn" như cà phê Ánh ở đường Quán Sứ, chung quanh tường được trang trí bằng những bức ảnh của nhiếp ảnh gia Hòai Linh, hay cà phê Lâm, cà phê Tùng Hậu cũng trang trí bằng những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng Việt Nam. Và cũng như Sài Gòn, Hà Nội không thiếu những quán cà phê nhạc sống, dưới hình thức nhạc thính phòng.

Xem ra, văn hóa cà phê của Sài Gòn, của Hà Nội cũng không thiếu những đặc trưng cơ bản của văn hóa cà phê thế giới.

4.
Trong ly cà phê có hương vị của cuộc sống. Vì cà phê vốn đắng, nên người ta phải cho thêm đường. Bỏ bao nhiêu đường, thì lại tùy khẩu vị mỗi người. Giới sành điệu bảo rằng, chớ nên hâm lại cà phê nguội, vì sẽ làm vị cà phê đắng thêm. Cũng như hãy để những gì thuộc về quá khứ lãng quên trong quá khứ, đừng khơi lại, chỉ chuốc lấy thêm nhiều dư vị không lấy gì làm ngọt ngào.

Văn hóa cà phê còn nhắc nhở người ta rằng, hãy uống cà phê khi ly cà phê còn nóng, tức là hãy sống hết mình cho hiện tại. Đừng bận tâm ngỏanh mặt nhìn ngày hôm qua, đừng cố kiễng chân nhìn về ngày sắp tới, vì làm thế chỉ khiến ly cà phê trước mặt nguội dần, mất ngon.

Triết lý cà phê cũng ngụ ý rằng, cuộc đời đôi khi đắng chát như một ly cà phê đen thiếu đường. Nhưng cà phê đắng còn có hộp đường bên cạnh. Còn cuộc đời chẳng may chát đắng, thì phải làm sao ?

Lại nhớ câu thơ được nghe từ những ngày còn lưu đầy đất Bắc. Nói lên cảnh ngộ của vợ những người tù cải tạo năm xưa.

Cà phê đắng cho thêm đường thì ngọt.
Đời đắng cay em biết bỏ thêm gì ?

Văn hóa cà phê thật đa dạng. Triết lý cà phê cũng đủ sâu để luận bàn. Vậy, xin mời bạn, chúng ta hãy "rót cả tâm hồn vào đáy cốc... cà phê". Hay, nếu ly cà phê đời của bạn đã có quá đủ chất đắng, thì chúng ta vẫn có thể thưởng thức vị ngọt của ly bạc xỉu, với một chút cà phê đen trong ly sữa trắng, như một chút mặt trời trong ly nước lạnh của Francoise Sagan**.

T.Vấn
viet.no

=========================================
Chú thích:
*Tiểu đoạn 2, phần viết về văn hóa cà phê châu Âu, lấy ý từ bài "Văn nghệ sĩ và văn hóa cà phê" của Thanh Huyền, Evan.com tháng 11-2006. Tiểu đọan 3, phần về văn hóa cà phê Sài Gòn ngày nay, lấy ý từ bài viết "Cà Phê Sài Gòn", VNExpress tháng 5-2005.
** Francoise Sagan (1935-2004), nhà văn nữ người Pháp, mới 18 tuổi đã nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm "Buồn ơi chào mi" (Bonjour Tritesse). "Một chút mặt trời trong nước lạnh" (Un Peu de Soleil Dans l’eau Froide) là tên một tác phẩm khác, xuất bản năm 1969 của bà.
 
