VIỆT NAM BƯỚC ĐẦU ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1976 - 1986)
Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 10 năm đầu sau khi hoàn thành thống nhất đất nước về Nhà nước. Bốn tháng sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, vào tháng 9-1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) triệu tập Hội nghị lần thứ 24 để quyết định nhiệm vụ cách mạng cả nước trong thời kì mới.
Hội nghị nêu rõ cả nước có chung nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng trong thời kì đầu, do những đặc điểm riêng, cách mạng mỗi miền có những yêu cầu khác nhau. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được Đảng chính thức đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV; sau đó tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh và phát triển trong các Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc.
I- Đại hội đại hiểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980)
1- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976)
Hơn 16 năm kể từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960), nhân dân ta đã vượt qua những thử thách cực kì nghiêm trọng và giành được thắng lợi vẻ vang. Đất nước ta sạch bóng quân xâm lược và đã hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng cả nước, Đảng ta quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại thủ đô Hà Nội.
Sau bài diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Lê Duẩn trình bày; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980) do Phạm Văn Đồng trình bày; Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng do Lê Đức Thọ trình bày.
Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, Báo cáo chính trị nêu lên 3 đặc điểm lớn:
Một là, "Nước ta vẫn ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa" .Đây là đặc điểm lớn nhất của nước ta trên bước đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm này đã quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để; đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp của quá trình đó.
- Hai là, cả nước hoà bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. - Ba là, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa cách mạng và phản cách mạng còn rất gay go và phức tạp. Những đặc điểm trên đều tác động
mạnh đến quá trình biến đổi của cách mạng nước ta. Vì vậy, bản Báo cáo chính trị đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-kĩ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" .
Trên cơ sở đường lối chung, Báo cáo chính trị nêu lên đường lối kinh tế của nước ta trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chu nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công-nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kĩ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc" .
Báo cáo chính trị đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và vân hoá (1976 - 1980) nhằm hai mục tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng... Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ sửa đổi của Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là đại hội mở đầu thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2- Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980)
Mục tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) là phát triển và cải tạo kinh tế - văn hoá, phát triển khoa học - kĩ thuật nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động. Để đạt được những mục tiêu cơ bản ấy, Đảng ta chỉ rõ: Trong 5 năm (1976 - 1980), phải "tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về công nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa" .
Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì nó vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới , vừa phải tổ chức lại nền kính tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, đặt cơ sở cho sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. Kế hoạch 5 năm được tiến hành trong hoàn cảnh có rất nhiều khó khăn, trở ngại. Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mĩ kéo dài trên 20 năm với bao hậu quả nặng nề còn để lại, nhân dân ta phải liên tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc, phải chống lại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch cùng với chính sách cấm vận của đế quốc Mĩ . Không những thế, thiên tai lớn liên tiếp xảy ra trong các năm 1977, 1978 đã gây nên những thiệt hại không nhỏ đối với sản xuất.
Trải qua 5 năm thực hiện, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá. Về khôi phục và phát triển kinh tế. Sau 5 năm phấn đấu gian khổ, đến năm 1980, những hậu quả nặng nề do chiến tranh và thiên tai gây ra đã được khắc phục.
Các cơ sở kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải bị địch phá hoại trước đây về cơ bản đã được khôi phục và bước đầu phát triển. Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một bước. Trong công nghiệp, nhân dân ta xây dựng thêm nhiều nhà máy mới về điện, xi măng, cơ khí động lực, đường, giấy, kéo sợi... Sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm 100.000 kw điện, 2 triệu tấn than, 50 vạn tấn xi măng1. Nhiều công trình đang xây dựng (nhà máy xi măng, nhà máy điện, cơ khí động lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền, các nhà máy đường, nhà máy giấy...) sẽ đưa vào sản xuất trong những năm 1981 - 1985.
