Hanamizuki
New member
- Xu
- 0
CÁCH MẠNG TƯ SẢN ANH GIỮA THẾ KỶ XVII
Cuộc cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII là một trận tấn công vào thành trì của chế độ cũ để xây dựng chế độ xã hội mới, lật đổ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, mở đường cho sức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Cách mạng Anh là cuộc cách mạng tư sản thứ hai trên thế giới sau cách mạng Hà Lan thế kỷ XVI, nhưng lại là cuộc cách mạng đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với quá trình hình thành CNTB trên phạm vi toàn châu Âu và thế giới.
I - NƯỚC ANH ĐÊM TRƯỚC CỦA CUỘC CÁCH MẠNG
1. Những tiền đề kinh tế của cuộc cách mạng
Sự phát triển công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa Từ thế kỷ XVI, các ngành công nghiệp ở Anh phát triển mạnh. Những phát minh mới về kỹ thuật, nhất là những hình thức tổ chức mới trong lao động đã làm cho năng suất lao động ngày càng tăng. Việc áp dụng máy bơm hơi nước từ các hầm mỏ lên, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp khai mỏ. Trong khoảng 100 năm (1551-1651) số lượng than khai thác tăng lên 14 lần, mỗi năm đạt 3 triệu tấn. Đến giữa thế kỷ XVII, Anh sản xuất 4/5 sản lượng than đá toàn châu Âu. Cũng trong thời gian đó, việc khai thác quặng sắt tăng hai lần, kẽm, đồng chì, muối tăng lên 6-8 lần. Việc dùng ống bễ thổi đã thúc đẩy nghề nấu sắt. Đầu thế kỷ XVII, ở Anh có 800 lò, mỗi tuần sản xuất từ 3 đến 4 lần. Nghề đóng tầu, sản xuất đồ gốm và kim khí cũng đạt được nhiều thành tựu lớn. Đáng chú ý nhất là nghề dệt len dạ. Đó là một ngành sản xuất lâu đời ở Anh và đến thế kỷ XVII đã lan rộng khắp toàn quốc. Một người nước ngoài hồi đó phải thừa nhận rằng “Khắp cả vương quốc từ các thành phố nhỏ cho đến nông thôn và ấp trại đều làm len dạ”. Giữa thế kỷ XVI, số lượng len bán ra ngoài chiếm 80% toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của nước Anh. Năm 1614, việc xuất cảng len nguyên sơ bị cấm. Nhờ đó, công nghiệp chế biến len tăng lên mạnh mẽ và nước Anh trở thành nước cung cấp hàng hóa bằng len cho các thị trường bên ngoài. Bên cạnh các ngành công nghiệp cũ đã xuất hiện những ngành sản xuất mới: bông, giấy, tơ lụa, thủy tinh, xà phòng... Thương nghiệp Anh cũng đạt nhiều thành tựu to lớn. Thị trường dân tộc được hình thành và các cơ sở kinh doanh của người nước ngoài dần dần bị suy sụp. Thương nhân Anh mở rộng buôn bán với thị trường thế giới, thành lập những công ty thương mại hoạt động từ Ban Tích đến châu Phi, từ Trung Quốc đến châu Mỹ.
Các công ty lớn nối tiếng là: “Công ty châu Phi” (1553) buôn vàng, ngà voi và nô lệ da đen; “Công ty Matxcơva” buôn bán dọc sông Vônga để đi vào Ba Tư và Ấn Độ; “Công ty Phương Đông” (1579) liên lạc với các nước ven biển Ban Tích, Na Uy, Thụy Điển, Ba Lan... “Công ty Tây Ban Nha” (1577), “Công ty Thổ Nhĩ Kỳ (1581). Đến năm 1600, “Công ty Đông Ấn Độ” được thành lập,đặt nhiều thương điếm ở Xurat, Madrat, Bengan (Ấn Độ),cạnh tranh kịch liệt với thương nhân Hà Lan và Pháp. Trung tâm mậu dịch và tài chính lớn của nước Anh là khu Xity (Luân Đôn). Năm 1568, Sở giao dịch được thành lập, có ảnh hưởng không những ở Anh mà cả ở châu Âu nữa. Đến thời kỳ cách mạng, sự lưu thông về ngoại thương tăng lên gấp hai lần so với đầu thế kỷ XVII. Sự phát triển của ngoại thương đã thúc đẩy nhanh sự thay đổi công nghiệp. Các ngành công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải... phát đạt tới mức độ chưa từng có, tạo nên những yếu tố cách mạng trong lòng xã hội phong kiến đang tan rã.
Quan hệ sản xuất mới dần dần hình thành. Ở nước Anh đã có những công trường tập trung với hàng trăm, hàng ngàn người lao động làm thuê. Nhưng hình thức phổ biến nhất khi đó vẫn là những công trường thủ công phân tán. Gặp nhiều khó khăn trong khi phát triển kinh doanh ở các thành phố là nơi mà chế độ phường hội còn thống trị, các chủ xưởng thường chuyển hướng về nông thôn. Họ phần nhiều là chủ công trường thủ công kiêm chủ bao mua. Họ chuyên bán nguyên liệu cho những người sản xuất hàng hóa nhỏ, phân phối vật liệu cho các gia đình chế tạo rồi thu mua từng phần hoặc mua cả sản phẩm. Như vậy, những người thợ thủ công vẫn ở ngay nhà mình, rải rác trong các thôn xóm nhưng bị lệ thuộc vào nhà tư bản. Còn về phía chủ thì chỉ cần lập nên một xưởng nhỏ để lắp hoặc sửa sang lần cuối cùng thứ hàng sắp đem bán. Thường thường việc bán nguyên liệu và mua sản phẩm xen lẫn với việc cho vay nặng lãi làm cho đời sống của thợ thủ công càng thêm bi đát, ngày làm việc kéo dài, lương hạ thấp, bị phá sản và trở thành công nhân làm thuê. Đồng thời, những người sản xuất hàng hóa nhỏ độc lập vẫn còn giữ một vai trò khá lớn. Sự phát triển công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa làm thay đổi bộ mặt của nước Anh. Nhiều thành phố lớn mọc lên. Luân Đôn trở thành trung tâm công thương nghiệp quan trọng nhất, có 20 vạn dân. Tuy nhiên, nước Anh vào nửa thế kỷ XVII vẫn còn thua kém Hà Lan về các mặt công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải, luôn luôn gặp phải sự kình địch của các thuyền buôn Hà Lan.
Tình trạng nông nghiệp và sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn Mặc dầu đã có một số thành tựu về công thương nghiệp, nước Anh đầu thế kỷ XVII vẫn còn là một nước nông nghiệp. Trong số 5 triệu rưỡi cư dân, chỉ có 1/5 ở thành thị, còn 4/5 vẫn ở nông thôn. Quan hệ sản xuất phong kiến thống trị rất lâu đời trong nông thôn. Ruộng đất là tài sản của quý tộc địa chủ. Nông dân cày cấy ruộng đất phải nộp tô cho địa chủ theo kỳ hạn và theo mức quy định vĩnh viễn. Nông dân không được tự ý bán hoặc trao đổi phần đất của mình mà chỉ truyền lại cho con cháu sau khi đã nộp tô kế thừa và được địa chủ cho phép. Ngay cả những nông dân khá giả tuy có một phần đất đai riêng, cũng vẫn phải nộp tô đại dịch cho địa chủ. Về thân phận, mặc dầu được tuyên bố tự do, chế độ nông nô đã bãi bỏ, nhưng địa chủ vẫn có quyền xét xử và quyền quản lý về hành chính đối với những người sống trong trang viên, lãnh địa của họ. Ngoài phần đất của địa chủ và nông dân chiếm làm tư hữu, còn có phần ruộng đất công xã như đất hoang, rừng rú và đồng cỏ. Tất cả mọi người đều được sử dụng đất công xã để chăn nuôi. Những nông dân nghèo khổ cũng phải sống nhờ vào phần đất của công xã. Tuy nhiên do sự phát triển của công nghiệp len dạ ngày càng mạnh, nên nghề nuôi cừu trở thành nghề có lợi nhất. Địa chủ không thỏa mãn với địa tô thu được của nông dân nên đều tăng nguồn thu nhập riêng bằng cách tước đoạt ruộng đất mà nông dân đang cày cấy, rào ruộng đất riêng và cả một phần ruộng đất của công xã, biến thành đồng cỏ chăn cừu và cấm súc vật của nông dân vào. Nông dân không có chỗ trồng trọt và chăn nuôi, bị đuổi hàng loạt ra khỏi ruộng đất, sống cuộc đời vô cùng khổ cực. Hồi thế kỷ XVI, Tômát Morơ đã tả lại cảnh đó như sau: “Những con cừu xưa kia ngoan ngoãn hiền hậu biết bao, bây giờ đều trở thành những con vật hung hãn, tham lam. Cừu ăn thịt người, phá hoại ruộng vườn, nhà cửa và thành thị”. Việc chuyển đồng lúa thành đồng cỏ để chăn cừu, hoặc nói cách khác, quá trình “cừu ăn thịt người” đem lại hai hậu quả: số người tay trắng bị tước đoạt ruộng đất, nghĩa là bị tách khỏi tư liệu sản xuất ngày càng đông, trở thành một đội quân lao động của nền công nghiệp; số tiền tích lũy nhờ việc bán lông cừu ngày càng nhiều trở thành nguồn tư bản, bỏ vào kinh doanh công thương nghiệp. Đó chính là quá trình tích lũy nguyên thủy, làm tiền đề cho sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Anh.
