- Xu
- 458
Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
Bài làm
Đồng đội ta…
Chia tay nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia tay nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Vâng ! Đó là tình cảm đồng đội keo sơn gắn bó từ trong tâm hồn thơ Chính Hữu mà để sau này ông viết lên bài thơ Đồng chí như kết tinh tình cảm thiêng liêng chân thành ấy khiến rung động bao trái tim bạn đọc.
Trước hết, đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người đọc cảm nhận sâu sắc cuộc chiến đấu gian khổ của chín năm kháng chiến, cơ sở hình thành tình đồng chí giản dị. Họ - những người lính nông dân ra đi từ những miền quê nghèo khó : Nơi trung du đất đai cằn cỗi hay miền đồng chiêm trũng vùng ven biển quanh năm úng lụt:
Quê hương anh, nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.
Chỉ với việc sử dụng câu thành ngữ nước mặn đồng chua. Chính Hữu đã gợi ra cho chúng ta hình dung về nguồn gốc xuất thân của những người chiến sĩ. Tất cả đều là những chàng trai chân đất, sống nơi vùng quê nghèo khổ.
Nhưng cách mạng đã mang đến cho họ mối quan hệ mới. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ bước chân vào cuộc đời lính.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Những người nông dân chân chất dưới ngòi bút của Chính Hữu , họ lại gặp nhau chung một lý tưởng : lòng yêu Tổ quốc. Ta không còn nhận ra anh và tôi nữa. Đã thành những anh , những tôi, nhòa đi sau những khẩu súng, những mái đầu, những tấm chăn và những đôi tri kỉ. Để rồi cuối cùng chỉ nói lên, chỉ đọng lại chỉ kết tinh trong một Đồng chí mà thôi:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Tác giả đã tả thực những giây phút bên nhau cùng chiến đấu. Tình cảm ấy thật ngọt ngào, thân thương. Đặc biệt, giọng thơ đang liền mạch bỗng ngắt nhịp đột ngột thành câu thơ riêng.
Đồng chí!
Nó như một nốt nhấn của bản nhạc đồng dao, bật lên âm hưởng gây bao xúc động lòng người. Tình đồng đội ấy thật chân thành, nó vượt qua bao khó khăn thử thách.
Trong những năm tháng gian lao ấy , sức mạnh của tình đồng chí cao cả biết chừng nào, cùng sẽ chia tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ gia đình quê hương.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không , mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Những lúc cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương” rồi hoàn cảnh gia đình. Chỉ bấy nhêu chữ thôi đã nói được tình cảm quê hương đối với người chiến sĩ. Tình đồng chí đan kết với tình bạn bè, quê hương, tình tiền tuyến hậu phương. Cảnh ngộ ấy cho ta thấy vẻ đẹp tinh thần của người lính, sự hy sinh, tinh thần dành cho người lính – ( Vũ Quần Phương).
Tình đồng chí được nâng lên thay đổi về chất trong tình thương yêu giữa những người lính, càng hiểu thấu lý tưởng, mục đích chiến đấu, nhìn về nhau, nhìn về chính minh ; họ cùng từ giã quê hương nghèo, cùng đi lính, gắn bó sâu sắc hơn.
Tình đồng chí đồng đội đã giúp các anh vượt qua bao khó khăn về vật chất , quân trang, quân phục:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ vất vả nhưng không thiếu niềm vui của người chiến sĩ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Dẫu áo anh có rách vai, quần tôi có vài mảnh vá thì miệng vẫn nở nụ cười. Ai là chủ nhân của miệng cười buốt giá? Và của những bàn tay đang nắm lấy bàn tay? Đó là những đồng chí, những anh vệ quốc quân từ nhân dân mà ra.
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng hành động. Chính Hữu đã thể hiện điều đó thật giản dị, rất mộc mạc, không ồn ã nhưng thấm thía. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết , sự gắn bó, sự cảm thông và cả niềm vui hứa hẹn lập công. Bàn tay nói được những gì muốn nói:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
(Lưu Quang Vũ)
Những người lính còn chung nhau một cơn sốt rừng:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Với Chính Hữu – một nhà thơ – một người chiến sĩ cách mạng đã trải qua những năm tháng gian lao, ông đã viết những câu thơ giản dị ấy. Ta bắt gặp đâu đây cả trung đoàn bị sốt rét mà không có đến một viên ký linh, đến nỗi cả trung đoàn rụng tóc mà Quang Dũng đã ghi lại chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Tuy vất vả , khó khăn nhưng những người lính vẫn vượt qua tất cả khó khăn. Họ đã tìm được giặc trên sông Lô, họ đã đánh chợ Đồn, chợ Rã làm cho giặc Chạy xe. Sức mạnh làm nên chiến thắng của những anh bộ đội chân đất áo nâu chính là tình đồng chí- vẻ đẹp tinh thần cao quý của các anh.
