Các mĩ nhân trong lịch sử Trung Quốc

1. Tây Thi .

Tây Thi, còn gọi là Tây Tử, tên Di Quang, là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt (một nước thuộc tỉnh Triết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Ðông ngày nay) thời Chiến Quốc. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở thôn Trữ La. Trữ La có hai thôn: Ðông thôn và Tây thôn, phần nhiều họ Thi. Vì nàng ở Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Bạn nàng là Trịnh Ðán cũng là một giai nhân sắc nước, hương trời. Nhà ở gần sông, ngày ngày hai nàng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng, nước biếc, hai bóng lộn nhau trông như hai đóa phù dung của buổi bình minh tươi đẹp. Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua Ngô. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn, mong rửa thù. Ðại phu Văn Chủng hiến cho 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm tuyển được 2,000 mỹ nữ, lại chọn 2 người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Ðán. Câu Tiễn sai Tướng quốc là Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước 2 nàng về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài đón coi. Ðường phố chật cứng! Phạm Lãi liền để 2 nàng trong quân xá rồi truyền dụ rằng: "Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng tiền." Chỉ trong một lúc ngắn mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, trông không khác nào tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài kinh thành 3 ngày, tiền thu không kể xiết. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ thành, rồi sai lão nhạc sư đến dạy múa hát. Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Ðán cùng một số mỹ nữ đã học múa hát thành thạo. Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai vừa trông thấy hai nàng là xính vính, cho là thần tiên giáng trần, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn như ngây, như dại .... Tây Thi và Trịnh Ðán được Phù Sai cực kỳ yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn: Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai. Trịnh Ðán ghen với Tây Thi, uất ức không nói được, một năm sau thì chết! Phù Sai đem chôn ở Hoàng mao sơn và cho lập đền thờ. Tây Thi có chứng đau bụng. Mỗi lần đau thì nhăn mặt, mà nhăn mặt thì lại đẹp thêm! Phù Sai đắm đuối trước nét đẹp thiên kiều bá mị của Tây Thi. Phù Sai xây cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm cảnh cho Tây Thi đi dạo, ngắm cảnh. Lại cất Hưởng điệp lan, Ngoạn hoa trì, Ngoạn nguyệt trì, Ngô vương tỉnh, v.v... để Tây Thi ngắm hoa lan, coi ao hoa, thưởng trăng và soi bóng mình dưới giếng. Phù Sai lập cầm đài để Tây Thi đàn những cung đàn tuyệt diệu cho Phù Sai thưởng thức. Phù Sai lại cho đào một con sông nhỏ ở trong thành, rồi cùng Tây Thi dong thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và còn nhiều nữa, kể không hết. Từ khi được Tây Thi, Phù Sai cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, không thiết gì đến việc nước. Tây Thi, con người kiều diễm ấy, tuy có thân hình mảnh mai như cành liễu yếu mềm nhưng tiềm tàng một ý chí phi thường là quyết lật đổ cả một triều Ngô. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn ngày nào dệt vải, quay tơ nhưng nay lại dùng để bóp nát cả một nước Ngô binh hùng, tướng mạnh. Mắt nàng cau một cái là một cái đầu rơi. Môi nàng cười một nét là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu. Ngũ Viên, một vị tướng quốc kiên trung, đa mưu túc trí, đầy tài dũng lược đã vì nàng mà chết dưới thanh kiếm Chúc lâu của Phù Sai! Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận, Phù Sai tự tử.

Tây Thi làm tròn sứ mạng đối với tổ quốc; xin được về lại thôn Trữ La. Nhưng vương phi của Câu Tiễn sợ rằng chồng sẽ mê say sắc đẹp Tây Thi nên bí mật sai người bắt Tây Thi neo đá quăng xuống dòng sông Tam giang. Ðó là viết theo chính sử.

Có truyện chép : Phạm Lãi yêu Tây Thi nhưng thấy Câu Tiễn muốn lấy Tây Thi nên ghen; sau đó, bày mưu cho vợ Câu Tiễn giết Tây Thi.

Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau. Vì vậy, khi đốt phá đài Cô Tô, Phạm Lãi đã đón Tây Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn cuộc tình. Có lẽ người đời sau giàu tình cảm và trí tưởng tượng nên không nỡ chia lìa đôi trai tài gái sắc Phạm Lãi - Tây Thi nên tạo câu chuyện du Ngũ hồ để an ủi oan hồn Tây Thi chăng?

sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

2. Vương Chiêu Quân

Chiêu Quân cống Hồ:

Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, là một cung phi của vua Nguyên đế nhà Hán (48 - 53 trước Tây lịch). Lúc bấy giờ vua nằm mộng thấy mỹ nhân cùng giao ước 100 năm. Nhà vua cứ ngày đêm mơ tưởng đến người trong mộng nên truyền các quan địa phương tìm cho được người đẹp trong giấc mộng. Thái sư Mao Diên Thọ lãnh phần việc ấy. Mao Diên Thọ thừa "nước đục thả câu", ăn hối lộ của cung phi. Hễ ai đút lót tiền thì cho vẽ đẹp đẽ, xinh tươi dâng lên vua. Chiêu Quân đẹp nhất nên không chịu lo lót, lại còn xỉ vả Mao Diên Thọ. Do đó, khi cầm bức vẽ Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới mắt Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên vua, hắn sàm tấu rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có nốt ruồi mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ". Ðó là nốt ruồi sát phu. Nhà vua nghe vậy nên không đoái hoài đến Chiêu Quân. Nhưng nhờ tiếng đàn tuyệt diệu, Chiêu Quân đã khiến cho Hoàng hậu thấu rõ oan tình và dàn xếp cho gặp Hán vương. Chiêu Quân được phong làm Tây Cung vì nhà vua nhận ra đúng là người đã gặp gỡ trong mộng. Mao Diên Thọ bị kết án nhưng trốn được qua đất Hồ, đem dâng Phiên chúa bức tranh của Chiêu Quân làm Phiên chúa say đắm! Giặc Hung Nô khởi loạn, binh Hán đại bạị Phiên chúa đòi phải cống Chiêu Quân thì mọi việc được yên. Trước cảnh giang sơn nghiêng ngửa, vua Hán đành phải ngậm ngùi đưa Chiêu Quân sang cống Hồ. Khi qua ải Nhạn Môn, trong nỗi niềm thương nước nhớ nhà, giận kẻ gian thần, nàng xuống kiệu, hướng về quê hương và dùng đàn khảy lên khúc "Khúc quá quan". Giọng đàn bi ai thảm thiết, mọi người theo đưa đều não lòng nhỏ lệ Cây cỏ bên đường cũng héo hắt, gục xuống mặt đất như để buồn lây ... Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm: Cánh én cô đơn đượm tủi sầu,
Ngang trời gió cuốn bạt về đâu.
Quan san ngàn dặm vương thương nhớ,
Hồ Hán từ nay cách biệt nhau.
Khi sang đến đất Hồ, Chiêu Quân yêu cầu Phiên chúa xây một chiếc cầu trên sông Hắc Thủy để tạ ơn Trời Ðất. Lên cầu, nhìn cánh nhạn bay, nhìn dòng sông Hắc Thủy, nàng xót xa đau đớn, ngao ngán thở dài:
Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu,
Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều.
Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ,
Mơ màng một giấc mộng cô liêu.
Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy! Cái chết trinh liệt của nàng khiến cho mọi người, kể cả Phiên chúa, ngậm ngùi thương tiếc và cảm phục. Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và sự hy sinh thanh cao của Chiêu Quân. Ðến đời nhà Tấn (265 - 419), vua Tấn Tư Mã Chiêu đổi tên Chiêu Quân thành Minh Phi. Thạch Sùng sáng tác khúc ca Vương Minh Quân. Có khúc cổ nhạc gọi là "Chiêu Quân oán", "Chiêu Quân cống Hồ". Trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, lúc Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe, có câu: Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia. Trong "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Ðình Chiểu có câu: Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ, Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên! Tỉnh Tuy Viễn ở Trung quốc, bắc giáp Mông cổ, cách 10 cây số về phía Nam hãy còn mộ của Vương Chiêu Quân. Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá: mộ của Chiêu Quân ở ngôi miếu giữa, hai bên là mộ của hai nữ tỳ đã cùng tự tử với nàng. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian "Vương Chiêu Quân chi mộ" Tương truyền cỏ ở chung quanh vùng này đều màu trắng, chỉ có cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống cỏ ở Trung quốc mới có. Phải chăng đó là hồn thiêng của đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc chuyện lạ để tiếng muôn đời?
 
3. Dương Quý Phi .

Tên là Dương Ngọc Hoàng, nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo . Thọ Vương Mạo là con của vua Ðường Huyền Tông (tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Ðường Minh Hoàng. Triều Ðường: 618 - 907), nhưng vì quá say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi là Dương Quý Phi.
Dương Quý Phi vừa đẹp, vừa thông minh nên vua Ðường đắm đuối yêu thương, bỏ mặc việc triều chính cho gian thần Lý Lâm Phủ trông coi. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn, người Hồ, là tướng dũng mãnh, được nhà vua trọng dụng. Nhất là đối với Dương Quý Phi, nhờ khéo léo nịnh nọt nên họ An rất được yêu thương. An Lộc Sơn xin làm "con nuôi" của Dương Quý Phi để tiện ra vào làm chuyện gian dâm với Dương Quý Phi!
Năm 755, An Lộc Sơn cử đại binh làm phản, đem 150,000 binh lính Khiết Ðan từ Phạm Dương kéo về chiếm Hà Bắc, Hà Nam, công hãm thành Lạc Dương, tự xưng là Yên Ðế rồi tấn công thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào Ba Thục.
Ðến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu chạy nữa, đồng lòng giết chết gian thần Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi) và bức bách vua Ðường phải thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Lương thực hết, quân sĩ bất mãn, gặp bước đường cùng, vua Ðường đành dấu mặt, đứt ruột mà hy sinh "người đẹp khuynh nước, khuynh thành." Mối tình vương giả này sẽ bị chìm vào quên lãng nếu không có ngòi bút tài hoa của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly bi đát.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, quê ở Thái Nguyên, Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Chứng kiến cảnh thảm khốc của một bi tình lụy của Ðường Minh Hoàng, họ Bạch cảm xúc làm bài "Trường hận ca" nổi tiếng, được dịch qua tiếng Pháp bởi Georges Soulié de Morant và tiếng Việt bởi Yã Hạc và Trinh Nguiên. Vì bài "Trường hận ca" dài quá nên chỉ liệt kê 4 câu cuối như sau:
(Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chị
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ)

Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền.
Trời Ðất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên...

Tập "Tây Bắc thảm kỳ" của Ðào Ngọc Sơn đời nhà Minh (1368 - 1628) có chép truyện "Quái nham Quý Phi toàn dục bích họa", nghĩa là bức họa trên vách tả cảnh Dương Quý Phi tắm suối ở Quái Nham.
Quái Nham là một hòn núi hiểm hóc ở Thiểm Tây, không có dấu chân người Ðường Minh Hoàng đã hạ chỉ bắt xây dựng cầu mây để đưa Dương Quý Phi vào đó vui chơi, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền của, chưa kể nhiều người chết do làm cầu. Cửa hang nơi Dương Quý Phi vào tắm thì càng vào trong càng rộng. Tới mãi trong cùng thì có một bãi đất lộ thiên rộng tới vài chục mẫu, cỏ mọc xanh rờn như một tấm nệm trải phẳng phiu. Có nhiều thứ cây lạ. Chung quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức tường dài. Vách núi nhiều chỗ lại phẳng trơn như mài, bóng loáng rất đẹp. Dưới những vách đá là một con suối chảy lượn theo triền núi. Cách khoảng có những giọt nước từ trên khe đá tí tách rơi xuống hay những tia nước từ trong các mạch đất cuồn cuộn tuông ra, hợp với tiếng nước suối chảy tạo nên những tiếng nhạc êm tai. Dòng suối lại có những khúc rất sâu, nước trong vắt thấy tới đáy! Thật là một cảnh thần tiên.
Ngày nay, di tích Dương Quý Phi vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ "Dương Quý Phi toàn dục diễm tích" (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cổi áo, lúc nàng nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, .... Dưới các bức vẽ có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752). Cuốn "Dị Văn Lục" chép khúc vũ Nghê Thường là do Ðường Minh Hoàng lên chơi cung trăng mà ra. Lúc ấy, trăng sáng Ðường Minh Hoàng mơ được lên chơi cung trăng. Ðạo sĩ La Công Viễn dùng phép tiên biến giải lụa trắng thành chiếc cầu đưa Ðường Minh Hoàng lên nguyệt điện. Trong điện có tiếng nhạc du dương, các nàng tiên xiêm y lộng lẫy, mùi nước hoa quyến rũ đâu đây, uyển chuyển múa hát như đàn bướm muôn màu tha thướt bay lượn bên hoa. Ðường Minh Hoàng càng nhìn càng say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La Công Viễn nhắc thì đã ...quên trở về hạ giới. Khi trở về, Ðường Minh Hoàng nhớ lại và ghi thành khúc "Nghê thường vũ y" để rồi cứ đến rằm tháng Tám, Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàn cung nữ múa khúc Nghê Thường mà tưởng chừng như đang ở Nguyệt điện.

