Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX

TầnCa

New member
Xu
0
XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX

I. Một số khái niệm

1. Phong kiến

a) Khái niệm


Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ gốc Hán-Việt: 封建, xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Vào thời này, vua Chu ra chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến lập các nước chư hầu gọi là "phong kiến thân thích". Do chế độ này giống chế độ phong đất cho bồi thần ở Châu Âu nên người ta đã dùng chữ "phong kiến" để dịch chữ féodalité từ tiếng Pháp. Tuy vậy cả hai chữ này chỉ mới phản ánh hình thức phân phong đất đai chứ chưa phản ánh bản chất của chế độ đó. Trong các ngôn ngữ châu Âu, féodalité bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng Latinh nghĩa là "lãnh địa cha truyền con nối".

b) Đặc điểm chế độ phong kiến

• Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).

• Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau.

• Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ.

• Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân.

Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất đai của chế độ quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế. Trong nhiều trường hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng được gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ của chế độ quân chủ.

c) Phong kiến châu Á và phong kiến châu Âu

Trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến mang những đặc điểm riêng của những loại hình khác nhau. Do đó trong vài thập kỷ gần đây, các nhà sử học và các nhà nghiên cứu có những quan niệm rất khác nhau về chế độ phong kiến. Chính vì vậy, đã có những cuộc tranh luận về những đặc điểm cũng như sự tồn tại của chế độ phong kiến ở nhiều nước, nhất là ở phương Đông.

• Tại phương Tây (châu Âu), đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài. Việc phân phong đất đai cũng gắn liền với phương thức bóc lột dựa trên địa tô của chủ đất: những người được phong đất sẽ trở thành những chủ đất, những vùng đất được phong sẽ trở thành lãnh địa của riêng người đó (lãnh chúa). Nông dân trồng trọt, chăn nuôi trên mảnh đất phải đóng thuế đất (địa tô) cho lãnh chúa

• Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế. Vua chúa hiếm khi phong đất cho các quan lại mà chỉ phong chức tước, thưởng bổng lộc, nếu có phong đất thường phong trong một đời hoặc với diện tích nhỏ. Việc làm này nhằm giúp vua luôn "giữ chân" các quan lại bên mình và duy trì được sự kiểm soát đối với các quan, hạn chế sự hình thành các ông "vua con" trong lãnh địa được phân phong.

Sự khác biệt giữa phương Tây và phương Đông nhiều đến mức độ làm cho một số nhà sử học tỏ ý nghi ngờ hoặc phủ nhận sự tồn tại của chế độ phong kiến ở phương Đông.

2. Thuộc địa

Trong chính trị và lịch sử, thuộc địa là một vùng lãnh thổ chịu sự cai trị trực tiếp về chính trị của một quốc gia khác. Trong thời kỳ cổ đại, các thành bang thường có xu hướng tìm cho mình các thuộc địa riêng. Một số thuộc địa trong lịch sử từng là một hay nhiều quốc gia, trong khi một số khác là những vùng địa hạt không xác định được thời điểm hình thành quốc gia hay không phải là một quốc gia. Quốc gia hay đế chế sở hữu thuộc địa được gọi là mẫu quốc, đây cũng là tên thường được người dân của thuộc địa hay gọi. Trong thời Hy Lạp cổ đại, thành phố sở hữu một thuộc địa được gọi là thủ phủ của đế chế chịu sự ảnh hưởng chính trị của chính nó. Ngày nay, những thuật ngữ tương đương như lãnh thổ phụ thuộc hay vùng phụ thuộc thường hay được dùng để chỉ những lãnh thổ chịu sự ảnh hưởng chính trị của nước khác.

Những người có nguồn gốc từ một mẫu quốc cư trú và làm việc tại thuộc địa của nước đó được gọi là thực dân.

