"Vợ nhặt" - khát khao hạnh phúc gia đình
Nếu đem triết lý: “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” vào trong văn học thì Kim Lân là trường hợp thuyết phục nhất và tiêu biểu hơn cả. Ông thuộc lớp nhà văn trước cách mạng tháng 8-1945. Điểm đặc biệt là ông sáng tạo và trình diện trên văn đàn rất ít nhưng các tác phẩm của ông ngay từ khi mới ra đời đã được đọc giả đón nhận bằng cả trái tim mình. Các tác phẩm của ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh tâm hồn người đọc lúc ấy, bây giờ và mãi mãi về sau một cách hoàn toàn thuyết phục. Một trong rất ít ỏi các tác phẩm ấy là “Vợ nhặt”. Câu chuyện viết về số phận người nông dân trước cách mạng tháng 8-1945. Họ phải sống trong cái đói quay quắt đến mức đe dọa cả mạng sống nhưng họ vẫn âm thầm mơ ước hạnh phúc riêng tư và trở nên nhân văn hơn, mạnh mẽ, cường tráng hơn bởi chính những ước mơ ấy.
Kim Lân là nhà văn của làng quê đậm đà bản sắc văn hóa Việt, với kiểu cư trú và sinh hoạt của cư dân nông nghiệp lúa nước. Ông là nhà văn của những đồng lúa xanh bát ngát bao quanh lỹ tre làng rì rào gió, ân cần ôm ấp nếp tranh nghèo đã thăm thẳm vết thời gian. Thế giới nghệ thuật của ông là đồng ruộng, thôn xóm với những người nông dân gần gũi, một lòng, một dạ thiết tha với xóm làng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. “Vợ nhặt” viết về những con người ở xóm ngụ cư nhưng chủ yếu xoay quanh một tình huống bất ngờ và cách xử lý nó của gia đình “anh cu Tràng” in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Câu chuyện thành công và đạt được nhiều giá trị nghệ thuật, hiện thực và nhân đạo là nhờ Kim Lân biết sáng tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn...
Nói đến tình huống là nhắc đến hoàn cảnh có vấn đề, nảy sinh mâu thuẫn, đặt con người phải đối diện và nhất thiết phải giải quyết nó. Mâu thuẫn và sự xung đột là cơ sở, là căn cứ, là nguyên liệu, là tín hiệu thẩm mỹ cấp một để các nhà văn xây đựng tình huống truyện. Cuộc sống đang yên ổn bỗng đâu cái đói ập đến xóm ngụ cư theo bước chân của đoàn người kiếm ăn. Cả thôn xóm xác xơ càng trở nên tiêu điều, xám xịt và ảm đạm. Mọi người chỉ lo làm thế nào để sáng mai thức dậy vẫn còn được nhìn thấy nắng lên, trời xanh và chim hót... và vững dạ rằng mình vẫn sống. Đó chính là tình huống chung của người dân xóm ngụ cư. Tình huống riêng là tuy Tràng cũng rơi vào tình huống chung như mọi người nhưng Tràng đã tìm cách chống đói và trả lời cho câu hỏi “làm sao để sống qua ngày mai” là lấy vợ, mang về cho gia đình thêm một miệng ăn. Đồng nghĩa với việc Tràng đã chống lại cơn đói lòng bằng cách tăng cơn đói bụng, nghĩa là kéo cái chết sẽ đến nhanh hơn. “Tràng lấy vợ giữa mùa đói rét, người chết như ngả rạ làm xôn xao cả xóm làng”.
Trước tình huống ấy, người dân xóm ngụ cư đã phản ứng một cách đa dạng, với nhiều chiều hướng trái ngược nhau: Có người thích thú cười lên rưng rức, có người mỉa mai, có người thông cảm mà rằng: “Trời đất này còn rước cái của nợ về, không biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không”? Lũ trẻ nheo nhóc, ủ rũ trong các xó xỉnh thì bỗng lên tiếng trọc gẹo “Trông vợ hài”. Tràng là con người xấu xí, quai hàm bạnh ra với ý nghĩ dữ tợn, con mắt tương phản với khuôn mặt cứ gà gà trong hoàng hôn không chịu mở to nhìn đời, nửa như thức, nửa như mơ... Đã thế anh lại là người có nét dở hơi, thỉnh thoảng cười một mình, lẩm bẩm nói ra những điều mình suy nghĩ. Tràng lại là người nghèo hèn, sống ở xóm ngụ cư trong cảnh mẹ goá con côi... Với những điều kiện ấy thì đời Tràng là một số không to tướng. Không nhà cửa, không công việc, không tiền tài, không “nhan sắc”... Trong suy nghĩ của mọi người, Tràng không thể lấy được vợ. Thế mà bỗng nhiên lại có vợ, đã thế lại không cần phải lễ lạp “Nay xuống mai lên đứt cỏ mòn đường” mà con gái theo về nhà, đúng là số đào hoa.