Tài liệu trên có tính cách thần thoại. Còn cuốn "Ðường Thư" ghi có phần thực tế hơn như sau:
Ðường Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài "Tây thiên điệu khúc"; đến khi trở về hạ giới thì còn nhớ mang máng. Nhằm lúc đó, có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ Tây Lương (Cam Túc ngày nay), đem khúc hát Bà La Môn đến hiến nên Ðường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê thường vũ y". (Nghê: cầu vồng. Thường: xiêm ỵ Nghê thường nghĩa là xiêm y may bằng vải năm màu của cầu vồng. Vũ y: áo dệt bằng lông chim). Ðúng ra, căn cứ vào các tài liệu sử học và khoa khảo cổ, người ta cho rằng khúc "Nghê thường vũ y" là một vũ khúc Ấn Ðộ truyền sang Trung quốc qua "con đường tơ lụa" (route de la soie), khi đến Trung quốc thì được cải biến cho hoàn chỉnh hơn.

Trong "Cung Oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều có câu:
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trông trăng

Trong "Bích câu kỳ ngộ" có câu:
Ðong đưa khoe thắm, đưa vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha



(Sưu tầm)
 
4. Điêu Thuyền.


Ðiêu Thuyền và kế liên hoàn.

Văn học Trung quốc ban đầu có 6 cuốn sách được các nhà phê bình lỗi lạc gọi là "Lục Tài Tử thư", cho đến khi bản "Tam quốc chí" của Trần Thọ, đời nhà Tấn, ra đời thì được xếp vào hàng thứ bảy. Sau đó, có nhiều ấn bản về giai đoạn 60 năm đặc sắc này của sử Trung quốc nhưng nổi bật là ấn bản "Tam Quốc Diễn Nghĩa" của nhà văn tài ba La Quán Trung. Ðiêu Thuyền xuất hiện trong truyện "Tam Quốc Diễn Nghĩa".
Ðiêu Thuyền bị loạn Ðổng Trác nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết, phiêu bạt lênh đênh, xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi.
Ðổng Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật làm nhân tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lãnh hơn 200,000 quân ở Hiệp Tâỵ Lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua.
Nhân dịp triều đình bị loạn Thập thường thị (10 tên hoạn quan), Ðổng Trác lấy cớ bảo giá kéo quân về triều. Ðổng Trác chuyên quyền, khống chế các quan, giết vua Thiếu đế, Hà hậu, và Ðường phi. Ðổng Trác vào cung gian dâm cùng cung nữ và ngủ luôn trên long sàng, làm nhiều điều ngang ngược.
Ðổng Trác có đứa con nuôi tên Lữ Bố, sức đánh trăm người nên Ðổng Trác càng kiêu ngạo, hống hách. Ai chống đối thì bị giết ngay. Trước sự tàn bạo của Ðổng Trác, lòng dân căm phẩn, tất cả 18 chư hầu nổi lên nhưng đều bị Lã Bố dẹp yên. Ðại thắng, hắn càng kiêu căng. Và càng thẳng tay giết chóc.
Vương Doãn nghĩ đến hành vi lộng quyền, sát nhân của Ðổng Trác mà xốn xang, phiền muộn và muốn tìm cách giết đi . Mãi suy nghĩ mà chưa ra một kế nào thì một hôm, Ðiêu Thuyền nói với Vương Doãn rằng nàng tình nguyện làm bất cứ điều gì để báo ơn nuôi dưỡng của Vương Doãn. Vương Doãn cả mừng nói:
"Cha tin lòng của con nhưng ngại con không thực hiện được. Nguyên cha con thằng Ðổng Trác là phường hiếu sắc, bây giờ cha muốn dùng "liên hoàn kế", trước đem con hứa gả cho Lữ Bố rồi sau lại hiến con cho Ðổng Trác. Con ở giữa tùy cơ ứng biến làm cho hai cha con nó trở lại giết hại lẫn nhau.
Nếu làm được như vậy là con liều thân giúp nước, công nghiệp vô cùng to lớn."
Ðiêu Thuyền vâng lời. Vương Doãn bày tiệc tại nhà, mời Lữ Bố đến dự Trong bữa tiệc, Vương Doãn không ngớt lời ca tụng sức mạnh oai dũng của Lữ Bố làm cho Lữ Bố hừng chí, uống rượu hết bát này đến bát khác. Ðộ một lát, Vương Doãn truyền quân hầu đi nghỉ, chỉ để vài thị nữ ở lại châm rượu. Khi thấy Lữ Bố đã thấm hơi men, Vương Doãn truyền thị nữ phò Ðiêu Thuyền ra Mặt hoa mơn mởn, lại trang điểm vô cùng diễm lệ, mình liễu uyển chuyển, Lữ Bố vừa trông thấy giựt nẩy mình, tưởng là tiên nữ hạ phàm, nhìn không chớp mắt! Vương Doãn bảo Ðiêu Thuyền mời rượu Lữ Bố. Nàng uốn hai bàn tay ngà ngọc nâng ly rượu mời, anh mắt long lanh như sóng nước hồ thu đưa tình, bốn mắt nhìn nhau, rồi lại nhìn nhau nữa khiến cho kẻ ngẩn ngơ, người ngơ ngẩn. Vương Doãn giả say. Lữ Bố mời Ðiêu Thuyền ngồi. Có phải là "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e" không? (!) Lữ Bố rõ ràng là "chết ngắc", cứ ngồi ngây người ra như tượng gỗ! Sau đó, Vương Doãn bảo Lữ Bố:
"Lão muốn đưa con gái lão qua làm tiểu thiếp tướng quân để hầu hạ trang anh hùng duy nhứt thời nay. Chẳng hay tướng quân có lòng thương yêu dung nạp không?"
Tất nhiên là Lữ Bố còn gì sung sướng cho bằng. Vương Doãn lại bảo là để chọn ngày lành rồi nay mai sẽ đưa Ðiêu Thuyền sang làm vợ Lữ Bố.
Ngày hôm sau, Vương Doãn lại mời Ðổng Trác đến nhà ăn tiệc. Vương Doãn ra lệnh tấu nhạc, rồi mời Ðổng Trác uống rượu. Khi trời về chiều, rượu đã ngà say Vương Doãn mời Ðổng Trác vào hậu đường. Bấy giờ, đuốc hoa đốt lên ráng rực cả nhà. Vương Doãn chỉ giữ lại mấy cô hầu dâng rượu, rồi thưa với Ðổng Trác:
"Nhà cũng có phường giáo nhạc nhưng sợ kém cỏi vụng về, sợ không đẹp ý Thái sư nên không cho ra diễn tấu. Duy còn một kỳ nữ tài hoa khá lắm, xin cho phép gọi ra hầu."
Ðổng Trác đồng ý ngay. Vương Doãn liền sai kéo rèm. Rèm châu vừa cuốn lên, cùng với tiếng đàn phách sinh huỳnh vang lên thánh thót là Ðiêu Thuyền nhè nhẹ gót hài bước ra, xiêm y tha thướt, mình liễu uyển chuyển múa trước rèm châu như thiên tiên nhập động ...Có bài ca khen Ðiêu Thuyền rằng:
Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng
Nhẹ nhàng mình liễu như bông,
Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Ðộng đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân
Nhà vàng gió cợt cành xuân,
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!
(Chú giải: Bài ca này có ý khen Ðiêu Thuyền đẹp như nàng Triệu Phi Yến ở Chiêu Dương cung của Hán Thành đế: hai bàn chân nhỏ bằng hai ngón tay cái làm cho lúc đi thân hình trở nên uyển chuyển nhẹ nhàng, có thể đứng trên bàn tay người ta được (Ðây là chuyện thật của tục bó chân ngày xưa.)
Ðổng Trác nhìn đắm đuối, đờ đẫn như kẻ mất hồn, ngây ngẩn ngẩn ngây. Ðiêu Thuyền lại cầm phách, gõ nhịp cất tiếng ca. Giọng trong như oanh kêu, cao như hạc gọi, khi trầm khi bổng, nghe thánh thót như rót vào tai, mà huyền huyền ảo ảo làm mê hồn tục khách! Ðó chính là:
Nhất điểm anh đào khải giáng thần
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân
Ðinh hương thiệt thổ hành cương kiếm
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!

Một đóa anh đào chúm chím môi,
Ðôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:
Chém chết gian thần có lúc thôi!