Những quán cà phê Hà Nội

"Văn hóa cà phê" từ lâu đã trở thành bình dị trong nếp sống người Hà Nội. Nhưng dưới con mắt người ngoại quốc, nó có thể được khám phá với những nét độc đáo. Bạn sẽ thấy cảm nhận đó qua bài viết của nữ ký giả Katherine Zoepf đăng trên New York Times. Lúc đầu bạn sẽ không tìm ra nơi đó đâu. Nằm ép mình giữa hai cửa hàng vải lụa trên một đoạn đường đông đúc của phố Hàng Gai, cuối một lối đi chật hẹp dẫn tới khu vườn nhỏ ở sân sau nhà, quán cà phê Phố Cổ cho cảm giác về một khám phá mới, dù bạn tới đây lần đầu hay lần thứ 50. Vài cư dân Hà Nội biết tới nó như một quán cà phê bí mật, một ốc đảo hầu như tách biệt hẳn với những đường phố đông nghẹt xe máy của khu phố cổ. Những chiếc bàn thấp đặt cạnh mấy chậu hoa sen. Những con bồ câu Nhật Bản với đôi chân lông lá và đuôi xòe hình rẻ quạt thản nhiên len lỏi giữa đám bàn ghế. Bộ sưu tập nghệ thuật của chủ quán treo trên những bức tường. Những tấm bạt đã bị nước mưa làm hoen bẩn. " Nước làm màu đậm thêm", người chủ quán nói. Nửa buổi sáng, quán cà phê vắng teo, trừ mấy nhóm cụ già đánh cờ bên ly cà phê của họ.
Quán Phố Cổ là một trong những điểm bán cà phê ngon nhất Hà Nội. Không như phần còn lại của châu Á - một lục địa uống trà nói chung, một vùng đất nhạt thếch với những gói Nescafé hòa tan dành cho du khách phương Tây thích loại cà phê Java, Việt Nam có một nền văn hóa cà phê khác hẳn Italy. Cùng với kiến trúc thời thuộc địa và bánh mì đũa được bán ở các góc phố, cà phê là một trong những tàn tích dễ chịu nhất mà những năm đô hộ của người Pháp để lại.

Bỏ qua vấn đề giao thông, nhịp sống ở đây vẫn từ tốn và hầu như người Việt nào bạn gặp, bất kể già trẻ, giàu nghèo, đều có một quán cà phê mà họ ưa thích, nơi họ có thể bỏ ra hàng giờ để chuyện gẫu, hút thuốc lá và nhấm nháp một ly cà phê sữa đá thật đậm và ngọt (cà phê phin đặt trên một ly cao với đá đập nhỏ và sữa đặc có đường). Đó là cách pha cà phê thông dụng ở đây với giá 20 đến 40 cent cho một ly (3.000-6.000 đồng - TS).

Đó là một loại văn hóa cà phê kiềm chế: Không có những chiếc dù phô trương, không có những chiếc bàn đặt nhô ra lề đường. Ngắm người qua lại không phải là mục tiêu của nó. Quán cà phê tiêu biểu của Hà Nội là một khung cảnh nhỏ, thường chỉ là một mặt tiền cửa hàng với bức mành tách biệt khỏi đường phố. Khu phố cổ của Hà Nội - 36 phố phường, mà hồi thế kỷ 13, mỗi phố đều được đặt tên theo phường hội buôn bán những loại hàng của họ - đều là những cơ sở kinh doanh nhỏ của các gia đình.

Bên trong những quán cà phê này, như cà phê Quỳnh ở phố Bát Đàn, thường tối tăm - trái với ánh nắng nhiệt đới ở bên ngoài. Mỗi tách cà phê là một thứ xa xỉ nhỏ có thể chấp nhận tại một xứ sở mà lợi tức gia đình hằng năm xấp xỉ 300 USD. Những cư dân của Hà Nội tới các quán cà phê để trốn cái nóng ban ngày, để thư giãn, và để nhấm nháp một tách cà phê đắng pha ngọt lịm của thành phố.

Cũng như nhiều thứ khác ở Việt Nam, tách cà phê có một lịch sử cay đắng lẫn ngọt bùi. Chính những chủ thuộc địa người Pháp ở Đông Dương đã thành lập các đồn điền cà phê đầu tiên ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ 19, bóc lột sức lao động rẻ mạt của nông dân địa phương. 90 năm về trước, những quán cà phê nằm rải rác trên đường phố Hà Nội chủ yếu dành cho những người ngoại quốc giàu có...
Ở mọi góc phố, người ta đều dễ dàng nhận thấy những tầng kiến trúc của 990 năm lịch sử Hà Nội. Những cái cổng chùa cổ bị át bởi những "nhà hầm" mới chật hẹp. Những biệt thự đang sụp đổ của khu Pháp (cũ) đã được biến thành những tòa đại sứ hoặc khu chung cư cho nhiều gia đình. Những con đường với hai hàng cây quanh hồ Hoàn Kiếm được trang trí bằng các bảng tuyên truyền kêu gọi đủ điều khác nhau, như tham gia vào việc học của con cái, phòng chống HIV/AIDS.

