• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Có người đã từng nói: Nếu chọn 5 tác giả tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh chống Pháp (1945-1954) thì chắc hẳn sẽ không có Quang Dũng, nhưng nếu chọn 5 bài thơ tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh chống Pháp này thì nhất định bài thơ “Tây Tiến" của Quang Dũng sẽ đứng ở hàng danh dự. Một nhận xét mà theo tôi nó rất thỏa đáng đối với một bài thơ hay như thế. “Tây Tiến” là một bài thơ hay nhất, xuất sắc nhất, không chỉ trong đời thơ Quang Dũng, mà là cho cả thời kỳ thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với bài thơ này khi đọc lên độc giả thấy tràn ngập một nỗi nhớ Tây Tiến ( đoàn binh). Do nỗi nhớ như thế, cho nên hình tượng trung tâm của bài thơ là người lính. Và người lính Tây Tiến được Quang Dũng vẽ lên bằng một nét độc đáo, mang vẻ đẹp kiêu hùng, hào hoa và đầy thơ mộng.

bài thơ tây tiến.jpg

Đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947, phần lớn là nhưng học sinh, sinh viên, trí thức Hà Nội tuổi mới đôi mươi mặc áo lính đi lên chiến trường miền Tây đầy gian nan, khổ ải. Cái chiến trường miền Tây ấy lại gắn bó với đoàn quân Tây Tiến suốt chặng đường dài hành quân. Trong thời gian chiến đấu, sống chung cùng đoàn quân Tây Tiến đã làm cho Quang Dũng càng thêm gắn bó với đồng đội, với núi rừng miền Tây đầy khốc liệt, dữ dội, song cũng không kém phần thơ mộng. Và do yêu cầu công tác Quang Dũng phải xa đoàn quân Tây Tiến. Xa Tây Tiến được một thời gian Quang Dũng cảm thấy nhớ cồn cào, da diết, cháy bỏng. Nỗi nhớ ấy được tích tụ theo năm tháng dần lớn lên và có nguy cơ nổ tung, bật trào ra thành thơ:Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Rồi cứ từ đó tứ thơ tuôn trào như suối chảy ven dòng sông Đáy thơ mộng, hiền hòa năm 1948. Đi suốt bài thơ "Tây Tiến" ta thấy có hai hình tượng là đoàn quân và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Đoàn quân ấy, thiên nhiên ấy hòa quyện vào nhau tạo nên nét đa thanh cho bài thơ. Có thiên nhiên dữ dội, mới có những con người oai hùng; có thiên nhiên mơ mộng, mới có những con người mộng mơ…Người lính nổi lên giữa thiên nhiên với một vẻ đẹp lung linh, kỳ diệu. Vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến, trước hết là một vẻ đẹp bi mà không lụy. Đó là một vẻ đẹp kiêu hùng của người lính một ra đi không bao giờ trở lại. Đã mang áo lính, mang chí lớn quyết quét sạch quân thù ra ngoài biên ải thì có lẽ nào lại nản lòng, có lẽ nào lại không kiêu hùng. Tuy rằng biết khi ra đi là phải chịu nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng người lính ấy vẫn ra đi không hẹn ngày trở về.Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Chặng đầu hành quân cũng khá vất vả mà cũng khá nên thơ. “Đoàn quân mỏi” bị lấp đi bởi những màn sương giăng giăng mờ ảo như thực, như hư. Đoàn quân ấy ta tưởng tượng như đang đi trên mây khói điệp trùng để rồi thoảng hiện ra một "đêm hơi", “ hoa về” ở Mường Lát thật dịu nhẹ, tha thiết. Cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc rất dữ dội, khắc nghiệt. Cho nên đoàn quân Tây Tiến đa số là người Hà Thành này phải đối chọi với biết bao nguy nan đang rình rập trên đường hành quân và có những người phải tách khỏi đội hình nằm lại phía sau:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời.