Trong cơn say rượu thịt, sắc đẹp, hát hay, múa giỏi thì đúng là ... Ðổng Trác "hồn phi, phách tán". Vương Doãn lại hứa dâng hiến Ðiêu Thuyền cho Ðổng Trác.
Sau đó, Ðiêu Thuyền về làm vợ cho Ðổng Trác nhưng lại "câu rê" Lữ Bố để càng ngày càng ly gián hai cha con ra. Trong hậu trường, hai cha con Ðổng Trác và Lữ Bố ngày càng thù ghét nhau chỉ vì "đòn sóc hai đầu" của Ðiêu Thuyền.
Một hôm, Ðổng Trác bị cảm, Ðiêu Thuyền tận tụy chầu chực thuốc men, cơm cháo. Trác lấy làm vui lòng lắm. Bố nghe tin vào phòng vấn an. Vừa lúc Trác còn ngủ, Ðiêu Thuyền đứng sau giường nhìn Lữ Bố, lấy tay chỉ lòng mình rồi lại chỉ Ðổng Trác và hai hàng lệ chảy ròng trên má. Bố đau đớn vô cùng. Ðổng Trác giựt mình thức dậy, thấy Lữ Bố đứng nhìn sau giường mãi thì trở mình qua, lại thấy Ðiêu Thuyền nên nổi giận nạt Lữ Bố:
-Sao mi dám giễu cợt ái cơ ta?
Một lần khác, Lữ Bố lén gặp Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền tỏ vẻ tươi cười bảo Lữ Bố:
-Lang quân ra sau vườn đến Phụng nghi đình mà chờ thiếp.
Ðiêu Thuyền trang điểm xong, vội vàng bước ra Phụng nghi đình gặp Lữ Bố, rưng rưng nước mắt nói:
-Thiếp tuy là con nuôi của quan Tư đồ song người coi như con đẻ. Người gả thiếp cho lang quân là chọn chỗ xứng đáng cho thiếp trao thân, gởi phận. Mừng chưa kịp no, không dè Thái sư (tức Ðổng Trác) lòng trâu dạ chó, bắt thiếp cưỡng bức như thế này. Sở dĩ thiếp chưa chịu chết vì chưa gặp mặt chồng. Nghĩ lại thiếp ngày nay chẳng khác hoa tàn, nhụy rữa còn phụng sự anh hùng sao đặng. Vậy thiếp xin tự tử trước mặt lang quân để lang quân hiểu rõ nỗi lòng của thiếp.
Nói xong Ðiêu Thuyền nhắm ngay ao sen toan nhảy xuống. Lữ Bố lật đật ôm lại, cảm động nói:
-Ta biết rõ lòng nàng lắm rồi
Gặp đã lâu, Lữ Bố sợ Ðổng Trác về bắt gặp nên xách kích muốn đi. Ðiêu Thuyền nói:
-Thiếp ở chốn khuê phòng nghe danh tiếng lang quân anh hùng trên đời có một, không ngờ lại bị có người kiềm chế như thế!
Nói rồi lại khóc òa lên như mưa như gió một cách bi thảm. Bố lấy làm thẹn thùa, xấu hổ để kích xuống, ôm lấy Ðiêu Thuyền, rút khăn chậm nước mắt cho nàng, tìm lời vỗ về an ủi. Hai người đang bịn rịn, âu yếm, không nỡ buông nhau thì thấy Ðổng Trác! Trác nổi máu ghen sùng sục, Lữ Bố hoảng hồn bỏ chạy, quên cả cây kích dựa lan can. Trác cúi xuống, cầm kích phóng ngay vào người Lữ Bố nhưng không trúng.
Sau đó, do lời khuyên của Lý Nhu, Ðổng Trác muốn gả Ðiêu Thuyền cho Lữ Bố nên gọi Ðiêu Thuyền vào và nói:
-Sao mi dám tư thông với thằng Lữ Bố?
Ðiêu Thuyền khóc nấc lên rồi kể:
-Thiếp đương xem hoa nơi sau vườn, thình lình Lữ Bố bước vào, thiếp hoảng sợ toan chạy trốn. Hắn nói hắn là con của Thái sư, không hề chi, rồi cầm kích rượt thiếp đến Phụng nghi đình. Thấy nó sinh tâm xấu xa như vậy, thiếp định liều mình nhảy xuống ao sen. Nó lại ôm cứng lấy thiếp.
Ðương cơn bối rối thì vừa may ngài vào kịp nên thiếp mới toàn tính mạng. Vậy mà Thái sư không thương lại còn nói oan, nói xấu cho thiếp.
Trác nói:
-Ý ta muốn gả mi cho Lữ Bố, vậy mi có bằng lòng không?
Ðiêu Thuyền thất sắc, nức nở:
-Thiếp đã thất thân với Thái sư, bây giờ Thái sư lại nỡ lòng đem đưa thiếp cho con là một thằng thất phu như thế thì trái đạo quá. Vậy thiếp thà chết còn hơn sống mà chịu nhơ danh.
Nói xong Ðiêu Thuyền bước lại rút lấy gươm treo trên vách toan đâm vào cổ. Trác hốt hoảng, vội giựt gươm, ôm Ðiêu Thuyền vào lòng, v.v....
Cuối cùng, trong âm mưu với Vương Doãn và Lý Túc, chính Lữ Bố là người cầm kích đâm ngay yết hầu của Ðổng Trác.
Trong "Thánh Thán Ngoại Thư", nhà phê bình trứ danh Mao Tôn Cương viết về Ðiêu Thuyền như sau:
"18 lộ quân chư hầu không giết nổi Ðổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Ðiêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Ðiêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của "nữ tướng quân" quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!
Tây Thi với Ðiêu Thuyền cùng lấy sắc khuynh thành. Nhưng việc làm của Tây Thi còn dễ, việc của Ðiêu Thuyền khó hơn. Tây Thi chỉ phải đánh ngã một mình Ngô Phù Sai. Ðiêu Thuyền phải đồng thời đánh ngã cả Lữ Bố và Ðổng Trác. Phải luôn luôn nghĩ mưu kế trong lòng, thay đổi bộ mặt để đối phó với cả hai bên. Ta nghĩ rằng cái công của Ðiêu Thuyền đáng ghi vào sử xanh.
Nếu như, khi Ðổng Trác bị giết rồi, Vương Doãn không vụng về mà gây ra cái loạn Lý Thôi, Quách Dĩ thì cơ đồ nhà Hán đã phục hưng ngay từ đó. Và như thế thì một cô gái như Ðiêu Thuyền há lại không đáng ghi tên vào nơi Phượng các, không được tô tượng ở chỗ Lân đài hay sao ?

..................

Cái tuyệt diệu của kế "liên hoàn" không phải là làm cho Lữ Bố giết Ðổng Trác đâu. Ngược lại, nhằm làm cho Ðổng Trác giết Lữ Bố. Nếu Trác cầm kích, phóng trúng Lữ Bố tức là Trác đã tự chặt một cánh tay và Trác sẽ bị tiêu diệt dễ dàng. Ðó mới là chủ ý.
Riêng ta, ta yêu nàng Tây Thi thật lòng trở về với Phạm Lãi; và yêu nàng Ðiêu Thuyền giả vờ sống chết với Lữ Bố. Bởi vì tuy thân đứng trước Lữ Bố, nhưng lòng Ðiêu Thuyền bao giờ cũng chỉ nghĩ đến báo công nuôi dưỡng cho Vương Doãn mà thôi.
Sau khi thành Hạ Bì thất thủ, Lữ Bố bị Tào Tháo giết, không biết tông tích của Ðiêu Thuyền ở đâu cả. Nàng chính là con rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn đi đâu hết! Có thế danh tiếng mới khỏi bị tổn thương."



(sưu tầm)



Thêm : Điêu Thuyền chết như thế nào?


Điêu Thuyền (Điêu Thiền) là một nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa và được nhắc tới như một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa, tuy nhiên tới nay vẫn không ai biết được kết cục người phụ nữ này như thế nào.


Điêu Thuyền là con gái nuôi của Tư đồ Vương Doãn, được Vương Doãn bày kế biến Đổng Trác và Lã Bố trở thành kẻ thù của nhau rồi mượn tay Lã Bố để giết Đổng Trác. Sau đó, Điêu Thuyền trở thành thiếp của Lã Bố, khi Lã Bố bị bộ tướng của Đổng Trác là Lý Thôi đánh bại, Điêu Thuyền đã theo Lã Bố về Từ Châu. Sau khi Lã Bố bị Tào Tháo giết, Điêu Thuyền theo người nhà Lã Bố tới Hứa Xương. Từ đó, Điêu Thuyền “bặt vô âm tín”. Sự biến mất của Điêu Thuyền đã trở thành một dấu hỏi lớn từ thời anh hùng tranh bá cho tới khi thống nhất đất nước mà chưa có lời giải đáp.
images671619_1.jpg
Phan Nghinh Tử trong phim Điêu Thuyền (1988)


Điêu Thuyền trong lịch sử là ai?

Trong tạp khúc nhà Nguyên “Liên hoàn kế” có ghi rằng Điêu Thuyền tên thật là Hồng Xương, con gái Nhiệm Ngang, chuyên cai quản quan điêu thuyền trong cung nên được gọi là Điêu Thuyền. Thực tế, trong lịch sử chỉ có một thị nữ bị Vương Doãn lợi dụng để khiêu khích mối quan hệ giữa Lã Bố và Đổng Trác, hình tượng Điêu Thuyền được xây dựng bằng việc cải biến câu chuyện trên. Tuy nhiên, một thị nữ có thể khiến hai người đàn ông chết mê chết mệt thì quả không phải người tầm thường.

Theo nghiên cứu của học giả Mạnh Phồn Nhơn, Điêu Thuyền họ Nhiệm, tên là Hồng Xương, sinh ra tại thôn Mộc Nhĩ, Cửu Nguyên Lai, quận Bình Châu, năm 15 tuổi được chọn vào trong cung. Khi nhà Hán sắp sụp đổ, Điêu Thuyền được Tư đồ Vương Tôn nhận làm con nuôi và đổi họ thành họ Vương.

Cái chết của Điêu Thuyền đến nay vẫn là một bí ẩn. Chính sử không nhắc tới Điêu Thuyền, có câu chuyện Lã Bố và Đổng Trác bị mỹ nhân mê hoặc xảy ra nhưng tên của người phụ nữ trong câu chuyện đó không được nhắc tới. Vì thế, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự biến mất của Điêu Thuyền.

Điêu Thuyền ra sao sau khi Lã Bố chết?

Lần cuối cùng Điêu Thuyền được nhắc tới trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là cùng với Lã Bố bao vây Đổng Trác, sau đó khi Lã Bố bị giết thì không thấy sự xuất hiện của Điêu Thuyền nữa. Tuy nhiên có thể đưa ra các giả thiết rằng, sau khi Lã Bố bại trận, trong thành không mấy khốc liệt nên khả năng Điêu Thuyền bị chết trong đám hỗn độn là rất ít, hơn nữa, thời gian Tào Tháo bao vây thành cũng rất lâu nên sẽ phòng ngự chặt chẽ và cơ hội chạy thoát của Điêu Thuyền là cực kỳ nhỏ và chỉ có khả năng, Điêu Thuyền đã bị bắt đi.

Trong khi đó, Tào Tháo lại là một kẻ hám sắc, vào thời điểm ấy chỉ có hai cha con Tào Tháo và Tào Phi dám chiếm đoạt người đàn bà sắc nước hương trời này. Thế nhưng, trong Tam quốc diễn nghĩa lại không đề cập tới chuyện này giống những chuyện tương tự như Tào Tháo cưỡng đoạt cô của Trương Tề, còn Tào Phi chiếm đoạt con gái của Viên Thiệu. Tam Quốc diễn nghĩa xây dựng Lưu Bị là nhân vật chính diện, những hành vi của cha con Tào Tháo càng chứng minh bọn họ là kẻ vô liêm sỉ. Vì vậy chuyện về Điêu Thuyền không được viết ra đã gây nhiều tranh cãi. Nhiều người cho rằng, Điêu Thuyền đã được một nhân vật tốt bụng nào đó trong truyện mang đi giấu.

Về cái chết của Điêu Thuyền, có nhận định rằng sau khi Lã Bố chết, Điêu Thuyền được Tào Tháo mang về Hứa Xương và làm nữ tì trong phủ thừa tướng. Sau đó, Tào Tháo đã dân 10 mỹ nữ cho Quan Vũ, trong đó có Điêu Thuyền khi thua trận, vừa nghe thấy tên Điêu Thuyền trong danh sách, Quan Vũ vuốt râu nói “được” rồi nhắm mắt làm ngơ, xua tay. Điêu Thuyền nghe vậy, biết ý Quan Vũ, bèn về phòng tự sát.

Cũng có nhận định Điêu Thuyền được Quan Vũ nhận làm thiếp và đưa tới sống tại Thành Đô, mong muốn dần dần tận hưởng cuộc sống sau khi công thành danh toại nhưng không ngờ Quan Vũ bị Tôn Quyền giết, Điêu Thuyền phải sống lưu lạc.