Sức mạnh của tình đồng chí là hình ảnh cao đẹp nhất của sự sẻ chia thầm lặng, là sự cảm thông yêu thương đến tột cùng . Tình cảm đồng chí giúp họ xiết chặt gần nhau hơn để họ cùng vượt qua gian khó, là sức mạnh chiến thắng.
Hơn thế nữa, đọc tác phẩm Đồng chí ta cảm nhận được sự lớn lên trong tâm hồn người chiến sĩ qua tình cảm lớn là tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau , chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo!
Đầu súng trăng treo – một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc. Trong thơ cổ đã có trăng treo đầu núi. Đến Chinh Phụ ngâm khúc vẫn treo trên đầu núi và gợi một cảm giác quạnh quẽ thê lương:
Non kì quạnh quẽ thê lương
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng phong phú và giàu chất lãng mạn. Súng và trăng ở đây đã trở thành một cặp đồng chí. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nó gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng – gần và xa ; súng và trăng – cứng rắn và dịu hiền ; súng và trăng – chiến sĩ và thi sĩ ; súng và trăng…là biểu tượng của tình đồng chí. Sự kết tinh giữa yếu tố hiện thực với tình cảm lãng mạn, trong trẻo , là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu sớm mang lại cho thơ.
Vẻ đẹp của người lính hoàn thiện có sự hòa quyện giữa thép và tình. Đầu súng trăng treo trong tư thế chờ giặc tới ánh sáng hòa bình mơ về ngày mai chiến thắng chợt hiện về trong tâm hồn người lính. Đó là tư thế chiến đấu lần đầu tiên xuất hiện trong thơ.
Đồng chí ! hai tiếng thân thương lắng đọng trong lòng người đọc gần nửa thế kỉ nay. Tình cảm đồng chí , đồng đội là một nét đẹp truyền thống của người lính và được nhân lên trong đời sống, trở thành một nét đẹp riêng tư tình đời, tình người của nhân dân Việt Nam.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Bài làm
Đồng đội ta…
Chia tay nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia tay nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Vâng ! Đó là tình cảm đồng đội keo sơn gắn bó từ trong tâm hồn thơ Chính Hữu mà để sau này ông viết lên bài thơ Đồng chí như kết tinh tình cảm thiêng liêng chân thành ấy khiến rung động bao trái tim bạn đọc.
Trước hết, đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người đọc cảm nhận sâu sắc cuộc chiến đấu gian khổ của chín năm kháng chiến, cơ sở hình thành tình đồng chí giản dị. Họ - những người lính nông dân ra đi từ những miền quê nghèo khó : Nơi trung du đất đai cằn cỗi hay miền đồng chiêm trũng vùng ven biển quanh năm úng lụt:
Quê hương anh, nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.
Chỉ với việc sử dụng câu thành ngữ nước mặn đồng chua. Chính Hữu đã gợi ra cho chúng ta hình dung về nguồn gốc xuất thân của những người chiến sĩ. Tất cả đều là những chàng trai chân đất, sống nơi vùng quê nghèo khổ.
Nhưng cách mạng đã mang đến cho họ mối quan hệ mới. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ bước chân vào cuộc đời lính.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Những người nông dân chân chất dưới ngòi bút của Chính Hữu , họ lại gặp nhau chung một lý tưởng : lòng yêu Tổ quốc. Ta không còn nhận ra anh và tôi nữa. Đã thành những anh , những tôi, nhòa đi sau những khẩu súng, những mái đầu, những tấm chăn và những đôi tri kỉ. Để rồi cuối cùng chỉ nói lên, chỉ đọng lại chỉ kết tinh trong một Đồng chí mà thôi:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Tác giả đã tả thực những giây phút bên nhau cùng chiến đấu. Tình cảm ấy thật ngọt ngào, thân thương. Đặc biệt, giọng thơ đang liền mạch bỗng ngắt nhịp đột ngột thành câu thơ riêng.
Đồng chí!
Nó như một nốt nhấn của bản nhạc đồng dao, bật lên âm hưởng gây bao xúc động lòng người. Tình đồng đội ấy thật chân thành, nó vượt qua bao khó khăn thử thách.