Đây là một cái chết rất nhẹ nhàng, thanh thoát mang dáng quân hành rất đậm nét, một cái chết thanh thảnh nhẹ tựa lông hồng. Những người còn lại, lại tiếp tục hành quân và cũng gặp không biết bao nhiêu là nguy khốn:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Sống chung với loài thú dữ, nhất là cọp thì đó quả là một tinh thần gan góc của người lính. Chất anh hùng ấy như toát lên bao nhiêu phẩm chất kiên trung của người lính và đặc biệt là người lính nơi thành phố lần đầu tiên lên rừng núi mà đã phải đến địa danh Mường Hịch nghe cọp gầm gào suốt đêm thì thật là khiếp sợ. Cảnh núi rừng hoang dại, ma thiêng nước độc đã làm cho người lính phải lao đao khốn khó chống lại với bệnh tật, nhất là bệnh sốt rét:Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm Một hiện thực hiện lên thật khốc liệt và đau đớn, bệnh sốt rét đã làm cho những người lính trọc hết tóc, tiều tụy đến kinh người khi da xanh nhợt nhạt vì bệnh tật. Nếu không có ba chữ “dữ oai hùm” thì hẳn câu thơ đã miêu người lính vào cái bi lụy. Nhờ có ba chữ ấy mà miêu tả cái bi như vậy nhưng vẫn giữ được hiện thực tàn khốc của bệnh tật. Song cũng nhờ cái bệnh tật đoa Quang Dũng đã đẩy cái bi lên cái tráng. Đó chính là con mắt nhìn thẳng vào những mất mát do chiến tranh mà Quang Dũng đã không hề né tránh. Đặc biệt khi cái chết nổi lên rõ mồn một dọc dài biên giới mà họ vẫn còn “chẳng tiếc đời xanh”:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Mồ viễn xứ” rải rác khắp biên cương làm ớn lạnh khi người ta chứng kiến. Một câu thơ mang đầy nét sầu thảm, đau thương. Những cái chết chất ngất, rải ra suốt dọc dài biên giới như những cô hồn không nơi nương tựa. Song với Quang Dũng nhìn thẳng vào hiện thực đó để nhận thấy sự dũng cảm của người lính cứ mỗi lúc lại trào dâng. Do đó “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, có lẽ cũng là một ý tưởng một ra đi thì không bao giờ trở lại. Câu thơ này gợi cho ta nhớ tới câu thơ của Thâm Tâm và câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Chí lớn không về bàn tay không?( Tống biệt hành)
Người ra đi đầu không ngoảnh lại ( Đất nước)

Bản chất anh hùng đó chiếu rọi vào cái bi lại càng thấy thêm phần bi tráng:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Về đất” - một câu nói thật nhẹ nhàng, thanh thàn. “Về đất” là về với nơi yên nghỉ cuối cùng khi con người đã hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Hình ảnh "áo bào” thật đẹp, mang dáng dấp cổ kính nên thơ. Quang Dũng dùng hình ảnh này có lẽ là để cho câu thơ có dáng vẻ trang nhã, làm vơi đi nỗi đau khi người lính phải từ biệt cõi trần.

Người tử chiến nếu không so le với lý tưởng tiến bộ nhất của thời đại mình thì cái chết đó sẽ được đời đời ghi nhớ. Sự ghi nhớ tiếc nuối ấy không chỉ đối với con người, mà sự ghi nhớ, tiếc nuối còn thấm cả vào cả vật vô tri, vô giác. Ở Tây Tiến trước sự hy sinh của người lính sông Mã cũng thấy hẫng hụt, gầm gào thương nhớ và gầm gào căm ghét kẻ thù xiết bao, muốn cuốn phăng đi những kẻ cướp nước, xóa tan đi đêm trường nô lệ.

Chất anh hùng không phải là một nét riêng của nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện trong bài thơ “Tây Tiến” này, mà chất anh hùng của người lính trong thời đại đao binh đã được khá nhiều nhà thơ, nhà văn khai thác. Tuy nhiên, để có một chất anh hùng bi tráng của người lính Tây Tiến thông qua bài thơ cùng tên của thi sĩ Quang Dũng thì dường như nhưng tác phẩm khác là không có. Cho nên, chất anh hùng bi tráng ở “Tây Tiến” vẫn được coi là một vẻ đẹp hết sức độc đáo.