(Theo VietNamNet)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5. Bao Tự

Chuyện xưa chép rằng, vào thời Tuyên Vương nhà Chu, có một cung nữ mang thai hơn bốn mươi năm, sau sinh được một đứa con gái – Nhà vua cho hỏi thì cung nữ đó kể:
- Tiện thiếp nghe nói trong cung điện có một chiêc hộp quý đựng “nước dãi rồng” (có truyền thuyết cho là tinh dịch) từ đời nhà Hạ, một hôm tự nhiên chiếc hộp đó tỏa hào quang sáng rực khắp cung điện, Đấng Tiên vương truyền mở hộp ra xem, thấy trong có chiếc chậu vàng đựng một thứ nước lỏng - Tiên vương cầm chắc chiếc chậu vàng, lỡ tay đánh rơi, dãi rồng chảy lênh láng, rồi hóa thành một con giải nhỏ chạy biến vào cung… Lúc ấy tiện tỳ mới hơn mười tuổi, vô tình dẫm phải vết chân con giải đó, từ đấy trong người thấy khang khác, rồi bụng ngày một to ra như người có thai. Cho là quái dị, Tiên vương truyền lệnh cho giam vào nơi lãnh cung. Trải hơn bốn chục năm, đêm qua tiện tỳ thấy đau bụng, sinh ra một bé gái. Nội thị tâu lên Hoàng hậu, Hoàng hậu bảo đó là quái vật, và sai nội thị đem vứt bỏ ngoài lạch.
Lại nói về viên nội thị được lệnh vứt bé gái sơ sinh, thấy đứa bé vô tội, nên y để vào trong thùng gỗ lớn lót vải đầy rồi thả xuống sông Thanh Thủy. Khi vua Chu Tuyên cho người đến xem thì chiếc thùng đó đã trôi đi đâu không ai biết nữa.
Sáng sau ra chầu, Tuyên Vương kể chuyện “Dãi rồng” và đứa bé bị bỏ trôi sông, và sai Bá Dương Phụ bói một quẻ xem điều gì.
Bói xong Bá Dương Phụ tâu:
- Theo hạ thần thì trong cung vẫn còn tà khí.
Vua Chu bèn hạ lệnh: “Ai bắt được đứa trẻ trôi sông thì dù sống, dù chết cũng được thưởng lụa, bạc. Ai giấu diếm phải tội chết”. Lại sai đại phu Tả Nho đi qua các chợ, cấm không cho ai làm bán cung gỗ dâu và tên bằng cỏ cơ.
Hôm sau đoàn tuần tra gặp hai người. Người đàn bà đeo túi có mấy cái tên bằng cỏ cơ, người đàn ông đi sau mang mấy cánh cung làm bằng gỗ dâu, bèn giữ người đàn bà lại. Người đàn ông thấy thế sợ quá vứt cánh cung chạy trốn. Tả Nho bèn giấu chuyện người đàn ông chạy trốn và tâu với vua là đã bắt được “nữ hoa”. Vua ra lệnh chém đầu người đàn bà, và đốt cung tên ở giữa chợ để răn kẻ khác.
Người đàn ông chạy trốn tìm cách cứu vợ, nhưng khi nghe tin vợ bị hại, buồn bã đi lang thang. Khi đi bên bờ sông Thanh Thủy, bỗng nhìn thấy từ xa có một chiếc thùng gỗ đang trôi, trên có chim đậu, bèn tìm cách kéo vào bờ. Khi giở ra xem thấy có một bé gái sơ sinh đang khóc. Trong bụng chợt nghĩ “Có lẽ điềm gì may đây”, nói rồi bọc lấy đứa bé, tìm đường đến Bao thành, vào ở nhờ nhà người quen.
Không bao lâu Chu Tuyên Vương chết. Thái tử lên ngôi, tức Chu U Vương, lập con gái Thân hầu làm hoàng hậu.
U Vương vốn là kẻ hoang dâm bạo ngược, không lo chính sự. Bố vợ là Thân
hầu khuyên can nhưng không được, bèn bỏ về nước Thân. U Vương càng ngày àng buông tuồng, sai nội thị đi khắp nơi tìm con gái đẹp đưa về cung. Viên quan trấn thủ Bao thành là Bao Quýnh về chầu, thấy vạy can ngăn, U Vương liền sai bắt Bao Quýnh giam vào ngục. Lại nói về ngươif đàn ông nhặt được đứa bé gái trên sông Thanh Thủy, nhưng sau vì nghèo đói không nuôi nổi, may nhờ ngừoi hàng xóm có tên là Tự Đại hiếm hoi xin về nuôi, đặt tên là Bao Tự.
Bao Tự dần dần lớn lên, mười bốn mười lăm đã xinh đẹp tuyệt vời. Chỉ vì ở nơi xóm làng hẻo lánh, nên chưa đắt chồng.
Một hôm, con trai Bao Quýnh là Hồng Đức chợt có việc tới gần nơi đó, trông thấy cô gái xinh đẹp đang gánh nước, bụng nảy ý nghĩ: “Cha ta vì tính bộc trực can ngăn vua mà bị hạ ngục đã ba năm nay, nếu cô gái kia được dâng lên triều đình thì may ra cha ta được thoát.
Nghĩ vây, Hồng Đức bèn hỏi dò chung quanh về Bao Tự, sau đấy về nhà kể với mẹ. Mẹ Hồng Đức bằng lòng, cho người đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tự Đại, xin đổi lấy cô gái.
Bao Tự về nhà mới, được tắm gội hương trầm hương, ăn uống các thức ngon vật quý,mặc toàn the lụa, lại học hát múa, lễ nghi nên chỉ mấy tháng sau càng đáng yêu hơn. Tiếp đấy, Hồng Đức mang vàng bạc lên kinh đô Cảo nhờ Quắc công tâu với U Vương răng Bao Quýnh nay đã ăn năn hối lỗi, lại có con trai xin dâng mỹ nữ để chuộc tội cho cha. U Vương nghe tâu, liền truyền Bao Tự vào cung. Khi nhìn thấy Bao Tự quỳ lạy dưới sân rồng, nhan sắc như tiên dáng thế, nha vua mê mẩn tinh thần, bèn đưa ngay vào Quỳnh đài, lại tha tội cho Bao Quýnh, phục chức như cũ.
Từ khi được Bao Tự, U Vương suốt ngày chỉ ở Quỳnh đài với nàng, cả tháng không coi chầu.
Có người nói với Thân hầu, Thân hầu giận lắm, đến ngay Quỳnh đài thấy nhà vua đang bá vai bá cổ Bao Tự vui đùa. Thân hầu cả giận mắng nhiếc Bao Tự:
- Con tiện tỳ kia, ở đâu mà dám đến làm nhơ bẩn nơi cung cấm?
Nói đoạn đi thẳng tới chỗ Bao Tự - U Vương sợ Thân hầu đánh nàng, liền đứng ra che cản và nói:
- Tiện tỳ là người mới tuyển về, chưa định thứ bậc, nên chua vào chào lạy Hoàng hậu đó thôi.
Thân hầu mắng nhiếc một hồi, rồi hằm hằm bỏ đi. Bao Tự hỏi nhà vua:
- Ai thế?
U Vương trả lời:
- Chánh cung Thân hậu, ngày mai ái khanh nên vào chào hỏi.
Bao Tự buồn rầu, im lặng. Sáng hôm sau cũng không vào cung Thân hậu.
Thân hậu vừa bực tức, vừa u sầu. Con trai là thái tử Nghi Cữu hỏi lý do, Thân hậu bèn kể chuyện U Vương si mê, bỏ cả việc triều đình, và chuyện Bao Tự không thèm chào hỏi gì mình, rồi nói:
- Mai mốt con yêu ấy mà được thế, thì mẹ con ta không có chỗ mà ở.
Nghi Cữu bực tức ra về, sáng hôm sau, nhân lúc U Vương ra coi chầu, Nghi Cữu sai cung nữ đến Quỳnh đài hái hoa lung tung, mấy cung nữ ở Quỳnh đài ra ngăn lại:
- Đây là các loại hoa quý, thánh thượng sai trồng để Bao nương nương ngắm cảnh.
Mấy người kia nói:
- Bọn ta vâng lệnh thái tử đến hái hoa để dâng chính cung hoàng hậu, ngăn cấm thế nào được?
Bao Tự thấy hai bên to tiếng bèn bước ra ngoài xem sao, thì Nghi Cữu đã xông ngay tới, nắm tóc Bao Tự, đấm tát và mắng:
- Mày là đứa nào mà dám tự xưng là nương nương, để ta đánh cho mày biết tay.
Mấy cung nữ nơi Thân hậu vội can ngăn xin đợi lệnh Thánh Thượng. Nhân lúc đó Bao Tự đi vào trong, nước mắt ròng ròng mặt mày rầu rĩ.
- Sao ái khanh lại buồn bực là thế?
Bao Tự liền quỳ xuống, nắm vạt áo nhà vua, khóc và kể lại câu chuyện bị Thái tử Nghi Cữu đánh, ròi nức nở nói:
- Thái tử đã báo thù cho Hoàng hậu mà đánh, tì thế nào cũng giết hại thần thiếp rồi mới thôi. Nếu chỉ có mình thần thiếp thì cũng đành, nhưng còn dòng dõi bệ hạ trong bụng đã mấy tháng nay. Thôi, xin Thánh thượng cho phép hai mẹ con thiếp được về quê để bảo toàn được tính mạng của hai người.
U Vương nổi giận, hạ lệnh đầy Nghi Cữu ra nước Thân cho ông ngoại dạy bảo, và cách chức những người thầy học của Thái tử. Bọn Quắc Công, Doãn Cầu bèn cho người thân tín đến bàn với Bao Tự:
- Thánh thượng có ý cho Bá Phục làm thái tử. Bên trong có lời nương nương, phía ngoài có bọn hạ thần việc gì chẳng xong.
Bao Tự liền kết đảng với hai họ Quắc và họ Doãn. Ngày đêm cho người dò xét quanh chỗ Thân hậu ở - Có một cung nữ thương hại bèn nói với Thân hậu viết thư cho cha là Thân hầu bảo Nghi Cữu xin lỗi U Vương để về triều. Sau đó Thân hậu gải vờ ốm, và sai người cung nữ kia mời mẹ cô ta là bà Ôn làn nghề thuốc vào chữa bệnh.
Tin đó lọt đến tai Bao Tự. Nàng bảo nội giám:
- Khi nào bà lang Ôn trở ra thì hãy khám xét.
Khi bà lang Ôn xem mạch, thì Thân hậu lấy bức thư ở gối ra đưa cho bà, lại cho hai tấm lụa và dặn dò chuyển ngay cho Thân hầu.
Ra tới cửa cung, nội giám ngăn lại hỏi:
- Mụ mang lụa đi đâu thế?
Bà Ôn trả lời:
- Tôi vào thăm bệnh cho Chánh cung, nên Chánh cung ban cho.
Mấy nội giám xúm xít lại khám, tìm thấy bức thư, đem vào nộp Bao Tự. Bao Tự tức giận, xé nát tấm lụa quăng ra nền cung điện. Khi U Vương vào trông thấy hỏi căn do. Bao Tự nức nở nói:
- Thần thiếp may được tiến cung, ơn nhờ Hoàng thượng tới, nhưng nay Hoàng hậu giận ghen ghét, nhất là khi thấy thần thiếp sinh con trai, lại càng căm hận. Nay Hoàng hậu gửi thư cho Thái tử. Thế này hai mẹ con thần thiếp thế là không an toàn.
Rồi đưa thư cho U Vương, nhà vua xem xong, hỏi:
- Chứng cơ đâu?
Nội giám liền dẫn bà lang họ Ôn tới. U Vương rút gươm chém ngay làm hai.
Đêm đó, Bao Tự nỉ non bên gối U Vương:
- Lỡ ra mai đây, khi Thái tử lên ngôi báu thì Bá Phục và thần thiếp chết cũng không có đất chôn.
Nói rồi ngồi dậy, khóc nức nở. U Vương nói:
- Ta cũng có ý muốn phế bỏ Hoàng hậu và Thái tử, nhưng còn e các quan dị nghị.
Bao Tự nói:
- Bệ hạ là vua. Bầy tôi phải nghe theo lời vua. Kẻ nào chống lại là phản nghịch. Tâu bệ hạ, cứ nêu việc đó với trăm quan văn võ xem thử.
Ngay đêm đó, Bao Tự sai người tâm phúc báo tin cho Quắc Công và Doãn Cầu. Sáng sau, ra chầu U Vương nêu việc hỏi:
- Nay Chánh cung ngày đêm ghem ghét, oán trách nguyền rủa trẫm, các khanh nghĩ thế nào?
Quắc Công tâu ngay:
- Chánh cung cớ lỗi thì truất bỏ. Bệ hạ tìm người khác phong làm Hoàng hậu.
U Vương hỏi:
- Ai có thể thay?
Doãn Cầu tâu luôn:
- Hạ thần nghe nói có Bao Quý phi là người hiền đức, đáng mặt Chánh cung.
- Nếu phế truất Thân hậu, còn Thái tử ở Thân quốc thì sao?
Quắc Công tâu:
- Đã truất mẹ thì con cũng không được dùng:
Thế rồi U Vương ra lệnh giam Thân hậu vào lãnh cung, truất ngôi Nghi Cữu, phong Bao Tự làm Chánh cung, Bá Phục làm Thái tử, các quan có nhiều người bất bình xong không ai dám nói.
Bao hậu tuy đã toại nguyện, song chưa thấy yên ổn, thành thử đăm chiêu ngay đêm, từ đó không hề cười một tiếng nào. U Vương hết sức chiều chuộng, tìm đủ mọi cách cũng không sao làm được Bao Tự vui. U Vương nói:
- Vậy đàn sáo nào làm cho Hoàng hậu vui tai?
Bao Tự thưa:
- Từ hôm thần thiếp xé tan hai tấm lụa đến giờ thấy không còn tiếng nào êm tai hơn thế nữa.
Từ đó, vua sai quan coi kho hàng ngày phải nộp lụa đến chỗ Bao Tự, lại sai các cung mữ khỏe mạnh thay nhau xé lụa trước mặt Bao Tự. Tuy vậy cũng không làm cho hoàng hậu họ Bao vui hơn.
Nhà vua ra lệnh cho các quan hiến kế làm cho Bao Tự cười, sẽ được thưởng ngàn vàng. Quắc Công tâu:
- Đấng Tiên vương ta xưa có dựng mấy chục cái chòi và đóng mấy chục cái trống đặt quanh Ly sơn, đề phòng kinh đô không may bị giặc cướp thì đốt lửa, dóng trống cho chư hầu mang quân tới cứu viện.
Bấy giờ có Trịnh Bá Hữu can ngăn:
- Nay vô cớ đốt lửa là đánh lừa chư hầu, làm cho mọi người mất tín. Lỡ mai kia nguy cấp thực, thì còn ai mang quân đến giúp nữa?
Trịnh Bá Hữu bị quat mắng, U Vương liền truyền cho đốt các đống lửa, và dóng trống ầm vang – rồi cùng lúc cùng với Bao Tự ngồi trên đài cao uống rượu. Thấy ánh lửa ngút trời, hồi trống inh ỏi, chư hầu vội vàng kéo quân tới kinh đô. Nhưng khi tới nơi chỉ thấy U Vương cho người tạ ơn và bảo:
- Nay đất nước thanh bình không có giặc giã, không dám làm phiền đến binh mã các chư hầu.
Quân các nước nghe nói, chưng hửng ngơ ngác nhìn nhau, lại lục đục kéo quân về. Bao Tự đứng trên lầu, trông thấy cảnh ấy, bèn vỗ tay cười vang. U Vương nói:
- Một tiếng cười của Chánh cung đáng giá ngàn vàng.
Rồi ra lệnh thưởng cho Quắc Công ngàn vàng, vì đã có công hiến kế làm cho Hoàng hậu cười vui.
Thân hầu được tin dâng biểu can ngăn U Vương. Nhà vua tức giận sai Quắc Công đem quân đi đánh. Thân hầu hoảng sợ, có đại phu là Lã Chương nói:
- Thiên tử vô đạo, say mê Bao Tự giống như Hạ Kiệt say mê Muội Hỷ, Thương Trụ đắm đuối Đát Kỷ, điềm mất nước đó. Nay chúa công cùng liên kết với nước Khuyển Nhung cùng đem quân tới Kiểu Kinh trừ bạo nghịch, và hứa cho Khuyển Nhung thỏa sức lấy gì thì lấy.
- Vài ngày sau, quân Khuyển Nhung kéo tới, U Vương sai đốt lửa. Không có chư hầu nào mang quân tới vì sợ bị lừa.
Quắc Công ra đánh, bị tướng Khuyển Nhung chém chết. Quân Khuyển Nhung vào kinh thành đốt phá. U Vương hoảng sợ, vội sai đưa Bao Tự và Bá Phục ra cửa sau chạy trốn, lúc đó chỉ có Trịnh Bá Hữu theo hầu.
Trịnh Bá Hữu sai đốt lửa, thấy lửa cháy ngụt trời, vẫn không có quân chư hầu nào đến cứu. U Vương và Bao Tự nhìn nhau khóc lóc.
Trịnh Bá Hữu lại sai đốt lửa ở Ly sơn, rồi cầm giáo đi trước mở đường cho U Vương và Bao Tự đi theo. Trịnh Bá Hữu tả xung hữu đột giết được nhiều quân Khuyển Nhung, nhưng cuối cùng không địch nổi và bị hàng chục mũi tên nhằm trúng người.
Vua nước Khuyển Nhung bắt được U Vương và Bao Tự, liền giết chêt U Vương và Bá Phục, rồi mang Bao Tự đi theo.