Xét cho cùng, Tràng cũng không có ý định lấy vợ, chỉ vui miệng hò lên mấy câu trong lúc làm việc cho đỡ mệt nhọc: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò thì lại đây đẩy xe bò với anh nì.” Vô tình, câu nói ấy lại trở thành nhịp cầu cho người con gái bên kia sông vịn vào mà đến với Tràng. Đây chíng là mối tình sét đánh bàng hoàng, lưng lưng... Vì thế mà Tràng sống trong sự hoài nghi, lắm lúc hắn tự hỏi lòng mình như để kiểm chứng lại: “Thì ra mình đã có vợ rồi đấy ư”?
Hắn chỉ tầm phơ tầm phào mấy bận thế mà thành vợ thành chồng, thậm chí từ đêm tân hôn bước ra hắn thấy lơ lửng như vừa bước ra từ trong mơ. Thì ra mối tình ấy làm cho hắn thay đổi hẳn cả về thể chất lẫn tâm hồn: “Mắt hắn cứ phớn phở tự đắc”. Thế mới thấy sức mạnh nhiệm mầu của tình yêu, nếu không có tình yêu nhân loại sẽ trôi về đâu? Đây là tình huống bị động, éo le nhưng sung sướng, ngọt ngào...
Việc Tràng lấy vợ cũng làm cho người mẹ nghèo đã phải chịu nhiều đau khổ thực sự sửng sốt. Qua giây phút ngạc nhiên đến sững người ra, đôi mắt bà cụ Tứ bỗng nhèn ra khi thấy người đàn bà lạ gọi mình bằng “U”. Bà cụ nhận ra đó là con dâu mình, cụ chỉ biết cúi đầu, nín lặng dường như bao gian nan đau khổ trĩu nặng trong lòng người mẹ ấy. Đó là sự cúi đầu một cách tội nghiệp bởi người mẹ nào mà không thương con, không vui khi thấy con mình lấy vợ nhưng cụ chỉ biết cúi đầu chứ làm sao được trong hoàn cản éo le này. Cái cúi đầu ấy làm trào lên trong lòng người đọc nỗi buồn thương tràn ngập đối với người mẹ quê nghèo lam lũ.
Bà cụ vừa ai oán vừa xót thương, nhất là xót thương cho số phận thằng con trai mình. Vì “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăm lên làm nổi, sinh con đẻ cái để mở mày mở mặt về sau”. Còn thằng con trai cụ phải tới lúc cái chết đang đe dọa hằng ngày mới lấy được vợ, mà thực ra là nhặt được vợ. Cái kiếp người như thế làm sao cụ Tứ không chua xót, không đau đớn “Cụ đau đớn xót thương cho chính bản thân mình là người mẹ mà không lo nổi cho con. Cả đời lam lũ, gian khổ cũng không giúp con mình thoát khỏi cảnh nhặt vợ. Còn nỗi đau đớn, xót xa nào hơn.”
Bao trùm lên nỗi ai oán xót thương của bà cụ Tứ là cả tấm lòng nhân hậu của người mẹ nghèo khi cụ nghĩ tới vợ Tràng và những đứa con của chúng về sau. Từ những suy nghĩ ấy tới những hi vọng, những lo sợ đan quện vào nhau. Thương con bà mẹ ấy hi vọng “May ra thoát khỏi cái thời tao loạn này, nếu ông trời bắt chết cũng phải chịu”. Thương con, những giọt nước mắt trào ra nhưng bà cụ cố giấu đi. Tất cả nỗi sợ hãi không thắng nổi lòng thương yêu của mẹ đối với những đứa con của mình. Bà trò chuyện với con dâu mình bằng tất cả lòng yêu thương, bằng những lời ôn tồn: “Thôi các con phải duyên, phải kiếp với nhau, U cũng mừng.” Vậy là người mẹ ấy không những bằng lòng mà còn mừng, sự mừng vui ấy át đi nỗi lo lắng. Người mẹ nghèo nói toàn chuyện vui mừng, hạnh phúc về sau. Nào là “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, nào là “Có ra thì con cháu chúng mày về sau”.