Trong những năm tháng gian lao ấy , sức mạnh của tình đồng chí cao cả biết chừng nào, cùng sẽ chia tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ gia đình quê hương.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không , mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Những lúc cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương” rồi hoàn cảnh gia đình. Chỉ bấy nhêu chữ thôi đã nói được tình cảm quê hương đối với người chiến sĩ. Tình đồng chí đan kết với tình bạn bè, quê hương, tình tiền tuyến hậu phương. Cảnh ngộ ấy cho ta thấy vẻ đẹp tinh thần của người lính, sự hy sinh, tinh thần dành cho người lính – ( Vũ Quần Phương).
Tình đồng chí được nâng lên thay đổi về chất trong tình thương yêu giữa những người lính, càng hiểu thấu lý tưởng, mục đích chiến đấu, nhìn về nhau, nhìn về chính minh ; họ cùng từ giã quê hương nghèo, cùng đi lính, gắn bó sâu sắc hơn.
Tình đồng chí đồng đội đã giúp các anh vượt qua bao khó khăn về vật chất , quân trang, quân phục:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ vất vả nhưng không thiếu niềm vui của người chiến sĩ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Dẫu áo anh có rách vai, quần tôi có vài mảnh vá thì miệng vẫn nở nụ cười. Ai là chủ nhân của miệng cười buốt giá? Và của những bàn tay đang nắm lấy bàn tay? Đó là những đồng chí, những anh vệ quốc quân từ nhân dân mà ra.
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng hành động. Chính Hữu đã thể hiện điều đó thật giản dị, rất mộc mạc, không ồn ã nhưng thấm thía. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết , sự gắn bó, sự cảm thông và cả niềm vui hứa hẹn lập công. Bàn tay nói được những gì muốn nói:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
(Lưu Quang Vũ)
Những người lính còn chung nhau một cơn sốt rừng:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Với Chính Hữu – một nhà thơ – một người chiến sĩ cách mạng đã trải qua những năm tháng gian lao, ông đã viết những câu thơ giản dị ấy. Ta bắt gặp đâu đây cả trung đoàn bị sốt rét mà không có đến một viên ký linh, đến nỗi cả trung đoàn rụng tóc mà Quang Dũng đã ghi lại chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng.
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Tuy vất vả , khó khăn nhưng những người lính vẫn vượt qua tất cả khó khăn. Họ đã tìm được giặc trên sông Lô, họ đã đánh chợ Đồn, chợ Rã làm cho giặc Chạy xe. Sức mạnh làm nên chiến thắng của những anh bộ đội chân đất áo nâu chính là tình đồng chí- vẻ đẹp tinh thần cao quý của các anh.
Sức mạnh của tình đồng chí là hình ảnh cao đẹp nhất của sự sẻ chia thầm lặng, là sự cảm thông yêu thương đến tột cùng . Tình cảm đồng chí giúp họ xiết chặt gần nhau hơn để họ cùng vượt qua gian khó, là sức mạnh chiến thắng.
Hơn thế nữa, đọc tác phẩm Đồng chí ta cảm nhận được sự lớn lên trong tâm hồn người chiến sĩ qua tình cảm lớn là tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau , chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo!
Đầu súng trăng treo – một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc. Trong thơ cổ đã có trăng treo đầu núi. Đến Chinh Phụ ngâm khúc vẫn treo trên đầu núi và gợi một cảm giác quạnh quẽ thê lương:
Non kì quạnh quẽ thê lương
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng phong phú và giàu chất lãng mạn. Súng và trăng ở đây đã trở thành một cặp đồng chí. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nó gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng – gần và xa ; súng và trăng – cứng rắn và dịu hiền ; súng và trăng – chiến sĩ và thi sĩ ; súng và trăng…là biểu tượng của tình đồng chí. Sự kết tinh giữa yếu tố hiện thực với tình cảm lãng mạn, trong trẻo , là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu sớm mang lại cho thơ.
Vẻ đẹp của người lính hoàn thiện có sự hòa quyện giữa thép và tình. Đầu súng trăng treo trong tư thế chờ giặc tới ánh sáng hòa bình mơ về ngày mai chiến thắng chợt hiện về trong tâm hồn người lính. Đó là tư thế chiến đấu lần đầu tiên xuất hiện trong thơ.
Đồng chí ! hai tiếng thân thương lắng đọng trong lòng người đọc gần nửa thế kỉ nay. Tình cảm đồng chí , đồng đội là một nét đẹp truyền thống của người lính và được nhân lên trong đời sống, trở thành một nét đẹp riêng tư tình đời, tình người của nhân dân Việt Nam.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: