Đánh giá lại triều Nguyễn

nguyen tran ty

New member
Xu
0
Đánh giá lại triều Nguyễn: Về một vài di sản của nhà Nguyễn còn tồn tại đến ngày nay Trước đây, nhà Nguyễn (1802-1945), vương triều cuối cùng của Việt Nam, thường bị đánh giá một cách tiêu cực như là vương triều đã để mất nước vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy nhiên, từ thập niên 90 của thế kỷ trước, trong giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã xuất hiện xu hướng đánh giá lại vương triều này từ những góc độ tích cực hơn, Ví dụ như các nghiên cứu về việc xác định lãnh thổ dưới triều Minh Mạng, về cải cách cơ cấu nhà nước hay việc áp dụng chế độ công điền dưới triều Nguyễn.

Bước sang thế kỷ XXI, chúng tôi muốn thử đánh giá lại triều Nguyễn nhìn từ góc độ những di sản mà vương triều này đã để lại cho đến ngày nay. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn nêu lên 3 vấn đề sau:

1. Lãnh thổ được xác lập dưới triều Nguyễn trở thành cơ sở cho việc xác định lãnh thổ của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện đại.

2. Thiết chế chính quyền trung ương – địa phương hiện đại đã kế thừa nhiều hình thức quản lý của triều Nguyễn.

3. Vấn đề phát hành và lưu thông tiền tệ

Cơ sở của việc xác định lãnh thổ

Nửa đầu thế kỷ XIX, trong bối cảnh quan hệ quốc tế tương đối ổn định, vua Minh Mạng, hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn đã tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong giai đoạn này, trên cơ sở kết quả của quá trình “Nam tiến” kéo dài suốt từ thế kỷ X của người Việt, cương vực lãnh thổ tương đương với lãnh thổ Việt Nam hiện đại “kéo dài từ Lạng Sơn kéo dài đến mũi Cà Mau” đã được xác lập. Sau đó, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, tuy bị phân chia thành các khu vực thuộc địa Nam Kỳ (Cochinchine), nhà nước bảo hộ An Nam và khu vực bảo hộ Bắc Kỳ nhưng về cơ bản, cả 3 khu vực này đều được duy trì với tư cách là không gian sinh sống của người Việt. Tức là, phạm vi lãnh thổ của nhà Nguyễn đã được thừa nhận một cách rộng rãi như là một sự thực lịch sử.

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 qui định giới tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, trên thực tế đã phân chia Việt Nam thành Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) và Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Sau khi miền Bắc giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt Nam (cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) năm 1975, năm 1976, Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lãnh thổ của nhà nước Việt Nam hiện đại là dựa trên cơ sở lãnh thổ của nhà Nguyễn.

Đương nhiên, trong cuộc xung đột biên giới với Campuchia hay trong đàm phán phân định biên giới với Trung Quốc, cũng có một số khu vực lãnh thổ không rõ ràng, nhưng về cơ bản, cương vực lãnh thổ của nhà Nguyễn đã được duy trì. ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh ý nghĩa của việc khuôn khổ lãnh thổ cơ bản của nước Việt Nam “thống nhất” đã được xác lập dưới triều Nguyễn.
Tổ chức nhà nước.

hà Nguyễn, trên cơ sở tham khảo chế độ của nhà Minh và nhà Thanh ở Trung Quốc đã xây dựng tổ chức Cơ mật viện – Lục Bộ ở chính quyền trung ương, và tổ chức hành chính Tỉnh đứng đầu là các viên Tổng đốc, Tuần phủ ở chính quyền địa phương. Nhà Nguyễn cũng duy trì chế độ khoa cử để tuyển chọn quan lại. Hệ thống tổ chức hành chính này của triều Nguyễn trở thành một thước đo có hiệu quả để quan sát hệ thống tổ chức hành chính hiện đại. Tức là, khái niệm tổ chức hành chính của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ hiện đại.

Lấy ví dụ như khái niệm “Chính phủ” (government) hay “Thủ tướng” (Prime Minister). Trước đây, Việt Nam sử dụng tên gọi Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên, cùng với quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Việt Nam cho rằng cần phải sử dụng một tên gọi mang tính thông dụng quốc tế hơn. Do đó, Hiến pháp năm 1992 đã bắt đầu sử dụng tên gọi “Chính phủ” và “Thủ tướng”. Tuy cùng tên gọi nhưng nội hàm của khái niệm “Chính phủ” và “Thủ tướng” của Việt Nam khác với nhiều nước. ở đây, chúng tôi cũng xin thử so sánh với các nước khác.

ở phương Tây, nội dung khái niệm “Chính phủ” thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh nước đó có trải qua cách mạng hay không. ở các nước đã trải qua cách mạng như Pháp và Mỹ, “chính phủ” là khái niệm chỉ toàn bộ “cơ cấu nhà nước” bao gồm tam quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Do đó, khi chỉ riêng bộ phận chính quyền hành chính, người ta không gọi là “chính phủ Bush” mà sử dụng cách gọi “Chính quyền Bush” (Bush Administration). Trong khi đó, ở các nước mà chế độ quân chủ được duy trì, áp dụng chế độ quân chủ lập hiến hiện đại mà không trải qua cách mạng như Đức và Nhật Bản, người ta thường sử dụng từ “Chính phủ” để chỉ riêng chính quyền hành chính.
Ví dụ như ở Nhật Bản, người ta hay sử dụng cách gọi Chính phủ của Đảng Tự do Dân chủ (LDP).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam, ý nghĩa của khái niệm “Chính phủ” lại khác. Theo qui định của Hiến pháp năm 1992, “Chính phủ” của Việt Nam tương đương với khái niệm “Nội các” (Naikaku) của Nhật Bản hay “Nội các” (Cabinet) của Anh. ở Việt Nam, “Chính phủ” là khái niệm chỉ tập hợp các Bộ trưởng đứng đầu các Bộ - Hội đồng Bộ trưởng. Các Bộ Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương (Hội đồng Nhân dân các thành phố trực thuộc và các tỉnh) đóng vai trò chấp hành mệnh lệnh và thực hiện công việc dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. ở đây, xin được nhắc lại là ở Nhật, “Chính phủ” bao gồm cả Nội các (các Bộ trưởng) và các cơ quan nhà nước trung ương (các Bộ Trung ương) đứng đầu là các Bộ trưởng. Trong khi đó, ở Việt Nam, khái niệm “Chính phủ” chỉ chỉ tổ chức hội đồng bộ trưởng (mà ở Nhật gọi là “Nội các”), còn các Bộ Trung ương và các cơ quan hành chính ở địa phương được coi là tổ chức khác.

Chúng tôi cho rằng cách suy nghĩ này xuất phát từ hệ thống quan lại truyền thống của các vương triều trong quá khứ, từ “Chính phủ” ở Việt Nam được nhận thức trên cơ sở hình dung hệ thống Lục Bộ - Đại thần Cơ mật viện của triều Nguyễn. Tổ chức nhà nước hiện đại của Việt Nam đã tham khảo một cách có ý thức hoặc vô ý thức hệ thống tổ chức quan lại của nhà Nguyễn.

Việc phát hành và lưu thông tiền tệ

Không chỉ nhà Nguyễn mà các vương triều trước đó như nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, mỗi khi thiết lập một vương triều mới hay nhà vua mới lên ngôi, đều phát hành tiền. Trong nhiều trường hợp đó là việc phát hành đồng tiền bằng đồng (tiền đồng). Tiền đồng được phát hành với vai trò là biểu tượng (symbol) bắt đầu một triều vua mới. Do đó, không phải lúc nào nó cũng được lưu thông rộng rãi trong dân gian. ở Việt Nam, từ thời Bắc thuộc đã có truyền thống sử dụng tiền đồng của Trung Quốc. Tiền đồng của Trung Quốc có độ tin cậy cao, được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong việc buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tiền đồng được đúc với chất lượng cao của nhà Tống đã được sử dụng như một loại tiền tệ thanh toán quốc tế trong một thời gian dài. Dưới các thời Minh – Thanh, tiền đồng Trung Quốc vẫn duy trì được vị trí tiền tệ thông dụng quốc tế.

Đặc biệt, đến nửa cuối thế kỷ XIX, nhà Nguyễn bắt đầu cho phép tư nhân đúc tiền, do đó, tỷ lệ đồng kim loại trong tiền đồng giảm đi, nhiều tiền đồng có chất lượng kém được đưa vào lưu thông. Do những nguyên nhân như trên, vào triều Tự Đức nhà Nguyễn, phương tiện thanh toán chủ yếu trong các giao dịch như mua bán gạo là tiền đồng của Trung Quốc.

Trên cơ sở tham khảo lịch sử tiền tệ và quan sát vấn đề tiền tệ ở Việt Nam hiện đại, chúng ta có thể nhận thấy một hiện tượng rất đáng chú ý. Hiện nay, trong số tiền giấy “Đồng” của Việt Nam có một số được sản xuất tại úc. Đến nay, nhờ sự giúp đỡ về kỹ thuật của úc cũng như việc đưa vào sử dụng máy móc in ấn, Việt Nam cũng bắt đầu hình thành hệ thống sản xuất tiền giấy trong nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong nhiều hoàn cảnh, người dân vẫn sử dụng đồng Đô la Mỹ - đồng tiền thông dụng quốc tế.
Thậm chí có thể nói, người dân Việt Nam tin tưởng Đô la Mỹ hơn Đồng Việt Nam. Như vậy, có thể thấy tình hình tiền tệ ở Việt Nam hiện nay cũng rất giống với tình hình dưới thời nhà Nguyễn.

Tuy nhiên, nhìn từ góc độ chủ quyền tiền tệ (Currency Sovereignty), đây là một vấn đề vô cùng hệ trọng. Về cơ bản, một quốc gia độc lập phải là một quốc gia có thể tự in ấn và lưu thông được đồng tiền của mình. Nếu không thực hiện được điều này, sẽ có nguy cơ không nắm bắt được một cách chính xác lượng tiền tệ đang lưu thông trong nước, cũng như không đối phó được với nạn tiền giả. Thật may mắn là ở Việt Nam có giấy “dó”, một loại nguyên liệu thích hợp để sản xuất tiền giấy. Đối với một nước độc lập như Việt Nam, việc Cục In tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng nguyên liệu trong nước để sản xuất tiền giấy Đồng Việt Nam là một việc đương nhiên.

Đề án này sẽ được khởi đồng trong năm nay, với sự giúp đỡ của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản. Nhật Bản là quốc gia ngoài phương Tây đầu tiên có kinh nghiệm sản xuất, lưu thông tiền giấy hiện đại từ năm 1882. Chúng tôi hy vọng sau khoảng 3 năm nữa, một loại tiền giấy Đồng Việt Nam thích hợp với phong thổ Việt Nam sẽ được lưu hành thay thế cho Đồng Việt Nam do úc sản xuất.

Để thực hiện thành công đề án này, trước tiên phải tiến hành nghiên cứu về lịch sử tiền tệ Việt Nam. Đặc biệt, chúng tôi cho rằng phải tiến hành nghiên cứu một cách triệt để các vấn đề liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền tệ của nhà Nguyễn. Về mặt này, có thể thấy ý nghĩa vô cùng lớn của việc nghiên cứu nhà Nguyễn.

Bản thân tôi không phải là nhà chuyên môn về vấn đề này, trong bài viết mang tính đề xuất vấn đề này, có lẽ sẽ có rất nhiều sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn từ các nhà nghiên cứu tham gia Hội thảo lần này để tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn.

GS.TSUBOI YOSHIAKI (Đại học Waseda, Tôkyô, Nhật Bản)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nhà Nguyễn

Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN

Trang -

Các bạn đã từng đọc qua sách sử Việt Nam chắc hẵn đã để ý là các ông vua có rất nhiều tên, hiệu và chắc các bạn cũng đã có lần tự hỏi là làm gì mà phải có nhiều tên như thế ? Trước khi đi vào phần lịch sử, tôi nghĩ cũng nên nhắc lại vài điều căn bản.
Thời vua chúa lúc dân ta chưa biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đã xãy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương thời.
Niên hiệu : Khi một ông vua lên ngôi đều tự lấy cho mình một niên hiệu để đánh dấu cái giai đoạn mà mình trị vì và tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái niên hiệu của mình. Thí dụ người ta nói "Tự Ðức năm thứ 2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... (thay vì năm 1848, năm 1825, ...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy thì có cái lợi là biết câu chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là khó mà biết được cái nào xảy ra trước cái nào xảy ra sau nếu không giỏi sử học.
Miếu hiệu : Tên hiệu của ông vua đã chết. Khi một ông vua đã mất, ông vua sau lên kế vị và đặt miếu hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tôn vinh người quá cố. Ví dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu vua Minh Mạng là Thánh Tổ. Dĩ nhiên có nhiều ông vua không có miếu hiệu.
Tên Húy: Tên thật do cha mẹ đặt khi mới sanh, một người có thể có nhiều tên húy, thường được người ta kiêng không gọi đến. Ví dụ tên húy của vua Minh Mạng là Ðảm (Nguyễn Phúc Ðảm), tên húy của vua Tự Ðức là Hồng Nhậm (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Xưa người mình thường hay kỵ húy, kiêng, tránh không được nhắc đến tên. Ví dụ vua Minh Mạng có bà phi tên là Hồ Thị Hoa. Vì kỵ húy bà nên cầu Hoa ở Sài Gòn đã được đổi tên lại là cầu Bông.
Ngoài những loại tên nầy, các vua còn có thể có nhiều chức tước khác nhau !
Mục lục:
Vua Gia Long
Hoàng tử Cảnh
Vua Minh Mạng
Vua Thiệu Trị
Vua Tự Ðức
Vua Dục Ðức
Vua Hiệp Hoà
Vua Kiến Phúc
Vua Hàm Nghi
Vua Ðồng Khánh
Vua Thành Thái
Vua Duy Tân
Vua Khải Ðịnh
Vua Bảo Ðại

Niên hiệu
Gia Long
Năm sanh, năm mất
1762-1820
Giai đoạn trị vì
1802-1820
Miếu hiệu
Thế Tổ Cao Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Ánh

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Ðàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Ðàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Ðịnh, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Ðàng Trong.
Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đã tỏ ra là một con người có chí và thông minh vì thế rất được Chúa yêu, tuy còn nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đã tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.
Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Ðịnh, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Ðịnh Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.
Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại Bình Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Ðịnh. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.
Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong lòng một mối thù phục quốc. Chính vì thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Ðàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đã để cho con trưởng của mình là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp làm con tin.
Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Ðể đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Ðà Nẵng).
Giám mục Bá Ða Lộc ký được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Ðộ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Ða Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng vì nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ mãi không được, Giám mục Bá Ða Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 thì Hoàng tử về đến Gia Ðịnh.
Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giã mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 thì vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Ðéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vã đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc Bình Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đã có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đã đem quân đánh nhau.
Vì ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đã không ngó ngàng gì đến các xứ Ðàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đã cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đã được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đã lớn mạnh. Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Ðịnh trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Ðịnh đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Ðịnh theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.
Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.
Ở Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Ðược tin, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lãnh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.
Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.
Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...
Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan rã lần hồi. Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.
Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi còn đầu thì đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, còn sọ thì làm gáo đựng nước tiểu).
Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng vì đất Nam-Việt đã có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:
-Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...
-Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...
-Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...
-Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...
-Bộ Hình : coi việc pháp luật, v.v...
-Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...
Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...
Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Ða Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đã theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Ða Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoãng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đã làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".
Nhưng vua vẫn một lòng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đình viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đình, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đình và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ý nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.
Ngày 19 tháng 12 năm Canh Thìn (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim thì Ngài mất năm 1819).
Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh sanh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tý (6-4-1780) tại Gia Ðịnh, con của Nguyễn Ánh và bà Tống Thị Lan (sau là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu). Năm 4 tuổi, Hoàng tử được gởi theo Giám mục Bá Ða Lộc sang Pháp cầu viện, tới năm 1789 mới trở về với gia đình. Mùa xuân năm Quí Sửu (1792) Hoàng tử lên 14 tuổi, Nguyễn Vương lập ông làm Ðông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận công, chọn các đại thần giúp đở để ông quen chuyện chính trị. Trong các phụ đạo (thầy dạy) có Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh và Ngô Tùng Châu.
Năm Ðinh Tỵ (1797) ông theo Nguyễn Vương đi đánh Qui Nhơn, rồi đáng Quản Nam, khi quân trở về Thái tử tâu xin cho soạn Hiển trung chư thần liệt truyện để chép truyện các bậc tôi trung đời trước để khuyến khích mọi người , được Nguyễn Vương chấp thuận.
Mùa Xuân năm Tân Dậu Thái tử bị bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu (20-3-1801), thọ 22 tuổi. Ông có hai người con trai. Con trưởng là Nguyễn Phúc Mỹ Ðường (còn có tên là Ðán), con thứ là Nguyễn Phúc Mỹ Thùy (còn có tên là Kính). Ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.
Niên hiệu
Minh Mạng
Năm sanh, năm mất
1791-1840
Giai đoạn trị vì
1820-1840
Miếu hiệu
Thánh Tổ Nhân Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Kiểu, Nguyễn Phúc Ðảm

Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Ðảm, sanh năm Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Ðịnh, con thứ tư của vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh mất thì Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà, theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đã 30 tuổi và đổi niên hiệu là Minh Mạng.
Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế, công trình kiến trúc quan trọng nhất dưới thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một nhà vua văn võ kiêm toàn (nhưng theo một lá thư của một vị Giám mục người Pháp thì Vua không có tài văn chương gì cả mà chỉ do các ông quan nịnh bợ Vua hùa theo ca tụng). Vua Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách từ nội trị đến ngoại giao.
Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh (31 tỉnh), thành lập Nội các và Cơ mật viện để cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Ðại mới bị giải tán). Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi Ðình để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Ðịnh mới bị giải tán). Lập Quốc sử quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai tìm được sách củ hay làm ra sách mới v.v...
Các nước láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất (1838) vua Minh Mạng đổi tên nước là Ðại Nam.
Ngài không thích đạo Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Ðạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Lúc bấy giờ không phải là một mình vua ghét đạo Thiên Chúa mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc lòng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
Cũng vì việc cấm đạo Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản trở vì Triều đình thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại thì lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đình từ thời Gia Long thấy vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ chức rồi đem gia đình trở về Pháp.
Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban giao với Việt Nam nhưng vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ đó.
Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi, trị vì được 21 năm
?
Niên hiệu
Thiệu Trị
Năm sanh, năm mất
1807-1847
Giai đoạn trị vì
1841-1847
Miếu hiệu
Hiến Tổ Chương Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Tuyền, Nguyễn Phúc Miên Tông

Vua Minh Mạng băng hà, người con trưởng của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền, húy là Miên Tông sinh năm Ðinh Mão (1807) được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có gì đổi mới.
Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Ðêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không trình bài theo lối thường mà viết thành năm cái vòng tròn đồng tâm, mổi vòng tròn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai kiếm ra được hết.
Dưới thời nầy đất Nam-kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân-Lạp nổi loạn và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp mãi tới năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên được.
Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa mới nguôi đi được một ít, nhưng triều đình vẫn ghét đạo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroïne, ông nầy đem tàu vào Ðà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm (1845) có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Ðà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm Ất Tỵ (1847) quan nước Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Ðà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự âm mưu gì chăng bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận vô cùng, lại có dụ (sắc lệnh) ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Vài tháng sau thì vua lâm bệnh nặng.
Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng của vua Thiệu Trị (nhưng lại không phải là con của chánh phi Phạm Thị Hằng mà là con của bà phi Ðinh Thị Hạnh). Bảo vốn là người ham chơi, không chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh bạc. Vua Thiệu Trị có la rầy nhiều lần nhưng không được.
Khi vua lâm bệnh nặng, cho đòi các quan đại thần vào trối. Trương Ðăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng, con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham học giống vua có thể cai trị nước được. Vua yêu cầu các quan phải thi hành tờ di chiếu của vua để lại. Triều thần khóc, bái lạy và gọi Hồng Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng Bảo được tin, tức giận đem thân binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch đem quân cản lại chỉ để cho một mình Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng Bảo vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt đi không trả lời, Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra hậu cung và cầm giữ ở đó. Mấy ngày sau thì vua băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm vua được 7 năm, thọ 40 tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).
Niên hiệu
Tự Ðức
Năm sanh, năm mất
1829 -1883
Giai đoạn trị vì
1847-1883
Miếu hiệu
Dực Tông Anh Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Thì, Nguyễn Phúc Hồng Nhậm

Hồng Nhậm lên ngôi lúc 19 tuổi, lấy niên hiệu là Tự Ðức, việc lên ngôi của Tự Ðức bị nhiều người nghi ngờ nên cũng có người chống. Hồng Bảo (anh Tự Ðức) âm mưu với một số người để tìm cách giành lại ngai vàng. Việc bại lộ, Hồng Bảo bị hạ ngục và bị kết án tử hình. Tự Ðức tha chết cho anh nhưng cho lệnh giam lại, nhưng không hiểu sao Hồng Bảo thắt cổ chết trong ngục (có sách viết là bị ép uống thuốc độc). Cái chết của Hồng Bảo trở thành một nghi án. Vua Tự Ðức sợ sau nầy sử không chép đúng sự thật nên tự mình kể lại cuộc đời của mình và cho khắc vào bia đá lớn để lại cho hậu thế, bia nầy ngày nay vẫn còn ở trong lăng Tự Ðức.

Người ở trong nước chia ra làm bốn hạng là : sĩ, nông, công, thương. Sĩ : là hạng người chuyên nghề đi học, thầy thuốc, thầy bói, v.v... những nghề phong lưu nhàn hạ. Nông : là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Công : là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi (dệt vải, làm mắm muối, v.v...). Thương : là hạng người làm nghề buôn bán.
Ðời vua Tự Ðức có rất nhiều loạn lạc (giặc cờ Ðen, cờ vàng, cờ Trắng, nội loạn, phò Lê diệt Nguyễn v.v...) và cũng là giai đoạn đầu mà Pháp đánh Việt Nam.
Năm Tự Ðức thứ 9, có chiến thuyền "Catinat" vào cửa Ðà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc giết đạo Thiên Chúa. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có ông Giám mục Pellerin trốn được lên tàu. Giám mục Pellerin về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh các giáo sĩ Thiên Chúa giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam, và nói rằng chỉ cần có loạn là các tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ nổi lên đánh giúp, lại có bà Hoàng hậu Pháp Eugénie rất sùng đạo nên cũng nói giúp ông Pellerin. Pháp Hoàng mới quyết ý sang đánh nước ta.
Tháng 7 năm Tự Ðức thứ 11 (1858), Trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Y-pha-nho (Espagne) cả thảy 14 chiếc vào cửa Ðà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An hải và thành Tôn hải. Theo dự trù, trung tướng Rigault de Genouilly tính tiến đánh Huế sau khi hạ Ðà Nẵng nhưng chờ hoài mà chẳng thấy tín đồ Thiên Chúa giáo nổi loạn lại thấy quân ta đổ xuống ngày càng đông, quân Pháp lại không quen khí hậu nên ngã bệnh cũng nhiều. Trung tướng Rigault de Genouilly gây lộn với Giám mục Pellerin và viết thư về Pháp kể tình hình, Giám mục Pellerin giận bỏ về Mã Lai. Thấy đánh Huế chưa nổi, ông trung tướng Pháp đổi ý, quay qua đánh Gia Ðịnh vì là nơi dể lấy hơn và là vùng trù phú hơn.
Ðầu năm sau trung tướng Rigault de Genouilly dẩn quân Pháp và Y-pha-nho vào cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Ðịnh, chỉ trong 2 ngày thì thành vở. Quan hộ-đốc Vũ Duy Ninh tự vận. Quân Pháp san phẳng thành trì làm bình địa. Xong trung tướng Pháp lại đem quân trở ra Ðà Nẵng đánh một trận ở đồn Phúc Ninh, quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại-hiên và đồn Liên-trì. Trung tướng Rigault de Genouilly cũng bệnh nên xin về Pháp nghĩ, thiếu tướng Page sang thay, ông đề nghị việc giảng hoà, cốt chỉ xin được tự do giảng đạo Thiên Chúa và được buôn bán với nước ta nhưng triều đình Huế lúc đó chỉ còn những ông quan già, chỉ biết đạo Nho thà chết để giữ nước, không chịu nhục, không phải là người biết mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao nên Vua cũng phải nghe theo.
Ðến năm 1862 thì quân Pháp đã chiếm luôn Biên Hoà và Vĩnh Long. Triều đình mới chịu phái hai ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp vào Nam giảng hoà với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1862).
Trong bản hoà ước ấy (12 khoãn) có những khoãn như sau :
-Nước Việt Nam phải để cho giáo sĩ Thiên Chúa Giáo nước Pháp và nước Y-Pha-Nho được tự do giảng đạo và để dân gian được tự do theo đạo.
-Nước Việt Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp tỉnh Biên Hoà, tỉnh Gia Ðịnh và tỉnh Ðịnh Tường và phải để cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mékong (Cửu Long).
Vua Tự Ðức bắt buộc phải nhường 3 tỉnh Nam kỳ cho Pháp nhưng trong bụng vẫn muốn lấy lại vì là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn nên đã phái ông Phan Thanh Giản, ông Phạm phú Thứ và ông Ngụy Khắc Ðản đem phẩm vật sang nước Pháp và nước Y-Pha-Nho để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Nam. Vua Pháp hẹn sẽ suy nghĩ lại rồi trả lời sau, nhưng ông bộ trưởng hải quân và thuộc địa Pháp Chasseloup-Laubat không chịu trả đất cho Việt Nam nên nói ra, vua Pháp nghe lời.
Triều đình Huế cũng nghĩ là Pháp sẽ không ngừng ở đó nên sai ông Phan Thanh Giản vào trấn giữ Miền Nam. Năm Tự Ðức thứ 20 (1867), thiếu tướng De la Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp thành trì cho đở đổ máu rồi uống thuốc độc tự vận. Toàn cảnh đất Nam Kỳ thuộc về Pháp, thuế má, luật lệ điều gì cũng do Pháp quyết định cả. Nước Pháp tạm ngừng cuộc chinh phục tại đây.
Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ nhất : 6 năm sau, ở miền Bắc có ông Jean Dupuis (tên việt là Ðồ Phổ Nghĩa) chuyên buôn bán vũ khí, ông ta tìm đường sông để chở hàng qua Tàu và kiếm ra đường sông Hồng nhưng bị quân triều đình làm khó dể vì ông ta không có giấy phép. Jean Dupuis ngạo mạn kiếm chuyện gây gổ với triều đình rồi sai người phụ tá tên Millot vào Saigon tìm gặp viên Thống đốc Nam kỳ là Thiếu tướng hải quân Dupré để kể tình hình và xin trợ giúp. Thiếu tướng Dupré là người đã đễ ý tới vùng Bắc kỳ từ lâu, ông đã viết thư về Paris xin lấy luôn đất Bắc kỳ nhưng bên Pháp lúc bấy giờ đang yếu vì chiến tranh với nước Thổ nên ra lệnh không được gây sự ở Bắc kỳ. Khi được Millot đến đốc thúc thì ông Dupré quyết định hành động, ông viết thư cho Paris nói là xin được tự quyết định, ông không cần viện trợ, nếu chuyện không thành thì ông sẽ lãnh hết trách nhiệm.
Dupré sai Trung úy hải quân Françis Garnier đem quân ra Hà Nội giả nói là để giải quyết chuyện xích mích của Jean Dupuis rồi kiếm chuyện để bắn vào thành Hà Nội sáng hôm rằm năm Quí Dậu (1873). Chỉ một giờ thì thành vỡ, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, Pháp bắt tính giải về Saigon nhưng Nguyễn Tri Phương không cho băng bó và nhịn ăn chết. Thành Hà Nội thất thủ, quân ta không hiểu chuyện gì hết nên cứ thấy quân Pháp là bỏ chạy, chỉ trong 20 ngày mà mất 4 tỉnh.
Lúc bấy giờ có tướng Tàu là Lưu Vĩnh Phúc đầu đảng của "giặc cờ đen" về hàng triều đình Huế, vua Tự Ðức phong cho chức Ðề đốc để phụ đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đánh thành Hà Nội. Françis Garnier đem quân ra nghênh thì bị phục kích chết ở cầu Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp trị tội, Thiếu tướng Dupré tìm cách đở tội nên trở mặt, sai ông Ðại úy hải quân Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và 4 tỉnh bị chiếm. Hai bên ký hoà ước năm Giáp Tuất (1874) trong đó triều đình Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp cũng bồi thường lại cho Việt Nam bằng tàu bè và súng ống.
Quân Pháp lấy Bắc kỳ lần thứ hai : Năm 1881, có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam (bên Tàu) nhưng khi đi đến Lào-Kay thì bị loạn quân cản trở không đi được, viên Thống đốc Le Myre de Vilers bèn gởi thư về Pháp nói rằng nên chiếm luôn Bắc kỳ để bảo đảm sự lưu thông buôn bán với Tàu. Lúc đó nước Pháp đã hồi phục lại sinh lực nên cũng có ý bành trướng ở Nam Á. Năm 1882, Thống đốc một mặt gởi thư cho triều đình ta nói là Vua bất lực, đất nước loạn ly, Pháp phải trấn an đất Bắc để bảo vệ quyền lợi của dân Pháp, một mặt gởi Ðại tá hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, gởi tối hậu thư cho quan Tổng Ðốc Hoàng Diệu bắt phải hàng. Ðúng 8 giờ sáng thì quân Pháp tấn công, 11 giờ thành đổ, ông Hoàng Diệu treo cổ tự tử.
Viên Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương thuyết, trong đó đòi nước Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Nhiều người trong Triều đình nói rằng : "Nước ta trong còn Lưu Vĩnh Phúc, ngoài còn nước Tàu, lẽ nào bó tay mà chịu" nên từ chối. Sau đó Triều đình cho người sang cầu cứu với nước Tàu, Triều đình nhà Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp thấy quân Tàu tràn qua biên giới nên cũng xua quân đánh luôn. Ðại tá Henri Rivière cũng bị quân cờ đen giết tại cầu Giấy.
Ðúng lúc nầy thì vua Tự Ðức mất ngày 16 tháng 6 năm Quí-Mùi (1883) trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.
?
Niên hiệu
Dục Ðức
Năm sanh, năm mất
1853-1883
Giai đoạn trị vì
1883
Miếu hiệu
Công Tông Huệ Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Ưng Chân

Vua Tự Ðức vì lúc nhỏ bị bệnh đậu mùa nên lớn không có con, nên vua có xin 3 người con trai của 2 người em làm con nuôi.
Vua nhường ngôi lại cho con trưởng Ưng Chân, phong 3 ông đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tuờng và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính để giúp tân Vương. Thảm kịch bắt đầu từ mấy câu di chiếu của Vua Tự Ðức viết về đạo đức và trách nhiệm của Ưng Chân:
"Vì tiên liệu Trẫm đã nuôi sẵn ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đã đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau nầy không còn thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, vì tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân thì dùng ai ? ..."
Các quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Ðức xin bỏ mấy đoạn có liên quang đến tính nết xấu của tự quân và xin bỏ câu “không chắc đảm đương nổi việc lớn” nhưng vua Tự Ðức từ chối. Nhà vua bảo:
-Phải giữ lại câu đó để nhắc người kế vị phải tự răn mình, tu tỉnh.
Ngày 17-7-1883 Dương lịch, vua Tự Ðức băng hà tại điện Càn Thành. Theo di chiếu Hoàng tử Ưng Chân vào chịu tang và coi như là vua kế vị, niên hiệu là Dục Ðức.
Ba ngày sau (20-7-1883) là lễ đăng quang của vua Dục Ðức tại điện Thái Hoà. Quan Phụ chính Trần Tiễn Thành đứng ra đọc Di chiếu, tới đoạn nói về tật xấu của vua, ông hạ giọng đọc rất thấp (có sách nói là không đọc) thì lúc bấy giờ quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhảy ra nắm áo ông và nói lớn :
-Tại sao ông không đọc đoạn tiên đế nói đến những gì Ngài nghĩ về Ưng Chân ?
Xong ông Tường cho người khác ra đọc lại di chiếu, đọc vừa xong cái đoạn nói về thói hư tật xấu của vua Dục Ðức thì ông Tôn Thất Thuyết cắt ngang lời người đọc và nói :
-Ðây là đoạn mà ông Thành đã không chịu đọc, phải xin ngưng buổi lễ để xin ý kiến của Thái Hậu và đình thần xem thử phải làm gì !
Sở dĩ hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dám làm vậy vì trước đó hai ngày họ đã dâng lên Hoàng Thái Hậu Từ Dũ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Ðức ba tội lớn :
-Muốn sửa di chiếu
-Có đại tang mà mặc áo màu
-Hư hỏng, ăn chơi.
Ðược bà Hoàng Thái Hậu Từ Dũ bật đèn xanh, hai ông Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết liền truất ngôi của vua Dục Ðức và quản thúc ông ngay tại Dục Ðức đường. Nhà học của ông bỗng trở thành nhà tù giam. Ông Dục Ðức làm vua chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Sau đó ông bị chuyển qua giam tại Thái Y Viện và cuối cùng chết vì đói và khát tại Ngục Thất Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. (Vua Dục Ðức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của Vua Duy Tân).
Quan Ngự Sử Phan Ðình Phùng có lên tiếng can ngăn liền bị bắt giam rồi bị cách chức đuổi về quê.
?
Niên hiệu
Hiệp Hoà
Năm sanh, năm mất
1847-1883
Giai đoạn trị vì
1883
Miếu hiệu
.
Tên Húy
Nguyễn Phúc Thăng, Nguyễn Phúc Hường Dật

Ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Ðức là Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà.
Vua Hiệp Hoà thấy hai ông đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng hành quá bèn tìm cách loại trừ bằng cách thay đổi chức tước của hai ông cho bớt binh quyền. Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết biết là vua không tin dùng mình nên liền âm mưu lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên làm vua rồi bắt ép vua Hiệp Hoà uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà chỉ làm vua được hơn 4 tháng.
Ông phụ chính Trần Tiễn Thành ra tiếng phản đối nên bị hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ra lệnh giết luôn.
Trong lúc đó thì Pháp vẫn tiếp tục chiếm các tỉnh của Việt Nam (cửa Thuận An, thành Hải Dương, ...), Triều đình Huế thất thế xin hoà. Hoà ước Quí Mùi (1883) ra đời trong đó nước Nam chịu nước Pháp bảo hộ và phải nhường một số đất cho Pháp. Triều đình ta có ra lệnh ngừng đánh, phải rút quân về Huế nhưng một mặt quân đội Tàu không nghe lệnh Triều đình Huế, một mặt còn nhiều người yêu nước và ỷ lại Tàu nên có nhiều người không chịu rút quân mà vẩn đánh Pháp, do đó chiến tranh với Pháp vẫn tiếp diển, Triều đình Huế bất lực.