Mặc dù bạn khó tìm được một tiệm Starbucks ở Việt Nam, nhưng không thiếu gì những thứ khác ở các quán cà phê của Hà Nội. Ngoài 4 món cà phê thông dụng - đen nóng, đen đá, sữa nóng và cà phê sữa đá, được cung cấp tại bất cứ quán cà phê nào - còn có cà phê trứng. Đây là một loại cà phê nóng, đập quả trứng sống vào đó, có hoặc không có sữa, vị hơi giống bánh trứng, nhưng có thêm mùi. Cộng với đường, thực tế đó là một bữa ăn. Tôi ưa thích món này ở Cà phê 129, đầu phía nam đường Mai Hắc Đế, một trong những đường phố nhiều quán ăn nhất của Hà Nội.

Cà phê chồn nổi tiếng, đúng như tên gọi của nó. Những nhà trồng tỉa lựa ra những hạt cà phê tốt nhất của mỗi vụ mùa, và lấy cho chồn ăn. Hạt cà phê được thu thập sau khi con chồn tiêu hóa, rồi được xay và pha như thường lệ. Có vẻ như hệ thống tiêu hóa của con chồn làm điều gì đó bí mật cho những hạt cà phê, khiến chúng trở nên dịu hơn và đậm đà hơn bất cứ loại cà phê nào khác.
Tôi đã phải mất vài tháng mới đủ can đảm uống thử cà phê chồn tại cà phê Trung Nguyên, gần trụ sở của Ủy ban Nhân dân Hà Nội, ngay phía đông hồ Hoàn Kiếm, dưới áp lực của một người bạn mới tới thăm. Món đồ uống quả thật dịu, nhưng nó có một vị xạ hương thoang thoảng mà tôi chỉ có thể cho rằng đó là mùi chồn.
(Câu chuyện con chồn tiêu hóa hột cà phê rồi thải ra "cà phê chồn" vốn là một truyền thuyết được ưa thích. Thực tế, loại "cà phê chồn" hiện nay có bán ở Hà Nội được sản xuất bình thường như các loại khác, chỉ khác ở cách chế biến mà thôi - TS).

Kể từ năm 1996, hàng dãy quán cà phê Trung Nguyên, một dây chuyền toàn quốc đầu tiên ở Việt Nam, đã bung ra khắp thủ đô. Chúng được trang trí với hình của những ngôi sao điện ảnh, và ngày cũng như đêm, chật cứng những học sinh chạy theo thời trang. Người Hà Nội phàn nàn rằng các cửa tiệm trước kia chỉ phục vụ một món cà phê nay phải đa dạng hóa thực đơn của họ, cung cấp những món khác - như sô đa chanh hoặc nước dừa chẳng hạn - để cạnh tranh.

Nhưng những quán cà phê nhỏ hơn, có tính truyền thống hơn vẫn san sát, và chúng là những địa điểm hấp dẫn để một du khách tới đây lần đầu có thể nếm trải một chút gì đó trong cuộc sống thường ngày của người Việt. Và khi bạn lang thang ở khu phố cổ Hà Nội giữa hơi nóng hầm hập của buổi trưa, khi khói xe máy và giao thông trở nên quá đáng, bạn hãy bước vào một quán như vậy.
Hãy để mắt bạn làm quen với ánh sáng, và tìm một cái bàn có thể nhìn ra đường. Có thể bạn sẽ thấy những bức ảnh gia đình trên các vách tường, cũng có thể có một tấm lịch chúc mừng năm mới đã trầy sát. Và trên quầy phía sau thường là những vật dụng pha cà phê, những lon Coca-Cola, Sprite xếp gọn ghẽ thành hình kim tự tháp, những chai bia Tiger, lọ Ovaltine, bình thủy tinh lớn đựng sirô mơ, thuốc lá Vinataba, kẹo trái cây Juicy Fruit và kẹo cao su Doublemint trong những hộp nhỏ quay tròn.
Một em nhỏ sẽ đem ra một thực đơn. Rồi bạn có thể gọi: "Cho tôi xin một cà phê sữa đá".

Nguyễn Nhật dịch
(st)
 
Ở Hà Nội, những quán cà phê cũ là một phần linh hồn thành phố. Đến đó người già nghĩ về thời đã qua. Người trẻ tìm thấy những bài học mới trong cuộc đời và phát hiện ra một Hà Nội đáng yêu...

Có một câu chuyện tôi muốn kể cho cô nghe. Cô còn nhớ một ngày trên tầng ba quán cà phê Phố Cổ, nhìn ra Hồ Gươm buổi chiều xanh thẫm, cô nói với tôi: “Trong ly cà phê này có vị của cuộc sống”?

Chắc cô không hề biết rằng từ câu nói trên tôi đã đến với cà phê như thế nào. Và cô cũng không ngờ rằng, một người tỉnh khác đến Hà Nội như tôi bỗng trở nên gắn bó và yêu Hà Nội như bây giờ.

Tôi vốn là người uống trà. Với tôi, nhớ khi ngồi với cô, cà phê chỉ có vị đắng. Nhưng sau thời gian sau đó, đôi khi vô thức, trong góc tối quán nhỏ Hà Nội, tôi gọi cho mình một ly cà phê đen… Nhờ thế mà đã phát hiện Hà Nội có một phần linh hồn ẩn chứa trong những quán cà phê ấy những quán cà phê nhỏ và tối, đã xưa cũ như những ký ức về Hà Nội cổ với mảng tường rêu và thiếu nữ Hà Thành tóc dài cặp trễ sau lưng.

Đó là quán Giảng ở đầu Hàng Gai. Quán nằm ngay trên con phố nhiều người qua lại nhất, vậy mà luôn có vẻ tĩnh lặng cũ kỹ của những ngày xa xưa. Tường đã ố vàng, trước cửa treo chao đèn màu đen, bóng đèn điện đã hỏng từ lâu, bàn ghế thấp nhỏ và sạch sẽ. Khách đến quán ngồi dọc theo tường, ngồi một chỗ có thể nhìn khắp quán. Quen nhau cả, thường là khách quen, đến chỉ để uống nhanh một cốc cà phê sáng, nói dăm câu bâng quơ về tình hình thời sự hay những chuyện đã qua bằng cảm giác thư thái, tĩnh lặng.

Đó là quán Lâm nằm trên đường Nguyễn Hữu Huân. Trên tường treo những bức tranh đã in đầy dấu vết thời gian. Mọi người đồn nhau tranh ấy là do mấy vị họa sĩ uống cà phê chịu mang đến tặng. Quầy pha cà phê là một cái bàn to cũ kỹ. Bàn khách nhỏ, chỉ vừa cho hai người ngồi. Những lúc quán đông, khách lạ, khách quen ngồi cùng nhau cả. Đông hơn nữa thì khách ngồi tràn ra hè, đặt ly cà phê của mình trên ghế đẩu, trầm ngâm đọc báo. Vỉa hè rộng. Mỗi người như là cả một thế giới riêng tư…

Những quán cà phê cũ ấy là một phần linh hồn thành phố, là nơi để người già nghĩ đến những câu chuyện cũ, nói với nhau những câu chuyện cũ, trong những buổi sáng, buổi chiều mà dù ngoài đường xe cộ đi lại, đối với họ chỉ có kỷ niệm là ồn ào, chỉ có tiếng lá sấu rụng trên hè là ồn ào…Những người bạn già ngồi bên nhau, thời gian trôi ngược lại. Sau cặp kính trắng, những hồi ức miên man…

Những quán ấy cũng là nơi để người trẻ có được bài học quý. Vì ở nhiều người già có một kho chuyện kể, mỗi câu chuyện kể đều chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa. Những chuyện mà mới nghe qua người trẻ tưởng như người già nào cũng có và cũng giống nhau, về những ngày gian khó, những ngày chiến tranh, những người bạn đã đi xa không trở lại, những người bạn mãi mãi vẫn còn đợi chờ… Nhưng chỉ cần chú tâm chút thôi sẽ thấy tất cả những câu chuyện ấy đều là tình yêu có thật, nỗi đau có thật, những kỷ niệm mãi mãi còn vẹn nguyên bởi tình cảm chân thành và trong sáng nhất của một thời chưa phải quá xa xôi.

Những quán cà phê cũ cũng giống như những người già ngồi trong quán, đã đi qua rất lâu thời gian, chứng kiến nhiều thay đổi, nhìn thấy hết, thấu hiểu và lưu giữ hết, lặng lẽ và yên bình, âm thầm nâng niu ký ức mà ít khi oán trách. Những người đã hiểu cuộc sống đến từng chân tơ kẽ tóc, có thể lý giải mọi thăng trầm càng thiết tha với từng giây từng ngày của thành phố bé nhỏ. Quán cũng biết nhiều về cuộc đời nên không có vẻ ngoài phô trương, cầu kỳ nữa. Chân tường đã lem nhem những rêu, bàn ghế đã loang lổ những vết ố cà phê nâu thẫm.. riêng hoa trên bàn luôn tỏa hương thơm thanh khiết nhất, và mọi mặt người đều gần gũi thân quen.

Ở những quán ấy thường bắt đầu những câu chuyện giản dị mà tốt đẹp và mang ý nghĩa quan trọng không ngờ. Như câu chuyện của tôi với một người mà tôi cũng không biết tên, không biết nhà bác ở đâu, trước đây bác làm gì, bây giờ bác bao nhiêu tuổi. Chỉ biết chắc rằng bác là một người Hà Nội nhân hậu, một người bạn lớn mà tôi sẽ còn nhớ suốt đời mình.

Tôi gặp bác một lần duy nhất trong quán cà phê cũ nhỏ cạnh Hồ Gươm. Bác đã lớn tuổi, là một người hưu trí Hà Nội có vẻ ngoài rất nhàn tản.

Năm ấy là năm 2003, bắt đầu mùa đông, không khí đôi chút lạnh, và trên khắp những ngả đường thành phố hoa sữa đã thơm nồng. Hôm ấy tôi không có chuyện gì buồn, chỉ là trạng thái trống rỗng, cố gắng suy nghĩ điều gì đó nhưng lại cảm thấy dường như tất cả những điều đang diễn ra quanh mình thật vô vị. Vẻ mặt tôi thì dường như là rất buồn rầu, ngồi một mình và gọi một ly đen. Giống như những người trẻ tuổi nông nổi khác, thời gian đấy tôi luôn coi cuộc đời mình là nghiêm trọng không người lớn nào có thể thấu hiểu.

Quán nhỏ nên tôi và bác ngồi cùng bàn. Ở quán ấy, giống như tất cả những quán cũ khác của thành phố, những người lạ thường ngồi cùng bàn, chung một không gian nhỏ, sự thân thiện nhỏ. Quán yên tĩnh. Tôi nhìn mãi ra đường, đường rất đông người qua, ai ai cũng dường như bận bịu vô cùng lắm. Bác thì đọc báo, cặp mắt kính trễ xuống trên mũi. Rất lâu. Rồi bỗng nhiên, bác ngẩng đầu nhìn tôi và nói rằng: “Cà phê của cháu sắp đắng rồi!”.

Bác bắt đầu câu chuyện với tôi như vậy, với nét mặt tự nhiên như là trong những đoạn tạp văn xưa về người Hà Nội mà tôi đã đọc qua.

Bác hỏi han tôi: quê cháu ở đâu, nhà có mấy anh chị em, bố mẹ có khỏe không… Tuyệt nhiên không thắc mắc vì sao tôi lại ngồi một mình và vì sao tôi lại có vẻ mặt trầm ngâm như vậy (nếu bác hỏi, tôi đã thấy rất xấu hổ vì không có lý do gì để trả lời bác cả).

Rồi bác gấp báo và nói với tôi, chuyện Hà Nội đã vào đông, chuyện những cái cây đã bắt đầu thay lá, chuyện những cây cà phê từ vùng này sang vùng khác cho hạt cà phê khác nhau thế nào… Như người Hà Nội hưu trí nhàn tản nhất, nói những điều vu vơ không đầu không cuối với người lạ để hết thời gian.

Khi ấy tôi cũng đang nhàn rỗi lắm, hai ngày cuối tuần hồi đó thường là thời gian mà tôi thấy thừa thãi vô cùng, chưa yêu ai, không có nơi nào để chơi, không có việc gì để làm… Vậy nên tôi thấy vui khi bác nói chuyện với tôi. Tôi kể cho bác nghe chuyện những xích mích nhỏ đang xảy ra giữa tôi và mấy người bạn, chuyện người ta đã làm sai ra sao và tôi đang chờ người ta xin lỗi thế nào, chuyện tôi đã chỉ được 5 điểm môn học yêu thích nhất… Tất cả đối với tôi khi ấy thật sự nghiêm trọng, những chuyện xảy ra trong đời luôn cần được phân biệt rõ ràng đúng và sai, người sai thì phải xin lỗi, người đúng được quyền tha thứ hay không tha thứ, những kết cục thành công hay thất bại đều có nguyên nhân, những hành động sai lầm đều để lại vết thương day dứt mãi…Bác cười hiền lành, bao dung. Bác bảo: “Cháu hãy nghĩ đến những chuyện tốt đẹp trong một ngày mà thời tiết rung động lòng người đến thế này”.

Bác nói vậy. Giản dị. Bỗng nhiên tôi nhận ra cây dâu da bên kia đường vòm lá thi thoảng đã có chỗ vàng rực, những chiếc lá rụng xuống trên hè trong đêm đã khô lại, không khí như còn đọng vị hương thanh khiết, và gió lạnh se se làm lòng thấy dịu dàng rồi mong nhớ không nguôi về những điều cũ kỹ xa xôi.

Rồi bác nói với tôi về cà phê, về việc lựa chọn hạt cà phê, chế biến, pha và thưởng thức nó. Bác nói những việc ấy nếu suy nghĩ một chút sẽ thấy giống như việc một người lựa chọn thái độ đối với cuộc đời, nâng niu và tận hưởng những cảm xúc mà nó mang lại. Nếu biết trân trọng, dùng lòng mình để đón nhận cuộc sống, giống như yên tĩnh lắng nghe vị thơm của ly cà phê tan trong không khí, sẽ có được những tình cảm yêu thương dịu dàng, những niềm hạnh phúc đơn sơ không bao giờ ngờ đến.

Bác nói cho tôi biết những đạo lý tốt đẹp và giản dị, trong thời gian vừa đủ để chậm rãi uống cạn một ly cà phê đen. Khi ấy, bác làm tôi ngạc nhiên vô cùng về những người Hà Nội. Có thể ngồi trong quán cà phê nhỏ, khi ngoài đường tất cả thật bận bịu, bỏ công sức và thời gian để giúp một kẻ trẻ tuổi nông nổi biết được trong cuộc sống có nhiều điều tốt đẹp đến thế nào. Có thể cố tâm làm một việc tốt đẹp bằng hành động như thể chỉ vu vơ nói những chuyện không đầu không cuối mà thôi.

Sau này, tôi thường nghĩ đến những điều bác nói. Và đôi khi, trong góc tối quán nhỏ, vào những ngày mà sức lực dường như không đủ để dễ dàng tha thứ cho hết thảy và yêu thương hết thảy nữa, tôi gọi cho mình một ly cà phê, nhấp ngụm cà phê đầu tiên, lắng nghe vị ngọt thơm đọng lại nơi vòm họng, dùng tất cả những tình cảm dịu dàng trong trái tim mình mà ngắm nhìn mọi người để lòng trở lại tĩnh lặng, và tận sâu trong tôi, tôi mong được gặp bác thêm một lần nữa biết bao…

Cô bạn Hải Phòng thân mến à, tôi đã bắt đầu yêu Hà Nội như thế đấy. Càng ngày càng thấy thân thiết hơn những góc nhỏ thành phố tĩnh lặng, những con đường thành phố mong manh hoa trắng mùa xuân, những quán nhỏ suy tư bình yên, những con người thành phố dịu dàng hồn hậu…

Vậy nên đi xa là thiết tha nhớ thời gian của những buổi sáng sớm tới quán cà phê quen, kê ghế ra vỉa hè, ngắm nhìn con đường thành phố ngái ngủ, chờ đợi những chiếc xe đạp chở đầy hoa đi qua, nói dăm ba câu bâng quơ với người lạ bên cạnh, lắng nghe câu chuyện của hai người già gần đấy… Những điều như thế, có thể mang lại cho mình bao nhiêu sức lực không ngờ, để yêu thương…

Hà Nội, một ngày thu muộn.


trích từ vietnamnet.net
 
Độc đáo cà phê Sài Thành


Một anh bạn đã từng thách tôi tìm được một con đường không có quán bán cà phê ở đất Sài Gòn. Cả chục năm lê la khắp chốn nơi đây, tôi vẫn chưa tìm được một con đường nào không có quán cà phê.

Nga, dân làm maketing chuyên nghiệp hơn chục năm nay, nhớ mãi cái ngày cô bị ông sếp người Mỹ phê bình gay gắt. Nguyên nhân cũng chỉ vì cô báo cáo đi gặp khách hàng, vậy mà ông lại vô tình thấy cô ngồi “tám” trong quán cà phê. Thế là khi về công ty, ông làm cho “một tăng” với đủ tội danh từ ăn cắp giờ công ty, tới lừa dối ông chủ, thiếu trung thực… Giải thích mãi ông sếp cũng chỉ “tạm tha thứ cho lần đầu”. Ấm ức, một vài lần sau khi đi làm việc với đối tác, cô kiếm cớ mời sếp đi cùng. Tới lúc đó, ông sếp mới “té ngửa” khi biết quán cà phê cũng là nơi bàn công việc chứ không phải là nơi đốt thời gian như “ở bển”. Giờ đây, sau mấy năm gắn bó với Sài Gòn, thi thoảng cao hứng ông sếp lại triệu tập mấy cán bộ khung “ra quán cà phê họp” để thay đổi không khí.
Cái lạ của cà phê Sài Gòn là thế. Cà phê nơi đây có một văn hóa rất riêng, thoạt nhìn thì thấy bát nháo, xô bồ nhưng thực ra rất đa phong cách, có thể dung nạp rất nhiều “tín đồ” cà phê của các nền văn hóa khác nhau. Người Bắc vào Sài Gòn vài lần sẽ không thể hiểu nổi tại sao cái thứ nước đen đen, phảng phất mùi cà phê và ngọt như “chè đỗ đen” lại được dân Sài Gòn chuộng đến thế. Tối ngày sáng đêm, bất kể lúc nào dân Sài Gòn cũng có thể uống cà phê. Từ quán cà phê bệt vỉa hè tới những quán sang trọng giá một ly bằng một ngày lương của lao động công nhật, cứ mở cửa là có khách.
Sự tiện dụng của các quán cà phê ở Sài Gòn phổ biến tới mức xuất hiện hầu hết trong cuộc sống đời thường của người dân nơi đây. Đãi khách, bàn công việc, gặp gỡ bạn bè, muốn yên tĩnh chiêm nghiệm bản thân- cuộc đời, muốn thư giãn… đều được thực hiện ở quán cà phê. Khi công nghệ thông tin đã phát triển thì vài năm trở lại đây, quán cà phê trở thành nơi làm việc lý tưởng. Với một cái máy tính xách tay, khách hàng có thể ngồi lỳ cả ngày tại quán, ăn uống, thư giãn thậm chí ngủ thoải mái mà công việc vẫn trôi chảy.

Anh Hùng - một nhà báo kỳ cựu đã chuyển bàn làm việc qua quán cà phê từ vài năm nay. Tiếp khách, phỏng vấn, xử lý tin bài… đều được anh thực hiện tại quán cà phê Ân Nam. Anh cho biết: “Sướng và thoải mái hơn ở cơ quan biết bao nhiêu lần”.


Cỡ nào cũng có

Cà phê Sài Gòn cũng mang màu sắc của một thành phố tập hợp đa dạng bản sắc của dân tứ xứ. Thanh Tòng, một “con ma” cà phê khẳng định chắc nịch, gu uống kiểu gì cũng có quán phù hợp, vấn đề là có biết chỗ để mà tới uống hay không thôi.


Cà phê vỉa hè bình dân thì phổ biến cũng như nước ngọt đóng chai xâm chiếm thị trường. Bạn có thể dừng chân ở bất kỳ con đường nào, chỉ với một chiếc ghế nhựa, vừa uống cà phê vừa ngắm phố phường. Cũng ngồi vỉa hè mà sang trọng hơn, có thể đọc báo, luyện ngoại ngữ, bàn công việc hoặc ngắm nhịp sống vội vã của Sài Gòn thì chỉ việc ra Highlands, Terrace; Muốn thưởng thức cà phê theo phong cách trẻ, nghe nhạc ầm ầm, lướt web thoải mái, ngắm mấy cô xinh xinh ăn mặc mát mẻ khoe hàng hiệu thì cũng có vô vàn lựa chọn: Windows, Chợt Nhớ; 143… Tùy theo sở thích của mỗi người sẽ có những điểm đến chất lượng: cà phê sách, cà phê thẩm mỹ, cà phê kiến trúc, cà phê nhạc… để có thể vừa uống nước, vừa hưởng thụ sở thích của riêng mình. Nếu túi tiền rủng rỉnh một chút, bạn có thể leo lên Panorama, cà phê trên tầng 33 của cao ốc Sàigon Center hoặc Skyview trên tầng 13 của Diamond Plaza để vừa nhâm nhi ly cà phê vừa ngắm toàn cảnh trung tâm Sài Gòn từ trên cao.
Thậm chí, giới trẻ Sài Gòn khi lỡ đi chơi đêm quá giờ cũng có thể tấp vào một quán cà phê ghế bố ven đường ngủ một giấc cho qua cơn mệt mỏi. Cánh xe ôm, xích lô, những người làm việc về đêm ở Sài Gòn cũng thường xuyên ngủ trên ghế bố cà phê vỉa hè.

Văn hóa cà phê

Có một câu nói “Sài Gòn dễ kiếm sống”. Mà quả đúng thế thật, nhất là đối với việc kinh doanh quán cà phê. Kinh doanh cà phê kiếm sống cũng xong mà làm giàu cũng được. Với dăm chiếc ghế nhựa cũng đã có thể mở một quán cà phê, ngày kiếm vài chục ngàn đồng sinh sống qua ngày. Còn để làm giàu, quán cà phê của bạn chỉ cần có phong cách độc đáo hoặc một vị trí tốt là có thể kiếm bộn tiền. Thậm chí ngay cả khi mở quán trong hẻm hóc nào đó, chỉ cần quán có cái gì đó “không giống ai” là cũng có thể có số lượng khách hàng “ruột” thường xuyên tới chỉ vì thích cái “không giống ai” đó.
Sau hai tháng lê la khắp các quán ở Sài Gòn, Huy, từ Hải Phòng vào Sài Gòn chơi nhận xét: “Chẳng đâu cà phê phổ biến như ở cái đất Sài Gòn này, có thể gọi cà phê ở bất cứ đâu, kể cả những chỗ chẳng liên quan gì tới cái thứ nước quái quỷ ấy. Vào quán ăn kêu cũng có, vào bar - vũ trường cũng có, đi sân khấu nghe nhạc cũng có. Có cảm giác dân Sài Gòn quen với cà phê giống như nước lọc”.


Mà quả thế thật, thứ nước uống “đen như quỷ sứ, nóng như địa ngục, tinh khiết như thiên thần và ngọt ngào như tình yêu” mà nhà ngoại giao Pháp Charles Maurice de Talleyrand-Perigord từng nhận xét, đã trở thành một phần không thể thiếu của đất Sài Gòn. Không ít người đã coi cà phê như một nét văn hóa của mảnh đất này. Đa dạng, nhiều phong cách và dễ thích nghi - cũng như người Sài Gòn vậy...

Thu Huyền (Doanh nhân) - https://www.dddn.com.vn
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top