Thuộc địa khác với quốc gia bù nhìn hay nước chư hầu vì thuộc địa không độc lập nên không có đại diện quốc tế, và những chức trách cao nhất đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ mẫu quốc.
Thuật ngữ "thuộc địa không chính thức" được dùng bởi một số nhà sử học để gọi một quốc gia chịu sự cai trị theo kiểu de facto của một quốc gia khác, mặc dù cách gọi này thường dễ gây tranh cãi.

3. Thuộc địa nửa Phong kiến

Nước thuộc địa nửa phong kiến là một đất nước mà nhân dân ở dất nước đó phải chịu một lúc hai ách thống trị. Một đất nước do vua đứng đầu(chế độ phong kién ), nhưng ko có quyền hành cai trị đất nước ,họ chỉ là bù nhìn ,tay sai cho thực dân...và ách thống trị thứ hai chính là bọn thực dân, chúng chiếm đất nước đó và bắt đầu tận dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của nhân dân , người dân phải đóng thuế cho cả bọn thực dân và bọn phong kiến.
Hiểu rộng hơn chế độ thuộc địa nửa phong kiến là chế độ mà ở đó tồn tại đan xen cả hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, khi ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp tư sản, công nhân và có sự tồn tại (không mất đi) của hình thái xã hội phong kiến khi giai cấp phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền thống trị (dù chỉ là hình thức) và bóc lột nông dân.

II. Xã hội Việt Nam trước và sau khi Pháp xâm lược

I. Việt Nam trước năm 1858


Trước năm 1858 Việt Nam là một nước phong kiến điển hình với các triều đại vua chúa thay nhau cai trị như: Ngô – Đinh – Tiền – Lê (Đại Cồ Việt), Lý – Trần – Hồ - Lê Sơ (Đại Việt), Nguyễn (An Nam).

* Bộ máy nhà nước

Bộ máy nhà nước phong kiến không có nguyên tắc tổ chức và hoạt động rõ rang và thường được tổ chức một cách độc đoán. Về mặt pháp lý đa số chức vụ do vua cắt cử cho nên cơ thể bị bãi chức bất cứ lúc nào.

Hoạt động nặng tình quan liêu, chuyên quyền độc đoán. Toàn bộ quyền tập trung vào tay vua, các quan đứng đầu địa phương cũng gần như có toàn quyền ở địa phương mình. Tuy chưa tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất từ trung ương đến địa phương song các chức vụ trong bộ máy nhà nước phong kiến đã được sắp xếp theo trật tự nhất định. Đứng đầu là vua dưới vua là 6 bộ và 5 phủ đô đốc ngoài ra còn Đô sát viện, Hàn lâm viện, Tôn nhân phủ….

Một số điểm chú ý là sự khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến. Triều Nguyễn thay thế dưới sự nắm quyền của Nguyễn Ánh (tự Gia Long, 1802) thông qua nội chiến với sự giúp đỡ của ngoại bang - đi ngược lại với nguyện vọng và quyền lợi của dân tộc

* Một số đặc điểm của xã hội Việt Nam trước năm 1858

Thứ nhất, nền kinh tế tự nhiên (tự cấp, tự túc) chiếm địa vị chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.

Thứ hai, giai cấp thống trị duy nhất lúc đó là vua và địa chủ phong kiến (lực lượng chiếm hữu đại bộ phận ruộng đất trong xã hội). Giai cấp nông dân hầu như không có ruộng đất (chủ yếu là làm thuê cho địa chủ hoặc lĩnh canh). Ngoài hai giai cấp cơ bản đó xã hội Việt Nam lúc này đã có sự manh nha của những giai cấp mới như: địa chủ tư sản hoá hoặc nông dân, thợ thủ công mất việc (trở thành bộ phận đầu tiên của giai cấp vô sản).

Thứ ba, quyền lực nhà nước tập trung trong tay vua, quan lại phong kiến và hệ thống bộ máy trấn áp nhân dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất và bóc lột địa tô hoàn toàn do địa chủ, cường hào trực tiếp nắm giữ.