?
Niên hiệu
Kiến Phúc
Năm sanh, năm mất
1869-1884
Giai đoạn trị vì
1884
Miếu hiệu
Giảng Tông Nghị Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Hạo, Nguyễn Phúc Ưng Ðăng

Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Ðăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả.
Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả ấn lại cho triều đình, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh Tây.
Có sách nói rằng Ưng Ðăng được tin triều đình tới rước mình về làm Vua, Ưng Ðăng sợ quá chui xuống gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng thì phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết vì Vua bắt gặp ông Tường đang tư tình với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị bệnh của Vua.
Sau khi ký hiệp ước Quí Mùi với nước ta, quan Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để sửa sang sự cai trị, lập ra đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính "khố xanh" và bãi đội lính cờ vàng mà Thiếu tướng Bouet đã mộ được. Quân Pháp tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Ðáp cầu, Hưng Hóa, Tuyên Quang, ...
Vì biết nước Tàu quá đông nên Pháp cũng muốn làm hoà, chánh phủ Pháp sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để nghị hoà với Tổng đốc Tàu Lý Hồng Chương. Hai bên ký hoà ước Fournier năm Giáp Thân (1884) trong đó Tàu chấp nhận là Pháp bảo hộ nước Việt Nam.
Nước Pháp có sai ông Công sứ Patenôtre từ Tàu sang Huế để sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883), rồi đến ngày 13 tháng 5 năm 1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan ký tờ hoà ước mới (hoà ước Patenôtre), trong đó Triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm 2 khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ, trên giấy tờ thì mổi kỳ có một cách cai trị khác nhau (Trung kỳbảo trợ chứ không phải bảo hộ) nhưng trên thực tế thì từ từ Pháp bảo hộ tất cả, Triều đình Huế chỉ là hư vị mà thôi. Pháp bắt Việt Nam phải trả cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam nhưng ông Nguyễn Văn Tường thương lượng để đem cái ấn đó ra mà nấu chảy.

Niên hiệu
Hàm Nghi
Năm sanh, năm mất
1871-1943
Giai đoạn trị vì
1884-1885
Miếu hiệu
.
Tên Húy
Nguyễn Phúc Minh, Nguyễn Phúc Ưng Lịch

Sau khi vua Kiến Phúc mất rồi, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Ðức là ông Chánh Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập vua lớn tuổi thì các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart thấy hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cứ tự tiện lập vua không hỏi ý ông trước đúng như đã giao kết nên gởi quân vào Huế bắt Triều đình phải xin phép. Ông Thuyết và Tường phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng chữ Nho (chữ Tàu), hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi.
Năm sau (1885), Thống Tướng De Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt-Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ ở Việt-Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bật tướng lảnh là đi cửa chánh thôi cho đúng với nghi thức triều đinh, nhưng tướng De Courcy nhất định không chịu.
Ông Nguyễn Văn Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh mạn Vua mình như thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá vào đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch, đến sáng thì quân Pháp phản công, quân ta thua chạy.
Ông Nguyễn Văn Tường cho người rước Vua Hàm Nghi (lúc nầy mới 13 tuổi) trực chỉ tới thành Quảng Trị để lánh nạn nhưng nữa đường thì ông bỏ Vua ra trình diện với quân Pháp. Tướng De Courcy hẹn cho ông hai tháng phải tìm cách để rước Vua về. Ông Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước Vua về nhưng ông Thuyết cản thư không cho Vua biết.
Ông Thuyết ở Quảng Bình làm hịch Cần Vương để kêu gọi dân chúng giúp Vua chống Pháp, dân chúng nổi dậy rất đông, đâu đâu cũng có kháng chiến nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh (mạnh nhất là phong trào của Ðề Thám). Có thuyết kể rằng khi ông Tường tới kêu vua bỏ trốn, vua trả lời rằng "ta có đánh với ai đâu mà phải chạy ?" nhưng quân hộ vệ đã nhào tới ôm vua bỏ lên kiệu và tuông thành trốn. Khi ông Thuyết ra hịch Cần Vương, kể tội ác của Pháp thì vua Hàm Nghi mới trả lời rằng : "Bây giờ Trẫm mới hiểu" và từ đó đã trở thành một lảnh tụ kháng chiến dũng cảm.
Hết hạn hai tháng thì cả gia đình ông Nguyễn Văn Tường bị ông De Courcy đài ra Côn Ðảo rồi sau đó bị đưa tới đảo Haiti ở Thái Bình Dương. Ðược ít lâu thì ông Tường mất, xác được đưa về chôn ở quê nhà.
Trong thời gian nầy, quân Tàu lại sung đột với quân Pháp ở Bắc kỳ vì Triều đình Trung Hoa không chấp nhận cái hoà uớc mà tướng Lý Hồng Chương đã ký, viện cớ là Triều đình Tàu không hay biết gì về vụ đó (có sách nói là Tàu giận vụ Pháp bắt hủy cái ấn của Tàu ban cho Việt Nam), cuộc chiến bùng nổ dử dội ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, ... Hải quân Pháp bắn phá Phúc Châu và vây Ðài Loan. Tới năm 1885, chánh phủ Tàu thấy chiến tranh không lợi nên thuận ký tờ hoà ước Thiên Tân với Pháp ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu, trong đó Tàu chấp nhận là Việt Nam thuộc Pháp chứ không thuộc Tàu nữa và bắt đầu vẽ lại một cách chánh thức biên giới Việt-Hoa. Từ đây trở đi coi như Pháp đã chiếm hết nước ta (xin coi hình ảnh trong trang ""Những tấm hình của ông Bác sĩ Hocquard").

Niên hiệu
Ðồng Khánh
Năm sanh, năm mất
1864-1889
Giai đoạn trị vì
1885-1889
Miếu hiệu
Cảnh Tông Thuần Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông

Thấy vua Hàm Nghi đã thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của Vua Tự Ðức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6 tháng 8 âm lịch năm Ất Dậu (1885), con nuôi thứ hai của Vua Tự Ðức, tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm Vua, lấy niên hiệu là Ðồng Khánh.

Sách Trần Trọng Kim viết "Vua Ðồng Khánh tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp", nói một cách khác thì Vua Ðồng Khánh không chống Pháp.
Lúc đó Vua Hàm Nghi vẩn còn ở mạn Quảng Bình, Pháp dồn quân đánh mạnh về vùng nầy, ông Tôn Thất Thuyết thấy thế yếu, không chống nổi quân Pháp nên bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hóa rồi nói rằng sang Tàu xin cầu cứu. Ông Tôn Thất Thuyết ở lại bên Tàu và chết già ở tỉnh Quảng Ðông, có sách nói rằng vì nước Tàu mới ký hiệp ước làm hoà với Pháp nên không muốn giúp Việt Nam (sách Trần Trọng Kim thì nói ông Thuyết lên Lai Châu nương tựa vào họ Ðiêu, đến lúc nghe tiếng Pháp lên đánh liền bỏ họ Liêu mà trốn sang Tàu).
Vua Ðồng Khánh đích thân ra tận Quảng Bình để dụ Vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công.
Ðến tháng giêng năm Mậu Tý (1888), Vua Hàm Nghi bị tên hầu cận Trương Quang Ngọc tham tiền nên cùng một số người tới tấn công trại Vua ban đêm trong lúc ngủ, giết quân tùy tùng trong đó có Tôn Thất Thiệp (con của Tôn Thất Thuyết), rồi đem Vua về nộp cho Pháp để lấy thưởng. Lúc nầy vua đã 18 tuổi, từ lúc bị bắt vua Hàm Nghi không nói năng gì cả chỉ nhất thiết chối rằng mình không phải là vua (có sách nói là quân Pháp rất bối rối vì không biết có phải là vua Hàm nghi không, các quan lại trong vùng có đến bái mạng nhưng vua coi như không biết, nhưng khi thầy học củ của vua là Nguyễn Thuận tới thăm thì vua Hàm Nghi vái chào, từ đó viên quan Pháp Dabat mới chắc là vua Hàm Nghi). Pháp đày Vua Hàm Nghi sang sứ Algérie, ở đó Vua lập gia đình với một người Pháp, có 3 con, 2 gái 1 trai, và mất năm 1944. Hài cốt sau được chuyển về Pháp. (sau nầy tên Trương Quang Ngọc bị ông Phan Ðình Phùng -đảng Văn Thân trong phong trào Cần Vương- sai quân vây bắt rồi đem ra chém đầu để trị tội bán Vua)

Ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý (28-1-1889) vua Ðồng Khánh thọ bệnh mà mất, ở ngôi được 3 năm, thọ 26 tuổi.

Niên hiệu
Thành Thái
Năm sanh, năm mất
1879-1954
Giai đoạn trị vì
1889-1907
Miếu hiệu
Hoài Trạch Công Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Chiêu, Nguyễn Phúc Bửu Lân

Con vua Ðồng Khánh mới 3 tuổi nên không nối ngôi được. Triều đình Huế và Khâm sứ Rheinart đã đồng ý đưa Bửu Lân là con của vua Dục Ðức lên ngôi lấy hiệu là Thành Thái ngày 2-2-1889 (lúc đó mới vừa 10 tuổi đang bị giam trong ngục với mẹ -sách TTK). Sách nói vua Thành Thái là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Nhà vua muốn áp dụng các công cuộc cải cách quốc gia (chính nhà Vua đã hớt tóc ngắn, biết lái xuồng máy và xe hơi). Nhưng trước các ý tưởng cấp tiến của nhà Vua, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Ðể che mắt, Vua thành Thái giả hành động như một kẻ điên rồ. Năm 1907, Pháp biết Vua tìm cách chống Pháp nên vu khống là Vua bị điên rồi truất phế Vua Thành Thái đem giữ tại Vũng Tàu và đến năm 1919 thì đem sang an trí tại đảo La Réunion bên Phi Châu (đi cùng một lúc với vua Duy Tân sau nầy).
Bị giam cầm nơi quê người mãi đến tháng 5 năm 1947 (sau khi vua Duy Tân mất) cựu hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam và quản thúc tại Sàigon cho đến 24-3-1954 là ngày vua mất, thọ 76 tuổi.

Niên hiệu
Duy Tân
Năm sanh, năm mất
1900-1945
Giai đoạn trị vì
1907-1916
Miếu hiệu
.
Tên Húy
Nguyễn Phúc Hoảng, Nguyễn Phúc Vĩnh San

Vua Duy Tân sinh ngày 19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay.

Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất « mệ Vĩnh San ». Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.
Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhác và đần độn, chắc dể sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.
Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày (5-9-1907), vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là « ...Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám ».
Ðể kiểm soát vua, Pháp đã bày ra những việc sau:
-Lập một phụ chính gồm sáu ông đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.
-Ðưa ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành động của Vua Duy Tân).
Khoãng năm 1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu (đầu thế kỷ thứ 18) trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức để tìm vàng và đào sới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.
Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế. Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động bất nhân đó. Vua Duy Tân mới hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.
Năm Vua Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giỡ ra xem những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình, nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ), nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.
Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.
Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục (do ông Trần Cao Vân cầm đầu) hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghĩ mát, người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho Vua một bức thư của 2 lảnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Ông Trần Cao Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đảo Réunion cùng với vua Thành Thái (1919).
Vua Duy Tân mặc dù bị đày nhưng vẫn thiết tha với quê hương, ông vẩn tìm cách trở lại với đất nước. Ðệ nhị thế chiến xảy ra, ông nghĩ đó là cơ hội để ông có thể thoát ra khỏi nơi giam cầm bằng cách xin đi lính cho Tây. Và đúng như tiên liệu, sau đó vua Duy Tân đã có dịp sang Pháp gặp Tướng De Gaulle (1945) và được ông nầy hứa là sang năm sẽ đích thân đưa Vua về Việt Nam để trở lên ngôi mặc cho bộ Thuộc Ðịa phản đối. Vua Duy Tân mừng lắm có tuyên bố với nhiều người cuộc hồi hương sắp tới nầy nhưng rất tiếc chiếc phi cơ chở ông trên đường từ Pháp về đảo để thăm vua cha và gia đình đã bị rớt, không ai sống sót (tháng 12 năm 1945). Ðây vẫn là một nghi vấn cho lịch sữ.

Niên hiệu
Khải Ðịnh
Năm sanh, năm mất
1885-1933
Giai đoạn trị vì
1916-1925
Miếu hiệu
Hoằng Tông Tuyên Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Tuấn, Nguyễn Phúc Bửu Ðảo

Truất phế vua Duy Tân xong, triều đình Huế được sự chấp thuận của toà Khâm sứ đưa Hoàng tử cả Nguyễn Phúc Bửu Ðảo con của vua Ðồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Ðịnh.

Theo các sách mà tôi có thì vua Khải Ðịnh chỉ là vị vua ăn chơi, chỉ lo cho mình chứ không lo cho nước, lại rất chuộng trang điểm và tự mình sáng chế ra những bộ y phục mới cho vua và cho cả quan hộ vệ (xin xem hình vua Khải Ðịnh thăm Paris). Năm 1922 khi Vua đi dự cuộc "thi đấu xảo thuộc địa" ở Marseille (Pháp) ông Phan Chu Trinh có gởi một bức thư trách Vua 7 tội trong đó có tội "ăn mặc lố lăng". Dưới thời của Ngài, trong triều đình không có chuyện xích mích với Pháp, theo sách thì gần như Ngài để cho Toà Khâm Sứ định đoạt mọi chuyện.
Sách kể rằng vua Khải Ðịnh chỉ thích đàn ông, khi coi hát bội, vua đều bắt các "kép" giả "đào" để đóng ; nhưng sách lại nói rằng ông lại có một người con trai (Hoàng tử Vĩnh Thụy) với bà phi Từ Cung !
Nếu xem cái site của vua Duy Tân (https://vinhsan.free.fr) làm bởi các con cháu của Ngài thì chúng ta lại có thêm được một "tiếng chuông" khác : Trong đó vua Khải Ðịnh được xem như một người vua muốn cải tiến đất nước, Ngài bỏ chuyện thi cử vì cho rằng cái học đó đã lổi thời, không còn thích hợp với cái xã hội hiện tại và khi Ngài qua Pháp (năm 1922) là để tìm cách giải thích cho Pháp hiểu sự ham muốn (đòi hỏi) tự trị của dân tộc Việt. Ở đây chúng ta cũng được biết thêm là Hoàng tử Vĩnh Thụy chỉ là con nuôi của vua Khải Ðịnh !
Vua Khải Ðịnh có xây cất nhiều công trình mà cái nổi tiếng nhất là cái lăng của Ngài, nếu nhìn vào thì người ta sẽ nhận diện ra ngay là một công trình Á Châu nhưng nó hoàn toàn không giống những kiến trúc đương thời, từ vật liệu xây cất tới cách trang trí nội thất. Có người khen kẻ chê nhưng nhất định đây là lần đầu tiên trong lịch sử mà dân Việt Nam tìm cách tự tạo riêng cho mình một đường lối kiến trúc.
Vua Khải Ðịnh mất ngày 25-9 năm Ất-Sửu (6-11-1925).