 
6. Chân Thị

Chính là Kiên thị, vì kiêng tên Tôn Kiên (Tam quốc) nên người Ngô mới đọc thành Chân(có sách chép là Nhân). Kiên thị (chưa rõ tên thật) là vợ của Viên Hy (con thứ ba của Viên Thiệu), sau lấy Tào Phi (con Tào Tháo) sinh ra Tào Duệ(tức Ngụy Minh Đế) và Đông Hương công chúa. Hồi Tào Tháo đánh Ký Châu, Tào Phi, con cả của Tào Tháo đem quân tùy tùng đến thẳng dinh Viên Thiệu (Thiệu lúc này đã chết) vào tới trong, thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc, toan rút gươm chém, bỗng thấy có vệt gì loá mắt, bèn dừng lại hỏi:
- Các người là ai?
Một người thưa:
- Thiếp họ Lưu, là vợ của Viên Thiệu, còn đây là Chân thị, con dâu thứ ba của thiếp, vì Viên Hy, chồng nó đi giữ đất U Châu, xa quá nên nó mới ở nhà.
Tào Phi kéo người phụ nữ đó lại gần, thấy tuy đầu bù mặt nhọ, nhưng là một trang quốc sắc, bèn nói:
- Tôi là con cả của Tào thừa tướng, tôi sẽ bảo đảm cho gia đình yên ổn.
Tới lúc Tháo biết chuyện gọi Phi ra quở trách vì không theo đúng quân lệnh, Lưu thị quỳ xuống thưa:
- Nếu không có thế tử thì mẹ con thiếp không có đến lúc này, thiếp xin dâng Chân thị để hầu hạ.
Tháo sai gọi ra, Chân thị ra quỳ lậy chào, Tháo nhình dung nhan, cử chỉ, rồi ôn tồn nói:
- Được, người ấy đáng là con dâu họ Tào.
Có tài liệu chép: Tào Tháo đánh Ký Châu, bắt được mấy người trong gia đình Viên Thiệu - trong đó có Chân thị (vợ Viên Hy, con dâu thứ ba của Viên Thiệu) rất đẹp. Tào Thực, em của Tào Phi xin bố cho mình lấy Chân thị, nhưng Tháo lại bảo Phi cưới làm vợ.
Chân thị lấy Tào Phi, sinh được một người con, khi phi làm vua nước Ngụy, lập Chân thị làm Hoàng hậu. Sau đó Phi lại lấy thêm quý phi họ Quách, Chân thị bị lạnh nhạt dần. Tào Thực rất yêu Chân thị, nhưng không làm gì được. Việc này làm cho Tào Phi dần dần ghen ghét Thực, định giết hại. Một lần, Phi thấy Thực đến bèn nói:
- Ta nghe ngươi có tài đi bảy bước làm xong một bài thơ. Trên tường có bức tranh "Khiên Ngưu và Chức nữ", ngươi hãy đi bảy bước và làm bài thơ. Nhưng cấm không được dùng hai chữ "Đầu Ngưu", không xong ta sẽ chém.
Thực làm đúng như lời, Phi lại nói:
- Bảy bước xong một bài thơ cũng chưa giỏi. Vậy ta ra một đề nữa, phải ứng khẩu làm ngay, không xong ta sẽ giết.
Nói rôi ra đầu đề "dây đậu nấu hạt đậu". Phi vừa nói xong thì Tào Thực đọc luôn:
Chử đậu nhiên cơ đậu

Đậu tại phủ trung khấp

Đồng thị nhất căn sinh

Tương nhiên hà thái cấp.

Tạm dịch:
Dây đậu nấu hạt đậu

Hạt đậu trong nồi khóc

Cùng một gốc sinh ra

Thiêu nhau sao quá gấp

Ngoài cái tài xuất khẩu thành chương, còn có ý anh em một nhà làm gì mà nỡ hại nhau quá quắt đến thế.
Tào Phi nghe xong, ôm lấy Tào Thực khóc mà xin lỗi. Từ đó anh em trong nhà yên ổn, bèn phong cho Thực làm Trần Vương ra ở đất Trần.
Từ đó Chân thị và Thực cũng ít gặp nhau. Khi quý phi họ Quách được Phi chiều, bèn lập kế hãm hại Chân thị. Quách quý phi sai bọn hoạn quan đẽo một chiếc tượng gỗ, ngầm chôn trong phòng Chân hậu, rồi vu đồn rằng Hoàng hậu định ám hại Hoàng đế. Phi sai người khám cung Hoàng hậu, quả nhiên đào được tượng gỗ, cho là Chân thị thực tâm hại mình, bèn bắt thắt cổ chết.
Cách đó ít lâu, Tào Thực từ đất Trần về triều, qua sông Lạc, (nới có truyền rằng thuở xưa con gái vua Phục Hy là Mật Phi chết đuối tai đây, hoá thành nữ thần sông Lạc), đêm nằm mơ thấy Chân thị ở đây. Sáng ra viết bài phú đề là "Găp nàng Chân" (Cảm Chân phú). Nhưng sau này Ngụy Minh Đế (tức Tào Duệ, con của Phi và Chân thị) đổi tên gọi thành "Phú thần sông Lạc" (Lạc thần phú).
Đời sau, mỗi khi nhắc đến sắc đẹp kiều diễm, hấp dẫn của Chân Hậu, người ta thường mượn những đoạn miêu tả dung quang của bài "Gặp nàng Chân" (tức bài Phú thần sông Lạc). Sau đây là mấy dòng: "Hình nàng bay bổng tựa như chim hồng, uyển chuyển như rồng lượn, rờ rỡ thu cúc, xanh tươi xuân thông, mơ màng như dải mây lướt qua ánh trăng. Bồng bềnh như hoa tuyết trong làn gió. Từ xa mà nhìn, trắng mịn như nắng sớm khi mặt trời lên; lại gần mà ngắm, chói ngời tựa phù dung đu đưa sóng biếc. Không mập không gầy, chẳng lùn chẳng cao, vai tựa vòng cung, lưng như lụa nõn. Thon thon cổ gáy. mịn màng màu da. Không cần thoa xuyến, không cần hương thơm. Tóc mây óng ả, mày liễu đẹp dài, ngoài hồng môi đỏ, trong mịn răng ngà..."

Chân hậu vốn là người giỏi thơ văn từ năm lên chín, sau đây là bài:
"Đường thuợng hành"
Bồ sinh ngã trì trung

Kỳ diệp hà ly ly

Bàng năng hành nhân nghĩa

Mạc nhược thiếp tự tri

Chúng khẩu thuớc hoàng kim

Sử quân sinh biệt ly

Niệm quân khứ ngã thì

Độc sầu thượng khổ bi

Tưởng kiến quân nhan sắc

Cảm kết thương tâm tỳ

Niệm quân thường khả bi

Dạ dạ bất năng mị

Mạc dĩ hào hiền cố

Khí quyên tố sở ái

Mạc dĩ ngư nhục tiện

Khí quyên tông dữ phỉ

Mạc dĩ ma đường tiện

Khí quyên gian dữ khoái

Xuất diệc phục khổ sầu

Biên địa đa bi phong

Thụ mộc hà du du

Tòng quân trí độc lạc

Diên niên thọ thiên thu

Tạm dịch:
Cỏ bồ mọc trong đầm

Lá ấy sao xen đây

Ví có làm nhân nghĩa

Không bằng thiếp tự hay

Miệng người cháy sắt thép

Khiến chàng xa chân mây

Nhớ khi chàng ly biệt

Một mình oán hận đầy

Hình dáng chàng tưởng đến

Lòng dạ trĩu đắng cay

Nhớ chàng luôn buồn thương

Giấc ngủ đêm không đến

Đừng vì chuyện tài hoa

Quên thứ mình quý mến

Đừng vì thịt cá rẻ

Mà quên hành với tỏi

Đừng vì đay tơ mềm

Mà quên tranh với cói

Bước ra lại khổ sầu

Bước vào lại khổ sầu
Biên ải nhiều gió buốt
Cỏ cây sao rầu rầu
Đi lính mà vui được
Tuổi thọ dài ngàn thâu
 
7. Chị em nhà Phi Yến

Hoàng hậu họ Triệu người nhỏ nhắn, eo lưng xinh, da dẻ mịn màng, dáng đi uyển chuyển như người cầm hoa rung rinh, không ai bắt chước được. Khi ở nhà tên là Phi Yến. Sau khi tiến cung, Phi Yến đưa cả em theo. Hán Thành đế rất mê cô em gái, phong cho chức Chiêu Nghi. Chiêu Nghi nói cười duyên dáng, thân thể khêu gợi. Hai chị em xinh đẹp át cả năm cung sáu viện.