Mác viết: “... Cơ sở của toàn bộ quá trình tiến triển này chính là sự tước đoạt ruộng đất của nông dân chỉ được tiến hành triệt để ở nước Anh thôi; vì vậy trong sự phác họa sau đây của chúng ta, tất nhiên là nước Anh sẽ giữ một địa vị bậc nhất” Trên những mảnh đất còn tiếp tục canh tác nông nghiệp, địa chủ thường không thỏa mãn với chế độ địa tô, muốn đuổi tá điền ra khỏi ruộng đất, tiến hành rào đất và trao cho một số nhà tư bản kinh doanh theo phương thức mới: lập trang trại, sử dụng lao động làm thuê, dùng phân bón nhân tạo, cải tiến chế độ luân canh, dùng máy gieo hạt và các công cụ khác. Thu hoạch trên những miếng đất đó thường nhiều gấp 3, 4 lần thu hoạch trên những mảnh ruộng cày cấy theo phương pháp cũ, làm nảy sinh ra một tầng lớp trại chủ giàu có.
2. Sự phân bố giai cấp trong xã hội
Sự phân hóa trong hàng ngũ quý tộc Đặc điểm của sự phát triển kinh tế ở nước Anh có ảnh hưởng quyết định đến sự phân bố lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội. Quý tộc lớp trên, quý tộc miền Tây và miền Bắc sống chủ yếu bằng cách thu địa tô phong kiến, dựa vào quyền sở hữu ruộng đất và phương pháp bóc lột phong kiến. Họ thường chiếm địa vị cao trong xã hội, sống cuộc đời xa hoa, thường tụ tập xung quanh nhà vua, trông chờ sự trợ cấp và uy thế của nhà vua. Cho nên, tầng lớp quý tộc cũ gắn liền vận mệnh với chế độ quân chủ chuyên chế, cố bảo vệ trật tự phong kiến và được sự ủng hộ của phong kiến nước ngoài. Đó là thế lực phản động nhất, ngoan cố chống đối cách mạng; trở thành đối tượng của cách mạng. Một phần quý tộc, chủ yếu là trung và tiểu quý tộc, chuyển sang kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa và gọi là quý tộc mới tức là quý tộc tư sản hóa. Họ chính là kẻ hung hăng nhất trong những vụ rào đất, đuổi nông dân và biến ruộng vườn thành đồng cỏ. Mác viết: “biến đồng ruộng thành đồng cỏ, đó là khẩu hiệu chiến đấu của lớp quý tộc mới”. Đế tăng thêm lợi nhuận, quý tộc mới tham gia cả những công việc kinh doanh khác như buôn bán len dạ hoặc pho-mát, nấu rượu hoặc luyện kim... Ngược lại, thương nhân giàu có hay những nhà tài chính, nhà công nghiệp cũng có thể bước vào hàng ngũ quý tộc mới bằng con đường mua và kinh doanh ruộng đất. Thế lực kinh tế của quý tộc mới rất mạnh mẽ. Năm 1600, số thu nhập của tầng lớp này nhiều hơn tổng số thu nhập của quý tộc và giáo chủ cộng lại. Trong khoảng từ 1561 đến 1640, khi ruộng đất nhà vua giảm xuống 75% thì trái lại, ruộng đất thuộc quyền chiếm hữu của quý tộc mới tăng 20%. Như vậy ưu thế về kinh tế của quý tộc mới là hậu quả trực tiếp của chiều hướng sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông thôn nước Anh. Bộ phận quý tộc mới hình thành, về mặt xã hội, trở thành một giai cấp đặc biệt gắn quyền lợi với giai cấp tư sản. Nguyện vọng của nó là muốn biến quyền chiếm hữu ruộng đất hiện có thành quyền sở hữu tư sản, hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của chế độ phong kiến. Ngược lại, chế độ phong kiến tăng cường kiểm soát quyền chiếm hữu của quý tộc mới, bảo vệ chặt chẽ những quyền lợi và ruộng đất của giai cấp quý tộc và giáo hội. Cho nên, giai cấp tư sản dễ dàng liên minh với quý tộc mới để chống lại toàn bộ chế độ phong kiến chuyên chế. Sự liên minh giữa quý tộc mới và tư sản trong cuộc đấu tranh cách mạng là một đặc điểm nổi bật ở nước Anh giữa thế kỷ XVII. Nhưng đáng chú ý là cương lĩnh ruộng đất của quý tộc mới hoàn toàn đối lập với nguyện vọng của nông dân. Trong khi nông dân muốn thủ tiêu toàn bộ quyền tư hữu ruộng đất của các giai cấp bóc lột để người cày có ruộng thì quý tộc mới chỉ muốn chuyển từ hình thức tư hữu phong kiến sang hình thức tư hữu tư sản, vì vậy cuộc cách mạng tư sản Anh sẽ không thể tiến tới chỗ thủ tiêu triệt để những tàn dư phong kiến mà chỉ dừng lại nửa đường, không giải phóng thực sự cho giai cấp nông dân, mang tính chất bảo thủ.
Giai cấp tư sản Đầu thế kỷ XVII, thành phần giai cấp tư sản Anh không đồng nhất. Tầng lớp trên của nó gồm hàng trăm nhà đại công thương nghiệp, nắm những công ty độc quyền lớn được tự do kinh doanh. Họ trở thành chủ nợ của nhà vua và quý tộc phong kiến, có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vì vậy, tầng lớp này gắn chặt số mệnh với chế độ phong kiến, chủ trương duy trì nhà vua và chế độ phong kiến, chỉ đòi hỏi một vài cải cách nhỏ để tăng thêm quyền lực chính trị và ưu thế kinh tế mà thôi. Tầng lớp đông đảo trong giai cấp tư sản là những thương nhân tự do, chủ các công trường thủ công, những người kinh doanh ở thuộc địa. Họ có thái độ thù địch với nhà vua vì những biện pháp duy trì phường hội, chế độ độc quyền thương mại của triều đình ngăn cản sự phát triển kinh tế công thương nghiệp của họ. Vì vậy, họ trở thành tầng lớp tư sản tích cực trong cuộc đấu tranh chống phong kiến, trở thành lực lượng đại biểu cho phương thức sản xuất mới chống lại phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu.
Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác Chế độ nông nô ở Anh đã sớm bị thủ tiêu, người nông dân có thân phận tự do. Tuy nhiên, trong chế độ phong kiến, khi mà ruộng đất hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà vua và quý tộc thì người nông dân vẫn không thoát khỏi sự ràng buộc của chế độ phong kiến. Nông dân Anh bị phân hóa thành những tầng lớp khác nhau: nông dân tự do (freeholder), nông dân tá điền (copyholder) và cố nông (cotter). Chiếm đa số trong nông thôn là tá điền từ 60 đến 75% nông dân. Họ là thành phần cơ bản của nông dân Anh, và cũng là đối tượng chủ yếu của những tham vọng bóc lột của bọn địa chủ quý tộc. Họ cày cấy trên mảnh ruộng của địa chủ, thường được giữ trong khoảng 21 năm. Sau khi hết hạn, họ có thể tiếp tục canh tác hoặc bị đuổi ra khỏi mảnh ruộng. Mức địa tô được quy định tuy không thay đổi, nhưng họ phải trả thêm nhiều món phụ thu khác rất nặng nề. Khi nào muốn tăng thêm thời hạn canh tác hoặc truyền ruộng lại cho con cháu, người tá điền phải nộp một món tiền rất lớn, mức độ là do địa chủ quyết định. Họ còn phải đóng nhiều thứ thuế như thuế xay lúa, thuế đồng cỏ, thuế rừng và nhiều nghĩa vụ, tạp dịch khác. Nhiều tá điền bị buộc phải bỏ ruộng đất đi lang thang hoặc chịu làm người cấy rẽ ngắn hạn, phải chấp nhận mọi điều kiện của địa chủ. Vì vậy, trừ một số tá điền làm ăn khá giả, còn đại đa số là nghèo khổ, lao động vất vả mà không đủ ăn. Họ trở thành bộ phận kiên quyết và lực lượng chủ yếu trong cuộc cách mạng chống phong kiến. Tầng lớp nông dân tự do có mảnh ruộng nhỏ bé riêng, không hoàn toàn lệ thuộc vào địa chủ. Trừ một số ít trở nên giàu có, còn phần lớn làm ăn vất vả, khó khăn và bị đe dọa phá sản, thậm chí trở thành tá điền. Vì vậy, tầng lớp nông dân tự do cũng rất bất mãn với chế độ phong kiến, muốn xác lập quyền tư hữu ruộng đất hoàn toàn thuộc về mình, tránh khỏi sự đe dọa cướp đất của bọn quý tộc địa chủ. Bộ phận cùng cực nhất trong nông thôn Anh là những người cố nông chiếm khoảng 40 vạn. Họ hoàn toàn không có đất, buộc phải đi làm thuê trở thành công nhân nông nghiệp hoặc công nhân trong các công trường thủ công. Họ chịu hai tầng áp bức của quý tộc phong kiến và tư sản. Cuộc đời của họ theo hình ảnh của một nhà văn đương thời, là “sự luân phiên giữa đấu tranh và khổ nhục không ngừng”. Cho nên, họ nêu lên những khẩu hiệu cương quyết: “Hãy giết sạch bọn quý tộc và tiêu diệt hết bọn nhà giàu”. Họ là nạn nhân của những vụ rào đất, đuổi nhà, phải đi lang thang đây đó, sống trong cánh tối tăm và đói khổ. Do đó, họ có thái độ kiên quyết và đóng một vai trò đáng kể trong những cuộc khởi nghĩa nông dân suốt thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII và trong cuộc cách mạng sau này.
3. Tiền đề tư tưởng của cuộc cách mạng
Cùng với sự phát triển của những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư tưởng tư sản ra đời và dần dần hình thành từ trong lòng chế độ phong kiến. Trong hoàn cảnh nước Anh, một trong những nước đầu tiên đang ở quá trình tan rã của chế độ phong kiến, ảnh hưởng của thời kỳ trung cổ còn nặng nề thì luồng tư tưởng mới không biểu hiện hoàn toàn thuần túy, công khai, mà phải khoác một bộ áo tôn giáo. Cái áo đó chính là Thanh giáo chống lại tôn giáo cũ là Anh giáo. Anh giáo dựa trên cơ sở lý thuyết của đạo Cơ đốc, nhưng về tổ chức thì tách khỏi giáo hội La Mã. Người đứng đầu giáo hội Anh là vua Anh. vì vậy, Anh giáo được sử dụng như công cụ thống trị tinh thần của giai cấp phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa Thanh giáo và Anh giáo là cuộc đấu tranh tôn giáo, nhưng thực chất, nó phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng tư sản và phong kiến, cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Anh, khi mà chế độ phong kiến đang suy tàn và chủ nghĩa tư bản đang vươn lên.
Giáo lý của Thanh giáo là chủ nghĩa Canvanh được du nhập vào nước Anh. Họ tin tưởng vào học thuyết định mệnh và theo đó, Thượng đế trao cho những nhà tư sản trách nhiệm phát triển công thương nghiệp. Họ loại khỏi nhà thờ những nghi lễ phiền toái, bài bác những đồ trang sức, bàn thờ và gương mầu, chống việc đọc kinh bằng sách thánh và chủ trương tự do đọc bằng miệng theo sự ngẫu hứng. Họ đòi hỏi đơn giản hóa những sinh hoạt thuộc về tôn giáo. Điều đó thể hiện tính chất tiến bộ của Thanh giáo so với Anh giáo và phù hợp với yêu cầu của giai cấp tư sản là dành nhiều thời gian và tiền bạc cho việc phát triển kinh doanh. Nội bộ Thanh giáo bị phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau. Đại tư sản giàu có, ít nhiều gắn quyền lợi với chế độ phong kiến, lên tiếng chống đối giáo hội Anh nhưng không chủ trương cải cách triệt để. Họ muốn thay thế giáo chủ bằng hội nghị của những người có tuổi và ngoan đạo. Vì vậy, họ được gọi là phái Trưởng lão. Do địa vị kinh tế, thái độ của phái Trưởng lão thường không kiên định, dễ thỏa hiệp với thế lực phong kiến. Cánh tả của Thanh giáo hoàn toàn chống đối giáo hội Anh được gọi là phái Độc lập. Họ bao gồm tư sản và quý tộc mới loại nhỏ và vừa, quyền lợi kinh tế đối địch với chế độ phong kiến. Phái Độc lập phản đối chế độ giáo chủ và cũng không tán thành hội nghị Trưởng lão vì họ cho rằng Trưởng lão cũng chỉ là những giáo chủ mới mà thôi. Họ không thừa nhận một quyền lực nào khác ngoài “quyền thiêng liêng của Thượng đế”, không gắn mình vào một mệnh lệnh nào nếu nó mâu thuẫn với “chân lý tự nhiên”. Tổ chức của Thanh giáo là những liên minh công xã, độc lập đối với nhau. Mỗi công xã được quản lý theo ý nguyện của đa số. Phong trào của họ có tính chất dân chủ rõ rệt hơn. Trên cơ sở của Thanh giáo, những lý luận chính trị và hiến pháp được ra đời trong cách mạng tư sản Anh. Quan trọng nhất là bản “Công ước xã hội”. Bản công ước xác định quyền lực tối cao của nhà vua là do nhân dân ủy nhiệm, vì vậy, nhà vua phải lãnh đạo đất nước sao cho phù hợp với lợi ích của nhân dân, và chỉ có như vậy mới đứng vững được. Nếu không, ông ta sẽ bị coi là “bạo quân” và sẽ bị nhân dân tước đoạt những quyền hạn được trao khi trước. Từ đó, một số người cấp tiến rút ra kết luận là nhân dân cần phải đứng dậy chống lại những vua chuyên chế và thậm chí có thể kết tội tử hình. Những đại biểu nổi tiếng của luồng tư tưởng này ở nước Anh vào thế kỷ XVI-XVII là Giôn Pônét, Xpenxơ, Giôn Mintơn... Họ chính là những người tham gia tích cực vào công việc chuẩn bị tư tưởng cho cuộc cách mạng sắp sửa bùng nổ. 4. Chế độ quân chủ chuyên chế Xchiua (Stuart) và những mâu thuẫn trong lòng nó
Chế độ quân chủ chuyên chế ở nước Anh Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế. Vua là người sở hữu ruộng đất trong toàn quốc, ban cấp cho các chư hầu và thuộc hạ. Các quý tộc thân thuộc và chư hầu hàng năm phải nộp tô thuế và cống vật cho nhà vua. Vua nắm trong tay mọi cơ quan cao cấp cai trị đất nước. Đóng vai trò quan trọng trong các cơ quan đó là Hội đồng cơ mật. Thành viên của Hội đồng gồm những nhà quý tộc nổi tiếng nhất do vua chỉ định và trở thành những cố vấn của vua. Vua có quyền kiểm tra các hoạt động tư pháp, hành pháp và các công việc của nhà thờ. Vua còn là người đứng đầu giáo hội Anh, nắm trong tay vương quyền lẫn thần quyền.