Niên hiệu
Bảo Ðại
Năm sanh, năm mất
1913-1997
Giai đoạn trị vì
1925- 1945
Miếu hiệu
.
Tên Húy
Nguyễn Phúc Thiển, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy

Hoàng tử Vĩnh Thụy sanh ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu (23-10-1913), khi vua Khải Ðịnh mất thì Hoàng tử Vĩnh Thụy còn đang học ở bên Pháp (từ năm 1922). Toàn quyền Pháp Monguillot ra lệnh thành lập hội đồng phụ chính mới do ông Tôn Thất Hân đứng đầu và đại diện cho chánh phủ Việt Nam để ký với Pháp một hiệp định mới. Theo hiệp định nầy thì Khâm sứ sẽ là chủ tịch hội đồng nội các của Việt Nam, và kể từ dây Triều đình Huế sẽ không còn ngân sách riêng như trước nữa.

Ngày 14-11 năm Ất-Sửu, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Bảo Ðại. Lên ngôi vua xong, Bảo Ðại giao công việc triều chánh cho hội đồng phụ chính rồi trở sang Pháp học cho đến năm 1932 mới trở về nước. Theo sách thì vua Bảo Ðại tính nắm lại quyền hành để cải tổ nước nhà nhưng gặp phải sự phản đối của các quan bảo thủ và bị chánh phủ Pháp cản trở, ông thất vọng vì thấy mình làm vua cũng như không nên đâm ra chán nản, lao mình vào các cuộc đi săn, chơi thể thao, ...
Tháng 3-1945, Nhật đánh úp Pháp và tuyên bố là muốn giúp Việt Nam dành độc lập. Ngày 11-3-1945 viện Cơ Mật của Triều đình Huế tuyên bố Việt Nam dành lại chủ quyền, bải bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Ngày 17-3-1945 vua Bảo Ðại giải tán hội đồng Cơ Mật (lập từ thời Minh Mạng) và giao cho ông Trần Trọng Kim thành lập nội các mới, theo nguyên tắc "Dân vi quý", trong thành phần Nội Các phần lớn là các nhà Tây học (như Hoàng Xuân Hãn,...), nhưng từ khi thành lập Nội Các, ông Trần Trọng Kim chẳng làm gì được cả vì quyền hành đều nằm trong tay Nhật hết !
Ngày 19-8-1945, Việt Minh chiếm chính quyền ở ngoài Bắc, biểu tình trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc Việt Minh. Cũng cùng ngày nầy trong Nam (theo Philippe Devilliers) đài phát thanh Việt Nam có truyền thanh một chiếu của vua Bảo Ðại gửi quốc dân, yêu cầu dân hy sinh để giữ độc lập và Vua sẵn sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.".
Ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại nhận được một bức điện văn của Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng từ Bắc đánh vào nội dung như sau : "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà.". Sách chép là lúc đó ở Huế không ai biết Hồ Chí Minh là ai, sau khi điều tra biết được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì vua Bảo Ðại mới thốt ra câu tiếng Pháp : "ça vaut bien le coup alors !" (như thế thì cũng đáng -thoái vị- !)
Ngày 25/8/1945, vua Bảo Ðại cho công bố chiếu thoái vị. Ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ ở Thế Miếu và ngày 30/8/1945 đại điện chính phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận nhận ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn (Huế). Vua Bảo Ðại được phong chức Cố Vấn Tối Cao cho chính quyền mới.
Triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm trị vì (1802-1945).
Sau đệ nhị thế chiến, Pháp trở lại Ðông Dương và tìm cách chiếm lại Việt Nam. Năm 1946, cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong bên Hồng Kông. Năm 1948, Pháp thấy không xong nên tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Ðại về lập chánh phủ để có "chánh nghĩa", cựu hoàng Bảo Ðại đòi Pháp phải xác nhập 3 kỳ (thống nhất) và cho Việt Nam độc lập, Pháp tỏ vẻ chịu nhượng bộ và ký với cựu hoàng Bảo Ðại hiệp ước Hạ-Long ngày 5-6-1948 (với ông Cao ủy Emile Bollaert), bầu cựu hoàng làm Quốc Trưởng nhưng trong hiệp định lại đòi điều khiển quân đội, tài chánh và ngoại giao! cựu hoàng Bảo Ðại không hài lòng nên giận bỏ sang Pháp (nhưng vẫn điều hành từ xa).
Tới năm 1954, sau hội nghị Genève chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến thứ 17, cựu hoàng Bảo Ðại mời ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng ở Sàigòn, cuối năm 1955 các viên chức Hoa Kỳ ở Sàigòn giúp ông Ngô Ðình Diệm tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" để lật đổ cựu hoàng Bảo Ðại và tôn ông Diệm lên làm Tổng Thống.
Cựu hoàng Bảo Ðại mất tại Paris tháng 7 năm 1997.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nhận định về triều Nguyễn

Nhà Nguyễn là vương triều đã hoàn thành việc chấm dứt chia cắt, phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài dù rằng phong trào Tây Sơn là những người đầu tiên thực hiện quá trình này (thậm chí cuối thời Tây Sơn cũng đang có nguy cơ phân liệt).
Triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng đều lo củng cố vương quyền đồng thời củng cố chủ quyền dân tộc, chống mọi sự vi phạm, xâm phạm từ bên ngoài và bên trong, kể cả bằng những biện pháp như trấn áp quyết liệt Công giáo thời kỳ Minh Mạng và Tự Đức.

1. Vấn đề cải cách:
Theo Nguyễn Quang Trung Tiến (Trường Đại học Khoa học Huế), đối với những đề xướng cải cách, thái độ của nhà Nguyễn là tiếp nhận các điều trần chứ không quay lưng. Vua Tự Đức và triều thần dường như đã đọc không bỏ sót một bản điều trần nào của các nhà cải cách gửi về Huế;... đồng thời đã tổ chức thực hiện việc cải cách ở một số lĩnh vực. Tuy nhiên, nhà Nguyễn đã thất bại trong việc cải cách, những công việc tiến hành chưa nhiều và không đồng bộ, không thể tạo ra một cuộc cải cách thực sự như “Minh Trị duy tân” ở Nhật Bản, để rồi dang dở bất thành. Những nguyên nhân cơ bản là:

1. Cuộc cải cách của triều Nguyễn gặp phải hạn chế khách quan là không hề có những hậu thuẫn quan trọng về xã hội, thiếu hẳn một giai cấp đủ năng lực tiến hành cải cách.

2. Giai cấp phong kiến Việt Nam chưa có khuynh hướng tư sản hóa nên số đông triều thần nhà Nguyễn đã bị tầm nhìn hạn hẹp và sự thủ cựu chi phối, năng lực bản thân hạn chế.

3. Không có người biết tổ chức, quản lý, tay nghề không có, kỹ thuật yếu kém.

4. Sau khi Nam Kỳ mất, tiềm lực quốc gia hao mòn quá lớn, nguồn tài chính cạn kiệt, mất mùa đói kém triền miên, dân chúng nổi lên khắp nơi, nên sự đầu tư cho cuộc canh tân không đủ, nhiều chương trình học nước ngoài bị bỏ dở nửa chừng. Riêng nguyên nhân này còn có tác động từ phía Pháp: không ít lần người Pháp đã ngăn không cho du học sinh Việt Nam ra nước ngoài học; hoặc việc mua tàu máy, vũ khí của nước ngoài cũng bị Pháp phá hỏng...


2. Nguyên nhân mất nước:
Người dân Bắc Kỳ (Tonkinese) sụp lạy các binh sĩ Pháp năm 1884. Tranh vẽ trong cuốn La guerre du Tonkin (phát hành tại Paris, 1887) của L. Huard
Có những ý kiến khác nhau về trách nhiệm của các vua nhà Nguyễn đối với việc Việt Nam mất vào tay người Pháp.

Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp. Ngược lại, các nhà sử học miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có xu hướng quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã "cõng rắn cắn gà nhà" và Tự Đức "bán rẻ đất nước" cho thực dân.

Về phía Pháp, sử gia Gosselin nói rằng các hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết.

GS Nguyễn Phan Quang có ý kiến như sau:
Mất nước không phải là tất yếu... Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đường lối chính trị dẫn đến lúng túng vềquân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong nỗi lo sợ trước luồng tư tưởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhưng không có giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Gia-tô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tư duy để có biện pháp thích hợp.

Tác giả Nguyễn Quang Trung Tiến cho rằng: Nhà Nguyễn chú trọng tới việc giữ chủ quyền đất nước, trong đó có việc cấm đạo.
"Những chính sách cực đoan của nhà Nguyễn với Thiên chúa giáo không hề xuất phát từ đầu óc kỳ thị tôn giáo thuần túy, mà chính xuất phát từ nhận thức giữa Thiên chúa giáo với phương Tây là dấu nối như một thể đồng nhất. Vì thế, trong cách nhìn của triều Nguyễn, ngăn cấm Thiên chúa giáo là ngăn chặn phương Tây hiện diện tại Việt Nam, chứ không phải ngăn cấm một tôn giáo đơn thuần. Tuy nhiên, cách làm của nhà Nguyễn đã phản tác dụng, gây phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, tạo vết hằn lịch sử đau thương giữa lương và giáo, đồng thời khiến phương Tây có lý do nổ súng xâm lược và lợi dụng đồng bào có đạo trong suốt thời gian thống trị."

Giáo sư Phan Huy Lê thì cho rằng:
Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thànhnửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập...Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ thế kỷ XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách. Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối...không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì:
"Vương triều Nguyễn tuy không bán nước nhưng đã để mất nước (cho đến năm 1945). Tất nhiên, đây là khó khăn chung của các nước nhược tiểu mà triều đình nhà Nguyễn không thể vượt qua được thời đại trong tình hình Đông - Tây bấy giờ. Nhược điểm này chính là lý do mà một số người đã nêu ra để báng bổ vương triều ấy một cách nặng lời nếu không nói là quá đáng. Chủ yếu là do nhận thức phiến diện và thái độ cực đoan của một giai đoạn lịch sử."
Riêng với Tự Đức và các triều thần, Nguyễn Quang Trung Tiến nhìn nhận và lý giải điều mà nhiều sách vở từng gọi họ là "bạc nhược" dưới góc độ khác, từ nguyên nhân bế tắc trong cải cách:
"Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn đã không thể giải quyết mâu thuẫn giữacải cách mới có thể chống Pháp thành công và muốn chống Pháp thành công thì phải cải cách; vì thế, triều Nguyễn đã để mất dần lãnh thổ và phải lần lượt ký kết nhiều hiệp ước bất bình đẳng với thực dân Pháp. Sự bế tắc này dễ làm người ta liên tưởng vua Tự Đức và triều đình Huế đã theo đuổi một đường lối chống Pháp nhu nhược, thỏa hiệp, cuối cùng chấp nhận đầu hàng giặc.
"Hai hiệp ước Harmand (25-8-1883) và Patenôtre (6-6-1884) do triều Nguyễn ký kết với Pháp diễn ra sau ngày vua Tự Đức mất, nhưng đó là kết quả khó tránh khỏi của một kế sách dùng dằng, bế tắc của người tiền nhiệm".

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Sử học Việt Nam:
"Kết cục của triều Nguyễn có thể gọi là sự đầu hàng để mất nước. Nhưng đừng quá lời coi đó là sự bán nước vì không thể không nói đến gần 20 năm phản kháng chống xâm lược không chỉ của dân chúng mà cả triều đình. Những cuộc chiến đấu dũng mãnh của quan quân triều đình cùng nhân dân trên cửa biển Sơn Trà, trên thành Điện Hải, của quân dân Nam Bộ trên chiến lũy Kỳ Hoà, trên cổng thành Cửa Bắc Hà Nội với cái chết anh hùng của hai vị Tổng đốc thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu là bằng chứng..."

Giáo sư sử học Nguyễn Khắc Thuần khẳng định trách nhiệm của nhà Nguyễn đối với việc mất nước, bất luận nhìn từ góc độ nào:
"Việc Pháp đánh Việt Nam là một tất yếu khách quan; việc nhà Nguyễn để mất nước có phải là tất yếu khách quan hay không, đó là một dấu hỏi lớn, là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học của nhiều thế hệ nhà sử học. Thực tế cho thấy không phải nhà Nguyễn buông súng từ đầu và không phải các hoàng đế nhà Nguyễn đều bạc nhược. Chúng ta có quyền nhìn nhận việc mất nước từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn từ góc độ nào thì nhà Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nước".

3. Quan điểm đánh giá:
Từ năm 1945 đến trước năm 1975, đã có những ý kiến đánh giá phê phán nhà Nguyễn rất gay gắt ở miền Bắc. Ngay từ năm 1961, ngay trước khi cho ấn hành tập đầu tiên của bộ Đại Nam thực lục, Viện Sử học miền Bắc đã viết nhận định:
"Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh [1558-1888], những công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, ... tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta".
"Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn ..." và "Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử ... vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức".

Sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bản năm 1971 cũng cho rằng "triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản đồ Thế giới"[129].
"Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân ... Triều Nguyễn là vương triều tối phản động ... Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em ..."
"Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì kiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế".

Ngoài ra còn các nhận định trong các tiểu mục khác như "Tăng cường bộ máy đàn áp", "Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát", "Chế độ áp bức bóc lột nặng nề", "Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động", "Chính sách đối ngoại mù quáng", v.v... và trong tập II của bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội còn dùng những từ ngữ như: "triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt", "Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn", "cực kỳ ngu xuẩn", "tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh... Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp", v.v...

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì "Đọc “Lời giới thiệu” trong bản dịch bộ “Đại Nam thực lục” và học các chương mục lịch sử chính thống với những lời lẽ như vừa nêu, độc giả và học sinh sinh viên trong cả nước chắc hẳn đều phải phẫn nộ và căm thù các vua chúa nhà Nguyễn đến tận xương tủy! Có một điều ghi rõ trong “Lời nhà xuất bản” ở tập II của bộ “Lịch sử Việt Nam” là sách này đã được “viết theo đề cương” và “tư tưởng chỉ đạo” từ trên xuống. Nghĩa là các tác giả đã viết theo quan điểm lập trường của lãnh đạo chứ không phải viết theo tư duy sử học của cá nhân...".

Dù vậy, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vào ngay thời điểm đang chỉ đạo việc biên soạn bộ sách lịch sử do Ủy ban Khoa học Xã hội chủ trì đả phá quyết liệt các chúa Nguyễn và triều Nguyễn cũng nhắc nhở những người tham gia biên soạn bộ sử ấy rằng, rồi “đến lúc nào đó” phải đánh giá lại chính những quan điểm của bộ sử này về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn[130].
GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định, thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từthế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một thời kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau, có những lúc gần như đảo ngược lại. Triều Nguyễn được đặt trong “khung” lý thuyết hình thái Kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều phán xét không công bằng.

Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên - Huế), nhận định sai về nhà Nguyễn còn có 4 xu hướng: con cháu nhà Lê - Trịnh viết về nhà Nguyễn có những điểm sai; thực dân Pháp, Thiên chúa giáo và những người nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây Sơn đều có những đánh giá sai về nhà Nguyễn[110].
Quan điểm phê phán nhà Nguyễn chi phối xã hội miền Bắc (từ năm 1954) và miền Nam (từ sau năm 1975) trong một thời gian dài nên nhiều di tích có liên quan bị hủy hoại, xoá bỏ các hình thức ghi nhận như tên đường phố, trường học, các công trình công cộng tại các đô thị, thậm chí ngay cả với những “ông vua chống Pháp” như Duy Tân cũng bị bãi bỏ. Một thời gian dài quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc để trở thành phế tích sau những đổ nát của chiến tranh và lụt lội...[130]. Cũng theo ông Phan Thuận An, chỉ trong hai thập niên gần đây (1987-2008), nhiều cuộc hội thảo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu đã dần dần đem lại một cái nhìn dễ chịu hơn chứ không còn gay gắt như trước đối với vương triều này.