Chất anh hùng gắn liền với lãng tử thì chất anh hùng đó càng nên thơ. “Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng đã hòa trộn hai phẩm chất đó vào nhau để tạo cho người lính vốn đã anh hùng thì lại càng anh hùng hơn, ấy là nét đẹp hào hoa, mơ mộng. Có thể nói nét đẹp hào hoa, mơ mộng là một nét đẹp độc đáo trong nét đẹp độc đáo của người chiến binh Tây Tiến. Chúng ta sẽ bắt gặp một “hội đuốc hoa” hết sức phong tình, ý vị:


Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Một cảnh sinh hoạt ấm áp tình quân dân. Cảnh sinh hoạt đó thật hiếm có trong lửa đạn chiến tranh. Ở đây cảnh sinh hoạt thật dịu nhẹ như một bức tranh sơn thủy hữu tình thật lãng mạn, thật nên thơ biết bao. "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” kéo theo mọi tâm hồn vào cuộc vui ca hát, thả hồn cho gió trăng, chơi vơi cùng sương gió, đắm say từng nốt nhạc, ý thơ. Đặc biệt khi trong đêm hội đuốc hoa lại có những nàng sơn nữ xinh xắn rực rỡ sắc màu đã chắp cánh cho tâm hồn người lính vốn đã đắm say thì lại càng đắm say, mơ mộng. Hai tiếng "kìa em” hiện lên như một nét lếnh loáng, mơ hồ làm cho khoảng không dìu dịu mơ những ánh mắt, nụ cười tình tứ khiến cho những nàng sơn nữ phải “e ấp” theo tiếng khèn” man điệu”.Cảnh sinh hoạt “ hội đuốc hoa” chỉ diễn ra đơn giản như vậy, song nó mang đậm tính trữ tình khiến cho người lính khoác ba lô đi dọc khắp chiến trường vẫn còn mang theo như là động lực, càng thôi thúc người lính chiến đấu đến cùng với kẻ thù. Cái khát khao trở lại cuộc sống thanh bình sinh hoạt vui tươi, rộn ràng như thế càng bùng cháy khát vọng lập chiến công của người lính. Một thoáng mơ mộng, một thoáng lãng mạn cũng là vũ khí, thứ vũ khí vô hình mà lại hữu hình. Cảnh sinh hoạt “hội đuốc hoa” ngân theo khoảng không đi theo người lính tới tận thủ đô Viên Chăn của nước bạn Lào, và thế là người lính lại ngợp hồn thơ, run rún cho những ước mơ chơi vơi tan vào khoảng không đầy mùi khói lửa của chiến trang để nhớ về nơi thanh bình:


Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Những hình ảnh ”người đi Châu Mộc”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” được người lính nhớ tới bằng cả tâm hồn thơ trẻ của mình nâng con người trở nên lãng mạn hơn.


Hào hoa, phong nhã, mơ mộng là những nét hết sức tài tử của người chiến binh Tây Tiến. Người chiến binh Tây Tiến trong trận địa thì anh dũng xông pha, trong mơ mộng thì lãng mạn bay bổng. Tuy nhiện sự mơ mộng của người lính Tây Tiến chủ yếu là mơ mộng một cách lãng mạn, song cũng có những cái mơ mộng cũng hết sức hiện thực:


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Những câu thơ kiểu như thế này một thời đã làm cho Quang Dũng phải gánh chịu biết bao nhiêu họa. Và tất nhiên bản thân những câu thơ đó cũng bị tơi bời “trận đánh”, hết những cây bút nọ, lại đến cây bút kia chỉ trích là “tiểu tư sản”, “buồn rớt”, “mộng rớt”. Có lẽ cũng chính vì vậy, mà sau này người ta đem ra suy xét lại, khẳng định nội dung lại thì những câu thơ bị “lên bờ, xuống ruộng” một thời thì giờ đây lại là những câu thơ ngọc ngà nhất. Nói như vậy là tôi không có ý nói tới những câu thơ tầm thường, đơn giản đã từng bị phê phán một thời mà nay lại trở thành những câu thơ hay được như thơ của Bút Tre chẳng hạn.