Tuy nhiên, ngoài tiền tô thuế của các chư hầu, nhà vua không còn khoản thu nhập nào khác để bù đắp sự ăn tiêu phung phí và bừa bãi. Cho nên cung đình luôn luôn rơi vào tình trạng túng thiếu. Vương quốc cũng không có quân đội thường trực. Những điều kiện đó làm cho quyền hành của nhà vua phần nào bị hạn chế bởi nghị viện. Nghị viện là tổ chức đại diện cho các tầng lớp phong kiến, có quyền tán thành hay phản đối việc ban hành thuế khóa. Dần dần, khi chính quyền nhà vua được củng cố thì nghị viện bị tước đoạt một số quyền đáng kể và những quyền hành đó ở trong tay tầng lớp quý tộc có đặc quyền. Những việc ban hành chế độ thuế khóa và ngân sách chi tiêu cho quân đội vẫn là công việc của nghị viện. Nghị viện ở Anh thành lập từ thế kỷ XIII, bao gồm hai viện: thượng viện (hay viện nguyên lão) và hạ viện (hay viện dân biểu). Thượng viện là cơ quan có quyền khởi thảo pháp luật cao nhất và cũng là chỗ dựa chắc chắn nhất của vua. Chính vua là người chủ trì viện. Nghị viên do vua chỉ định được quyền kế thừa, cha truyền con nối. Hạ viện đại diện quyền lợi của quý tộc thấp hơn gồm các chủ ruộng đất được lựa chọn qua những cuộc bầu cử rất nghiêm ngặt. Đến giữa thế kỷ XVII, thành phần của hạ viện có thay đổi, đa số là quý tộc mới. Tầng lớp này có ảnh hưởng rất lớn vì có thế lực kinh tế hùng hậu, có quyền thông qua các đạo luật về thuế khóa và nhờ đó kiểm soát được việc chi tiêu của nhà vua và chính phủ. Vì vậy, hạ viện sẽ trở thành nơi đấu tranh gay gắt của thế lực mới, tiến bộ chống lại vua và tập đoàn phong kiến phản động. Nghị viện được triệu tập theo ý muốn của vua và các đạo luật chỉ có hiệu lực sau khi đã được vua phê chuẩn. Vua có quyền giải tán nghị viện theo ý riêng của mình nhưng lại không hoàn toàn không cần đến nó. Vì vậy, đến đầu thế kỷ XVII giữa vua và nghị viện, hay nói đúng ra là giữa thế lực phong kiến và thế lực tư sản luôn luôn có sự xung đột gay gắt xoay quanh các chính sách lớn, đặc biệt là vấn đề tài chính. Năm 1603, nữ hoàng Êlidabét chết, không có con nối ngôi, chấm dứt thời kỳ thống trị của vương triều Tuyđo (Tudors). Người kế vị là Jêm I mở đầu triều đại Xchiua ở nước Anh.
Chính sách phản động của vương triều Xchiua Tình thế cách mạng chín mùi Sau khi lên ngôi, Jêm I (1566-1625) và tiếp theo đó là Sáclơ I (1600-1649) đại diện cho quyền lợi của quý tộc phong kiến chống lại quyền lợi của giai cấp tư sản, quý tộc mới và quần chúng nhân dân. Không đếm xỉa tới sự đổi mới của tình hình, các vua triều đại Xchiua vẫn ngoan cố bảo vệ các đặc quyền phong kiến và ra sức củng cố ngai vàng. Bất chấp khát vọng của giai cấp tư sản muốn tự do kinh doanh, triều đình thi hành chế độ độc quyền trong sản xuất, ngoại thương và một phần nội thương; đặt ra những quy chế rất chặt chẽ để kiểm soát các ngành công nghiệp; đàn áp và trục xuất tín đồ Thanh giáo; kết thân với triều đình Tây Ban Nha là kẻ cạnh tranh nguy hiểm của giai cấp tư sản Anh; tiến hành chiến tranh đẫm máu đối với nhân dân Xcốtlen... Trước những hành động đó, đông đảo quần chúng nhân dân đứng dậy đấu tranh. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất khi đó diễn ra vào năm 1607 ở những vùng trung tâm nước Anh, lôi cuốn tới 8.000 người tham gia. Vũ trang bằng dáo mác và liềm hái, họ nêu lên khẩu hiệu “Thà chết dũng cảm còn hơn phải mòn mòi vì nghèo đói”, đấu tranh tiêu diệt bọn chủ rào đất là kẻ đã biến họ thành người nghèo khổ, chết chóc vì thiếu thốn.
Từ cuộc đấu tranh này xuất hiện hai phái “San bằng” và “Đào đất” - lực lượng cách mạng của quần chúng có ảnh hưởng tích cực đến tình hình chính trị ở Anh sau này. Cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhà vua và thế lực tư sản quý tộc mới diễn ra trong nghị viện, xoay quanh vấn đề tài chính. Cần tiền chi tiêu cho những cuộc chiến tranh ăn cướp ở Xcốtlen, Ailen và cho việc phung phí trong triều đình, nhà vua nhiều lần triệu tập nghị viện để đề nghị thông qua luật tăng thuế và ban hành thuế mới. Trong nửa đầu thế kỷ XVII, vua Anh nhiều lần triệu tập và giải tán nghị viện. Trong lịch sử Anh hồi dó có “Nghị viện Ngắn” chỉ tồn tại 3 tuần, “Nghị viện Dài” tồn tại 13 năm. Nhưng mỗi lần nghị viện họp là một lần quý tộc mới và giai cấp tư sản công kích nhà vua, từ chối không đóng thuế. Bản “Đại kháng nghị” do nghị viện thảo tháng 11-1641 đã vạch ra 204 điều phạm tội của nhà vua, lên án những chính sách hạn chế công thương nghiệp. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi của nhân dân Xcốtlen (1640) và Ailen (1640-1642) cùng với phong trào nổi dậy của quần chúng lao động Anh đã làm cho không khí sinh hoạt chính trị sôi sục, mâu thuẫn xã hội phát triển lên tột độ. Trong tháng 11 và 12-1641, nhân dân Luân Đôn luôn luôn biểu tình trước nghị viện hô khẩu hiệu “đả đảo chuyên quyền”, “đả đảo giáo chủ” và gửi một bản kiến nghị có 20 ngàn chữ ký đòi trục xuất giáo chủ ra khỏi nghị viện. Saclơ I ngoan cố, ngày 3-1-1642 ra lệnh bắt 5 nghị viên hoạt động nổi tiếng hòng dập tắt phong trào. Nhưng nhân dân kịp thời bảo vệ nghị viên, giúp cho các nghị viên trốn thoát. Sự kiện đó chứng tỏ rằng quần chúng nhân dân khởi nghĩa là trụ cột thực sự để bảo vệ nghị viên. Ngày 7-1-1642, 10 vạn người tập trung trên đường phố Luân Đôn để ngăn chặn quân đội nhà vua định tấn công vào nghị viện. Bị thất bại, Saclơ I rời lên miền Bắc, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị quay về phản công. Tình thế cách mạng chín mùi, cuộc đấu tranh vũ trang sớm muộn sẽ bùng nổ.
II - CUỘC NỘI CHIẾN CÁCH MẠNG (1642-1649)
1. Cuộc nội chiến lần thứ nhất (1642-1646)
Ngày 22-8-1642, Saclơ I chính thức tuyên chiến ở Nôttinhhem. Cuộc chiến tranh bùng nổ giữa hai trận tuyến rõ rệt, giữa thế lực phong kiến phản động và thế lực tư sản tiến bộ cùng với toàn thể quần chúng nhân dân. Bọn quý tộc phong kiến cùng với chư hầu, tăng lữ thuộc giáo hội Anh, sĩ quan trong cung đình, bọn độc quyền tài chính... nêu lên khẩu hiệu “Vì Thượng đế và nhà vua !”. Cơ sở của lực lượng phản động là những miền phía bắc và phía tây, kinh tế chưa phát đạt, cơ sở phong kiến còn tương đối vững vàng. Trái lại, giai cấp tư sản và quý tộc mới lãnh đạo quần chúng nhân dân bao gồm nông dân, công nhân, thợ thủ công và tiểu tư sản thành thị là chỗ dựa vững chắc của nghị viện. Cơ sở của lực lượng cách mạng là miền Đông Nam và miền Trung, công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển. Cuộc cách mạng Anh diễn ra trong khuôn khổ một cuộc nội chiến tránh được sự can thiệp của các nước quân chủ phong kiến châu Âu. Khi đó Tây Ban Nha đang ở vào thế xuy sụp; Pháp chưa thoát khỏi những cơn lúng túng sau cuộc khởi nghĩa của nhân dân; Đức suy yếu sau cuộc chiến tranh Ba mươi năm; Nga, Ba Lan, Thụy Sĩ mắc vào cuộc chiến tranh giữa ba nước. Điều đó làm cho cách mạng Anh không phải lo lắng đối phó với thế lực bên ngoài. Ban đầu, cuộc nội chiến diễn ra dưới hình thức đấu tranh giữa triều đình với nghị viện. Xuất phát từ quyền lợi khác nhau, nội bộ phe nghị viện phân hóa thành hai phái: phái Trưởng lão chiếm đa số, dựa vào tầng lớp trên của giai cấp tư sản bảo thủ (chủ yếu ở Luân Đôn) và một phần quý tộc có tư tưởng đối lập, chủ trương thỏa hiệp với vua, coi chiến tranh là phương tiện để buộc vua phải nhượng bộ một số quyền lợi; phái Độc lập chiếm thiểu số trong nghị viện gồm quý tộc loại vừa và nhỏ, đại biểu cho quyền lợi của tư sản bậc trung, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, có thái độ kiên quyết đối với nhà vua hơn. Thái độ đối với chiến tranh và cuộc tranh giành quyền lãnh đạo trong nội bộ phe nghị viện có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình diễn biến của cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến lần thứ nhất có thể chia làm hai giai đoạn : 1. Từ 1642 đến mùa hè 1644: thế chủ động quân sự nằm trong tay nhà vua, phe nghị viện còn ở thế cầm cự. 2. Từ mùa hè 1644 đến 1646: thế chủ động quân sự hoàn toàn chuyển về phe nghị viện. Trong giai đoạn đầu, quân nghị viện liên tiếp bị thất bại. Vì vậy, đến mùa hè năm 1643, quân của nghị viện rơi vào trạng thái nguy khốn. Nhưng các đội dân binh ở Luân Đôn đã nhanh chóng phản công thắng lợi. Đạo quân kỵ binh nông dân của Crômoen đóng vai trò nổi bật trong chiến thắng này. Nhân dân Xcốtlen đứng về phía cách mạng, gửi hai vạn quân tới giúp nghị viện. Đến tháng 7-1644, quân đội Crômoen giành được thắng lợi lớn ở Mactơ Morơ (gần Iooc) chuyển cuộc nội chiến sang giai đoạn mới. Ôlivơ Crômoen (1599-1658) là một trong những lãnh tụ xuất sắc của phái Độc lập, tiêu biểu cho tầng lớp quý tộc mới loại vừa. Ông là một người có sức lực dồi dào, một nhà tổ chức và chỉ huy giỏi, đồng thời là một tín đồ Thanh giáo có nếp sống giản dị được nhân dân yêu mến. Qua quá trình chiến tranh, ông nhận thức rằng nếu quân đội thiếu tinh thần cách mạng thì không thể nào chiến thắng được. Crômoen chủ trương lợi dụng nhiệt tình cách mạng và ý chí kiên quyết của quần chúng để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống nhà vua. Đội quân “kiểu mẫu” của Crômoen lên tới 22 ngàn người, trong đó có 6 ngàn kỵ binh. Đó là một đội quân có tính chất quần chúng, đại đa số là nông dân và thợ thủ công. Người chỉ huy là Tômat Phephắc, các cấp sĩ quan phần lớn xuất thân từ tầng lớp quý tộc loại nhỏ, nhưng cũng có người là thợ giấy, thợ đúc, người đánh xe, lính thủy... Đặc điểm nổi bật của quân đội kiểu mới là có kỷ luật chặt chẽ, đầy nhiệt tình cách mạng, đồng thời mang lòng tin tưởng mãnh liệt vào Thanh giáo. Theo đạo luật “Tự rút lui”, các nghị viên đều phải thôi chức chỉ huy quân đội. Riêng Crômoen được thừa nhận vừa là nghị viên, vừa chỉ huy quân đội, giúp việc cho Phephắc, nhưng thực tế là người đóng vai trò chính trong tiến trình của cách mạng. Từ đó bọn sĩ quan Trưởng lão bị loại, quân đội nằm trong tay phái Độc lập. Nhờ sự thay đổi về thành phần và tính chất, quân đội kiểu mới chiến đấu rất kiên cường, được mệnh danh là “Đạo quân sườn sắt” (Iron side). Đạo quân sườn sắt giành được nhiều chiến thắng lớn, đặc biệt là trận Nêdơbi ngày 14-6-1645 đã giáng cho quân nhà vua một đòn chí mạng, 5.000 người bị bắt và bị mất toàn bộ vũ khí. Saclơ I phải chạy lên phía bắc, trốn sang Xcốtlen và bị bắt ở đó. Các thủ lĩnh Xcốtlen nộp cho nghị viện để lấy thưởng. Đến năm 1646 cuộc nội chiến lần thứ nhất kết thúc. Như vậy, sau gần bốn năm chiến tranh, cuộc nội chiến ở Anh đã tạm thời chấm dứt có lợi cho phong trào cách mạng. 2. Phong trào phái San bằng Trong quá trình đấu tranh chống nền quân chủ và sau đó chống phái Trưởng lão, trong hàng ngũ quân đội và quân chúng xuất hiện một phái mới gọi là phái San bằng. Phái San bằng đại biểu lợi ích cho đông đảo nhân dân là nông dân, thợ thủ công và tiểu tư sản. Họ chủ trương bình đẳng về mặt chính trị: thi hành phổ thông đầu phiếu, lập chế độ cộng hòa, tự do tin ngưỡng, tự do buôn bán, thi hành nguyên tắc mọi người bình đẳng trước, pháp luật. Tuy vậy, họ là những người bảo vệ chế độ tiểu tư hữu. Lãnh đạo phái San bằng là Giôn Linbớc (1616-1657), một nhà chính trị có tài và trung thực, nhiều lần bị bắt giam nhưng vẫn không thay đổi ý chí. Trong quân đội, phái San bằng dựa vào sự ủng hộ của quần chúng binh lính lớp dưới. Yêu cầu của họ là phải thúc đẩy cách mạng tiến xa hơn không những so với dự định của phái Trưởng lão, mà so ngay cả với phái Độc lập. Phái Độc lập vốn đại diện cho quyền lợi của tầng lớp quý tộc mới và tư sản loại nhỏ và vừa nên về căn bản đối lập với yêu cầu của quần chúng. Trong cuộc đấu tranh chống nhà vua và phái Trưởng lão, những người Độc lập đóng vai trò lãnh đạo và lôi kéo được quần chúng theo họ. Nhưng sau khi quyền sở hữu tư sản được đảm bảo và nghị viện đã hoàn toàn nằm trong tay thì đối với họ sự nghiệp cách mạng được coi là chấm dứt. Điều đó mâu thuẫn với nguyện vọng của đa số nhân dân, lúc này do phái San bằng làm đại biểu, muốn đưa cách mạng tiến xa hơn nữa. Vì vậy cuộc đấu tranh giữa hai phái Độc lập và San bằng thực chất là cuộc đấu tranh giữa tầng lớp tư sản và quý tộc mới với quần chúng nhân dân. Sau khi khống chế được nghị viện, phái Độc lập chủ trương thương lượng với vua để “hợp pháp hóa” chế độ chính trị do họ nắm giữ và chấm dứt việc dân chủ hóa hơn nữa trong quân đội. Những cuộc thương lượng đó gây nên lòng căm phẫn trong quân đội và nhân dân. Ngày 18-10-1647, những người San bằng công bố bản yêu sách mang tên “Sự nghiệp của quân đội”. Trên cơ sở của bản tuyên bố, họ thảo ra cương lĩnh chính trị dưới đầu đề: “Bản thỏa ước nhân dân”. Bản thỏa ước yêu cầu giải tán ngay nghị viện, đòi nghị viện phải do tuyển cử hai năm một lần, số nghị viên theo khu vực phải tỉ lệ với số dân ở nơi đó. Họ không hề đả động đến vua và thượng viện. Hạ viện gồm 400 đại biểu được coi là cơ quan có quyền lực cao nhất trong nước. Yêu sách quan trọng nhất là đòi phổ thông đầu phiếu (cho nam giới). Họ đòi tự do tín ngưỡng, hủy bỏ các thứ thuế gián tiếp, đánh thuế tài sản, thủ tiêu mọi đặc quyền có tính chất phân biệt đẳng cấp, nhà nước phải nuôi những người tàn phế và già cả. Họ đòi xóa bỏ thuế một phần mười nộp cho giáo hội... “Bản thỏa ước nhân dân” là một dự án tỉ mỉ về chế độ chính trị ở nước Anh. Nó thể hiện nhiều điểm tiến bộ mang tính chất dân chủ, đồng thời cũng bộc lộ những nhược điểm rõ rệt. Sai lầm cơ bản là không hề nói tới vấn đề ruộng đất, bỏ qua số phận của đại đa số nông dân nghèo là tầng lớp đông đảo và lực lượng chủ yếu của cách mạng. Điều đó dần dần làm cho quần chúng xa rời họ và là nguyên nhân chính làm suy yếu phe dân chủ cách mạng.
Tuy nhiên, bản cương lĩnh của những người San bằng vẫn có ý nghĩa tiến bộ và cách mạng. Việc thi hành bản cương lĩnh đó sẽ thanh toán được những tàn tích của chế độ phong kiến và thành lập chế độ cộng hòa dân chủ tư sản ở Anh. Cho nên bản cương lĩnh đó được quân đội ủng hộ và mau chóng trở thành ngọn cờ cách mạng. 3. Cuộc nội chiến lần thứ hai (1648) và bản án tử hình Sáclơ I Trong lúc phái Trưởng lão và sau đó, phái Độc lập tìm cách thương lượng với nhà vua để vua công nhận chính quyền của họ thì Sáclơ I vẫn ngoan cố âm mưu phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Sáclơ I lợi dụng tình trạng tranh chấp trong nghị viện, giữa nghị viện và quân đội để phản kích. Vua bỏ trốn khỏi nhà giam đến đảo Oaitơ (ở phía nam nước Anh) để chỉ huy cuộc phản loạn. Mùa xuân năm 1648, cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ. Trước kẻ thù chung, phái Độc lập và phái San bằng lại tạm thời liên minh với nhau dưới sự chỉ huy của Crômoen, chống lại quân phản động. Các trận giao chiến kịch liệt xảy ra ở ba vùng lớn trong nước Anh: phía bắc, phía đông nam và phía tây nam. Quân đội nhà vua bị thất bại nặng nề và đến tháng 81648, cuộc nội chiến kết thúc. Một lần nữa phe cách mạng thắng lợi. Ngày 23-12-1648, nghị viện trong tay phái Độc lập thông qua sắc lệnh xét xử nhà vua và ngày 4-1-1649 nghị viện tuyên bố là cơ quan quyền lực cao nhất ở trong nước. Nghị viện cử ra tòa án tối cao gồm 135 ủy viên phụ trách xét xử nhà vua. Ngày 30-1-1649, Sáclơ I phải lên đoạn đầu đài trước sự reo hò của đông đảo quần chúng. Việc xử tử Sáclơ I đánh dấu một bước tiến của cách mạng, một thắng lợi to lớn của quần chúng nhân dân. Trong quá trình cách mạng, quần chúng đã phát huy ý chí kiên quyết và tích cực của mình thúc đẩy cách mạng đi lên, không cho phép những người lãnh đạo dừng lại nửa đường. Cũng trong quá trình đó, giai cấp tư sản và quý tộc mới sau một thời gian tiến bộ đã thể hiện tính chất bảo thủ và thỏa hiệp. Tuy nhiên, lịch sử không dừng lại theo ý muốn chủ quan của họ mà tiếp tục phát triển do sức mạnh lớn lao của quần chúng nhân dân.
III - CHẾ ĐỘ CỘNG HÒA VÀ NỀN BẢO HỘ ĐỘC TÀI CỦA CRÔMOEN
1. Chế độ Cộng hòa và những phong trào cuối cùng của phái San bằng
Việc xử tử Sáclơ I đánh dấu sự sụp đổ của chế độ quân chủ phong kiến và sự thắng lợi của cách mạng. Ngày 19-5-1649, do sức đấu tranh của quần chúng, nền cộng hòa được chính thức tuyên bố. Những người Độc lập, đại diện cho quyền lợi của quý tộc mới và tư sản loại vừa chiếm ưu thế trong chính quyền. Quyền lập pháp thuộc về hạ viện, còn thượng viện bị thủ tiêu. Quyền hành chính được trao cho một nội các do nghị viện bầu ra trong thời hạn một năm. Tầng lớp sĩ quan trong quân đội, đứng đầu là Crômoen, nắm những chức vụ quan trọng. Tình hình kinh tế dưới chế độ cộng hòa không sáng sủa gì hơn mà trái lại, ngày càng trầm trọng. Sự đình trệ lâu dài trong công thương nghiệp làm cho nạn thất nghiệp lan tràn ở Luân Đôn và các trung tâm công nghiệp khác. Vụ mất mùa năm 1647 và 1648 gây nên nạn đói liên tiếp. Giá lương thực cao vọt trong khi tiền lương không tăng hoặc bị giảm xuống. Gánh nặng của chiến tranh đè lên vai quần chúng. Nạn cướp bóc, nhũng nhiễu của quân đội ngày càng làm cho nhân dân khổ cực. Như vậy, ngoài lời tuyên bố cộng hòa, không một yêu sách nào trong “Bản thỏa ước nhân dân” được thực hiện như lời hứa của phái Độc lập trong thời kỳ nội chiến thứ hai. Vì vậy, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân vẫn không ngừng phát triển. Việc từ chối lời hứa thực hiện “Bản thỏa ước nhân dân” làm cho quần chúng rất bất mãn và một lần nữa, phái San bằng đứng dậy đấu tranh. Giôn Linbớc - lãnh tụ kiên cường của phái San bằng - kịch liệt công kích chính phủ, coi chính quyền của phái Độc lập là những “xiềng xích mới” và kêu gọi quần chúng đấu tranh. Những phần tử San bằng lãnh đạo quân đội đấu tranh đòi thực hiện những yêu sách trong bản “Thỏa ước nhân dân”. Phong trào khởi nghĩa lan tràn trong các đơn vị quân đội, Crômoen tiến hành đàn áp khốc liệt, bắt giam hàng loạt, thậm chí xử tử ngay tại chỗ những người chống đối. Phái San bằng hoàn toàn tan rã.
2. Phong trào của những người “Đào đất”
Mùa xuân năm 1649, ở nước Anh còn có một phong trào dân chủ khác được gọi là phái Đào đất. Yêu cầu của Linbớc không giải quyết được những khó khăn của quần chúng bần cố nông và công nhân tay trắng. Cho nôn đối với những người nghèo khó thì yêu cầu của họ phải là bình đẳng hoàn toàn về mặt tài sản. Họ tự cho mình là những người San bằng chân chính. Nhà tư tưởng đại biểu của họ là Uynxtenlây (1609-1657), một tiểu thương ở Luân Đôn bị bần cùng hóa, sau trở thành cố nông. Ông và những người cùng phái nhận thức được những hậu quả mà nông dân phải chịu đựng nếu chỉ chuyển quyền sở hữu ruộng đất từ tay phong kiến sang tay tư sản. Họ nêu lên rằng cách mạng chưa kết thúc vì chính quyền nhà vua tuy đã bị tiêu diệt nhưng lại chuyển sang bọn quý tộc mới. Không thể nào có tự do thực sự khi ruộng đất còn nằm trong tay bọn chúng. Vì vậy, họ đấu tranh đòi công hữu hóa toàn bộ ruộng đất. Họ nêu lên: “Đất đai chẳng thuộc về ai cả, hãy làm chung và ăn chung”. Như vậy những người thuộc phái Đào đất đã nêu lên cương lĩnh dân chủ của quần chúng nông dân. Năm 1652, trong dự thảo về “Luật tự do”, họ còn phác ra một chế độ xã hội mới, trong đó chế độ tư hữu hoàn toàn bị thủ tiêu và chế độ người bóc lột người không còn nữa. Trong điều kiện lịch sử lúc đó, tư tưởng của phái Đào đất là tư tưởng tiến bộ, mang tính chất xã hội chủ nghĩa nhưng còn ở mức độ không tưởng và ấu trĩ. Nó thể hiện rõ quan niệm bình quân tuyệt đối của giai cấp nông dân. Nhược điểm cơ bản của phong trào này là không kêu gọi đấu tranh chống kẻ thù, tin ở thiện chí của giai cấp hữu sản. Uynxtenlây tuyên bố: “Bằng tình yêu và lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ thắng”. Họ tụ tập thành từng đơn vị 30 - 40 người, dùng cuốc thuổng đào đất khai khẩn trên những ngọn đồi hoang. Do đó họ được gọi là những người “Đào đất”.
Do yêu cầu ruộng đất tiến bộ, phong trào của họ được quần chúng ủng hộ và lan tràn nhanh chóng. Mặc dầu phong trào có tính chất hòa bình nhưng cương lĩnh cách mạng của họ đe dọa tới nguyên tắc của chế độ tư hữu, làm cho giai cấp hữu sản lo ngại. Ngay Linbớc, người đứng đầu phái San bằng cũng đoạn tuyệt với họ. Đâu đâu, những người Đào đất cũng bị chính quyền khủng bố, phá phách nhà cửa ruộng đất và giết hại súc vật. Giai cấp tư sản và quý tộc mới coi những người lao động hòa bình đó là kẻ thù nguy hiểm của chế độ tư hữu. Cho nên chúng dùng vũ lực, cho quân đội và cảnh sát đến đàn áp họ. Chẳng bao lâu phong trào bị tan rã.
3. Cuộc chiến tranh xâm lược Ailen, Xcốtlen và sự tan vỡ của nền Cộng hòa
Sau khi trấn áp những phong trào dân chủ ở nước Anh, Crômoen tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược bên ngoài, trước hết là Ailen và Xcốtlen. Giai cấp tư sản sau khi thoát khỏi gông cùm của chế độ phong kiến thì không giải phóng cho toàn thể quần chúng mà trái lại, đem xiềng xích nô lệ quàng lên vai nhân dân lao động ở trong và ngoài nước. Tháng 8-1649, Crômoen thân hành dẫn quân sang chinh phục Ailen, một hòn đảo xanh tươi và màu mỡ. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược đầu tiên của nước Cộng hòa Anh. Cuộc chiến tranh được tiến hành một cách tàn bạo và vô nhân đạo chưa từng thấy trong suốt quá trình lịch sử đau thương của nhân dân Ailen. Tuy nhiên, nhân dân Ailen đã anh dũng đứng dậy, tiến hành đấu tranh du kích chống xâm lược.
Lợi dụng ưu thế về binh lực và kỹ thuật, khơi sâu mâu thuẫn trong nội bộ nghĩa quân, Crômoen đàn áp được cuộc kháng chiến cứu nước đó. Một bộ phận nhỏ bé nghĩa quân còn lại bị đánh đuổi về tận phía tây hẻo lánh. Đến năm 1652 Crômoen giành được thắng lợi. Gần một nửa số dân bị giết, một số đông khác bị đưa đi làm nô lệ da trắng ở các thuộc địa Anh bên châu Mỹ. Ruộng đất thu ở Ailen chuyển vào tay chủ ngân hàng, sĩ quan lớp trên trong quân đội. Bọn xâm chiếm ruộng đất ở Ailen trở thành một tầng lớp mới trong quý tộc Anh. Như vậy cuộc chinh phục Ailen vừa nhằm xâm chiếm đất đai và tài sản, vừa nhằm tạo nên một cơ sở xã hội mới cho chế độ Crômoen. Năm 1650, Crômoen dẫn quân lên Xcốtlen và mau chóng thu được thắng lợi hoàn toàn ở đó. Các quyền tự trị ở Xcốtlen bị thủ tiêu, ruộng đất bị tịch thu và rơi vào tay quý tộc Anh. Ở đây, chính sách thống trị thuộc địa được tiến hành một cách tàn bạo làm cho nhân dân rất khổ cực. Năm 1652, trên cơ sở lực lượng lớn mạnh nhanh chóng, nước Anh phát động cuộc chiến tranh chóng kẻ cạnh tranh chính trên mặt biển là Hà Lan.
Cuộc chiến tranh Anh-Hà kéo dài trong hai năm, kết thúc với sự thắng lợi của Anh. Hà Lan buộc phải thừa nhận “Luật hàng hải” (1651) quy định nước Anh chỉ nhập khẩu những hàng do tàu Anh hoặc tàu của nước có hàng mang đến, Hà Lan bị gạt khỏi địa vị của “người chở hàng trên mặt biển”. Việc củng cố bên trong và những thắng lợi bên ngoài làm cho thế lực kinh tế và chính trị của tầng lớp quý tộc mới tăng lên rõ rệt. Trong khi quần chúng nông dân - những người có nhiều công lao nhất đối với cách mạng - bị mất đất và phá sản thì tài sản của bọn quý tộc mới ngày càng tăng lên. Trước làn sóng bất mãn của quần chúng ngày càng dâng cao, Crômoen được sự ủng hộ của thế lực phản động, đã dùng đến biện pháp trấn áp kiên quyết. Ngày 20-4-1652, Crômoen dùng quân đội giải tán “Nghị viện Dài” sau 13 năm tồn tại. Đó là đòn đầu tiên tấn công vào nền cộng hòa. Crômoen triệu tập một “Nghị viện Nhỏ” gồm các nghị sĩ do chính quyền các địa phương giới thiệu. Mặc dầu thành phần đó không đại diện được cho quần chúng, Nghị viện Nhỏ cũng phải thực hiện một vài cải cách nhỏ nhặt như thủ tiêu tệ quan liêu và hối lộ của tòa án, giảm bớt gánh nặng về thuế má, hủy bỏ tiền nộp cho giáo hội, giảm quân số... Điều đó làm cho các phần tử phái hữu lo ngại đến số phận của mình, liền tiến hành giải tán nghị viện sau 5 tháng làm việc. Việc giải tán nghị viện lần này về thực chất là thanh toán nền cộng hòa ở Anh. 4. Chế độ bảo hộ độc tài của Crômoen (1653-1658)
Giai cấp tư sản và quý tộc mới rất lo sợ phong trào của quần chúng nhân dân. Họ sẵn sàng thủ tiêu nền cộng hòa để xây dựng một chính quyền có “bàn tay sắt”, vừa có khả năng trấn áp phong trào trong nước, lại vừa có khả năng chiến thắng những quốc gia cạnh tranh bên ngoài, vì vậy, từ đó trở đi, nghị viện chỉ còn là hình thức với một số nghị sĩ được chọn lọc cẩn thận.
Crômoen trở thành “Nhà bảo hộ” độc tài, nắm mọi quyền hành, có quyền hạn tuyệt đối: tổng tư lệnh quân đội và hải quân, kiểm tra tài chính và tòa án, quyết định chính sách đối nội và đối ngoại, ban hành luật lệ... Crômoen nắm trong tay một lực lượng quân đội hùng mạnh làm công cụ chuyên chính tư sản. Toàn quốc chia làm 11 khu do những tướng tá tay chân của Crômoen cai quản, có quyền hành rộng lớn như một “Tiểu bảo hộ”. Trật tự quân sự, cảnh sát ngự trị trong nước. Tuy nhiên, chính quyền bảo hộ cũng không thoát khỏi những khó khăn ngày càng trầm trọng. Làn sóng căm phẫn của quần chúng nhân dân vẫn không ngừng bùng lên và lan tràn trong toàn quốc. Cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1654) tuy thắng lợi nhưng chiến lợi phẩm không thấm vào đâu so với chi phí quân sự. Chính phủ mắc nợ tới hai triệu bảng Anh. Công thương nghiệp Anh bị đình trệ vì chiến tranh, hàng len dạ xuất cảng ở Hămbua từ 10 vạn tấn xuống còn 2 vạn, hàng vạn gia đình bị bần cùng. Tình trạng đó làm cho bọn đại tư sản và quý tộc không tin tưởng ở sức mạnh của chính quyền bảo hộ, không chia cho Crômoen vay nữa và tìm cách phục hồi chế độ quân chủ mạnh mẽ hơn. Cái chết của Crômoen ngày 3-9-1658 càng thúc đẩy mau chóng quá trình sụp đổ của chế độ bảo hộ. Con trai Crômoen là Risa lên làm Bảo hộ nhưng lại là kẻ bất tài, không khắc phục nổi những khó khăn do cha để lại. Mùa xuân 1659, giai cấp tư sản và quý tộc, các tướng lĩnh cao cấp quyết định tước danh hiệu Bảo hộ của Risa, chấm dứt giai đoạn thống trị độc tài do Crômoen thiết lập. Thời kỳ cách mạng hoàn toàn chấm dứt.
IV - SỰ PHỤC HỒI VƯƠNG TRIỀU SCHIUA VÀ CUỘC CHÍNH BIẾN 1688
1. Sự phục hồi triều đại Schiua và chính sách phản động của nó
Trong thời kỳ Risa thống trị, mối mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Đồng thời, nội bộ quân đội xẩy ra bất hòa. Bọn đại tư sản và quý tộc mới có khuynh hướng bảo hoàng, muốn phục hồi chế độ quân chủ để bảo vệ tài sản. Tướng Môncơ, đại diện cho khuynh hướng đó là tư lệnh quân đội Anh ở Xcốtlen quyết định tiến quân về Luân Đôn nhằm ủng hộ phái tư sản bảo hoàng. Môncơ phục hồi chế độ hai viện như hồi trước cách mạng, đại đa số nghị viện là các phần tử phái hữu. Đồng thời họ quyết định phục hồi chế độ quân chủ và cử Môncơ đi thương lượng với Sáclơ II (con Sáclơ I) đang lưu vong ở nước ngoài. Năm 1660, Sáclơ II về nước, lên ngôi vua, Sáclơ II hứa sẽ “tha thứ” cho những người tham gia cách mạng và giữ nguyên đất đai của bọn quý tộc mới chiếm được. Nhưng sau khi củng cố chính quyền, Sáclơ II liền nuốt trôi lời hứa, tiến hành khủng bố những người tham gia cách mạng, thậm chí quật mả của Crômoen và những người lãnh đạo khác. Năm 1685, Sáclơ II chết, em là Jêm II lên nối ngôi, nhưng chỉ cai trị được ba năm, vẫn tiếp tục dùng thủ đoạn trả thù đối với những địch thủ ở nghị viện và bí mật nhận viện trợ của vua Pháp. Jêm II quyết định trao các trọng trách cho những người theo đạo Cơ đốc và do đó, những người bảo hoàng có tư tưởng quân chủ chuyên chế chiếm một địa vị quan trọng.