Tuy nhiên, trong quyển Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II do Đinh Xuân Lâm biên soạn ngày nay (bản năm 2007) cũng vẫn cho rằng "triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ"[131]. Ông Lâm cũng cho rằng nhà Nguyễn "là 1 nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với 1 chế độ chính trị lạc hậu, phản động". "Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn"... và các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp đều "xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị".
"Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách." "Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng" và "Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo..."
"Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây".

Lý giải về thái độ đánh giá trên, giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng: "nguyên do sâu xa của vấn đề này là do bối cảnh chính trị của đất nước (Việt Nam) thời bấy giờ và cách vận dụng phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu"... "Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử địa, Đại học sư phạm, Nghiên cứu lịch sửvà biểu thị tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng Việt Nam...".

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng có ý kiến tương tự, cho rằng do chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam mà các nhà biên soạn sách đã có thái độ khắt khe với nhà Nguyễn. Theo Nguyễn Đình Đầu, việc dùng những khái niệm như đấu tranh giai cấp, giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp phong kiến, tập đoàn thống trị, chiến tranh Cách mạng, tước đoạt tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động... lên xã hội nông nghiệp phương Đông trong sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà biên soạn là gượng ép.[135]
Nhà sử học Dương Trung Quốc thì tin là bởi "Bối cảnh chính trị của cuộc cách mạng “phản đế- phản phong” cùng lập trường đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu cực về nhà Nguyễn...". Ông cũng cho rằng "Sử học là một khoa học, nhưng nó cũng không thể không mang màu sắc chính trị."và "Trong nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã từng lên án nhà Nguyễn với những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công bằng."[130]
Giáo sư Trần Quốc Vượng là người sớm nhất đưa ra một đánh giá sáng sủa hơn trên tờ “Sông Hương” (Huế) vào năm 1987"Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Namhoàn chỉnh như ngày nay".[130]
Hiện nay, theo giáo sư Phan Huy Lê, "cần thiết phải khẳng định công lao của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, phát triển giáo dục, văn hóa. Những gì được coi là “tội” của các vua chúa Nguyễn cũng phải được xem xét lại cho thật công bằng".

Và giáo sư Phan Huy Lê cũng đặt câu hỏi "việc Nguyễn Ánh “diệt” Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc, Quang Toản có phải là phản tiến bộ hay không, khi mà những chính quyền này đã suy yếu và mất lòng dân?" Giáo sư cũng cho rằng "sau Cách mạng tháng Tám-1945 cho đến 1975, trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lượng công trình nghiên cứu không nhiều. Và cơ bản nhất là đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt cácchúa Nguyễn, đặc biệt là vương triều Nguyễn: chia cắt đất nước, cầu viện ngoại bang, đầu hàng thực dân xâm lược... Thời kỳ nhà Nguyễn bị đánh giá là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hướng đó gần như trở thành quan điểm chính thống trong biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông."và giai đoạn này "là thời kỳ mà nền sử học Mácxít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi. Không chỉ nhà Nguyễn mà nhà Mạc, nhà Hồ cũng chịu cái nhìn thiếu khách quan, công bằng tương tự..."

Nhà thơ Nguyễn Duy đã có ý kiến:"Cho đến bây giờ, nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá."

Cũng theo Giáo sư Phan Huy Lê thì các nhà sử học tham gia hội thảo quốc gia về "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX" năm 2008 đều nhận thấy "sự phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội... các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử học chưa được khách quan, trung thực."


(Nguồn: hình như trên wapedia :|)
 
Tiếp cận 1 cách nhìn về triều Nguyễn

Tiếp cận một cách nhìn về triều Nguyễn

Quốc Anh

Triều Nguyễn tồn tại trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động và triều đại này phải gánh chịu trách nhiệm khi để đất nước rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp cuối thế kỷ 19. Theo tác giả Quốc Anh, vấn đề đánh giá triều Nguyễn được nghiên cứu kỹ càng hơn với thái độ khách quan, biện chứng để từ đó nhìn rõ và bảo vệ những giá trị văn hóa mà triều đại này để lại.

Lịch sử thành văn của gần trọn một thiên niên kỷ sắp qua, giới sử học chúng ta đã quan tâm nhiều và chủ yếu đến một lịch sử giữ nước và mới bắt đầu quan tâm đến một lịch sử dựng nước, trong đó có lịch sử trị nước (quản lý đất nước) gắn liền với vai trò và đóng góp của các triều đại phong kiến ở Việt Nam. Có thể cũng vì thế và qua cái lăng kính ấy, triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam kéo dài gần một thế kỷ có chủ quyền (1802 - 1884) và hơn 60 năm sau chỉ còn là cái bóng của chế độ thuộc địa (1884 - 1945) chỉ còn được nhìn thấy trong sắc mầu ảm đạm của một chế độ chính trị suy đồi. Điều này cũng làm cho những dấu tích vật chất (mà thực chất là một phần di sản văn hóa dân tộc) gắn liền với triều đại này đã bị hủy hoại hay để mai một khá lâu.

Nhưng chính sự nghiệp xây dựng đất nước và đặc biệt là tư duy của công cuộc đổi mới kể từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ này đã đòi hỏi và kích thích một cái nhìn thực hơn về quá khứ gần gũi là triều Nguyễn. Thực ra, đó là sự nhìn nhận lại toàn bộ thế kỷ kề cận với thế kỷ chúng ta đang sống. Và người ta càng nhận thấy rằng cái thế kỷ 19 ấy giống như cái bản lề, cái cầu nối giữa xã hội truyền thống và hiện đại trong những điều kiện đầy thử thách ác liệt của sự áp đặt chế độ thực dân đến từ bên ngoài.

Một vài ông vua cuối triều Nguyễn phải gánh chịu trách nhiệm để đất nước rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp cuối thế kỷ 19. Mầm mống của nó có từ việc Nguyễn Ánh, nhằm giành được quyền lực trong việc chống chọi với nhà Tây Sơn đã không ngần ngại gửi con trai là Hoàng tử Cảnh cho giám mục Pigneau de Béhaine sang Pháp để ký Hiệp ước Versailles 1787. Từ sau Hiệp ước Patenotre (1884), triều Nguyễn chỉ còn là một triều đại bù nhìn gắn với chế độ thuộc địa của Pháp cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám quét đi tất cả... Dần vượt qua cái định kiến về triều đại ấy, trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, giới sử học đã bước đầu nhìn nhận lại một số lĩnh vực bắt đầu bằng những câu hỏi:

1. Nhà Tây Sơn, đặc biệt với vai trò của Nguyễn Huệ - Quang Trung đã có công lớn xóa bỏ tình trạng Nam - Bắc phân tranh, đánh giặc ngoại xâm Xiêm - Thanh, tạo ra nền tảng quyết định cho nền thống nhất đất nước. Nhưng phải chăng triều Nguyễn cũng đã kế tục nhà Tây Sơn, góp một phần hoàn thành sự nghiệp thống nhất, hoàn chỉnh lãnh thổ và xây dựng một thiết chế quản lý thống nhất của một quốc gia thời cận đại? Các đề tài nghiên cứu đi sâu vào đánh giá những thiết chế Nhà nước, những chính sách cai trị đất nước, những thành tựu trên lĩnh vực pháp luật, quản lý hành chính, quản lý ruộng đất, quan hệ đối ngoại với các quốc gia lân bang (Trung Hoa, Cam-pu-chia, Lào, Xiêm...), chế độ thi cử, quan chức luật pháp... và các nhân vật, đặc biệt là Minh Mạng (trị vì từ 1820 đến 1841) đã góp phần nhìn nhận toàn diện hơn và công bằng hơn về đóng góp của triều Nguyễn trên lĩnh vực này.

2. Triều đại nhà Nguyễn cho đến khi mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp phải chăng chỉ là một chế độ phong kiến bị khủng hoảng và trên đà suy vong như nhiều nhận định đã từng có? Nếu vậy thì vì sao triều đình ấy có thể để lại nhiều di sản đáng ghi nhận, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa, bao gồm cả văn hóa nghệ thuật và văn hóa chính trị. Thí dụ, chỉ trên lĩnh vực sử học, triều Nguyễn đã để lại một di sản rất đồ sộ với những bộ sử và các công trình mang tính bách khoa lớn do Nhà nước tổ chức biên soạn như Đại Nam thực lục, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí và rất nhiều tác phẩm sử học của nhiều tác giả đương thời kỳ. Nhiều vua triều Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... cũng là những tác giả của nhiều áng văn chương... Mặc dù bị thất thoát rất nhiều do chiến tranh, khí hậu và những xáo động chính trị, các địa bạ, những văn bản châu phê, hệ thống các hương ước cũng như các công trình kiến trúc trong thiết chế văn hóa (kinh thành Huế, các chùa chiền mới xây hoặc được trùng tu vào thời Nguyễn...) cho thấy dưới triều Nguyễn, nước ta đã đạt tới một trình độ phát triển cao ở kiến trúc thượng tầng... Và không ít các nhà sử học nước ngoài đánh giá trình độ phát triển nước ta thời này cao hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực...

3. Trên lĩnh vực phát triển đất nước, phải chăng triều Nguyễn luôn luôn gắn liền với chính sách bế quan tỏa cảng, kìm hãm phát triển thương nghiệp, bảo thủ chống lại các xu thế duy tân đất nước? ở đây tư tưởng Nho giáo chính thống đã tạo nên một quan niệm truyền thống thời phong kiến là trọng nông, ức thương. Đúng là có nhiều tư tưởng đổi mới do các nhà canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ... không trở thành hiện thực, nhưng điều đó có hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của nhà Nguyễn hay không, hay là trên thực tế do phải cảnh giác trước họa xâm lăng, triều đình có phần "đông cứng lại", chối từ mọi yếu tố ngoại lai kể cả kỹ xảo cơ khí của phương Tây. Nhưng trên nhiều lĩnh vực khác, triều Nguyễn không hoàn toàn khước từ sự du nhập những gì của phương Tây có lợi cho quyền lực của mình như sử dụng các chuyên gia người nước ngoài (Chaigneau, Vanier... được coi là các chuyên gia, cận thần gần gũi với nhà vua). Ngay các nhà canh tân dâng điều trần cho triều đình cũng đều do nhà nước cử đi tiếp xúc với nước ngoài như Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ,... Hơn thế nữa, chính cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam truyền thống cũng tạo nên một kháng lực tự nhiên mà để thay đổi nó không chỉ nhờ ý chí của triều đình mà được. Những yếu tố đó đã tạo nên sự trì trệ nhất định đối với sự phát triển, hiện đại hóa và hòa nhập được với thế giới bên ngoài vào thời điểm đằng sau văn minh vật chất của phương Tây còn gặp cả một âm mưu thực dân.

4. Trên cái toàn cảnh ấy, sự đánh giá các nhân vật lịch sử phải chăng cũng nên được nhìn nhận lại một cách khách quan hơn và toàn diện hơn, mặc dù đây là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Từ những người đứng đầu nhà nước như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, rồi các vua có tinh thần chống Pháp như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đến một loạt các quan lại như Phan Thanh Giản, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Trọng Hợp... sự đánh giá tuy còn có những điều chưa được nhất trí, còn cần được nghiên cứu kỹ càng hơn, nhưng khuynh hướng rõ thấy là ngày càng khách quan hơn và biện chứng khi gắn các nhân vật ấy với thời đại của họ.

Triều Nguyễn bắt đầu từ đời Gia Long (1802) và về hình thức kết thúc với việc vua Bảo Đại thoái vị khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về triều Nguyễn, người ta cũng ngược dòng thời gian để nói về các Chúa Nguyễn tổng cộng chín đời, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Các Chúa Nguyễn xuất phát từ cuộc đối đầu với các Chúa Trịnh ở phía bắc nhưng danh nghĩa vẫn thuận theo triều Lê đã mở mang bờ cõi về phương nam, tạo dựng cả một cơ đồ đã làm nên lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại. Đây là một giai đoạn lịch sử kéo dài ba thế kỷ chứa đựng rất nhiều vấn đề lịch sử quan trọng và phong phú mà đến nay vẫn chưa được tìm hiểu và nghiên cứu đầy đủ, tương xứng với tầm vóc to lớn liên quan đến quá trình phát triển lãnh thổ và sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Hơn một thập kỷ qua các đề tài được giới sử học nêu lên qua các cuộc hội thảo do các trung tâm nghiên cứu và giảng dạy sử học của cả nước đang làm rõ dần những câu trả lời cho các câu hỏi trên, nhiều kỷ yếu đã được xuất bản.

Các cuộc hội thảo có quy mô liên cơ quan hay quốc gia về văn hóa - xã hội triều Nguyễn, về các thời vua Nguyễn từ Gia Long, các hội thảo khoa học có liên quan đến Huế và việc trùng tu cố đô Huế trên quy mô ngày càng lớn, đặc biệt từ khi Huế trở thành di sản văn hóa của nhân loại; các cuộc hội thảo khác ở các tầm cỡ khác nhau về Phan Thanh Giản, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Trọng Hợp... việc dịch, xuất bản và tái bản các thư tịch thời Nguyễn như bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mạng chính yếu, Tự Đức văn tập, Châu phê... các công trình khảo cứu dựa trên các di sản của triều Nguyễn như địa bạ, hương ước... càng cho thấy việc nghiên cứu triều Nguyễn có ý nghĩa thực tiễn như thế nào đối với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện tại. Cũng vì việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử này có ý nghĩa thực tiễn và bao hàm những vấn đề nhạy cảm nên nó càng cần tiếp tục được đẩy mạnh trong tinh thần và ý thức ngày càng nghiêm túc và thận trọng hơn.

Có thể hy vọng vào năm 2002 giới sử học chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn diện về thế kỷ 19 của triều Nguyễn tương xứng với vị thế của nó trong toàn bộ tiến trình lâu dài của lịch sử dân tộc, cũng như đối với lịch sử những thế kỷ của chúng ta sắp qua và sẽ đến.

nguồn: Xưa & nay
https://www.suutap.com/default.asp?id=992&muc=3
 
Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại của xu hướng đổi mới ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX

Tư bản Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang lún sâu vào con đường khủng hoảng suy vong trầm trọng. Chính sách khắc nghiệt và sai lầm của triều Nguyễn về kinh tế - tài chính đã làm cho nông nghiệp trong nước ngày càng tiêu điều, xơ xác. Nông nghiệp sa sút, kéo theo luôn sự suy thoái rõ rệt của các ngành nghề thủ công truyền thống trong nhân dân. Còn công nghiệp cũng ngày càng lụi tàn vì các quy định ngặt nghèo như các chế độ công tượng mang tính chất cưỡng bức lao động, đánh thuế sản vật rất nặng mang tính chất nô dịch v.v…

Thương nghiệp trong nước và với nước ngoài sút kém rõ rệt, riêng thuế cửa quan trước có 60 sở thu thì đến năm 1851 chỉ còn 21 sở. Một số cửa cảng trước kia buôn bán phồn thịnh, nay trở nên vắng vẻ. Trên cơ sở một nền kinh tế sa sút về các mặt như vậy, tài chính quốc gia ngày càng thêm kiệt quệ.

Trong hoàn cảnh đó, mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị với nhân dân cả nước - chủ yếu là nông dân - đã trở nên vô cùng gay gắt và đã được bộc lộ rõ một cách kịch liệt bằng hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân xuyên suốt các đời vua nhà Nguyễn, kể từ đời vua đầu tiên Gia Long đến vua Tự Đức là ông vua được chứng kiến sự xâm lược của tư bản Pháp. Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn đã dồn mọi lực lượng quân sự trong tay vào việc bóp chết các cuộc khởi nghĩa nông dân.

Chính trong quá trình tiến hành “tiễu phỉ” quyết liệt đó, mà lực lượng quân sự của triều đình suy yếu dần, đồng thời cũng hủy hoại mất khả năng kháng chiến to lớn trong nhân dân, và như vậy đã tạo điều kiện cho tư bản Pháp để thôn tính nước ta. Đó là chưa nói tới chính sách sai lầm của triều Nguyễn về đối ngoại. Một mặt ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng đang cùng chung số phận bị chủ nghĩa tư bản Pháp uy hiếp, làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân ngày thêm khánh kiệt; mặt khác đối với tư bản phương Tây đang gõ cửa đòi vào thì một mực bế quan tỏa cảng, tưởng rằng đó là phương sách hay nhất để tự cứu. Bên ngoài kẻ thù ráo riết dòm ngó trong khi bên trong lại rối loạn và suy yếu, hoàn cảnh đó chỉ có lợi cho kẻ thù.