Hai câu thơ được lọc qua một tâm hồn hào hoa, mơ mộng, lãng tử thì nó cũng mang một dáng dấp như vậy:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Chất anh hùng lại hiện lên khi một ước vọng lại ngân dài, khát khao chiến thắng. Đôi ”mắt trừng” gửi qua biên giới là đôi mắt dữ dội, quắc lên vẻ anh hùng muốn giết giặc lập công. Đó là một ước mơ lớn mà bất kỳ một người lính Tây Tiến nào cũng nghĩ tới: chỉ mong diệt được nhiều thù bảo vệ quê hương xóm làng. Song người lính Tây Tiến cũng mang nỗi nhớ của mình nhớ về người thiếu nữ Hà Nội, đó chính là vũ khí làm cho cái mơ ước giết giặc lập công càng cháy bỏng hơn. Với những kỷ niệm một thuở cắp sách tới trường cùng với người yêu dấu, với nụ hôn vụng dại sẽ là hành trang lấn lướt cuộc chiến tranh đầy gian nan khổ ải. Chế Lan Viên đã từng nói về một kỷ niệm như thế:

Kỷ niệm có gì? Một chiếc hôn
Cũng là vũ khí mười năm ta đánh giặc

Ai thử lao qua cuộc chiến tranh mà không có nơi mơ mộng thì khó có thể nhân sức mạnh nội lực và lại càng khó có thể có những chiến công hiển hách. Vì vậy sự mơ mộng của người lính Tây Tiến ở đây tuy nó có mang một nỗi buồn vì phải xa quê hương, xa người yêu. Nhưng nỗi buồn đó là một nỗi buồn sầu hận trút lên đầu kẻ thù xâm lăng.

Vẻ đẹp hào hoa, phong nhã, lịch lãm, mơ mộng là một vẻ đẹp hết sức độc đáo và chỉ có ở “Tây Tiến” của thi sĩ Quang Dũng mới có.



Người chiến binh Tây Tiến hiện lên trong bài thơ cùng tên của Quang Dũng mang một vẻ đẹp hết sức độc đáo: kiêu hùng, hào hoa, mơ mộng. Vẻ đẹp độc đáo đó của người lính đã kết hợp hài hòa với nhau tạo cho người lính Tây Tiến không những là người chiến sĩ trong trận mạc, mà còn là người chiến sĩ trong tâm hồn nghệ sĩ. Do đó, chỉ có những người lính mang cả hai vẻ đẹp như vậy mới băng qua cuộc chiến tranh hết sức lạc quan và tin tưởng ở ngày mai chiến thắng.


Lưu Thế Quyền
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Những nét mới trong cách cảm nhận và khắc hoạ hình tượng người lính của Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến.