Hệ thống giao thông vận tải được khôi phục và xây dựng thêm, gồm 1.700 km đường sắt, 3.800 km đường ô tô, 30.000 mét cầu, 4.000 mét bến cảng...1. Đáng chú ý là tuyến đường sắt thống nhất Bắc - Nam, sau 30 năm bị gián đoạn, đã trở lại hoạt động bình thường. Trong nông nghiệp, nhờ tăng cường các biện pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ, diện tích gieo trồng được
mở rộng thêm gần 12 triệu hécta. Với kết quả này, lao động xã hội bước đầu được phân bố lại, thu hút hàng triệu lao động ở các vùng đông dân, chủ yếu là ở các thành thị miền Nam và vùng đồng bằng Bắc Bộ, đi xây dựng các vùng kinh tế mới (chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên). Sản xuất nông nghiệp được trang bị thêm 18.000
máy kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích gieo trồng .
Về cải tạo quan hệ sản xuất:
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh với tốc độ nhanh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam. Cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ tư sản mại bản được tiến hành từ cuối năm 1975 và đến giữa năm 1976 thì hoàn thành. Tiếp đó là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành theo phương châm cải tạo kết hợp với xây dựng và tổ chức tại sản xuất. Đến giữa năm 1979, công cuộc cải tạo đối với bộ phận tư sản dân tộc căn bản hoàn thành. Trong công nghiệp, chúng ta đã chuyển quyền sở hữu 1.500 xí nghiệp tư bản loại lớn và vừa, rồi sắp xếp lại thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hơn doanh, chiếm 70% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Nam. Các ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng được sắp xếp và tổ chức lại.
Đại bộ phận giai cấp nông dân được tổ chức đi dần vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa được các hình thức thích hợp (tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất và hợp tác xã sản xuất). Đến cuối năm 1979, toàn miền Nam đã xây dựng được hơn 600 hợp tác xã sản xuất 9.000 tập đoàn sản xuất và hàng ngàn tổ đoàn kết sản xuất.
Về văn hoá - giáo dục - y tế:
Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước. Văn hoá phản động, lạc hậu, đồi trụy do chế độ cũ để lại ở miền Nam được loại trừ từng bước. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng mang tính chất quần chúng rộng rãi. Các ngành Văn học, Nghệ thuật, Khoa học xã hội, Thông tin, Báo chí... kịp thời phản ánh nhiệm vụ chính trị, làm
sáng rõ quan điểm, đường lối của Đảng.
Ngành Giáo dục từ mẫu giáo đến đại học và trung học chuyên nghiệp đều phát triển mạnh. Riêng trong năm học 1979 - 1980, cả nước có gần 1,5 triệu học sinh mẫu giáo, khoảng 11,7 triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh trung học chuyên nghiệp và 15 vạn sinh viên đại học. Tính chung, số người đi học trong cả nước là 15 triệu người (bằng 1/3 số dân).
Trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam, phong trào bình dân học vụ phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều người tham gia; nạn mù chữ trong vùng mới giải phóng về cơ bản đã được thanh toán.
Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được chú trọng. Mạng lưới y tế bao gồm các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh cơ sở điều dưỡng được mở rộng.
Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước giai đoạn 1976 - 1 980, những thành tựu đạt được về các mặt nêu trên là rất to lớn. Những thành tựu ấy đã giúp cho nhân dân ta vượt qua nhiều khó khăn, "phát triển lên một thế chiến lược mới, vững chắc hơn so với trước đây, tạo ra khả năng to lớn hơn để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội" .
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980), chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Về kinh tế, nước ta đứng trước những vấn đề rất gay gắt:
Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể luôn bị thua lỗ, không phát huy được vai trò, tác dụng; trong khi đó, các thành phần kinh tế cá thể và tư hữu bị ngăn cấm. Nền kinh tế quốc dân mất cân đối ngày càng nghiêm trọng. Thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, không đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tinh hình cung ứng năng lượng, vật tư; tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định...
Về xã hội, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời sống của công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch hoạ. Số người lao động chưa có công ăn việc làm còn đông. Trong đời sống kinh tế, văn hoá, trong nếp sống và an toàn xã hội có những biểu hiện tiêu cực kéo dài...
Nguyên nhân của những mặt yếu kém nói trên trước hết là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề; sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là chính sách cấm vận của đế quốc Mĩ. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, "khó khăn còn do khuyết điểm sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lí là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội..."
"Chúng ta chưa thấy hết những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến; thấy chưa hết quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau một cuộc chiến tranh lâu dài... Do đó, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, nhất là lúc ban đầu... Chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lí hành chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ kìm hãm sản xuất...".