Nguy cơ mất nước vào tay bè lũ thực dân Pháp ngày càng rõ, tình hình đó làm cho những người yêu nước và thức thời không thể có thái độ bàng quan, lạnh nhạt. Ngay cả một số quan lại triều đình - nhất là một số người có dịp đi ra nước ngoài công cán nên thấy rõ sức mạnh của văn minh thế giới - cũng phải lên tiếng, đề đạt với triều đình một số công việc cáp bách cần làm để nước giầu, dân mạnh thì mới có khả năng bảo vệ độc lập dân tộc. Phạm Phú Thứ trong phái đoàn ngoại giao của triều đình sang Pháp hồi đầu năm 1863 (II) đã ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi và tại xứ người, khi về nước đã cho khắc in năm bộ sách giới thiệu nền văn minh của thế giới phương Tây.

Những bộ sách đó là:

• Bác vật tân biên (nói về khoa học);
• Khai môi yếu pháp (nói về khai mỏ);
• Hàng hải kim châm (nói về cách đi biển);
• Tùng chánh di qui (kinh nghiệm đi làm quan);
• Vạn quốc công pháp (giao thiệp quốc tế)

Tháng 5 năm 1863, Biện lý bộ Hình Trần Đình Túc tâu xin mộ dân khai khẩn ruộng đất hoang ở hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị; đến tháng 3 năm sau (1864), ông lại xin cho mộ dân, lập xã, lập ấp để rồi nhận phần khai khẩn ruộng hoang tại xã Lương Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Ngành khai mỏ cũng được đặc biệt chú ý. Tháng 3-1867, cũng Trần Đình Túc xin khai mỏ sắt ở xã Lưu Biểu, thuộc huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Sau đó, hoạt động khai mỏ được đẩy mạnh ở nhiều địa phương, có lúc do chính triều đình chủ động quyết định. Như tháng 3 năm 1868, ra lệnh cho các tỉnh khai thác than đá ở hai xã Sa Lung và Phú Xuân thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên; tháng 4 năm đó, đào lấy than đá ở núi Tân Sơn, tỉnh Quảng Yên. Tháng 6-1868, vua Tự Đức chỉ thị cho tỉnh Khánh Hoà đào lấy than đá ở núi Điện Cơ; tháng 7 năm đó khai mỏ sắt Phổ Lý ở tỉnh Thái Nguyên, mỏ than ở núi Hoàn Ngọc tỉnh Quảng Yên v.v…). Chỉ có thế thấy được ý nghĩa quan trọng của các hoạt động dồn dập trên khi liên hệ tới tình hình bi đát của ngành khai thác mỏ lúc đó, đến đầu đời Tự Đức, nhiều mỏ đã đình lại không khai thác.

Thương nghiệp cũng có những đổi mới đáng kể.. Biện lý bộ Hộ là Đặng Huy Trứ năm 1865 được phái sang Hương Cảng công tác lúc về đã xin đặt ty Bình chuẩn sứ để thu mua hàng hoá cất vào kho, chờ khi giá cả lên cao thì đưa ra bán rẻ cho dân để giữ giá cả thăng bằng, ngăn ngừa con buôn đầu cơ trục lợi (5-1866).

Căn cứ vào lời tâu của Đặng Huy Trứ tuy vẫn cho rằng “việc buôn bán là nghề mạt, nhưng lại khẳng định là ích nước lợi dân, là việc lớn của triều đình”, cũng thấy sự thay đổi về tư duy trong hoạt động kinh tế lúc bấy giờ của vua quan triều Nguyễn. Đặc biệt là có hàng loạt đề nghị mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài, một việc làm hoàn toàn đối lập với chính sách “bế quan toả cảng” truyền thống của chế độ phong kiến tập quyền. Tháng 9-1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế đi giao hiếu với nước Anh từ Hương Cảng về đã tâu xin vua Tự Đức mở cửa biển Trà Lý (Nam Định), nhấn mạnh tới yêu cầu “mở thương điểm thông thương với bên ngoài, chiêu tập nhân dân trong thiên hạ, tụ hội hàng ngoài thiên hạ để tính cách lợi ích lâu dài sau này”. Đến tháng 1-1873, lúc này toàn Nam Kỳ đã bị tư bản Pháp nuốt gọn từ 6 năm về trước - các quan ở Nha Thương Bạc cũng xin mở 3 cửa biển để thông thương (như tụ dân ở bở biển thì tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước; tập trung các nơi buôn bán gần biển thì liên lạc và tiếp ứng với nhau dễ, có khả năng ngăn ngừa giặc biển, đội thuỷ quân chiến thuyền của vùng biển có thể bảo vệ đội thuyền vận tải khi có giặc biển; tích tụ của cải trong dân, bố trí binh lính ngay trong những người làm nghề buôn bán để sẵn sàng đối phó khi có giặc; đẩy mạnh buôn bán với nhau sẽ làm cho tin tưởng lẫn nhau, qua đó thông hiểu được tình hình nước ngoài.

Về khoa học giáo dục, cũng đã có những nhận thức mới. Vua Tự Đức ra lệnh chọn 8 người có sức khoẻ, thông minh, siêng năng đi học nghề chế tạo đầu máy chạy biển.
Tháng 7-1867, nhà vua chỉ thị cho Viện Cơ Mật dịch các sách khoa học kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán để tiện phổ biến trong nhân dân. Tháng 5-1868, triều đình lại cử một đoàn 8 người vào Gia Định học chữ Pháp. Như vậy là tới những năm của nửa sau thế XIX, yêu cầu đổi mới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đã được đặt ra với Việt Nam nhằm giải quyết những khó khăn to lớn của đất nước, yêu cầu đó cấp thiết và mạnh mẽ đến nỗi ngay cả vua quan triều Nguyễn vốn bảo thủ và trì trệ cũng không thể không nhận thấy, và trong một phạm vi nhấn định đã có những việc làm nhằm giải quyết các khó khăn to lớn đó để đưa đất nước thoát cơn nghuy khốn. Nhưng kiểm điểm lại, tất cả các việc đó còn rụt rè, có tính chất thăm dò, và thường là để đối phó với thời cuộc nên thiếu kiên trì và thiếu triệt để, thường khi bị bỏ dở, nhất là khi các đề xuất đổi mới lại cho các giáo sĩ hay các giáo dân - những người mà triều đình dè bỉu gọi là “dĩu dân” - đưa ra thì vua Tự Đức và các quan lại trong triều ngoài địa phương thường đem lòng nghi ngờ, lo ngại vì đã nhập cục một cách sai lầm họ với bè lũ thực dân tay sai.

Vì vậy có khi do tình thế bức bách phải dùng họ thì cũng dùng nửa vời và sẵn sàng bỏ rơi họ nửa chừng. Cuối tháng 9-1866, Tự Đức phái Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Điền (cả hai người đều là giáo dân) cùng đi với giám mục Gauthier (Ngô Gia Hiệu) sang Pháp mua tầu, máy móc, sách khoa học kỹ thuật… Chuyến đi đó có mua được một số hàng hoá, nhưng căn cứ vào bức thư viết tháng 12 năm đó của Thượng thư bộ Lễ triều đình Huế gửi vào Sài Gòn cho phó đô đốc De La Grandière, thống soái và tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, thì thấy rõ việc mua bán rất tuỳ tiện, không có kế hoạch cụ thể, thích gì mua nấy nên lợi ích mang lại rất hạn chế, như đã mua một số máy móc thiên văn, máy điện thoại, các dụng cụ cho nghề in, các loại axit sun fu rich, ni tơ rích v.v… và một số sách nói về thuật hàng hải, về điện khí, v.v… Đó là không nói rằng trong rất nhiều trường hợp đã tìm mọi cớ khó khăn để cự tuyệt các đề nghị đưa lên, và phổ biến nhất là bỏ rơi trong im lặng.

Từ năm 1863 đến năm 1871, trong vòng 8 năm rưỡi, Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi lên triều đình tới 30 điều trần, đề cập một cách có hệ thống tới hàng loạt vấn đề cấp thiết nhất của Tổ quốc đứng trước nguy cơ mất còn ngày một ngày hai sẽ tới. Thế mà trước sau tất cả các đề nghị đó - những bản đề nghị có thể nói được viết bằng máu và nước mắt, bản đề nghị cuối cùng được Nguyễn Trường Tộ viết ngay trên giường bệnh, khi tử thần đang chờ ngoài cửa - đều vấp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ vua Tự Đức xuống tới các quan lại trong triều ngoài nội. Thậm chí trước thái độ kiên trì của Nguyễn Trường Tộ, vua Tự Đức có lần nổi nóng, đã có lời quở trách vừa chủ quan, vừa thiển cận: “Nguyễn Trường Tộ qua tin ở các điều y đề nghị… Tại sao lại thúc giục nhiều đến thế, khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều khiển quốc gia rồi”.

Đến Nguyễn Trường Tộ là một người nổi tiếng học giỏi, từng có cơ hội đi ra nước ngoài tham gia học hỏi, lại được giới chính trị và giáo hội Thiên chúa muốn dùng, thế mà còn bị Tự Đức và triều đình coi thường, xem khinh như vậy, thì việc cự tuyệt những đề nghị của một giáo dân bình thường là Đinh Văn Điền ở huyện Yên Mô (Ninh Bình) như đặt nha Dinh điền để khai khẩn ruộng hoang, khai các mỏ, đóng hỏa thuyền, đưa vào người phương Tây để lập các kho Bình chuẩn ở các nước để lưu thông hàng hóa, của cải cho nhân dân, tự do dạy và học binh thư, thưởng phạt nghiêm minh, có chính sách thích hợp với thương binh và gia đình tử sĩ v.v…cũng là điều tất nhiên mà thôi! Lúc còn có thời gian để đổi mới mà không biết chớp lấy thời cơ cũng là thất bại, huống chi đến lúc đã quá muộn, kẻ thù đã buộc chân, trói tay rồi thì còn hy vọng gì nữa!

Cho nên đến hai bản “Thời vụ sách” của Nguyễn Lộ Trạch ra đời vào các năm 1877 và 1882 - lúc này hiệp ước Giáp Tuất (1874) đã được ký kết xác nhận quyền chiếm đóng lâu dài và vĩnh viễn của thực dân Pháp trên toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ - thì chỉ có ý nghĩa nói lên tấm lòng yêu nước nhiệt thành của người trí thức khao khát muốn đem những điều sở đắc của mình ra giúp nước, nhưng đã thấy trước sự thất bại. Chính Nguyễn Lộ Trạch đã đau đớn nhận rõ: “Đại thế ngày nay không còn là đại thế như ngày trước. Ngày trước còn có thể làm mà không làm, ngày nay muốn làm mà không còn thì giờ và làm không kịp...”.

Thế mà Tự Đức vẫn thường trách là “ngôn hà quá cao” (nói sao quá cao), rồi đình việc cử ông sang Hương Cảng học cơ sảo. Sẽ là thiếu sót khi đề cập tới các đề nghị cải cách đổi mới dưới triều Nguyễn mà không nhắc tới Bùi Viện, một con người kết hợp khá chặt chẽ tư duy đổi mới với hành động, và đã được Tự Đức dùng vào một số công việc cụ thể như thành lập độ Tuần dương quân bảo vệ mặt bờ biển, mở cửa cảng Hải Phòng, hai lần đi sứ sang Hương Cảng và nước Mỹ vào các năm 1873 và 1875, nhưng công việc đã bị dang dở với cái chết đột ngột năm 1878. Như vậy là đến nửa cuối thế kỷ XIX thì tất cả những đề nghị đổ mới lớn nhỏ, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh ở Việt Nam đều nối tiếp nhau thất bại. Tất nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của các đề nghị đối mới đó.

Một phần là do các đề nghị đó, kể cả các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ - nói chung đều nặng về ảnh hưởng bên ngoài mà thiếu cơ sở vật chất để tiếp nhận từ bên trong. Mặt khác nội dung của các điều trần trên không hề đả động gì đến yêu cầu cơ bản của lịch sử Việt Nam hồi đó là giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với tư bản Pháp xâm lược và giữa nhân dân lao động - chủ yếu là nông dân - với giai cấp phong kiến hủ bại đang trượt dài trên con đường khuất phục đầu hàng thực dân Pháp.

Vì vậy đã không được chính ngay nhân dân đang sục sôi bầu nhiệt huyết đánh giặc cứu nước nhiệt tình hưởng ứng và hăng hái đứng ra làm hậu thuẫn, khả dĩ tạo thành một sức ép đáng kể đối với giới cầm quyền, buộc họ phải nghiêm chỉnh thực hiện. Nhưng nguyên nhân quan trọng quan trọng nhất - có thể nói là chủ yếu - làm cho các đề nghị đổi mới thời đó thất bại là do thái độ bảo thủ, phản động của vua quan triều đình, tuy có lúc do tình thế thúc bách nên có chủ trương một vài đổi mới về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục..., nhưng về cơ bản thì trong tư tưởng, cũng như trong cơ cấu chính trị vẫn không hề thay đổi, nên không bảo đảm cho việc đổi mới được thực hiện triệt để, trót lọt, thường là nửa chừng bị bỏ dở.

Công cuộc đổi mới nửa cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam vì các hạn chế ngặt nghèo trên nhất là thiếu sự tham gia của đông đảo quần chúng - nên cũng chỉ giới hạn trong một số người, một bộ phận nhỏ bên trên mà thôi, chỉ là một xu hướng mới trong phong trào yêu nước nói chung của nhân dân ta hồi đó. Cứ tiếp nối đà phát triển đó, bước sang những năm đầu thế kỷ XX, trong những điều kiện lịch sử khác trước, yêu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết hơn và được thể hiện qua hai xu hướng bạo động và cải cách song song tồn tại và phát triển. Nhưng cũng phải đợi tới cuộc vận động duy tân tiến tới những cuộc đấu tranh chống thuế năm 1908 với sự tham gia đông đảo của quần chúng nông dân miền Trung - hay ở mức độ thấp hơn là Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc - thì mới thật sự trở thành một phong trào đổi mới có vị trí xứng đáng và ảnh hưởng to lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng lâu dài và anh hùng của dân tộc.

GS. NGND Đinh Xuân Lâm (Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN)
 
Các bạn thử xem bài của TS. BÙI KHA (California) về Nguyễn Trường Tộ

Nhiều người nghĩ lầm là Nguyễn Trường Tộ (NTT) có tư tuởng canh tân đổi mới, thực dụng, và có chương trình mở trường Kỹ thuật… Chúng tôi sẽ dẫn chứng một số đề nghị của ông để biết thực chất về các mỹ từ nêu trên.

A. CHỈNH TRANG VÕ BỊ

(Di thảo số 27- Tế cấp bát điều, viết tháng 11/1867- Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo).
Một trong tám kế hoạch cần làm gấp là “Chỉnh trang võ bị” (vui lòng xem bài Bùi Kha - Ý kiến về bài Nguyễn Trường Tộ và khát vọng canh tân, trên báo điện tử Hồn Việt (https://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi.

B. LẬP VIỆN DỤC ANH VÀ TRẠI TẾ BẦN
Cách trình bày của NTT có vẻ hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi và những cụ già không con. Vì thế mà có người đã ca tụng NTT có lòng nhân đạo và kiến thức đi trước thời đại. Nhưng nếu lồng đề nghị này, cũng như các đề nghị khác của ông vào bối cảnh đất nước thời bấy giờ, chúng ta sẽ tiên đoán được dụng tâm của NTT. Ông viết:

- Nếu triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ giám mục (tức là ông tình báo Gauthier, BK) mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay (Tế cấp bát điều, TBC, sđd, trang 276).
Mời độc giả tìm hiểu tình hình chính trị xã hội của đất nước ta thời bấy giờ, và ý kiến của chính viên chức cao cấp của Pháp để có thể biết được thâm ý của NTT.
Biến cố 1: Năm 1850, ở Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê-su, Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.
Biến cố 2: Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương quốc Công giáo ly khai. Về sau triều đình dẹp yên.

Biến cố 3: Cùng thời, tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình núp dưới chiêu bài khôi phục nhà Lê.
Biến cố 4: Ngay cả sau khi NTT chết, Lm Trần Lục, năm 1886 quản xứ Phát Diệm... nhận phép lành của Giám mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5.000 giáo dân. Vì vậy, chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (“... père Tran Luc, curé de Phát Diệm…Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Français avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris”. Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Casar), Paris 10. 1978, pp. 41 & 42).

Hiện tượng núp bóng tôn giáo cho mục tiêu chính trị và quân sự, cũng được công sứ Bonnal cho biết: Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, và tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục... (Nguyễn Xuân Thọ, sđd, tr. 360-361).
Hành động của giáo sĩ người Tây và giáo dân như thế mà NTT lại đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng lão, rồi lại nhờ ông tình báo Gauthier cử tu sĩ đến cai quản.