II. Việt Nam từ năm 1858 đến 1945


Sáng ngày 1/9/1858 quân Pháp với 2500 quân và 13 thuyền chiến nổ sung bắn phá và đổ bộ lên bán bảo Sơn Trà đánh dấu sự xâm chiếm Việt Nam.

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp thì quan hệ sản xuất TBCN cũng xâm nhập và dần làm biến đổi xã hội Việt Nam. Từ một nước phong kiến nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

a) Đặc điểm xã hội


* Quan hệ sản xuất TBCN đã xâm nhập vào, kinh tế hàng hoá và kinh tế tiền tệ được mở rộng, từng bước đẩy lùi và thu hẹp phạm vi của nền kinh tế tự cấp, tự túc. Một nền kinh tế không hoàn toàn là phong kiến cũng không hoàn toàn là TBCN, đó là nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Để bóc lột, vơ vét nguồn lợi từ thuộc địa, Pháp thực hiện một chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động: “Duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất TBCN” .

* Do sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của quan hệ sản xuất TBCN và chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp mà nền sản xuất trong nước đã có những biến đổi sâu sắc. Một số nghành công nghiệp đã ra đời như khai thác mỏ, giao thông vận tải…Quan hệ ruộng đất cũng không còn giữ nguyên được hiện trạng và hình thức bóc lột đặc thù vốn có của nó.
Sự phân hoá rõ rệt và sâu sắc trong xã hội đã tạo nên một cơ cấu giai cấp mới. Ngoài giai cấp địa chủ và nông dân, bắt đầu xuất hiện các giai cấp khác là công nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị, thậm chí trong giai cấp nông dân còn phân hoá thành phú nông, trung nông và bần nông.

* Trong thời kỳ phong kiến, bộ máy nhà nước trong xã hội Việt Nam do giai cấp địa chủ độc quyền nắm giữ. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, quyền lực nhà nước chuyển sang tay bọn tư bản nước ngoài, chúng trực tiếp nắm bộ máy quân sự, hành chính và tư pháp. Mọi quyền hành đều ở trong tay quan lại thống trị từ Toàn quyền đến Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc, Công sứ …Viên chức thuộc địa là loại người ăn bám, là gánh nặng trên lưng nhân dân Việt Nam. Hãy xem một phép so sánh của Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: Ở Ấn Độ thuộc Anh, dân số là 325 triệu người, có 4.898 viên chức người Âu. Ở Đông Dương thuộc Pháp, dân số 15 triệu người, có 4.300 viên chức người Âu ” ( 2 ).

Với những đặc tính riêng trong bản chất đế quốc của mình, thực dân Pháp đã tạo nên một cơ sở xã hội làm chỗ dựa cho hệ thống cai trị thuộc địa bao gồm giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp tư sản mại bản. Chúng biến bộ máy cai trị của giai cấp phong kiến thành hệ thống tay sai giúp chúng bóc lột và đàn áp nhân dân.

* Trước đây, ở nước ta phương thức sản xuất phong kiến giữ địa vị thống trị thì lúc này đặc điểm đó không còn có thể duy trì được nữa trước sự mở rộng của kinh tế hàng hoá, tiền tệ và của ngành giao thông vận tải.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong lúc tiếp tục đối phó với hàng loạt cuộc khởi nghĩa và đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp đã bắt đầu triển khai chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Kết quả là một số yếu tố của thành phần kinh tế TBCN (như Ngân hàng Đông Dương, các công ty khai thác mỏ, một số đồn điền, hãng buôn, xí nghiệp và mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ…) đã xuất hiện. Nói đúng hơn là những thành phần này được ghép từ ngoài vào xã hội Việt Nam cổ truyền trong điều kiện vẫn bảo tồn ở một mức độ đáng kể những tàn dư của phương thức sản xuất phong kiến, ( thể hiện rõ nhất là sự bảo tồn chế độ ruộng công cùng các thiết chế thượng tầng phù hợp với nó trong các cộng đồng làng xã).