Những mặt hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo và quản lí kinh tế, quản lí xã hội chậm được khắc phục đã làm tăng thêm khó khăn vốn có từ trước. Trong khi đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích, xâm lược biên giới, buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí chiến đấu để bảo vệ toàn ven lãnh thổ Tổ quốc.
II- Chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc (1975 - 1979)
Sẵn có âm mưu từ trước, ngay từ khi lên cầm quyền sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tập đoàn Pôn Pốt - lêng Xari - Khiêu Xamphon, đại diện cho phái "Khơme đỏ" ở Campuchia, đã có những hành động xâm lược lãnh thổ nước ta. Ngày 3-5-1975, chúng cho quân đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc. Ngày 10-5-1975, chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu. Trong những ngày tiếp theo, chúng liên tiếp xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ dọc biên giới nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh.
Từ tháng 4-1977, từ những cuộc xung đột vũ trang lẻ tẻ, tập đoàn Pôn Pốt mở rộng dần thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam Tổ quốc ta.
Trong các tháng 9, 10, 11-1977, chúng huy động từ 3 đến 5 sư đoàn chủ lực tiến công dọc biên giới nước ta theo nhiều hướng. Mưu đồ của tập đoàn Pôn Pốt là tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài, xâm chiếm từng bộ phận kết hợp với gây bạo loạn trong nội địa, tiến tới xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Trước tình hình trên, với thiện chí hoà bình, mong muốn sớm chấm dứt xung đột vũ trang bằng thương lượng hoà bình, năm 1978, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động đưa ra đề nghị 3 điểm: Một là, chấm dứt ngay các hoạt động quân sự thù địch dọc biên giới, lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên 5 km.
Hai là, hai bên Chính phủ gặp nhau để bàn bạc và kí một hiệp ước hữu nghị không xâm lược nhau và một hiệp ước về biên giới. Ba là, hai bên thoả thuận một hình thức thích hợp về thể thức nhằm bảo đảm và giám sát quốc tế vùng biên giới giữa hai nước. Để tỏ rõ thiện chí, từ đêm 5-11-1978, Việt Nam đơn phương lui quân về cách biên giới 5 km. Ngược lại, tập đoàn Pôn Pốt lại tăng cường hơn nữa lực lượng quân chủ lực ở dọc biên giới, chuẩn bị cho hành động tiến công quân sự lớn hơn. Ngày 22-12-1978, tập đoàn Pôn Pốt huy động lực lượng lớn, gồm 19 sư đoàn trong tổng số 23 sư đoàn bộ binh, cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng... đến sát biên giới phía đông, tiến công vào khu vực Bến Sỏi thuộc tỉnh Tây Ninh với ý đồ đánh chiếm thị xã Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
Để bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc, quân và dân ta tổ chức phản công và tiến công mạnh, tiêu diệt toàn bộ cánh quân xâm lược khi chúng vừa đặt chân tới. Thừa thắng, quân ta triển khai cuộc tiến công tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân chủ lực của địch ngay tại nơi xuất phát. Toàn bộ quân xâm lược bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Hoà bình được lập lại trên biên giới Tây Nam của Tổ quốc chiến thắng biên giới Tây Nam của quân và dân ta đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Campuchia đi tới thắng lợi. Chỉ một thời gian ngắn sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam, tập đoàn Pôn Pốt - lêng Xari - Khiêu Xamphon đã bị quân và dân Campuchia nổi dậy đập tan. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được hoàn toàn giải phóng, nước Cộng hoà Nhân dân Campuchia và Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia tuyên bố thành lập.
Trong khi chiến. đấu chống lại cuộc chiến tranh xâm lược do tập đoàn Pôn Pốt - lêng Xari - Khiêu Xamphon gây ra ở biên giới phía Tây Nam Tổ quốc, quân và dân.. ta phải đối phó với những hành động chống phá, khiêu khích của các thế lực thù địch ở biên giới phía Bắc.