C. MỞ TRƯỜNG KỸ THUẬT
Theo tờ trình của Gauthier (tháng 3/1868) nạp cho triều đình Tự Đức chúng ta thấy, có 4 thầy giáo do NTT và tình báo Gauthier thuê về. Trong đó có 3 linh mục người Pháp. Dụng cụ và phí tổn, tiền ăn ở của phái viên NTT và Giám mục Gauthier cộng với tiền chuyên chở khuân vác và đóng thùng là: 5.120,148 quan. (Lược trích trong TBC, sđd, trang 467 & 468).
Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức rất hậu hĩ…
Trong việc mở trường huấn nghệ - kỹ thuật, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải có quyết tâm. Thứ hai, giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Gauthier và NTT ngày 23/2/1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ và kỹ thuật.
Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy ông này không có các bằng cấp hoặc khả năng chuyên môn mà Gauthier mô tả. Nguyên văn: “Theo một tờ phúc trình của Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23/2/1868):
- Lm. Thông (tức Montrouzies), biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi.
Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1/5/1867 đã đậu cử nhân văn chương.
- Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền giáo Paris ngày 14/10/1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.
- Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích cách tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc.
Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ này do bệnh cũ tái phát đã xin trở lại Pháp.
- Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca Sa Nhi) là một thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp.
Nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng” (TBC, sđd, trang 49 & 50).
Các đối chiếu nêu trên chứng tỏ vua quan triều Tự Đức bị thầy trò NTT dối trá lừa bịp có hậu ý.
Việc mở trường kỹ thuật tại Huế là một cái bong bóng để thăm dò, một chương trình hoa mỹ để dễ chui sâu trèo cao. Thật vậy, người chủ chốt việc mở trường Kỹ thuật tại Huế, Gauthier, là một tên tình báo. Mời độc giả xem một số tài liệu dưới đây:

a. Gauthier với hiệp ước mới
Theo thứ tự thời gian, chúng ta thấy Giám mục Gauthier cùng NTT đến chào mừng quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858 và làm reo để quân viễn chinh đánh Huế cho chóng dứt điểm nhưng bất thành. Năm 1861, theo lời yêu cầu của phó Đô đốc Charner, thầy trò Gauthier về Sài Gòn, để mở rộng vùng chiếm đóng.
Sau khi Hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Một người Công giáo cuồng nhiệt là Trung tá Hải quân Aubaret vận động được Bộ Ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế, một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15/1/1864…
Theo Hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với nhân dân Việt Nam (CHT. sđd, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước.
Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe ủng hộ. Chống hoặc ủng hộ cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách này hay theo cách khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier - hai người có liên hệ đến việc mở trường kỹ thuật nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước... Nguyên văn tiếng Pháp:
Le traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans,… (Cité par CHT, sđd, p. 181).

b. Gauthier được mời họp mật
Năm 1872 tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ Bắc Kỳ. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez này: “... Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ, chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng”.

Nguyên văn tiếng Pháp:
... Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village. Nous passâmes la journée au milieu de cette population chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers 4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer avec nous (Cité par CHT, sđd, pp. 242-243).

c. Gauthier chủ trương dùng vũ lực
Thư đề ngày 12/2/1873, ngày 19/2/1873 gửi cho Đô đốc Dupré, Gauthier viết:
“Cuộc chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác”. (Tức là giám mục khuyên nên dùng vũ lực với triều đình Huế mà không nên có một giải pháp nào khác, BK).

Nguyên văn tiếng Pháp:
Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de la population, écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de la cour de Huế et de ses madarins - que ces gens n'entendront jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout le reste. (Mgr. Gauthier à Dupré, 12/2/1873, et 19/2/1873, CHT, sđd, p. 250).
d. Gauthier muốn có một chính phủ Công giáo tại Bắc Kỳ (vui lòng xem Bùi Kha Ý kiến về bài Nguyễn Trường Tộ..., (xin xem thêm trên báo điện tử (https://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi).
e. Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ: Chủ trương này cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm (xin xem thêm báo điện tử Hồn Việt (https://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi).

Dupré viết: “Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này”.
Nguyên văn tiếng Pháp: Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat (Cité par CHT, sđd, trang 367).

Qua các dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi mở trường Kỹ thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa tình báo Gauthier và NTT để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Do đó, nên nói: Việc mở trường Kỹ thuật không bao giờ có chứ không phải vì thế mà thất bại như Lm. Trương Bá Cần nhận định trong sách đã dẫn. Giả sử triều vua Tự Đức, hoặc ai đó, có điều kiện để mở trường Kỹ thuật thì chính Gauthier và NTT sẽ đập phá trước hết, vì nếu Việt Nam được giàu mạnh thì kế hoạch muốn đồng hóa và biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ của Gauthier bị thất bại sao?

D. NHÂN SỰ DÙNG VÀO VIỆC CANH TÂN
Di Thảo số 17, NTT lại còn táo bạo hơn lúc đề nghị nên Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, ông viết: “Nay giám mục lên Kinh đô,… Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu” (Dẫn theo TBC, sđd, trang 188).


Nhưng các người mà NTT đề nghị lại có các “thành tích” phản quốc. Dưới đây là bằng chứng:
d1. Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ học ở đâu, học giả Đào Duy Anh trong Tạp chí Tri Tân (số 7/ 1941, tr. 167) cho biết về NTT và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau: “Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông ngôn ở Mã Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng.

Bởi thế, không khi nào ông làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ thì chỉ làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần dùng người thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Lm. Hoằng) chứ tự mình không khi nào đảm đương việc ấy”.
d2. Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, thư ký như NTT, nhà sử học Cultru ghi lại như sau:
Đề đốc Rieunier nói: “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực”.
Đại tá Bernard cũng viết với giọng khinh miệt: “… Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam” (NXT, SĐD).

d3. Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều cũng là Việt gian. Bằng chứng:
Theo cuốn Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ thì năm 1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức Thầy cả. (TBC, SĐD, tr. 190).
- Sau này chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và NTT (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).

Gauthier dẫn họ đến đón giặc Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858:
d4. “Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà Nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi”. (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47).

Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp đánh chiếm thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC, SĐD, trang 22).
... Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn” (TBC, SĐD, trang 22).
Nối kết các đoạn vừa dẫn, theo thứ tự thời gian chúng ta thấy, NTT và hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà NTT đề nghị triều đình dùng vào việc canh tân thì tất cả ba ông, kể cả NTT, đều đã có mặt trong đám người làm áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm (năm 1858). Năm 1861, ông cùng với tình báo Gauthier từ Hồng Kông trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô đốc Charner... để mở rộng vùng chiếm đóng...

Sử liệu cũng cho thấy, sau khi NTT chết, năm 1871, ý kiến đề nghị “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” đã có “kết quả” như sau:
“... Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn này được sự cố vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằng (Chức Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm... ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân...” (Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, trang 340). Cùng trang 340, Nguyễn Sinh Duy chú thích thêm:

“Còn Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mã Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Phòng và Hải Dương; năm 1885, hàm Hường lô tự khanh kiêm Tham biện Viện Cơ Mật; năm 1886, giữ chức Phụ tá đại thần và Ngự tiền triều vua Đồng Khánh”.

Như thế, thời Đồng Khánh đã có ít nhất là một giáo sĩ Trương Vĩnh Ký (tu xuất, vui lòng xem Trương Vĩnh Ký thiên tài và nhân cách?! – Bùi Kha đăng trên Hồn Việt số 22) làm cố vấn cho Đồng Khánh, và Linh mục Nguyễn Hoằng làm chức Tham biện Viện Cơ Mật kiêm Phụ tá đại thần và Ngự tiền triều vua bù nhìn Đồng Khánh.

E. BỔ TÚC KẾ HOẠCH ĐÁNH ÚP GIA ĐỊNH, NTT viết ngày 9/2/1871:

Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định dễ khiến nhiều người có thiện cảm và kính trọng NTT. Nhưng sự thực như thế nào. Mời độc giả theo dõi:

Năm 1863, trong bài Thiên hạ đại thế luận ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc này và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng NTT viết bài chiêu dụ ngăn cản nhà vua.

Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Ông cũng lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương để huấn luyện. Chúng ta cũng biết, thời NTT muốn mộ binh như thế phải có lương thực và “tân binh” phải đi bộ mất ít nhất là sáu tháng, chứ không phải đi máy bay hay xe hơi như ngày nay. Đã thế, NTT lại không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực hợp tác đánh thì trí ông để đâu, tâm ông ở chỗ nào? Chỉ bằng nghi vấn này thôi chúng ta cũng biết được con người ông. Trong bài chiêu dụ, có thêm vài chi tiết quan trọng:

a. Ông viết, tôi sẽ báo tin cho Giám mục Gauthier biết kế hoạch này.

b. NTT tiết lộ: Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia Định đã nhiều lần muốn đem công việc Bộ Công giao hết cho tôi (TBC, sđd, tr. 327). Đô đốc La Grandière, tin dùng đến mức đem công việc Bộ Công giao hết cho ông.

c. NTT đưa mưu kế: Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết (TBC, SĐD, tr.330). Đọc đoạn này, có người đã ca tụng NTT là một chiến lược gia đại tài, biết dùng sức mạnh thiên nhiên để phá phương tiện địch. Nhưng quên rằng tại Gia Định và cả miền Nam thời bấy giờ và ngay cả bây giờ làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để NTT phá làm thuyền Pháp bị chôn dưới bùn?

d. Nếu ông đề nghị đánh gấp, thì ông có thể tạm gọi là một người yêu nước. Nhưng rất tiếc, ông viết: Kế hoạch này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành (TBC, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm đã nói lên tâm chất của ông.

Nếu đánh bây giờ thì ta có thể sẽ thắng mà Pháp phải thua. Đó là điều mà NTT, những người theo Pháp và thực dân không bao giờ muốn! Chứng minh?

Một, như trên đã nói, NTT đề nghị sử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm..., làm sao thắng được?

Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đoạn sau tháng 9/1870 Việt Nam sẽ thắng. Dưới đây là sử liệu:

“Ở Âu châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19/7/1870, nhưng mãi tới ngày 5/8/1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục tỉnh Nam Kỳ nổi loạn.

Song cả cho đến ngày 25/9/1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều đình Huế vẫn án binh bất động… Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam Kỳ” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng xuất bản, Sài Gòn 1970, tr. 66).

Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng NTT khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế?

Nếu nhìn kế sách đánh úp Gia Định dưới khía cạnh tình báo, gián điệp và phản gián, chúng ta sẽ biết thêm dụng tâm khác của NTT. Mời độc giả đọc mục kế tiếp.

e. Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh; bằng đường ngoại giao: viết ngày 1 tháng 2/1871, và Kế hoạch đánh úp Gia Định; bằng vũ lực viết ngày 9 tháng 2/1871; cách nhau 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy.

Tại chính quốc, Pháp bị tang gia bối rối vì thua Phổ. Triều đình Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một quốc gia vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước bằng vũ lực, nhưng triều đình vua Tự Đức lại quá ngây thơ không chịu đánh.

Do đó, NTT hẳn được lệnh quan thầy phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để Chính phủ Việt Nam sử dụng con đường ngoại giao thay vì quân sự. Bằng đường ngoại giao, NTT đề nghị cử phái đoàn đi Pháp, đi Anh và Y-pha-nho (Tây Ban Nha) để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ không dùng vũ trang.

Tuy vậy, có lẽ khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá đáng! Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường ngoại giao chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, NTT lại viết bài chiêu dụ Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định nhằm mục đích nhận diện xem ai ra mặt đánh, thì Pháp sẽ bắt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì khuyên không nên đánh bây giờ mà phải hai năm sau!

Nói gọn, thời vua Tự Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình một lòng quyết chiến chứ không hòa thì Pháp đã có thể rút khỏi Việt Nam. Nhưng NTT khuyên nên cho lính nghỉ ngơi, hợp tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình! Cơ hội hai là từ tháng 9 năm 1870 đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có, nếu đánh thì có thể thắng, nhưng NTT khuyên nên theo đường lối ngoại giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân đội Việt Nam có thể đánh, nên ông cũng bày ra chuyện đánh, nhưng không đánh bây giờ, mà phải hai năm sau.

Một số người hồ hởi ca ngợi, NTT bệnh nhưng phải gác chân lên để viết liên tiếp 7 bài trong vòng 3 tháng, nhưng thực sự 7 bài viết của ông từ tháng 2 đến tháng 5/1871 chỉ xoáy vào một trọng điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách thuộc địa của Pháp là tránh, đừng để Việt Nam sử dụng vũ lực đối với quân Pháp tại Nam Kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết 58 bài chiêu dụ của NTT cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt.

Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt Nam dùng vũ lực đối với thực dân Pháp.

Hai, sử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám mục linh mục gián điệp và Việt gian (tôi chỉ muốn nói đến mấy tên Việt gian mà thôi) lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm tôn giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, NTT phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải sử dụng những danh từ hoa mỹ như Canh tân, Đổi mới, Thực dụng, Kỹ thuật, phải bày ra chương trình này, kế hoạch nọ để tàng hình và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp mong muốn.

Cũng thế, hành động của ông giống như ông Huỳnh Văn Trọng, một điệp viên tình báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước năm 1975 tại Sài Gòn. Ông Trọng phải giả bộ nguyền rủa Bác Hồ và Đảng, phải chê bai các nước Cộng sản thậm tệ, phải năng nổ bày ra kế hoạch này chính sách nọ…, mới có thể che được mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao phó.

NTT được gán sai lầm là ông có sáng kiến canh tân và yêu nước nồng nàn, nhưng suốt tất cả 58 bản cái gọi là Điều trần chúng ta không thấy ông nhắc đến tên tuổi các nhà canh tân và yêu nước cùng thời như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ... và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch, Nguyễn Trung Trực... mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau:

De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào?

Puginier: Phải thủ tiêu họ đi.

De Lanessan: Tại sao?

Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả. (Nguyễn Xuân Thọ, SĐD, tr. 436-437).

TỔNG LUẬN

Dưới đây là một bức tranh khá chính xác về NTT:

1. Ý thức hệ chủ đạo: NTT phán: Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được.

2. Lúc đất nước lâm nguy: tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn rút về, ông khuyên triều đình cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình.

3. Về thế quốc tế: thương hiếu với giáo hoàng La Mã để Pháp dễ chiếm và đô hộ nước ta.

4. Cố vấn: ông tình báo Gauthier có thể giúp.

5. Mở trường kỹ thuật: được đưa vào 3 ông linh mục không có khả năng, còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện không thể dùng.

6. Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: Ông tình báo Gauthier sẽ cử người coi sóc để tạo một mạng lưới gián điệp cùng cả nước.

7. Canh tân đất nước: có 4 ông linh mục Việt gian phụ trách: Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu.

Như thế, tư tưởng chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, từ ông có thế lực đến gã cố vấn, nhân viên thừa hành đều do ngoại bang, tình báo và bốn giáo sĩ Việt gian điều khiển nhằm kế hoạch bủa một mạng lưới gián điệp và tôn giáo hóa toàn cõi Việt Nam.

Tôn giáo hóa toàn cõi Việt Nam thì sao? Sợ bị hiểu lầm tôi mượn ý kiến và nhận xét của những người Pháp có thẩm quyền để trả lời câu hỏi ấy một cách chính xác như sau:

Giám mục Puginier: Lúc nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, và không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng.

Đô đốc Page: Không có một người Công giáo An Nam nào lại không muốn làm lính dưới cờ Pháp.

Công sứ Bonnal: Khi một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ chối không đóng thuế,...không thừa nhận chính quyền Việt Nam.

Đô đốc Paul Bert: Nếu tất cả dân An Nam đều là Công giáo, thì chúng ta sẽ lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta.

CÔNG VÀ TỘI

Nhưng để được công bằng hơn, chúng tôi đề nghị công và tội của ông như sau:

Công

1. Chỉ huy đào Thiết cảng thành công.
2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấy giờ là chỗ để cho các giáo sĩ tình báo cư trú.
3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể sử dụng được nằm rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng.

Tội

1. Ngày 16/10/1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và Pháp làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm.
2. Năm 1861 làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn.
3. Vai kề vai, lòng cạnh lòng với ông tình báo Gauthier hơn 20 năm, cùng với ông này thập thò núp bóng sau bức màn canh tân, để viết 58 bản chiêu dụ. Trong đó, ý của Gauthier, lời của NTT. Xuyên qua Gauthier, Pháp muốn NTT phải viết như thế nào, sử dụng những cụm từ hoa mỹ như canh tân, đổi mới, thực dụng, kỷ thuật, dân giàu nước mạnh, cải cách võ bị… nhưng lại lộng giả thành chơn và ngụy trang như thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào các bẫy sập của Pháp.