Chính sách đó, dẫn tới nguy cơ phục hồi chế độ phong kiến, đe dọa số phận của giai cấp tư sản và quý tộc mới. Điều mà giai cấp tư sản và quý tộc mới mong muốn là một chính quyền quân chủ mạnh mẽ đảm bảo cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thực tế hoạt động của vương triều Schiua chứng tỏ rằng các vua chúa không hề có ý muốn bảo vệ tài sản và địa vị chính trị của giai cấp tư sản và quý tộc mới, Vì vậy, họ tìm cách lật đổ nền thống trị của Jêm II và tìm một nền quân chủ khác dễ sai khiến hơn.
2. Cuộc chính biến 1688 và những hậu quả của nó
Những đại biểu của giai cấp tư sản và quý tộc mới trong hai đảng Uých (tiền thân của đảng Bảo thủ, gồm chủ ngân hàng, thương nhân, chủ đồn điền ở ngoài nước...) và đảng Tôiy (tiền thân của đảng Tự do, gồm các đại địa chủ) đều thỏa thuận với nhau về việc tìm kiếm người thay thế Jêm II. Con người đó là Vinhem Orănggiơ (1650-1702), thống đốc Hà Lan. Về danh nghĩa, dòng họ Vinhem có đủ tư cách thay thế ngôi vua vì ông ta là con rể của Jêm II.
Về thực tế thì Vinhem làm vua nhưng là tư sản, được giai cấp tư sản Hà Lan ủng hộ. Trước đề nghị của Anh, giai cấp tư sản Hà Lan hoàn toàn đồng ý vì họ muốn phá vỡ liên minh Anh Pháp (giữa Jêm II và Lui XIV), một liên minh đe dọa tới sự tồn tại của nước cộng hòa Hà Lan. Đầu tháng 11-1688, Vinhem Orănggiơ cùng 12 ngàn quân đổ bộ vào nước Anh và tiến về Luân Đôn. Được sự ủng hộ của giai cấp tư sản và quý tộc mới ở Anh, Vinhem thắng lợi dễ dàng, không xẩy ra một trận giao chiến nào với nhà vua. Jêm II bị cô lập, bỏ trốn sang Pháp. Vinhem Orănggiơ lên ngôi vua, lấy danh hiệu Vinhem III, thống trị nước Anh trong 13 năm từ 1689 đến 1702. Để bảo đảm chắc chắn mọi quyền lợi của giai cấp tư sản và quý tộc mới, tháng 2-1689, nghị viện thông qua “đạo luật về quyền hành”. Theo đó nhà vua không có quyền duy trì hay hủy bỏ luật pháp, đặt thuế hoặc thu thuế, tuyển binh...nếu không có sự đồng ý của nghị viện. Như vậy, các vấn đề quan trọng đều do nghị viện quyết định. Quyền hạn của vua bị thu hẹp, quyết định của vua chỉ có hiệu lực khi có chữ ký của thủ tướng. Các bộ trưởng trong nội các phải thi hành nghị quyết của nghị viện và chịu trách nhiệm trước nghị viện chứ không phải trước vua. Những quy định đó hạn chế quyền lực của vua, ngăn chặn mọi khả năng phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế và chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến. Thực chất chính quyền chuyển từ nhà vua sang tay nghị viện gồm đại biểu của giai cấp đại tư sản và đại địa chủ giàu có.
Sự kiện 1688 là một cuộc chính biến nhằm lật đổ vương triều Schiua đang có khuynh hướng quân chủ hóa và thay thế bằng triều đại Vinhem III có khả năng bảo đảm cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Nó không phải là cuộc “cách mạng vẻ vang” như nhiều sử gia ca ngợi. Thực chất, nó là sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lớn và địa chủ phong kiến trước kia. Những địa chủ đó thường xuất thân từ những dòng họ quyền quý cũ nhưng lại có xu hướng tư sản hơn là phong kiến. Vì vậy, không thể coi sự kiện 1688 là một cuộc cách mạng theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ là một cuộc chính biến, một sự thỏa hiệp của những tập đoàn trong giai cấp hữu sản nhằm thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Anh.
IV – KẾT LUẬN
1. Cuộc cách mạng tư sản Anh là một sự kiện quan trọng trong lịch sử thế giới. Bằng lực lượng của quần chúng, nó đã đập tan nền quân chủ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất mới phát triển. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thế lực phong kiến phản động, giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi.
2.Cuộc cách mạng tư sản Anh được tiến hành dưới sự lãnh đạo của một liên minh giai cấp giữa tư sản và quý tộc mới.
Đặc điểm đó nảy sinh trên cơ sở của sự liên hệ về mặt kinh tế. Hai giai cấp tuy nguồn gốc khác nhau, nhưng lại cùng có lợi ích trên con đường kinh doanh tư bản chủ nghĩa, do đó có cùng một kẻ thù chung là chế độ phong kiến. Crômoen, con người có vai trò lớn lao trong những ngày đầu cách mạng, chính là nét tượng trưng của sự liên minh đó. Tuy nhiên, đặc điểm này không phủ nhận vai trò vĩ đại của quần chúng nhân dân bao gồm nông dân, thợ thủ công, bình dân thành thị... Họ là người lĩnh trách nhiệm lớn lao đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi. Nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ của những làn sóng người vĩ đại ấy, thì nghị viện không thể thoát khỏi những cơn hiểm nghèo, không thể thiết lập được nền Cộng hòa và đưa Sáclơ I lên đoạn đầu đài. Việc xác lập quan hệ tư bản chủ nghĩa ở nước Anh là kết quả của hàng chục năm trời đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong quá trình đó, quần chúng nhân dân Anh bao giờ cũng là người kiên quyết nhất. Những cương lĩnh cách mạng của họ mà đại biểu là phái San bằng với Giôn Linbớc, phái Đào đất với Uyn xtenlây là ngọn cờ tập hợp đông đảo quần chúng tiến lên. Cuộc cách mạng tư sản Anh để lộ một đặc điểm thứ hai là tính chất bảo thủ không triệt để của nó. Vấn đề đặt ra trước cuộc cách mạng tư sản là vấn đề ruộng đất và vấn đề giải phóng nông dân khỏi gông cùm của chế độ phong kiến. Nhưng giai cấp tư sản Anh sau khi giành được chính quyền thì đoạt luôn cả ruộng đất, nền sở hữu phong kiến về ruộng đất chuyển sang nền đại sở hữu tư sản mà không về tay nông dân. Về chính quyền, giai cấp tư sản cũng không dám duy trì nền cộng hòa, mà phải liên minh với thế lực phong kiến, thiết lập nhà nước quân chủ lập hiến.
Đặc điểm thứ ba là cuộc cách mạng tư sản Anh diễn ra dưới hình thức tôn giáo. Nhìn bề ngoài, ban đầu là cuộc đấu tranh giữa Thanh giáo và Anh giáo rồi đến giữa các phe phái trong Thanh giáo. Cuộc xâm lược Ailen và Xcốtlen cũng mang màu sắc đó. Nhưng thực chất của vấn đề tôn giáo vẫn là vấn đề giai cấp. Trong điều kiện lịch sử lúc đó, tư tưởng cách mạng chỉ có thể đi vào quần chúng dưới bộ áo tôn giáo, vì nó là món ăn tình cảm đặc biệt và quen thuộc đối với quần chúng nhân dân sau một thời kỳ trung cổ dài dằng dặc. Đằng sau bộ áo đó vẫn là cuộc đấu tranh kịch liệt giữa tư sản và phong kiến, tiến bộ và lạc hậu, cách mạng và phản cách mạng.
3. Thực tế diễn biến của cuộc cách mạng tư sản Anh đã nêu lên một số vấn đề về mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng. Trong điều kiện chế độ phong kiến ngày càng thối nát, giai cấp tư sản đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng một chế độ mới, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Về mặt đó, giai cấp tư sản đã đóng một vai trò cách mạng. Tuy nhiên, vì quyền lợi giai cấp hẹp hòi, giai cấp tư sản không thể đưa cách mạng tiến xa hơn nữa mà tìm cách dừng lại nửa đường. Trong cuộc đấu tranh chống bọn quý tộc phong kiến, trên một chừng mực nào đó, giai cấp tư sản là kẻ đại biểu cho giai cấp lao động thời bấy giờ. Nhưng trong mỗi cuộc vận động lớn của giai cấp tư sản cũng nổ ra những cuộc vận động độc lập của giai cấp tiền thân ít nhiều phát triển của giai cấp vô sản cận đại. Phong trào San bằng và đặc biệt là phong trào của phái Đào đất thể hiện rõ - đó là tiếng chuông báo hiệu cho những phong trào đấu tranh mạnh mẽ hơn của quần chúng lao động trong sự nghiệp giải phóng khỏi ách bóc lột sau này.