Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài Đồng chí của Chính Hữu

thich van hoc

Moderator
Thành viên BQT
Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài Đồng chí của Chính Hữu.

Bài làm

Đồng đội ta…
Chia tay nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia tay nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.

Vâng ! Đó là tình cảm đồng đội keo sơn gắn bó từ trong tâm hồn thơ Chính Hữu mà để sau này ông viết lên bài thơ Đồng chí như kết tinh tình cảm thiêng liêng chân thành ấy khiến rung động bao trái tim bạn đọc.

Trước hết, đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người đọc cảm nhận sâu sắc cuộc chiến đấu gian khổ của chín năm kháng chiến, cơ sở hình thành tình đồng chí giản dị. Họ - những người lính nông dân ra đi từ những miền quê nghèo khó : Nơi trung du đất đai cằn cỗi hay miền đồng chiêm trũng vùng ven biển quanh năm úng lụt:

Quê hương anh, nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.

Chỉ với việc sử dụng câu thành ngữ nước mặn đồng chua. Chính Hữu đã gợi ra cho chúng ta hình dung về nguồn gốc xuất thân của những người chiến sĩ. Tất cả đều là những chàng trai chân đất, sống nơi vùng quê nghèo khổ.
Nhưng cách mạng đã mang đến cho họ mối quan hệ mới. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ bước chân vào cuộc đời lính.

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Những người nông dân chân chất dưới ngòi bút của Chính Hữu , họ lại gặp nhau chung một lý tưởng : lòng yêu Tổ quốc. Ta không còn nhận ra anh và tôi nữa. Đã thành những anh , những tôi, nhòa đi sau những khẩu súng, những mái đầu, những tấm chăn và những đôi tri kỉ. Để rồi cuối cùng chỉ nói lên, chỉ đọng lại chỉ kết tinh trong một Đồng chí mà thôi:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!

Tác giả đã tả thực những giây phút bên nhau cùng chiến đấu. Tình cảm ấy thật ngọt ngào, thân thương. Đặc biệt, giọng thơ đang liền mạch bỗng ngắt nhịp đột ngột thành câu thơ riêng.

Đồng chí!

Nó như một nốt nhấn của bản nhạc đồng dao, bật lên âm hưởng gây bao xúc động lòng người. Tình đồng đội ấy thật chân thành, nó vượt qua bao khó khăn thử thách.

Trong những năm tháng gian lao ấy , sức mạnh của tình đồng chí cao cả biết chừng nào, cùng sẽ chia tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ gia đình quê hương.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không , mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Những lúc cận kề bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương” rồi hoàn cảnh gia đình. Chỉ bấy nhêu chữ thôi đã nói được tình cảm quê hương đối với người chiến sĩ. Tình đồng chí đan kết với tình bạn bè, quê hương, tình tiền tuyến hậu phương. Cảnh ngộ ấy cho ta thấy vẻ đẹp tinh thần của người lính, sự hy sinh, tinh thần dành cho người lính – ( Vũ Quần Phương).

Tình đồng chí được nâng lên thay đổi về chất trong tình thương yêu giữa những người lính, càng hiểu thấu lý tưởng, mục đích chiến đấu, nhìn về nhau, nhìn về chính minh ; họ cùng từ giã quê hương nghèo, cùng đi lính, gắn bó sâu sắc hơn.
Tình đồng chí đồng đội đã giúp các anh vượt qua bao khó khăn về vật chất , quân trang, quân phục:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ vất vả nhưng không thiếu niềm vui của người chiến sĩ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Dẫu áo anh có rách vai, quần tôi có vài mảnh vá thì miệng vẫn nở nụ cười. Ai là chủ nhân của miệng cười buốt giá? Và của những bàn tay đang nắm lấy bàn tay? Đó là những đồng chí, những anh vệ quốc quân từ nhân dân mà ra.

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả thành lời mà thể hiện bằng hành động. Chính Hữu đã thể hiện điều đó thật giản dị, rất mộc mạc, không ồn ã nhưng thấm thía. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết , sự gắn bó, sự cảm thông và cả niềm vui hứa hẹn lập công. Bàn tay nói được những gì muốn nói:

Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
(Lưu Quang Vũ)

Những người lính còn chung nhau một cơn sốt rừng:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Với Chính Hữu – một nhà thơ – một người chiến sĩ cách mạng đã trải qua những năm tháng gian lao, ông đã viết những câu thơ giản dị ấy. Ta bắt gặp đâu đây cả trung đoàn bị sốt rét mà không có đến một viên ký linh, đến nỗi cả trung đoàn rụng tóc mà Quang Dũng đã ghi lại chân thực:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùng.
(Tây Tiến – Quang Dũng)

Tuy vất vả , khó khăn nhưng những người lính vẫn vượt qua tất cả khó khăn. Họ đã tìm được giặc trên sông Lô, họ đã đánh chợ Đồn, chợ Rã làm cho giặc Chạy xe. Sức mạnh làm nên chiến thắng của những anh bộ đội chân đất áo nâu chính là tình đồng chí- vẻ đẹp tinh thần cao quý của các anh.

Sức mạnh của tình đồng chí là hình ảnh cao đẹp nhất của sự sẻ chia thầm lặng, là sự cảm thông yêu thương đến tột cùng . Tình cảm đồng chí giúp họ xiết chặt gần nhau hơn để họ cùng vượt qua gian khó, là sức mạnh chiến thắng.

Hơn thế nữa, đọc tác phẩm Đồng chí ta cảm nhận được sự lớn lên trong tâm hồn người chiến sĩ qua tình cảm lớn là tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau , chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo!

Đầu súng trăng treo – một hình ảnh cô đọng giàu cảm xúc. Trong thơ cổ đã có trăng treo đầu núi. Đến Chinh Phụ ngâm khúc vẫn treo trên đầu núi và gợi một cảm giác quạnh quẽ thê lương:

Non kì quạnh quẽ thê lương
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Nhưng Chính Hữu đã dùng hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng tạo ra những liên tưởng phong phú và giàu chất lãng mạn. Súng và trăng ở đây đã trở thành một cặp đồng chí. Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nó gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng – gần và xa ; súng và trăng – cứng rắn và dịu hiền ; súng và trăng – chiến sĩ và thi sĩ ; súng và trăng…là biểu tượng của tình đồng chí. Sự kết tinh giữa yếu tố hiện thực với tình cảm lãng mạn, trong trẻo , là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu sớm mang lại cho thơ.

Vẻ đẹp của người lính hoàn thiện có sự hòa quyện giữa thép và tình. Đầu súng trăng treo trong tư thế chờ giặc tới ánh sáng hòa bình mơ về ngày mai chiến thắng chợt hiện về trong tâm hồn người lính. Đó là tư thế chiến đấu lần đầu tiên xuất hiện trong thơ.

Đồng chí ! hai tiếng thân thương lắng đọng trong lòng người đọc gần nửa thế kỉ nay. Tình cảm đồng chí , đồng đội là một nét đẹp truyền thống của người lính và được nhân lên trong đời sống, trở thành một nét đẹp riêng tư tình đời, tình người của nhân dân Việt Nam.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài Đồng chí của Chính Hữu.

Bài làm.

Chính Hữu là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ của dân tộc. Thơ của ông có bề dày về thời gian, tầm cao về cảm xúc, giàu chất hiện thực và vẻ đẹp về người lính cách mạng được tái hiện từ đời sống bộn bề những khó khăn gian khổ của cuộc chiến tranh. Chính Hữu viết không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều mang hơi thở của thời đại trong đó có bài thơ Đồng chí ra đời vào cuối năm 1947, đầu năm 1948 , trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp , trong những ngày đầu khó khăn gian khổ của dân tộc. Bài thơ tiêu biểu nhất về đề tài người lính cách mạng. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp giản dị, sơ khai nhưng có một đời sống tâm hồn, mục đích lý tưởng cao đẹp.