Thực ra bà cụ nói chuyện này chỉ vì thương con. Sự thực thì trong lòng cụ niềm vui quện với nỗi buồn, cái mừng xen lẫn cái lo, mừng rỡ và ngậm ngùi lẫn lộn... Đằng sau những lời an ủi, yêu thương trong thẳm sâu tâm hồn bà vẫn lo lắng: “Chắc gì chúng nó đã khá hơn bố mẹ chúng nó bây giờ”. Từ sâu thẳm trái tim nhiều khổ đau của người mẹ ấy vẫn dành cho con dâu nhiều yêu thương ấm áp. Cụ nhìn con dâu như vừa an ủi, vừa chiêu tiết cho người đàn bà theo không về làm vợ con trai cụ: “Lúc này kể ra có dăm ba mâm thì phải”. Chỉ một câu nói ngắn ngọn nhưng đầy đủ và chắc này có khả năng xóa mờ cái ranh giới xa lạ đầu tiên giữa mẹ chồng và nàng dâu. Câu nói ấy có khả năng sưởi ấm lòng người đàn bà theo không và giúp thị có đủ sức mạnh để vượt qua những hờn tủi trong lòng. Từ cái nhìn và cách xử sự nhân hậu, người mẹ không những chấp nhận con dâu trong hoàn cảnh khốn khó mà còn yêu thương, trân trọng con dâu mình biết bao nhiêu. Tình yêu thương ấy, khiến cho người đọc phải rưng rưng ngấn lệ.
Hình ảnh bà cụ Tứ vào sáng hôm sau, nhất là với bữa cơm nhà nghèo lần đầu đón con dâu vào ngày đói càng trở nên tội nghiệp tạo nên lòng cảm thông sâu sắc trong lòng người đọc. Từ khuôn mặt hớn hở, ta cứ ngỡ bà cụ đang ngập tràn niềm vui trong lòng. Bàn tay cụ cùng con dâu làm cho ngôi nhà rách nát trở nên quang đãng, gọn gàng hơn. Ta như nghe thấy tiếng nói, cười rộn ràng của bà cụ, cụ nói toàn chuyện vui, chuyện: “mua lấy một đôi gà và quay đi quẩn lại đã có một đàn gà con”. Cụ Tứ vui hay buồn, cảm xúc thật của cụ là gì, chỉ có cụ mới biết.
Ta chỉ nghe thấy cụ nói cười vậy thôi, không biết bao giờ mới có một đàn gà con. Chỉ biết rằng trước mắt là nồi cháo loãn đã hết... Cụ lại vui vẻ với người con dâu: “Tao có cái này hay lắm”. Giường như cụ muốn kéo dài niềm vui của những đứa con. Rồi cụ từ từ đi vào trong bếp, lễ mễ bưng ra một nồi nghi ngút khói, cụ gọi là “Chè khoán” cụ nói tiếp: “Chè khoán đấy, ngon đáo để”. Nhưng niềm vui mà bà cụ tạo ra chưa át được nỗi buồn trong lòng người “Vợ nhặt” thì cái vị cháo cám đắng chát, ngẹn bứ trong cổ họng. Bà cụ vẫn tiếp tục an ủi: “Xóm ta còn khối nhà chẳng có cám mà ăn”. Bằng tình yêu thương dành cho các con mình, cụ Tứ đã chắt lọc từ bao đau khổ của cuộc đời mình lấy niềm vui bé nhỏ nhóm lên ngọn lửa hạnh phúc cho những đứa con... Cuối cùng thì tình yêu, lòng nhân hậu đã hoàn toàn chiến thắng trước sự đói khát và cả cái chết gần kề. Tràng chấp nhận phải chiến đấu khốc liệt hơn với cái đói và cái chết để mở rộng vòng tay đón thị. Từ một người “đầu đường xó chợ”, thị bỗng có chồng, có mẹ, có một gia đình. Mẹ con bà cụ Tứ trở thành cứu tinh của thị... Bữa cơm với cháo cám thật thảm hại và cả cái đói, cái chết bị đẩy lùi mau chỉ còn lại tình yêu, niềm tin, niềm hi vọng và đặc biệt là những khát khao hạnh phúc cá nhân khi Tràng tưởng nhớ lại đoàn người với lá cờ đỏ rầm rập đi cướp kho thóc Nhật.
Hiện thực và nhân đạo là hai giá trị lớn của văn chương. Giá tri ấy được Kim Lân thể hiện sâu sắc qua một vài khoảnh khắc của cuộc đời với sự mô tả chân thật và tỉ mĩ. Điều này khiến cho truyện ngắn “Vợ nhặt” có sức lay động lòng người đến thế. Bao nhiêu tình yêu thương con người ẩn chứa trong ngòi bút Kim Lân đều dành cho việc thể hiện niềm khát khao hạnh phúc riêng tư cuối cùng đã chiến thắng.
( sưu Tầm )