Thủ đoạn của thực dân Pháp ở Việt Nam là vẫn tiếp tục sử dụng giai cấp địa chủ phong kiến làm chỗ dựa cho nền thống trị của chúng. Vì thế, chúng tìm mọi cách để duy trì và cho phép phát triển mạnh thêm thành phần kinh tế của giai cấp này.

Trên đây là những nét chính về tính chất thuộc địa nửa phong kiến của xã hội Việt Nam từ khi thực dân pháp đặt ách cai trị đến khi cách mạng tháng Tám thành công. Người viết bài này mong muốn rằng, trong khi làm rõ tính chất thuộc địa nửa phong kiến ở mức độ giải thích thuật ngữ, khái niệm (cách nói ngắn gọn, khái quát nhất và cũng chỉ để hiểu một cách đơn giản nhất), cần nắm vững những đặc trưng kinh tế xã hội của Việt Nam, những biến đổi có tính chất hệ thống của thượng tầng kiến trúc do những tác động vĩ mô của phương thức sản xuất TBCN lúc bấy giờ.

Lịch sử Việt Nam giai đoạn này có rất nhiều nội dung đáng chú ý, thậm chí còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ do chỗ còn thiếu thốn về nguồn sử liệu có độ tin cậy và tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, có một điều có thể khẳng định là những gì đã được khoa học thừa nhận và trở thành kiến thức phổ biến cho đông đảo công chúng thì cần được thể hiện rõ ràng và chắc chắn. Điều này không chỉ tốt cho riêng khoa học Lịch sử mà còn là cơ sở tiếp cận và nghiên cứu thấu đáo các đối tượng của các nghành khoa học khác.

Tôn trọng lịch sử và đứng vững trên quan điểm lịch sử cụ thể, đó không chỉ là lương tâm của người làm công tác nghiên cứu mà hơn thế, đó là con đường đúng đắn nhất để tìm đến chân lý.

b) Chính sách thống trị của thực dân Pháp

Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng mở đầu cho sự xâm lược VN. Sau khi bình định xong VN, thực dân Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa (1897-1913; 1919-1929), với mục đích cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt, biến VN thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho chính quốc, thu lợi nhuận tối đa, phục vụ cho giới tư bản lũng đoạn Pháp.

• Nhằm thực hiện mục đích đó, thực dân Pháp tiến hành chính sách cai trị trên mọi lĩnh vực. Chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở VN là chính sách chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế và kìm hãm nô dịch về văn hóa.

• Về chính trị:

Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị điển hình của chủ nghĩa thực dân cũ:

+ Chính sách "trực trị": Cai trị trực tiếp bằng hệ thống chính quyền do người P nắm, đồng thời vẫn duy trì chính quyền phong kiến và tay sai làm chỗ dựa, mọi quyền hành đều trong tay người Pháp.

+ Dùng chính sách "chia để trị": Thực dân Pháp chia rẽ 3 nước Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp. ở VN, Pháp thực hiện chia rẽ giữa 3 kỳ (theo chế độ cai trị khác nhau). Chúng chia rẽ người Kinh và các dân tộc khác; giữa miền xuôi- miền núi; giữa các tôn giáo...
+ Đàn áp các phong trào yêu nước, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ.

Như vậy, thực chất chính sách cai trị của thực dân Pháp ở VN và Đông Dương là chế độ thuộc địa. Với chính sách đó, nd VN bị mất hết các quyền tự do dân chủ, các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị ngăn cấm, đàn áp.

• Về kinh tế: Thực dân Pháp muốn biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hoá và cung cấp nguyên nhiên liệu cho Pháp nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản Pháp.

+ Một mặt duy trì phương thức SX phong kiến lạc hậu. Mặt khác, thiết lập một cách hạn chế PTSX TBCN, để dễ bề bóc lột, thu lợi nhuận siêu ngạch.

+ Thực hiện chính sách độc quyền,

+ Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá cho tư bản chính quốc

+ Vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động bằng nhiều hình thức

Như vậy: Các thủ đoạn k.tế trên của thực dân Pháp đã kìm hãm sự pt của nền kinh tế VN, biến nền kinh tế VN lạc hậu và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.