Sáng ngày 17-2-1979, địch huy động 32 sư đoàn bộ binh (tương đương 60 vạn quân), 550 xe tăng, 450 khẩu pháo, 1.260 súng cối... mở cuộc tấn công vào lãnh thổ nước ta, dọc theo biên giới phía Bắc, từ huyện (nay là thị xã) Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu).
Vấp phải tinh thần chiến đấu quyết liệt của quân và dân ta, lại bị dư luận trong nước và thế giới phản đối mạnh mẽ, địch phải tuyên bố thực hiện rút quân khỏi nước ta từ 5-3-1979 đến 18-3- 1979.
Sau chiến tranh kết thúc, với sự cố gắng của các bên, quan hệ láng giềng, tình đoàn kết, hữu nghị vốn có từ lâu đời giữa Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia dần đần được hàn gắn trở lại. Thắng lợi trong chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1976 - 1980. Tuy nhiên, bước vào năm 1979, nền kinh tế - xã hội nước ta đi dần vào cuộc khủng hoảng. Thực trạng của đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, vạch rõ những nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương và biện pháp lớn để khai thác mọi tiềm năng, khắc phục những khó khăn và khuyết điểm, giải quyết đúng những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về sản xuất
và đời sống... nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
III- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
1- Đại hội đại biểu toàn quốc tần thứ V của Đảng (3-1982)
Đại hội họp từ ngày 27 đến 3 1 -3- 1982 tại thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương. Đại hội khẳng định: "Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi rất vẻ vang của cách mạng Việt
Nam" :
- Đã hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, nhanh chóng thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước trên mọi phương diện.
- Nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, đồng thời đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - văn hoá.
- Làm thất bại bước đầu âm mưu và hành động của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
- Cùng với việc gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (1978), nước ta đã kí với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em nhiều hiệp ước và hiệp định về hoà bình, hữu nghị, hợp tác, kinh tế, văn hoá... góp phần mở rộng quan hệ với các nước.
Những sự kiện trên có ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta trên chặng đường tiếp theo. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp. Chính sách cấm vận của đế quốc Mĩ cùng với những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đã làm tăng thêm khó khăn cho nền kinh tế - xã hội nước ta. Đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới cũng như trong khu vực.
Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội nêu rõ: "... trong giai đoạn mới của cách mạng, toàn dân, toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu làm hai nhiệm vụ chiến lược: Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" .
Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau. Phải xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những kết quả thiết thực làm cho đất nước mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, có tăng cường phòng thủ đất nước, làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch và bảo đảm cho đất nước luôn luôn được vững chắc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong khi không buông lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, "Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội không những là mục đích của toàn bộ sự nghiệp của chúng ta, mà còn vì chủ nghĩa xã hội, sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm cho độc lập tự do của Tổ quốc" .
Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ do Đại hội lần thứ IV đề ra. Đường lối chung và đường lối kinh tế chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cả thời kì quá độ.
Tuy nhiên, đến Đại hội V, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, cụ thể hoá cho cả nước, cũng như cho từng ngành, từng lĩnh vực, sát với những điều kiện lịch sử của đất nước, với những yêu cầu và khả năng của nhân dân ta trong từng chặng
đường.
Đại hội xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng đường trước mắt bao gồm 5 năm (1981 - 1985) và kéo dài cho đến năm 1990, là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Đây "là chặng đường tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong những chặng đường tiếp theo" .
Căn cứ vào đường lối của Đảng và xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế quốc dân, Đại hội xác định những mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát của chặng đường đầu trong thời kì quá độ là: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết là giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tết hơn những nhu cầu về mặc, học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kĩ thuật cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công
nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam; tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hoá, xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng, chính sách đối ngoại, nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết, do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư. Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
2- Thực hiện. kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
Kế hoạch Nhà nước 5 năm được thông qua tại Đại hội lần thứ V của Đảng. Mục tiêu cơ bản của kế hoạch là phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân, nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình hình không bình thường về phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.
Vượt qua mọi khó khăn, trở ngại do những hạn chế, yếu kém của thời kì trước và sự chống phá của các thế lực thù địch, trong 5 năm thực hiện kế hoạch Nhà nước (1981 - 1985), nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ quan trọng. Trước hết, chúng ta đã chặn được đà giảm sút của nền kinh tế.