a. Nét mới trong cách cảm nhận về vẻ đẹp người lính:
+ Vẻ đẹp hào hoa
- Nếu người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)Cá nước (Tố Hữu) mang dáng dấp của những người nông dân ra trận, chất phác, hồn nhiên , ra đi từ mái tranh gốc rạ, bến nước cây đa ..., thì người lính của binh đoàn Tây Tiến hầu hết là các chàng trai Hà thành thuở ấy. Họ là những thanh niên trí thức mang trong mình sự sôi nổi, lãng mạn và một bầu nhiệt huyết đối với quê hương đất nước. Họ khao khát được khẳng định mình trong môi trường khốc liệt của chiến tranh (thực chất đây là một sự ý thức sâu sắc về mình...).
- Sự khác biệt ấy còn xuất phát từ chất tâm hồn của chính Quang Dũng. Cái chơi vơi, thăm thẳm, xa khơi, oai linh thác gầm thét, dữ oai hùm,... của cảnh và người trong Tây Tiến cũng là những giai điệu, những sắc màu của thế giới tâm hồn Quang Dũng. Chính vì thế, nhà thơ đặc biệt đồng điệu đồng cảm với chất lính Tây Tiến hào hoa, phóng khoáng, nên thơ.
+Vẻ đẹp giản dị mà kiêu hùng
- Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt - có bóng dáng của các tráng sĩ xưa - coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất…
nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ.
- Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên một cách chân thực, gần gũi trong nét hồn nhiên , tinh nghịch (Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu không có dáng dấp tráng sĩ mà gần với Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc ). Họ là những người chiến sĩ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bước vào cuộc chiến khốc liệt với tư thế ngang tàng, bất chấp hiện thực nghiệt ngã: "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"... "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm"; "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Nhưng điều làm nên sức mạnh thực sự của người lính Tây Tiến là nguồn lực tinh thần. Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước mà biểu hiện cụ thể trong bài thơ là tình yêu với thiên nhiên miền Tây, với núi rừng, làng bản. Tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ: "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ"....
- Viết về người lính trong những năm thăng kháng chiến gian khổ, Quang Dũng không né tránh sự mất mát, đau thương. Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh của những người lính đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương, nhưng không bi luỵ. Cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên con đường chiến trận. Người lính có thể gục xuống, ngã xuống vì bom đạn vì sốt rét, vì đói khổ, nhưng đó không phải là sự gục ngã: Trong cái bi (nỗi đau mất mát, chiến tranh tàn khốc) vẫn tiềm tàng một sức mạnh bất khuất: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"...; "Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
+Tâm hồn lạc quan, lãng mạn
- Tâm hồn lạc quan, lãng mạn vốn là phẩm chất tinh thần nổi bật của người lính. Nhiều tác giả đã viết về điều đó , song ở Tây Tiến, tâm hồn lạc quan, mơ mộng của những chàng trai Hà Nội không giống với cái hồn nhiên chân chất của những người lính xuất thân từ từ gốc rạ bờ tre, từ cây đa, giếng nước. ( Giếng nước gốc đa...Đằng nớ vợ chưa đằng nớ...Lũ chúng tôi...). Đã có một thời người ta phê phán câu thơ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm- cho rằng Quang Dũng mộng mơ quá, nhưng suy cho cùng, điều đó lại rất cần thiết. Đặc biệt, đối với những người lính phải chiến đấu trong một hoàn cảnh khắc nghiệt , nếu không có niềm lạc quan, mộng mơ thì họ sẽ chết vì nỗi buồn trước khi chết vì bom đạn của kẻ thù (nhất lại là đối với những chàng trai Hà Nội...). Từng là một người lính nên Quang Dũng hiểu rõ điều đó.
-Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được bộc lộ không phải chỉ ở dáng vẻ oai hùm, phóng túng, mà luôn thăng hoa trong chất tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh. Cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn từ đôi mắt mộng mơ của người lính. Đôi mắt ấy đã cảm nhận được về đẹp đầy chất thơ của thiên nhiên, con người, cuộc sống miền Tây Tổ quốc: "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy - Có thấy hồn lau nẻo bến bờ - Có nhớ dáng người trên độc mộc - Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Cũng từ cái nhìn ấy, thế giới của cái đẹp, của thi ca, nhạc hoạ, của tình yêu và tình người luôn hiện hữu, bất chấp thực tại đầy gian nan, khắc nghiệt, bất chấp cái chết luôn đồng hành: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ - Khèn lên man điệu nàng e ấp - Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"; "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".... Cũng bằng cảm quan đầy chất lãng mạn, lí tưởng hoá, sự hi sinh của những người lính vô danh đã được biểu hiện bằng hình tượng thơ mang vẻ đẹp thiêng liêng, kì vĩ: "Áo bào thay chiếu anh về đất -Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
b. Nét mới trong cách thể hiện:
Đóng góp của Quang Dũng trong cách biểu hiện hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến:
-Đặt người lính trong một nền không gian có thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ, khắc nghiệt mà mỹ lệ .
- Sử dụng nghệ thuật tương phản, đối lập (hiện thực khốc liệt dữ dội... > < những phẩm chất tinh thần của người lính...): Chất lãng mạn và chất anh hùng trong hình tượng người lính không tách rời, không mâu thuẫn với nhau mà thẩm thấu, hoà nhập làm một để tạo nên vẻ đẹp vừa lí tưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ.
- Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình ( không chỉ bằng hình ảnh mà còn bằng cả thanh điệu)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi Lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.

Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top