• Về văn hoá-xã hội:

Thực hiện chính sách kìm hãm và nô dịch về văn hóa, thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị : Khuyến khích văn hóa độc hại; Bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hóa tiến bộ trên thế giới vào VN; Dùng rượu cồn, thuốc phiện... ru ngủ các tầng lớp nd, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan...

* Tóm lại, dưới danh nghĩa những người đi khai hoá văn minh, thực dân Pháp đã thực hiện ở VN một chế độ cai trị hà khắc, nhằm nô dịch nd ta về chính trị, VH và bóc lột về k.tế. Mặc dù vậy, sự thống trị của người P từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, về khách quan đã tạo nên sự chuyển biến XH, giai cấp của VN.

c) Bộ máy thống trị do Pháp thiết lập

Sau nhiều năm xâm chiếm đến ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883) triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước nhượng bộ với thực dân Pháp. Ngày 13 tháng 5 năm 1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan ký tờ hoà ước mới (hoà ước Patenôtre) chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và chia đất nước ra thành ba khu vực với bộ máy cai trị khác nhau – đánh dấu sự đầu hang của triều Nguyễn.

Nam Kỳ là đất thuộc địa, không còn có quan hệ phụ thuộc nào nữa với Nam Triều. Đứng đầu bộ máy cai trị là một viên đô đốc người Pháp. Từ năm 1862 đến năm 1879 đã có tất cả 12 viên đô đốc lần lượt đến cai trị Nam Kỳ. Đến nay 1879, chúng thay đô đốc bằng chức thống đốc. Ngày 8-2-1880, tổng thống Pháp lại ra sắc lệnh thành lập hội đồng thuộc địa Nam Kỳ, quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư vấn”. Nó có thể bàn góp về các vấn đề như thế má, thu chi… chứ “ tuyệt đối không được đề cập đến các vấn đề chính trị" những người đã vào “làng Tây”. Chỉ có những người Việt nói được tiếng Pháp mới được bầu vào hội đồng, tổng số là 12 người, vừa do bầu cử, vừa do chỉ định Nam Kỳ gồm từ 3 đến 5 người, trong đó chỉ có 2 ủy viên người Việt Nam và chủ tịch Ủy ban Thường trực phải là người Pháp.

Bắc Kỳ, nơi tiếp giáp với Trung Quốc, là đất “bảo hộ”, đặt dưới quyền cai trị của 1 viên thống xứ người Pháp. Từ năm 1886, chúng bắt triều đình Huế cử một viên kinh lược sứ thay mặt nhà vua thống quyền cai trị. Thực tế, kinh lược xứ cũng là một bù nhìn và phải chịu quyền giám sát chặt chẽ của thống xứ Pháp. Mục đích chính của thực dân Pháp là tách Bắc Kỳ ra khỏi triều đình Huế, sử dụng bọn bù nhìn này để đàn áp các phong trào khởi nghĩa và thu thuế má của người bản xứ. Cho nên đến ngày 26-7-1897, khi công cuộc bình định Bắc Kỳ đã hoàn thành, chúng bãi bỏ chức kinh lược xứ. Toàn bộ quyền hành dược thâu tóm vào tay của thống xứ Pháp. Ngày 8-8-1893, chúng thành lập Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ gồm 9 Ủy viên, trong đó có hai ủy viên người Việt. Chức năng của hội đồng náy chỉ là thông qua những ý kiến đóng góp của phòng tư vấn Bắc Kỳ và của các hội đồng này chỉ là thông qua những ý kiến đóng góp của phòng tư vấn Bắc Kỳ và của các hội đồng hàng tỉnh về các vấn đề thuế khóa, ngân sách, và quy định các khu vực hành chính…

Để thu hút và sử dụng tốt hơn nữa những phần tử thân Pháp trong giai cấp phong kiến, trong viên chức người Việt, chúng còn lập ra phòng tư vấn Bắc Kỳ. Chức năng của phòng Tư Vấn Bắc Kỳ cũng chỉ làm “tư vấn” về các khoảng thu chi trong ngân sách, còn tất cả các vấn đề có tính chất chính trị đều không được đề cập tới.

Trung Kỳ là xứ nửa bảo hộ. Ở đây triều đình bù nhìn vẫn còn được duy trì với danh hiệu “Chính phủ Nam triều”. Giúp việc nhà vua còn có Hội đồng phụ chính và phủ tôn nhân, cùng các viện như Viên Cơ mật, Viện Đô sát. Phủ tôn nhân trông coi những việc của gia đình nhà vua và những tôn thất. Viện cơ mật giúp nhà vua đề ra đường lối lãnh đạo quốc gia. Viện Đô sát kiểm soát hoạt động của cá quan lại. Tuy vậy, các quyền hành thực sự đều nằm trong tay khâm sứ, là chủ tịch hội đồng bảo hộ Trung Kỳ. Theo hiệp ước 1884, Chính phủ Nam triều được cắt đặt quan lại người Việt trong xứ Trung Kỳ. Song thực tế tất cả bộ máy đều do thực dân Pháp sắp đặt. Ngày 27-91897, thực dân Pháp buộc Thành Thái ra đạo dụ tổ chức lại Chính phủ Nam triều nhằm bãi bỏ Hội đồng phụ chính, bãi bỏ Hội đồng Thượng thư. Chúng vẫn duy trì sáu bộ . Đứng đầu mỗi bộ là một thượng thư. Thượng thư của sáu bộ hợp thành Hội đồng cơ mật để giải quyết các vấn đề quan trọng mà các bộ chuyển lên nhà vua chuẩn y và ban bố. Khâm xứ có quyền chủ tọa cả Hội đồng cơ mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ hoặc liên bộ đều có một viên chức Pháp đại diện cho khâm sứ nắm. Các quan lại triều đình, từ chánh nhất phẩm đến tam phẩm, triều đình Huế chỉ được bổ dụng sau khi khâm sứ Pháp đã chuẩn y. Quan lại từ chánh tứ phẩm trở xuống do chính khâm xứ bổ nhiệm.

Từ năm 1894, ngân sách Nam triều bị sát nhập vào ngân sách bảo hộ. Từ vua đến quan lại nhỏ lớn đều do Pháp sắp đặt và trả lương. Tóm lại, vua tôi nhà Nguyễn hoàn toàn chỉ là bù nhìn, là những công chức lĩnh lương tháng của thực dân, quyền hành thực tế đều nằm trong tay viên khâm sứ Pháp.

Dưới cấp kỳ là cấp tỉnh. Cuối năm 1919 Bắc Kỳ có 21 tỉnh, 2 thành phố Hà Nội, Hải Phòng và bốn quan binh. Trung Kỳ, có 13 tỉnh, 1 thành phố Đà Nẵng. Nam Kỳ có 14 tỉnh và có 2 cấp tương đương là đại Gò Công và Hà Tiên, cùng hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn. Đứng đầu mỗi tỉnh Nam Kỳ là một viên chủ tịch, Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ là một viên công sứ tất cả là người Pháp.

Đứng đầu mỗi đạo quan binh là một viên sĩ quan cao cấp người Pháp. Mỗi tỉnh có một hội đồng hàng tỉnh. Các hội đồng hàng tỉnh cũng chỉ có quyền góp ý kiến về các vấn đề có tính chất kinh tế, xã hội, phân chia các khu vực địa lý, bảo quản và xây dựng đường sá, đê điều… còn mọi điều thỉnh nguyện có tính chất chính trị htì tuyệt đối cấm không được đề cập đến. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, bên cạnh bọn quan lại người Pháp, còn có những quan lại nguời Việt, như tổng đốc (ở những tỉnh lớn), tuần phủ (ở những tỉnh nhỏ) và những viên bố chánh, án sát…

Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, có tri phủ, tri huyện, tri châu cai trị. Riêng ở Nâm Kỳ có đốc phủ sứ người Việt nhưng đều do Pháp đào tạo, bổ dụng. Dưới phủ, huyện, châu là các tổng, do chánh tổng, phó tổng cai quản. Trong tổng có các xã, do lý trưởng và hội đồng kỳ hào quản trị.
Thực dân Pháp duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy kỳ hào phong kiến để thu thuế, bắt phu, bắt lính đàn áp nhân dân, cũng như lợi dụnh những phong tục, tập quán lỗi thời, lạc hậu kìm hãm nhân dân trong vòng lạc hậu để dễ bề thống trị. Toàn quyền Đu - me đã bộc lộ dã tâm

Như vậy là từ cấp xã trở lên cho đến cấp phủ, huyện, đạo, châu, thực dân Pháp đều sử dụng địa chủ phong kiến và bộ máy thống trị cũ, làm công cụ để áp bức, bóc lột nhân dân Việt Nam. Còn cấp tỉnh trở lên thì quyền lực tập trung vào tay viên quan lại người Pháp. Vua quan Việt Nam chỉ là bù nhìn.


III. Lời kết

Xã hội Việt Nam khoảng thời gian từ năm 1858 đến 1945 tức sau khi Pháp xâm lược. Đánh dấu sự xuất hiện của phương thức sản xuất mới, sự thất bại của triều Nguyễn và kết quả hình thành một xã hội mới – xã hội mà người nông dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.

Dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp, tính chất của nền kinh tế và xã hội VN có những biến đổi. Nền kinh tế VN từ một nền kinh tế phong kiến độc lập đã trở thành một nền kinh tế mang tính chất tư bản thực dân và một phần phong kiến. Sự biến đổi tính chất nền kinh tế đã quy định sự biến đổi tính chất của xã hội. Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã biến đổi thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến: trong đó các giai cấp và tầng lớp trong xã hội bị phân hoá sâu sắc, kéo theo sự biến đổi của các mâu thuẫn đối kháng.

Tính chất xã hội thay đổi: từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Kết cấu xã hội thay đổi: các giai cấp trong xã hội cũ bị phân hoá sâu sắc, bên cạnh đó xuất hiện những giai cấp mới.( Giai cấp nông dân, địa chủ phong kiến , tư sản , tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp công nhân)

Nguồn: ĐH KHTN Hà Nội​
 
Nguyên nhân nước ta rơi vào tay thực dân Pháp đó là:

- Sự không đồng lòng giữa chính quyền phong kiến và toàn thể tầng lớp nhân dân An Nam lúc bấy giờ (triều đình thì nhu nhược, nhân dân thì quyết chống giặc nhưng không có quyền lực).

- Phương tiện chiến tranh lúc bấy giờ của chính quyền phong kiến quá lạc hậu. Trong lúc quân xâm lược có đủ các phương tiện chiến tranh hiện đại lúc bấy giờ.

- Nhân dân đói nghèo, chính vì thế khi họ nổi dậy chiến đấu chống lại quân thù thì cũng chỉ là "lấy trứng chọi đá" (vì vũ khí thô sơ, không có tổ chức chặt chẽ)

- Đế quốc Pháp là một đế quốc mạnh lúc bấy giờ (họ có một đội quân hùng hậu với các phương tiện chiến tranh hiện đại lúc bấy giờ). Vả lại trước khi vào An Nam thì chúng đã đặt nền móng trước đó khá lâu. Chúng đã được vào An Nam truyền đạo từ đời vua Nguyễn Ánh. (đây là sự tính toán kỹ lưỡng trước của quân giặc)

- Chính quyền phong kiến An Nam lúc đó quá mục nát. Dân chúng đói khổ. Đó là thời cơ tuyệt vời cho quân thù.


Tất cả những cái cớ mà báo chí nói hay sách vở đã nói cũng chỉ là cớ danh nghĩa, chứ thực chất thì thực dân Pháp đã có sự nghiên cứu, và đã nắm chắc phần thắng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top