Vì thế, nên chúng ta không lấy làm lạ là tại sao những ý kiến trong các bài chiêu dụ của ông vừa thích nghi với tình hình quân sự của Pháp, vừa mâu thuẫn với nhau.

4. Năm 1863, khuyên Triều đình cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình.

5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế.

6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải Dương vào Huế để toàn dân nổi loạn.

7. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước.

8. Mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do ông tình báo Ngô Gia Hậu cử người coi sóc. Lúc các tu sĩ có mặt khắp nơi, họ sẽ cải đạo người Việt trong vùng, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam.

9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ.

10. Năm 1870 thay vì phải đánh gấp để đuổi kẻ thù chung, NTT lại khuyên triều đình theo con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu sử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau để Pháp có thì giờ củng cố lực lượng.

Một con người như thế, tại sao có nhiều người nhầm lẫn để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí? Tôi nghĩ có 3 lý do chính:

Một, thiếu sử liệu để đối chiếu những đề nghị của NTT với tình hình quốc nội và quốc tế lúc bấy giờ.

Hai, vài tác giả trích dẫn một số đoạn trong các bài chiêu dụ mà không đọc kỹ toàn bộ bài đó và lồng nó vào trong cái khung của tình hình thời đại lúc bấy giờ, để biết cái hậu ý của NTT là gì trong các bài chiêu dụ như Thiên hạ Đại Thế Luận, Lục Lợi Từ, Tế cấp bát điều, Kế hoạch đánh úp Gia Định...

Ba, phát xuất từ lòng yêu Tổ quốc, muốn cho dân giàu nước mạnh và thoát khỏi cái nhục bị đô hộ, nên các tác giả đã không tiếc lời ca ngợi những ai có tinh thần và có chương trình canh tân xứ sở. Thúc đẩy bởi tâm tình yêu nước đáng quí đó, nhưng lúc ca tụng NTT lại thiếu đối chiếu những đề nghị của ông với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, nhất là không phân tích cẩn thận để xem những hư thực và hậu ý của NTT thập thò sau bức màn canh tân là gì.

Thiết nghĩ, các cơ quan hữu quan có trách nhiệm với lịch sử dân tộc nên cử một chuyên ban nghiên cứu công và tội của một số người được vinh danh sai lầm trước đây, trong đó có NTT, rồi công bố cho quốc dân biết. Còn ý kiến của tôi dĩ nhiên là không tránh khỏi khiếm khuyết cần được các bậc cao minh chỉ giáo.

(Theo Hồn Việt Quốc học)
 
Góp thêm ý kiến đánh giá trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX.

CHUYÊN ĐỀ
GÓP THÊM Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ NƯỚC TA RƠI VÀO TAY THỰC DÂN PHÁP
CUỐI THẾ KỶ XIX.
Võ Minh Tập ([1])

Trong chương trình bộ môn Lịch sử Việt Nam ở bậc phổ thông, nhất là ở lớp 11, sách giáo khoa dành cả một chương dài và học trong 5 tiết (Chương I, từ bài 19 đến 20, trang 106 đến 124, SGK Lịch sử 11 (2007), chương trình chuẩn) đề cập về triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc, trên cơ sở những sự kiện lịch sử đó, vấn đề lớn nhất được đúc kết lại là đánh giá vai trò và trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân pháp cuối thế kỉ XIX. Chuyên đề này mong muốn cung cấp thêm tư liệu để giáo viên tổ chức giảng dạy và làm rõ cho học sinh một vấn đề khá quan trọng liên quan đến triều Nguyễn.

Trước đây (từ sau khi hòa bình lập lại) do nhận thức vấn đề chưa đầy đủ nên khuynh hướng đánh giá các chúa Nguyễn, nhà Nguyễn vẫn hết sức nặng nề (như trong các tạp chí Văn-Sử-Địa, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cho đến sách giáo khoa, sách giáo trình…). Nhưng Từ những năm 1990 trở lại đây đã có gần 20 cuộc hội thảo khoa học, kể cả hội thảo tổ chức gần đây tại Thanh Hóa (18-19/10/2008) về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19, các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục và cũng không kém phần gay gắt…Tuy nhiên, với cái nhìn mới, trên cơ sở xem xét các sự kiện lịch sử một cách khách quan, khoa học, thỏa đáng, đúng tinh thần “công minh sử học” đã có một số ý kiên tương đối nhất trí về cách đánh giá nhà Nguyễn trong lịch sử.

Về khách quan, chúng ta cần phải đặt triều Nguyễn trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới để thấy được nguyên nhân khách quan dẫn tới việc thực dân nổ súng phát động chiến tranh xâm lược vào năm 1858. Đó cũng là nguyên nhân khách quan áp đặt từ bên ngoài ngoài ý muốn chủ quan của chính quyền các nước (trong đó có Việt Nam). Vào nửa đầu thế kỉ XIX, hầu hết các nước tư bản trên thế giới phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tìm kiếm thị trường đặc ra yêu cầu bức thiết, cuộc chạy đua ráo riết giữa các nước tư bản (trong đó có Pháp) săn tìm các thuộc địa diễn ra gây go và quyết liệt. Châu Á, trong đó có khu vực Đông Nam Á, Viêt Nam không thể không nằm trong quĩ đạo này đã trở thành đối tượng săn lùng, nhòm ngó, là cái bánh ngọt hấp dẫn cho bọn tư bản phương Tây. Với những lí do cơ bản là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đất rộng người đông. Tư bản pháp từ sớm đã có nhiều hoạt động để giao lưu với Việt Nam mang tính liên tục và ngấm ngầm với một đội quân giáo sĩ, thương nhân gián điệp rình rập chờ cơ hội. Việt Nam đương nhiên phải đối đầu với nguy cơ xâm lược. Và cuối cùng không tránh khỏi sự tấn công của thực dân Pháp với những ưu thế tuyệt đối của nó. Trong bối cảnh này, hầu hết các nước trong khu vực đều bị tư bản phương Tây thôn tính (trừ Xiêm).

Về chủ quan, đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan trên, còn phải đề cập đến một nguyên nhân chủ quan trong bối cảnh chung của khu vực mà các nước khác không có.Trước đó, do bị Tây Sơn đánh tả tơi, Nguyễn Ánh đã đi cầu viện nước Pháp. Ngày 28/11/1787, tại Paris, đại diện của Nguyễn Ánh và chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước 10 điểm, theo đó Pháp cam kết giúp binh thuyền, quân đội và chiến cụ theo yêu cầu của chúa Nguyễn. Còn Nguyễn Ánh cam kết sẽ nhường chủ quyền cửa Hàn (Đà Nẵng) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Nước Pháp được lập xưởng trên đất liền để sửa chữa tàu thuyền… Mặc dù Hiệp ước không được thực hiện song chính là cái cớ để Pháp xâm lược nước ta vào giữa thế kỉ XIX, một nguyên nhân tuy chủ quan nhưng hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh khi tranh thủ sự trợ giúp quân sự của Pháp.

Nguyên nhân khách quan và chủ quan như đã đề cập ở trên là rõ ràng. Nhưng đó chưa phải là yếu tố quyết định việc nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thôn tính. Việc mất nước vào tay Pháp là do trách nhiệm chủ quan của triểu đình nhà Nguyễn. Điều này không riêng gì về các vua nhà Nguyễn mà có sự liên đới đến các hệ thống quan chức quan liêu, bảo thủ xử sự và hành động theo tư tưởng Tống Nho cổ hủ và hẹp hòi.

Có ý kiến cho rằng việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp là do trình độ dân trí của ta thấp kém so với thực dân Pháp, văn minh nông nghiệp Á Đông lạc hậu so với văn minh công nghiệp phương Tây. Khẳng định như vậy, không phản ánh đúng trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước, điều đó chẳng khác nào là định mệnh, bất khả kháng. Đánh giá như vậy, chẳng khác nào việc mất nước là tất yếu, yếu thua mạnh, người văn minh chiến thắng người lạc hậu.
Để làm rõ trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc để mắt nước vào cuối thế kỉ XIX, phải thấy được việc mất nước là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng chuyển sang tất yếu. Điều này có nghĩa là, ngay từ khi bắt đầu xâm, lược Việt Nam (1858), khả năng đánh bại Pháp dưới sự lãnh đạo của triều đình không phải là không có, mà do chính sách sai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến thắng của quân ta ngày càng hao mòn, khiến địch ngày càng lấn lướt, từng bước thôn tính nước ta. Dẫn chứng cho điều này là trong thời kì đầu khi Pháp xâm lược nước ta cúng đã vấp ngã trước sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta dưới ngọn cờ của triều đình, có lúc chúng tính chuyện rút quân về nước trong lúc gặp guy nan. Thế nhưng càng về sau, quá trình chiến đấu bị giảm sút, suy yếu dần đã bộc lộ sự bất lực và yếu hèn của triều đình. Họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khá quá cảnh giác với bọn thực dân nên đã tiến hành chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng, không tổ chức toàn dân chống giặc, mà còn quá nhu nhược, thẳng tay đàn áp phong trào quần chúng, bóc lột nhân dân… ngoài ra lại dựa vào nhà Thanh để chống Pháp. Song nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp trên số phận của Đại Nam, đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác (Hòa ước năm Nhâm Tuất 1862, Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 và cuối cùng là Hòa ước Patơnốt năm 1884). Với Hòa ước 1884, Đại Nam hoàn toàn mất độc lập, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp, bị Pháp đô hộ.

Nhận định tình hình nước ta khi pháp phát động chiến tranh xâm lược, có thể khẳng định chế độ phong kiến Việt nam đang ngày càng suy yếu, lực lượng vật chất và tinh thân của nhân dân đang bị triều Nguyễn hủy hoại, chỉ có thể cứu vãn nguy cơ mất nươc nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đường cho xã hội tiến lên theo hướng mới, tăng cường năng lực vật chất và tinh thần trong nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nước. Muốn vậy, chỉ có thể thực hiện được bằng cách điều chỉnh các mối sung đột giữa địa chủ với nông dân, giữa giai cấp phong kiến ngoan cố với thành phần tư sản chớm nở, chấn chỉnh quân đội, thu phục và cố kết nhân tâm, một yêu cầu mà nhà Nguyễn với tất cả những tồn tại và hạn chế của nó hoàn toàn không có khả năng đáp ứng.

Kết quả nước Pháp đã vượt qua những khó khăn của chúng để cuối cùng thôn tính hoàn toàn Việt Nam. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX là hiển nhiên, không thể chối cải.

Nước ta có thể tránh được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp không? Có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất là chúng ta không thể tránh khỏi việc rơi vào vòng đô hộ của chủ nghĩa thực dân vì thực dân hóa là xu thế lúc bấy giờ, nhiều dân tộc ở Á, Phi đều không tránh nổi. Quan điểm thứ hai là Việt Nam có thể tránh được việc bị Pháp xâm lược, có thể chống xâm lược thắng lợi bởi dân ta có truyền thống đoàn kết, yêu nước chống ngoại xâm. Hơn nữa, Đại Nam là nước có tầm cỡ trung bình, tương đối phát triển trong khu vực còn nước Pháp ở xa và có không ít khó khăn…

Thực tế việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX, chính một sử gia Pháp (Charles Gosselin) cho rằng: “những vị Hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đỗ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có quyền được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quán vì không có dự liệu, không chuẩn bị gì hết”[2]. Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồi tưởng cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc ta ở Nam Bộ lúc bấy giờ…giá như triều đình lúc bấy giờ không ở trong tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục sự nghiệp của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn…thì phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam Bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều, nhất là đã được lãnh đạo thống nhất và kiên trì đấu tranh cho đến thắng lợi, đồng thời phong trào ấy chắc được sự ủng hộ kiên quyết của cả nước, như vậy đất Đồng Nai anh dũng từ đó đã trở nên bức thành đồng ngăn chặn bọn cướp nước phương Tây xâm phạm đất nước ta ở Nam Bộ, và do đó đã bảo vệ vẹn toàn độc lập và thống nhất của Tổ quốc”[3]. Cũng nói về sai lầm của triều Nguyễn, có ý kiến cho rằng “ sai lầm của Tự Đức và một số đình thần là không thể tha thứ”, “Lịch sử có thể “thông cảm” với An Dương Vương vì “nỏ thần vô ý trao tay giặc” khiến đất nước rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắ hơn 1000 năm, Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà Trần làm cho “chính sự phiền hà” dẫn đến đại họa nước ta rơi vào ách thống trịn của nhà Minh suốt 20 năm. An Dương Vương và cha con Hồ Quí Ly đã chiến đấu tới phút cuối cùng vì nền độc lập dân tộc. Kết cục người thì nhanh chóng nhận ra sai lầm của chính mình không thể sống nhìn đất nước bị kẻ thù dầy xéo, người thì trở thành chiến tù lưu đầy nơi viễn xứ. Riêng đối với nhà Nguyễn thì không phải trong trường hợp này, nó đã từng bước đầu hàng rồi làm tay sai cho kẻ thù thống trị nhân dân ta”[4]. Đánh giá về triều Nguyễn, trong “Lịch sử nước ta” (năm 1941), lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết:

“Bị Tây Sơn đuổi chạy ra nước ngoài.
…..
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng là vua Nguyễn rước Tây vào nhà.
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thật là ngu si.
….
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”[5].

Giai đoạn triều Nguyễn với nhiều vấn đề đan xen giữa những tiến bộ và hạn chế, chậm chí những mảng đen trắng không ró ràng, là giai đoạn phức tạp trong lịch sử dân tộc. Chúng ta cần có quan điểm khách quan, “công minh lịch sử” trong việc đánh giá mặt tích cực, cũng như mặt tiêu cực về triều Nguyễn. Trong đánh giá phải có quan điểm lịch sử và quan điểm giai cấp.Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, Việt Nam từ những năn đầu thế kỉ XIX đã bị đặt vào tình rạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân dân cả nước, ngày càng lún sâu vào con đường nhượng bộ, cầu hòa và cuối cùng cấu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân cả nước. Đó là trách nhiệm, cũng là tội lớn của nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trương Hữu Quýnh (chủ biên, 1999) (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến Cách mạng tháng Tám 1945, Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Phan Huy Lê (2009), Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19”, Tạp chí Cộng sản (799).
5. Vũ Kim Biên (2009), “Góp thêm ý kiến xung quanh “hậu hội thảo” về nhà Nguyễn”, Tạp chí Cộng sản (797).
6. Vũ Dương Huân (2009), “Góp phần đánh giá chính sách đối ngoại và ngoại giao thời Nguyễn, Tạp chí nghiên cứu Quốc tế (4).



(
[1] ) Cao học, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh.

[2]
Ch.Gosselin (1904), L’Empre d’Annam, Paris Perrin.

[3]
Phạm Văn Đồng (1969), Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, NXB.Văn học, Hà Nội.

[4]
Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.643.

[5]
Hồ Chí Minh (toàn tập, 1996) , tập 3, Nxb.CTQG, Hà Nội, tr. 226-227.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Em thấy Triều Nguyễn là triều đại phản động nhất trong các điều đại phong kiến của nước ta. Các vua chúa thì nhu nhược hèn hạ bất lực yếu kém không có được lòng dân. Đến khi bị xâm lược thì lần lượt cắt nước ta bán cho giặc và cuối cùng thì dâng hẳn cho giặc
 
Em thấy Triều Nguyễn là triều đại phản động nhất trong các điều đại phong kiến của nước ta. Các vua chúa thì nhu nhược hèn hạ bất lực yếu kém không có được lòng dân. Đến khi bị xâm lược thì lần lượt cắt nước ta bán cho giặc và cuối cùng thì dâng hẳn cho giặc

Hình như em tiếp xúc với rất ít cứ liệu lịch sử học ???

Ở đây, nội dung của chủ đề là trách nhiệm, tức cái việc làm được và không làm được của triều Nguyễn thời gian đương quyền.


  • Cái được ở đây là gì ?
  • Cái không làm được là gì ?
  • So sánh với các nước-quốc gia có hoàn cảnh lịch sử tương tự thì thấy thế nào ??

Thêm nữa, chủ đề này đã bàn rồi. Bạn chủ Topic này post bài rất kém. Cỡ chữ quá nhỏ mà không chỉnh sửa lại...Thực khó lòng đọc hết dòng thứ 3..
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top