Nhưng từ khi Chiêu Nghi vào cung, nhà vua cũng lơ là dần Phi Yến. Chiêu Nghi ở cung Tây, thái hậu ở cung giữa, hoàng hậu họ Triệu ở cung Đông. Phi Yến muốn có con trai sớm để củng cố địa vị, nên thuờng tìm cách ngắm những chàng trai trẻ (cho nằm sấp vào đáy hầm xe) và để giao hoan.


Một hôm, Thành Đế cùng ba bốn người đến cung Đông, gặp lúc Phi Yến đang ngủ với trai, không biết vua tới. Tả hữu vào báo, Phi Yến hoảng hốt ra đón, đầu tóc rối bời, xiêm y xộc xệch, nói năng luống cuống, vua đã hơi ngờ, ngồi một lát, lai thấy trong vách có tiếng ho của đàn ông, nhà vua bèn đi ra. Từ đó, vua có ý diệt hậu, nhưng vì nể em gái là Chiêu Nghi, nên chưa động tĩnh.


Một hôm, đang uống rượu với Chiêu Nghi, vua chợt sắn tay áo nhìn thẳng vào mắt Chiêu Nghi, vẻ vô cùng giận dữ. Chiêu Nghi vội vàng đứng dậy, quỳ xuống đất, giọng run rẩy:

- Thần thiếp là một đứa con gái nghèo hèn, được đưa vào hầu sai nơi cung cấm, không ngờ được Thánh thuợng rủ lòng thương, coi vượt mọi người, nên bị nhiều điều chê bai. Lại thêm thần thiếp vốn tính xô bồ, không biết giữ gìn ý tứ, xúc phạm thiên uy. Nay xin sớm ban cho thiếp tội chết để nguôi cơn giận bực.
Nói rồi nước mắt chan hoà. Vua kéo Chiêu Nghi lên và bảo:
- Khanh vào ngồi lại chỗ cũ, trẫm nói cho nghe. Khanh không có lỗi gì, nhưng chị gái của khanh thì ta muốn bêu đầu, chặt cụt chân tay, quẳng vào vũng lầy cho hả ý ta.
Chiêu Nghi hỏi:
- Duyên cớ ra sao?
Nhà vua bèn kể chuyện ở cung Đông bữa trước. Chiêu Nghi bèn thưa:
- Thần thiếp nhờ có Hoàng hậu mà được vào cung. Nay hậu chết thì thiếp sống sao được? Hơn nữa chưa có chứng cớ gì mà giết hại Hoàng hậu, thiên hạ sẽ dị nghị, thần thiếp sẽ chịu mọi thứ búa rìu.
tiếp đó khóc lóc vật vã, lăn mình trên mặt đất, Thành đế hoảng hốt, vội vàng ôm Chiêu Nghi lên rồi nói:
- Ta còn vì khanh nên chưa muốn trừ hậu, do đó nói mà biết, sao khanh tự làm khổ thân như vậy.
Lần sau, Chiêu Nghi mới chịu ngồi. Rồi cho người dò xét xem kẻ nào hôm trước đã ở trong cung Phi Yến. Kết quả phát hiện là con trai Túc Vệ Trần Sùng. Vua sai người tới nhà giết gã trai đó, và cách chức Trần Sùng.
Phi Yến buồn rầu, viết bài thơ, hiện còn mấy câu sau:

Lương phong hề thiên vẫn sương

Hoài quân tử hề diểu nan vương

Cảm dư tâm hề đa khái khang

Tạm dịch:
Gió mát nổi chừ trời rơi sương

Nhớ ai đó chừ bao vấn vương

Não lòng nhau chừ nhiều thê lương


Chiêu Nghi đến cung Phi Yến kể những lời nhà vua nói về Phi Yến rồi hỏi:

- Chị có nhớ ngày trước nhà ta nghèo hèn, cả hai chị em cùng đan dép cỏ với cô gái láng giềng, đem ra chợ bán lấy tiền đong gạo. Gặp bữa gió bão không sao nhóm được bếp cơm, đành chịu đói, chịu rét, hai chị em ôm nhau khóc suốt đêm. Nay may được giàu sang, không ai hơn nổi chị em mình, mà sao chị cứ chuốc lấy vạ vào thân như vậy? Ví như chị làm như thế, lỡ ra Thánh thượng nổi giận, thì ai cứu cho, rồi lại bị thiên hạ chê cười. Bây giờ con em, em cố dàn xếp, lỡ như em chết, thì chị nhờ cậy ai được?

Rồi nước mắt dàn dụa, Phi Yến cũng khóc. Từ đó nhà vua không đến cung đông nữa, người duy nhất chỉ yêu quý có Chiêu Nghi.

Khi Chiêu Nghi sắp tắm, vua tới chỗ kín để nhin. Thị nữ vào bảo, Chiêu Nghi vội vàng lui vào bóng tối. Vua nhìn theo, như mê mẩn. Bữa khác, Chiêu Nghi lại tắm. Vua ra lệnh cho các nàng hầu không được báo tin. Hôm ấy, vua tha hồ nhìn ngắm, Chiêu Nghi mình trần ngọc ngồi trong chậu tắm không khác gì người ngồi giữa dòng suối trong. Lòng dạ vua mơ màng, nói với người hầu:
- Một vua không thể có hai Hoàng hậu, ta sẽ phong cho Chiêu Nghi làm Hoàng hậu.
Triệu Phi Yến biết chuyện nhà vua nhìn trộm Chiêu Nghi tắm, rồi càng say mê hơn, bèn cho cung nữ sửa soạn nước tắm, mời nhà vua tới xem. NHà vua cũng tới - Phi Yến cởi bỏ áo quần, bước vào chậu tắm, rồi lấy mấy giọt nước vẩy vào nhà vua. Phi Yến càng lả lơi xuống xã, thì Thành đế càng chán, nửa chừng bỏ ra.
Phi Yến khóc nói:
- Vua chỉ say mê mỗi một người còn biết sao được?
Một bữa, nhân ngày sinh nhật của Hoàng hậu, Chiêu Nghi tới mừng, nhà vua cũng đi. Rượu ngà ngà, Phi Yến muốn khơi gợi, bèn khóc. Vua hỏi:
- Người khác uống rượu thì vui, sao khanh lại buồn một mình, chả nhẽ còn gì chưa vừa ý ư?
Phi Yến nói:
- Trước đây còn ở hậu cung, Thánh thượng luôn tới chỗ thần thiếp...Sau được hầu cận, có lúc ái ân, thường làm nhơ dây ngự y, thần thiếp muốn chùi đi, thì Thánh thuợng bảo "cứ để thế làm vết ghi nhớ". Có lần Thánh thượng ôm thần thiếp hôn hít, vết răng cắn của Thánh thượng vẫn còn nơi cổ thần thiếp. Bây giờ nhớ lại những chuyện đó, bất chợt ứa nước mắt.

Nhà vua mủi lòng, nhớ lại những lúc ái ân với Phi Yến khi xưa, thở dài nhè nhẹ... Chiêu Nghi biết ý vua muốn ở lại cung hoàng hậu, bèn xin phép rút lui trước. Đến chiều nhà vua mới rời khỏi cung Đông.

Hoàng hậu Phi Yến thấy nhà vua lại đằm thắm với mình, bèn nảy ra mẹo có mang, dâng thư báo tin mừng. Thành đế vui mừng vì sắp có con nối dõi, bèn dặn dò Phi Yến giữ gìn sức khoẻ, tránh những thức ăn thức uống có ảnh hưởng đến thai. Các cung đều luôn luôn tới thăm. Phi Yến sợ nhà vua tới rồi phát hiện việc dối trá, bèn bàn với thị vệ Vương Thịnh. Thịnh thưa:
- Hoàng hậu đang có thai không muốn "giao hoan" nhiều e động thai.
Phi Yến liền bảo với Vương Thịnh đem ý ấy tâu với Thành đế. Vua chấp thuận, chỉ cho người hỏi han chuyển quà. Sắp tới tháng sinh, nhà vua chuẩn bị làm leữe đón mừng. Phi Yến liền bàn với Vương Thịnh:
- Ta thấy cha con ngươi vào cung cấm, đều được giàu sang. Chuyện có mang là ta bịa đặt ra, nay sắp tới kỳ ở cữ, ngươi hãy vì ta nghĩ kế.
Thịnh bèn ra ngoài thành tìm xem có nhà nào mới đẻ con thì đem vào cung, nhưng phải hết sức kín đáo. Phi Yến nghe theo.
Mấy ngày, Vương Thịnh ra ngoài thành, mua một đứa trẻ sơ sinh cho vào túi, ngầm đưa vào trong cung, nhưng khi tới nơi thì mở ra đứa bé đã chết rồi. Thịnh bảo kín quá, lần sau sẽ cho vào một chỗ trống cho nó thở.

Vương Thịnh lại ra ngoài thành mua đứa trẻ sơ sinh khác, đặt vào trong chiếc hộp có khoan lỗ cho gió lùa vào, nhưng khi tới cửa cung thì đứa bé lại khóc thét lên, Thịnh phải lùi xa - Lát sau lại đưa đứa bé vào, đứa bé lại khóc thét như trước, kết quả Thịnh không sao đưa vào được. Vì từ trước nhà vua đã nghe thấy tiếng ho trong cung Phi Yến, nên ra lệnh canh phòng cẩn mật hơn.


Phi Yến sợ quá, đã tới tháng thứ mười hai mà Hoàng hậu chưa tới kỳ "trở dạ". Nhà vua có vẻ hơei ngờ. Cuối cùng Phi Yến cho người tâu lên vua rằng: "Thần thiếp nằm mơ thấy con rồng nằm, nên không may dòng dõi thánh nhà (con vua) không nuôi được". Thành đế ngậm ngùi mãi.

Chiêu Nghi biết chuyện bịa đặt, cho người tới cung Phi Yến ngầm báo: "Việc này sớm muộn cũng lộ ra, em chẳng hiểu số mệnh của chị rồi thế nào đây?".
Dạo ấy có một cung nữ họ Chu ở phòng trà sinh con, hoạn quan Lý thủ Quang tâu chuyện ấy lên vua. Chiêu Nghi cũng ngồi đó, bèn giận bực nói:
- Trước đây Thánh thượng nói là không tới trong cung. Vậy bây giờ cung nữ họ Chu làm sao có con được?

Nói rồi vội ngã ra thềm nhà. Vua ôm Chiêu Nghi lên. Chiêu Nghi sai viên hoạn quan giữ cung cấm là Sái Quy tới cung họ Chu đem đứa con mới sinh giết đi. Rồi lại hạ lệnh giết những người nào đang có thai.


Sức khoẻ nhà vua ngày một kém, không sao thoả mãn được Chiêu Nghi. Có đạo sĩ bày cách luyện thuốc. Thuốc luyện rồi, mỗi tối nhà vua uống một viên, lại có sức ân ái với Chiêu Nghi. Một hôm ở điện Đại Khánh, Chiêu Nghi say rượu dâng luôn mười viên thuốc cho Thánh đế. Chập tối vua vời Chiêu Nghi vào, tâm trạng rất vui, đôi mắt tình tứ, nhưng tới nửa đêm mê mệt, không sao giao hoan được. Chiêu Nghi vội trở dậy cầm nến soi thì vua đã tắt thở.


Thái hậu nghe tin, cho người tới cung Chiêu Nghi xét hỏi. Chiêu Nghi bèn tự sát.


 
8. Triệu Cơ


Triệu Cơ người Hàm Đan nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là mẹ của Tần Thủy Hoàng. Triệu Cơ đóng vai trò quan trọng trong âm mưu đưa Tần Thủy Hoàng lên ngôi của Lã Bất Vi.

Triệu Cơ vốn là thiếp của Lã Bất Vi, người tuyệt đẹp, múa giỏi đàn hay. Khi đó Tần công tử, Tử Sở, làm con tin ở nước Triệu nghèo khó khốn cung. Lã Bất Vi ra tay cứu giúp, xin Hoa Dương phu nhân nhận Tử Sở làm con nuôi, trở thành người thừa tử của thái tử An Quốc Quân.


Một lần Tử Sở sang nhà Bất Vi, nhìn thấy Triệu Cơ đem lòng say mê. Lã Bất Vi đem nàng dâng cho Tử Sở, khi đó Triệu Cơ đang mang thai. Tử Sở bèn lập nàng làm phu nhân, đến kỳ Triệu Cơ sinh con đặt là Chính.


Năm thứ 50, đời vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan rất gấp. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Tử Sở cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát về Tần. Triệu muốn giết Triệu Cơ và Chính, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống.


Năm thứ năm 56, Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Sau thời gian khốn khó ở Triệu, Triệu Cơ cùng Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất, thái tử Tử Sở lên thay, tức là Trang Tương Vương.


Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là Chính lên ngôi Tần Vương, tức Tần Thủy Hoàng, Triệu Cơ trở thành Thái hậu. Khi Tần Vương còn nhỏ tuổi, thái hậu Triệu Cơ thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng đã lớn, Lã Bất Vi sợ lộ sẽ mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Lã Bất Vi sai Lao Ái làm trò vui, lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi. Thái hậu Triệu Cơ nghe thấy muốn được Lao Ái cho riêng mình, Lã Bất Vi bèn cho Lao Ái giả làm hoạn quan rồi đem dâng cho thái hậu. Từ đó Triệu Cơ cùng Lao Ái thông dâm, sinh được hai con. Lao Ái đem hai đứa con đi dấu, định lập mưu đợi Tần Thủy Hoàng chết thì lập con hắn làm vua.


Năm thứ 9 đời Thủy Hoàng, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan và thường thông dâm với thái hậu. Tần Thủy Hoàng liền giao cho pháp đình xét, biết rõ sự tình. Tháng 9 năm đó Tần Thủy Hoàng giết cả ba họ nhà Lao Ái. Lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu Triệu Cơ sang đất Ung. Tháng 10 năm thứ 10, sau khi cách chức Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng mới sang Ung đón thái hậu Triệu Cơ về Hàm Dương.


Năm thứ 19 đời Thủy Hoàng, thái hậu Triệu Cơ mất, tên thụy là Đế thái hậu, chôn một chỗ với Trang Tương Vương ở Chỉ Dương.


 
9. Võ Tắc Thiên


Võ Tắc Thiên (武則天) (625 - 16 tháng 12, 705), tên riêng Võ Chiếu (武曌), là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế ((聖神皇帝) từ 690 đến 705. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.

Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水), thuộc quận Tinh Châu (幷州) (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu (吕梁地區) nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (楊氏) (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.


Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân (才人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (媚), có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương. (武媚娘).


Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, người họ Vương (王), đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một người thiếp họ Tiêu (蕭) và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi (昭儀), mức cao nhất trong chín cấp bậc của những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.


Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi (宸妃), ở thứ bậc cao hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ Tiêu một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.


Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi (上官儀) và Lý Trung (李忠) vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu (曌), cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" 明 ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" 空 ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" (皇帝) vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.


Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi 張易之, và Trương Xương Tông 張昌宗 ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế (天冊金輪聖神皇帝), một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.


Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư (武三思), con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.


Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.


Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, và cai trị bằng cách điều khiển từ phía hậu trường.


Một tác giả nổi tiếng người Pháp là Shan Sa, sinh tại Bắc Kinh, đã viết một cuốn tiểu thuyết mang tính tiểu sử tên là "Impératrice" (Hoàng hậu theo tiếng Pháp) dựa trên cuộc đời của Võ hậu.


 
10. Lữ trĩ

Người đàn bà biến ái phi của chồng thành 'con người lợn'


Lữ Hậu thời Tây Hán được coi là một trong những người phụ nữ tàn ác nhất trong lịch sử Trung Hoa, bà đã ra tay giết chết tất cả những người dám cản đường mình, thậm chí là hành hạ ái phi của chồng mình (Hán Cao Tổ Lưu Bang) trở thành một kẻ tàn phế chỉ vì ghen tức.


20110411165839_z2.jpg


Hình tượng Lữ Hậu được xây dựng trong bộ phim Mỹ nhân tâm kế (Ảnh: greatload.pixnet.net)

Lưu Bang xuất thân là thường dân, thời trẻ từng làm đình trưởng, cha của Lữ Trí (sau là Lữ Hậu) có con mắt tinh tường, nhận thấy Lưu Bang có vẻ ngoài khác thường, bèn gả con gái cho ông. Lữ Trí đã phải chịu không ít khổ cực khi chồng gây dựng nhà Hán, Lưu Bang tranh giành thiên hạ với Hạng Vũ, Lữ Trí đã bị Hạng Vũ bắt làm con tin trong suốt 2 năm trời.

Tuy nhiên, đối với một người phụ nữ như Lữ Trí mà nói, điều đau khổ nhất chính là sau khi giành được thiên hạ, chồng bà lại đi ân sủng người phụ nữ khác và không đoái hoài tới mình nữa.


Vào những năm cuối đời, Lưu Bang đặc biệt yêu chiều Thích phu nhân, tới bất cứ đâu ông cũng dẫn Thích phu nhân đi theo, thậm chí ông còn dự định phế bỏ thái tử Lưu Doanh (con trai Lữ Hậu), để lập Lưu Như Ý (con trai Thích phu nhân) làm người thừa kế.


Sau đó vì bị các lão thần phản đối nên Lưu Bang mới từ bỏ ý định này. Tuy nhiên, Lữ Hậu vẫn luôn giữ mối thù trong lòng và thể hiện sự bất mãn đó sau khi chồng mất. Hán Cao Tổ qua đời, Lưu Doanh lập tức lên ngôi, lấy hiệu là Hán Huệ đế. Lữ Hậu nhìn thấy thời cơ đã chín muồi bèn ra tay trả thù.


Trước tiên, bà cho bắt ái phi của Hán Cao Tổ là Thích phu nhân, sau đó cắt tóc, dùng gông trói chặt chân tay và bắt Thích phu nhân phải kéo những tảng đá to như trâu ngựa. Thích phu nhân vừa lặng lẽ xay gạo vừa khẽ hát: “Con làm vương, mẹ làm tù nhân, ngày ngày xay gạo tới tối, gần kề với cái chết” (sau khi Lưu Bang quyết định giữ Lưu Doanh làm thái tử đã phong cho Như Ý làm Triệu vương).


Những câu hát của bà lập tức truyền tới tai Lữ Hậu, Lữ Hậu nghe xong rất tức giận bèn nghĩ Thích phu nhân muốn lợi dụng con trai để báo thù mình, chi bằng ra tay trước. Vì vậy, Lữ Hậu đã lừa Như Ý khi đó mới 12 tuổi tới Tràng An rồi hạ độc.


Sau đó, Lữ Hậu đã dẫn theo hai tên tù nhân hung dữ vào trong đại lao và nói với Thích phu nhân rằng: “Con trai ngươi đã bị Mông Thiên Vương triệu về âm gian rồi”. Thích phu nhân nghe xong bèn khóc lớn: “Ngươi đã giết hại con trai ta thì giết luôn ta đi, ta và con trai ở âm phủ sẽ biến thành ma để báo thù ngươi”.


Lữ Hậu quay sang nói với tên tù nhân đi cùng: “Tùy ngươi giải quyết!” rồi giao Thích phu nhân cho hắn. Thích phu nhân đã bị tra tấn một cách dã man như bị chặt chân tay, móc mắt, ép uống thuốc độc, đổ lưu huỳnh vào tai…


Khi tỉnh lại, cơ thể tàn phế, đầy thương tích của bà còn bị người ta vứt vào chuồng lợn. Mấy hôm sau, Lữ Hậu gọi Huệ đế tới và nói: “Con nhìn chuồng lợn kìa, trong đó có một con người lợn rất thú vị đấy!”. Huệ đế thấy con người lợn bên trong chính là Thích phu nhân bèn giật mình thảng thốt rồi đổ bệnh. Không lâu sau, bất lực trước sự độc ác của mẹ, Hán Huệ đế buồn rầu sinh bệnh mà qua đời khi mới 23 tuổi.


Sau khi Hán Huệ đế băng hà, thiên hạ nhà Hán rơi vào tay Lữ Hậu, bà ta đã phong tước, phong hầu cho con cháu nhà họ Lữ, đối với những người không nghe lời, Lữ Hậu giết không tha, số người bị Lữ Hậu giết nhiều tới nỗi chính bà ta cũng không nhớ nổi. Năm 180 TCN, Lữ Hậu chết, thiên hạ và thuộc về tay Lưu Hằng, con trai thứ 4 của Lưu Bang.

 
11. Vương Chí
Nguồn : Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Hoàng hậu Vương Chí (chữ Hán: 王娡; ?-126 TCN) là vợ vua Hán Cảnh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà là mẹ của vua Hán Vũ Đế nổi tiếng trong lịch sử.

Thân thế

Cha Vương Chí là Vương Trọng, người thôn Hòe huyện Phú Phong (Thiểm Tây). Mẹ bà là Tạng Nhi, cháu của Yên vương Tạng Đồ thời Hán Sở.
Tạng Nhi kết hôn với Vương Trọng sinh được 1 trai 2 gái. Vương Chí là con gái lớn. Vương Trọng mất, Tạng Nhi lại tái giá với họ Điền ở Trường Lăng (Thiểm Tây), sinh ra hai con trai là Điền Phấn và Điền Thắng.

Bỏ chồng cũ

Vương Chí có nhan sắc, thời Hán Văn Đế, bà được gả cho Kim Vương Tôn ở gần nhà, sinh ra 1 người con gái tên là Kim Tục.
Tạng Nhi vốn xuất thân trong nhà quyền quý, tuy gia thế sa sút nhưng không muốn con gái mình làm vợ người bình dân. Theo lời thày bói đoán về hậu vận phú quý của Vương Chí, Tạng Nhi gọi con gái về, yêu cầu ly hôn với Kim Vương Tôn. Nhà họ Kim phản đối không chịu làm thủ tục. Tạng Nhi bèn giữ con gái ở nhà, âm thầm giấu cuộc hôn nhân này và cho con nhập cung hầu hạ thái tử Lưu Khải.

Giành ngôi hoàng hậu

Thái tử Khải gặp mặt Vương Chí ưa ngay, lập tức phong bà làm phu nhân. Bà sinh liên tiếp 3 con gái và 1 con trai là Lưu Triệt năm 156 TCN.
Năm 157 TCN, Hán Văn Đế mất, thái tử Khải lên ngôi, tức là Hán Cảnh Đế. Cảnh Đế lập cháu của bà nội Bạc thái hậu là Bạc phu nhân lên làm hoàng hậu. Nhưng vì Bạc hoàng hậu không có con nên Cảnh Đế không yêu. Năm 155 TCN, Bạc thái hậu mất, Cảnh Đế bèn phế Bạc hoàng hậu.
Năm 153 TCN, Cảnh Đế lập con lớn là Lưu Vinh, con của Túc cơ, làm thái tử. Lưu Triệt con trai Vương Chí chỉ là con thứ 11 của Cảnh Đế, được phong làm Giao Đông vương.
Năm 150 TCN, Quán Đào công chúa (chị Cảnh Đế) muốn gả con gái cho thái tử Lưu Vinh, nhưng mẹ Vinh là Túc cơ không thích tác phong của Quán Đào công chúa nên không bằng lòng. Điều đó khiến cả Quán Đào công chúa và Cảnh Đế đều giận.
Vương Chí nắm lấy cơ hội này bèn nhận lời thông gia với Quán Đào công chúa. Quán Đào công chúa vì vậy thường khen Lưu Triệt trước mặt Cảnh Đế, do đó Cảnh Đế thêm yêu quý Lưu Triệt.
Vương Chí nhân đó bèn dùng xảo thuật lui trước tiến sau, bà giục các đại thần hãy lập Túc cơ làm hoàng hậu. Đại Hành nghe theo, bèn kiến nghị điều này lên Cảnh Đế. Cảnh Đế đang không vừa lòng Túc cơ, cho rằng điều Đại Hành nói là do Túc cơ xui, nên sai xử tử luôn Đại Hành. Đồng thời, Cảnh Đế xuống chiếu phế truất thái tử Lưu Vinh, giáng làm Lâm Giang vương. Túc cơ phẫn uất qua đời.
Cảnh Đế lập Vương Chí làm hoàng hậu và Lưu Triệt làm thái tử. Ba con gái của bà được phong làm Bình Dương công chúa, Nam Cung công chúa và Long Lự công chúa.