Sản xuất nông nghiệp tăng tốc độ bình quân mỗi năm là 4,9% (so với 1,9% mỗi năm trong thời kì 1976 - 1980). Sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm từ 13,4 triệu tấn (thời kì 1976 - 1980) lên 17 triệu tấn (thời kì 1981 - 1985). Sản xuất công nghiệp tăng tốc độ bình quân mỗi năm 9,5% (so với 0,6% mỗi năm trong thời kì 1976 - 1980). Thu nhập quốc dân tăng bình quân mỗi năm là 6,4% (so với 0 4% mỗi năm trong thời kì 1976 - 1980).
Năng lực sản xuất trong một số ngành kinh tế được nâng lên. Trong 5 năm, chúng ta đã hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ; trong đó có những công trình quan trọng về dầu khí; điện, cơ khí, xi măng, dệt, đường, thủy lợi, giao thông... Trong 5 năm, năng lực sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm 456.000 kw điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn giấy, dầu mỏ bắt đầu được khai thác, các công trình thủy điện Hoà Bình, Trị An được khởi công xây dựng. Trong sản xuất nông nghiệp, có thêm 309.000 ha được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng, 241,000 ha được khai hoang và đưa vào sản xuất. Công tác khoa học kĩ thuật được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, phát triển nhanh. Điều đáng chú ý là, trên phạm vi cả nước, bắt đầu xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất và kinh doanh khá, nhiều huyện làm ăn tốt; một số địa phương và ngành có cách làm ăn năng động, sáng tạo, có hiệu quả. Thực tiễn sinh động của các cơ sở, các địa
phương, các ngành đã cung cấp những kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tiếp tục được đẩy mạnh. Đại bộ phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, đồng bào Tây Nguyên tích cực tham gia xây dựng cuộc sống mới. Việc áp dụng rộng rãi phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động theo tinh thần Chỉ thị số 100 - CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
tuy chưa hoàn thiện và còn nhiều thiếu sót, nhưng đã góp phần quan trọng tạo nên bước phát triển sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ thúc đẩy tăng năng suất, tăng sản lượng, mà còn tiết kiệm được chi phí, bảo đảm sản xuất có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế phát triển và có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, Nhà nước ta còn chăm lo bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và an ninh, thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Nhân dân ta đã giành thêm những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế, làm thất bại một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng phản động FULRO ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động khác và bọn gián điệp, thám báo... Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh.
Những thành tựu đạt được trong thời kì 1981 - 1985 là to lớn, nhưng những khó khăn, yếu kém trên lĩnh vực kinh tế - xã hội của thời kì trước đó không được khắc phục, thậm chí có mặt còn trầm trọng thêm:
- sản xuất tuy tăng hơn trước, nhưng còn chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra; chưa đáp ứng được yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân cũng như yêu cầu tích lũy để công nghiệp hoá và củng cố quốc phòng. Một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm (sản xuất lương thực, xi măng, than, gỗ, vải, hàng xuất khẩu...) không đạt đã ảnh hưởng
không tốt đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân.
- Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ sử dụng được một nửa công suất thiết kế; năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.
- Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh thái bị phá hoại.
Lưu thông chưa thông suốt, phân phối không hợp lí, vật giá tăng nhanh, gây tác động xấu đến sản xuất, đời sống và xã hội. Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế (giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải..., giữa thu và chi, giữa xuất khẩu và nhập khẩu...) chậm được giảm nhẹ, thậm chí có mặt gay gắt hơn trước.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Thành phần kinh tế quốc doanh không phát huy được vai trò chủ đạo trong khi các thành phần kinh tế khác chưa được sử dụng và cải tạo tốt
Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân viên chức, các vùng sâu, vùng xa, vùng gặp thiên tai còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhiều người lao động chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm.
- Hiện tượng tiêu cực trong xã hội chưa được ngăn chặn, thậm chí còn phát triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những hành vi cửa quyền, tham ô, "móc ngoặc" của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động làm ăn phi pháp. . . chưa bị xử lí kịp thời và nghiêm khắc .
Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ quan Nhà nước. "Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân" .
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do chúng ta "không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lí kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù"
Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam 1945-2000