Cả nhà hiển quý

Năm 141 TCN, Cảnh Đế mất, Lưu Triệt lên nối ngôi, tức là Hán Vũ Đế. Vương Chí được tôn là thái hậu.
Mẹ bà là Tạng Nhi – bà ngoại của Vũ Đế - cũng được phong làm Bình Nguyên quân; các em cùng mẹ khác cha của Vương Chí là Điền Phấn được phong làm Vũ An hầu, Điền Thắng làm Chu Dương hầu. Tạng Nhi rất mãn nguyện.
Một người thị thần nói với Hán Vũ Đế rằng Vương thái hậu còn 1 người con gái với nhà họ Kim là Kim Tục ở Trường Lăng. Vũ Đế bèn đánh xe thân hành đến Trường Lăng rước chị, cấp 100 mẫu ruộng và phong hiệu Tu Thành quân.
Năm 126 TCN, Vương thái hậu qua đời, không rõ bà bao nhiêu tuổi.

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
12. Đặng Tuy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

https://vi.wikipedia.org/wiki/Đặng_Tuy#p-search

Đặng Tuy (chữ Hán: 鄧綏; 81-121) là vợ vua Hán Hòa Đế trong lịch sử Trung Quốc, quê ở Tân Dã, quận Nam Dương. Bà đã điều hành triều đình nhà Hán dưới 2 triều vua và được đánh giá là người uyên bác, lễ độ.

Thân thế

Đặng Tuy xuất thân trong gia đình quyền thế. Ông nội bà là Đặng Vũ – công thần khai quốc nhà Đông Hán, được phong làm Cao Mật hầu. Cha bà là Đặng Huấn được phong làm Hiệu úy. Mẹ bà là Âm thị, cháu hoàng hậu Âm Lệ Hoa - vợ Hán Quang Vũ Đế.
Tuổi trẻ

Trong gia đình quyền thế, Đặng Tuy được dạy dỗ chu đáo từ nhỏ. Bà tỏ ra thông minh hơn người. Từ năm 6 tuổi bà đã học sách sử và thi thư, năm 12 tuổi đã thuộc Kinh ThiLuận Ngữ. Khi nghe các anh đọc sách, bà thường đến gần đặt câu hỏi.
Thấy thiên hướng con gái thiên về sách vở, ít chú ý đến việc nữ công, mẹ bà khuyên nên học nữ công, vì vậy Đặng Tuy phải đọc sách vào buổi tối.
Vào cung

Năm 93, Đặng Tuy lên 13 tuổi, được Hán Hòa Đế chọn vào cung, nhưng đúng lúc cha bà qua đời. Bà ở nhà chịu tang 3 năm. Năm 95, sau khi mãn tang, bà lại trúng tuyển vào cung vua lần nữa.
Khi Đặng Tuy vào cung, Hòa Đế đang sủng ái Âm quý nhân là cháu của Âm Thức – anh hoàng hậu Âm Lệ Hoa của Quang Vũ Đế - cũng là người có nhan sắc và học vấn. Năm 93, Hòa Đế phong Âm quý nhân là hoàng hậu. Từ khi được phong, Âm hoàng hậu tỏ ra kiêu căng[4].
Tuy nhiên chỉ một thời gian ngắn sau đó Hòa Đế phát hiện ra Đặng Tuy và rất yêu quý bà, bèn phong làm quý nhân, cho vào cung Gia Đức. Bị Âm hoàng hậu ghen ghét, Đặng Tuy vẫn không tỏ thái độ thù địch, tuân theo đúng lễ pháp, do đó các cung nhân dưới quyền và Hòa Đế đều yêu quý bà hơn.
Sự đố kỵ của Âm hậu

Có lần bà bị ốm, theo quy định chỉ có các hoạn quan và những người hầu hạ được ra vào chăm sóc, nhưng Hòa Đế đã cho gia đình bà vào thăm để bà mau lành bệnh. Tuy nhiên Đặng Tuy lại từ chối đặc ân đó với lý do cần giữ nghiêm phép tắc, khiến Hòa Đế càng khâm phục bà.
Cả Âm hậu và Đặng Tuy đều chưa sinh con, Đặng Tuy hết sức giữ gìn để tránh sự thù ghét của hoàng hậu. Trong khi nhiều cung nhân trang điểm để cuốn hút vua thì bà vẫn ăn mặc giản dị và không trang điểm; nếu có chiếc áo nào hơi giống áo của Âm hậu là bà thay áo khác.
Năm 101, Hòa Đế lâm bệnh, ở trong cung Chương Đức, có ban lệnh: không ai được vào nếu không được gọi. Âm hoàng hậu thấy vua bệnh nặng bèn nói với mọi người rằng sau này vua chết, mình được đắc chí sẽ trả thù Đặng quý nhân.
Có cung nữ thương Đặng Tuy bèn đi báo. Bà lệnh cho cung nữ Triệu Ngọc chuẩn bị hương án để làm lễ rồi sẽ tự sát. Nhưng Triệu Ngọc nghĩ ra kế hoãn binh, bèn nói dối rằng bệnh của vua đã giảm, vì vậy bà bèn thôi tự vẫn. Cùng lúc đó có tin bệnh của Hòa Đế thuyên giảm đưa ra.
Sau đó Hòa Đế phát hiện Âm hoàng hậu nhiều năm dùng phù chú để hại Đặng Tuy, như bí mật nuôi một số độc trùng như rết, bọ cạp, nhện độc trong cung, mỗi ngày tự tay cho ăn để sau một thời gian có thể sai khiến những loài độc trùng đó. Hòa Đế bèn sai người điều tra. Năm 102, có người tố cáo Âm hoàng hậu bí mật nhờ Đặng Chu nuôi độc trùng để hại Đặng Tuy.
Việc đó vỡ lở, những người có liên quan đều bị tra khảo và chết trong ngục. Cha hoàng hậu là Âm Cương phải tự sát. Hòa Đế cho rằng Âm hậu thất đức bèn sai người đến cung Trường Thu, thu ấn hoàng hậu và đày vào Đồng cung là nơi giam giữ tội nhân. Vì việc bị phế, Âm hậu uất ức qua đời.
Năm 103, Hòa Đế chính thức phong bà làm hoàng hậu. Năm đó bà 23 tuổi.Hoàng hậu nhà Hán
Các quan lại địa phương cống tiến rất nhiều châu báu để mong vua để ý tới, Đặng hậu bèn đề nghị bãi bỏ lệnh tiến cống châu báu mà chỉ yêu cầu các quan cống một ít giấy mực. Hành động đó của bà được Hòa Đế khen là tiết kiệm.
Khi Hòa Đế tỏ ý muốn phong cho người nhà Đặng hậu giữ chức vụ lớn trong triều, bà từ chối mà chỉ đề nghị phong anh bà là Đặng Chất giữ chức võ quan hạng trung.
Thái hậu nhà Hán

Năm 105, Hòa Đế qua đời khi mới 27 tuổi. Việc lựa chọn người kế vị do Đặng hậu quyết định. Khi mất, vua còn 2 con trai. Con lớn là Lưu Thắng và con nhỏ là Lưu Long, đều là con của các cung nhân. Nhưng Lưu Thắng lên 8 tuổi bị tật nguyền không thể làm vua, Lưu Long thì mới 100 ngày tuổi đang gửi nuôi ở ngoài. Bà vội sai người đón Lưu Long về lập lên ngôi, tức là Hán Thương Đế. Đặng thái hậu giữ quyền chấp chính.
Bà phong cho Lưu Thắng làm Bình Nguyên vương. Để nắm vững quyền hành, bà bắt đầu dùng ngoại thích, phong cho anh là Đặng Chất làm Xa kỵ tướng quân, các em cũng được phong hầu; đồng thời bà vẫn trọng dụng các hoạn quan của Hòa Đế là Trịnh Chúng, Thái Luân.
Trong thời gian điều hành triều chính, bà hạ lệnh giảm tiếp mức cống tiến của các địa phương, giảm bớt chi tiêu trong cung, phóng thích cho nhiều cung nhân nô tỳ, cho họ về quê, lại miễn tô thuế cho những vùng bị thiên tai[5].
Hán Thương Đế chỉ làm vua được 8 tháng đã qua đời. Chỉ còn lại Lưu Thắng là con duy nhất của Hòa Đế, nhưng Đặng thái hậu e ngại vì trước đây bà đã không lập Thắng, nếu lúc đó lại lập có thể sau này Thắng sẽ trả thù bà, vì vậy bà cùng Đặng Chất quyết định lập người khác trong hoàng tộc là Lưu Hỗ - cháu gọi Hòa Đế bằng bác – lên ngôi, tức là Hán An Đế. Bà tiếp tục nắm quyền điều hành.
Đại thần Chu Chương không bằng với việc điều hành của họ Đặng, bèn am mưu làm chính biến, bắt Đặng Chất cùng Trịnh Chúng rồi sẽ bắt Đặng thái hậu. Nhưng việc đó bị phát hiện, Chương phải tự sát.
Từ đó, Đặng thái hậu tỏ ra cứng rắn hơn với những ai chống đối. Đỗ Căn dâng thư khuyên bà trả quyền bính cho hoàng đế, bà bèn ra lệnh chém tại cung điện rồi vứt ra ngoài thành. Không ngờ Đỗ Căn chưa chết hẳn, phải bỏ trốn mai danh làm tửu bảo, sau khi bà qua đời mới dám xuất hiện.
Sau đó cả chú thái hậu là Đặng Khang cũng khuyên bà nên từ bỏ bớt quyền hành nhưng bà thẳng thừng từ chối khiến Đặng Khang cáo bệnh không vào triều nữa. Đối với người trong họ, bà quản lý rất chặt chẽ. Dù nắm quyền trong triều nhưng bà vẫn hạn chế quyền hành của anh em mình.
Năm 108, bà tự đi thẩm tra án ở kinh đô và giải oan được cho nhiều người. Năm 110, bà ra lệnh tha những người cùng cánh với Âm hoàng hậu trước đây bị giam trong ngục khiến mọi người đều ca ngợi sự khoan thứ của bà[6].
Bà rất chú trọng việc học hành, cùng theo học sử sách với Ban Chiêu – em gái của nhà sử học Ban Cố. Bà coi Ban Chiêu như thày, học thêm cả thiên văn, số học. Bà còn mời những người tài giỏi vào cung chỉnh lý kinh sách và dạy các cung nữ. Bà được đánh giá là người đã làm hưng thịnh phái Kinh học.
Qua đời

Năm 121, vì lo lắng quá, Đặng Tuy lâm bệnh. Bà vẫn cố lâm triều. Tháng 3 năm đó, Đặng Tuy qua đời, thọ 41 tuổi. Bà cầm quyền trong 16 năm (105-121), tỏ ra là người cần cù tiết kiệm, quan tâm tới nhân dân.
Thấy An Đế lớn lên chỉ là vua tầm thường thích hưởng lạc, Đặng thái hậu từng có ý lập con Lưu Thắng (tức cháu nội Hòa Đế) là Lưu Khai kế vị, nên đã giữ Khai ở lại kinh đô. Điều đó khiến An Đế nảy sinh hiềm khích với Đặng thái hậu.
Đặng Tuy mất khi An Đế 28 tuổi. Các hoạn quan Giang Kinh, Lý Quốc đồng mưu với nhũ mẫu của vua là Vương Thánh vu cáo anh thái hậu là Đặng Chất và hoạn quan Thái Luân âm mưu làm phản, lại tố cáo rằng các em Đặng Tuy là Đặng Lý, Đặng Xương mưu phế An Đế để lập Bình Nguyên vương Lưu Khai. Lúc đó Đặng Lý, Đặng Xương đều đã chết, không thể khảo cứu việc này. Tuy nhiên An Đế vẫn tin lời Vương Thánh và Lý Quốc, bèn ra lệnh diệt họ Đặng. Đặng Chất và Đặng Tuân bị phế làm thường dân rồi bị buộc phải tự sát.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top