Suốt bài thơ có hai hình ảnh sóng đôi xuyên suốt. Tôi và anh làm nên một cặp đồng chí. Cặp đồng chí ấy có chung những xuất phát điểm:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Họ có chung những hoàn cảnh xuất thân từ những vùng quê nghèo khổ, vất vả lam lũ, từ những con người xa lạ họ trở thành quen nhau, người lính trong bài thơ thực sự là những người dân lao động chung một giai cấp, một mục đích, một nguyện vọng, một nhiệm vụ cao cả chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc chiến tranh khắc nghiệt, gian khổ, người lính đã xích lại gần nhau hơn. Không hẹn mà gặp gỡ ở chiến trường:

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !

Những người lính còn có chung cả những suy nghĩ, việc làm, hành động. Chung một vị trí chiến hào, giữ gìn và bảo vệ biên cương của Tổ quốc, chung những lời tâm sự sẻ chia, chịu đựng sự gắn bó chan hòa với nhau, vui buồn sướng khổ có nhau. Từ trong cuộc đấu tranh gian khổ ấy họ trở thành những đôi bạn đồng cảnh tương giao, tri kỉ.

Câu thơ hai chữ ‘Đồng chí’ cấu trúc đặc biệt như một nhịp điệu bắc cầu khép lại những điểm chung, những cơ sở xuất phát tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của họ. Hai chữ “đồng chí” rút ngắn đến tối đa khổ độ của câu thơ như một dấu nhấn, một dấu son trong bản nhạc. Đây chính là biểu hiện cao độ của tình người, cao hơn tình người là tình giai cấp – tình bạn và thiêng liêng hơn cả tình bạn là tình đồng chí. Có chung một mục đích và lý tưởng cao đẹp. Người lính còn phải cảm hiểu lẫn nhau cả trong đời sống riêng tư sâu thẳm, hoàn cảnh cá nhân của mỗi con người, đó là sự ra đi làm nhiệm vụ thiêng liêng mà Tổ quốc giao cho họ. Tất cả những người lính sinh ra và lớn lên từ một miền quê, đều gắn bó với những kỉ niệm êm đềm đẹp đẽ. Giờ đây họ phải gửi lại hậu phương tất cả:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hình ảnh giếng nước, gốc đa, ruộng nương, gian nhà là những kỉ niệm vui buồn, những giá trị vật chất và tinh thần, những lời ước hẹn, những bóng dáng thân thương của quê hương mà người lính gửi lại ra đi.

Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên tất cả quyết tâm của người lính gửi lại hậu phương với một niềm tin vững vàng đinh ninh với người ở lại. hình ảnh giếng nước gốc đa là ẩn dụ tình cảm những người thân yêu nhất mà người lính gửi gắm và có được ở quê hương, tình cảm của họ chân thành giản dị như hạt lúa củ khoai và cảm hiểu nhau cả trong quá khứ và hiện tại. Ở chiến trường tôi với anh trở thành một cặp đồng chí xích lại gần nhau hơn.

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày…

Câu thơ ngắn lại một nhịp với những cặp sóng đôi, hình ảnh đối chứng những đồng chí, đồng đội cùng chịu, cùng chia, cùng nếm trải thấm thía những khó khăn thử thách, cùng sóng bước trên con đường chiến đấu.

Những câu thơ trên còn cho ta thấy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dan ta trong những ngày đầu còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ mọi bề, đòi hỏi ở người lính có một quyết tâm rất cao để vượt qua, càng trong khó khăn gian khổ, người lính càng lạc quan tin tưởng, càng đoàn kết chặt chẽ và gắn bó với nhau hơn bao giờ hết. Hình ảnh chung đúc và là kết quả của tất cả những biểu hiện, suy nghĩ, hành động, việc làm thiết thực và cụ thể được gói trọn trong một câu thơ, một hình ảnh hiện hữu, bình dị nhưng vô cùng thiêng liêng đó là:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Hơn mọi lời nói, đây chính là sức mạnh, là hơi ấm, là tình đoàn kết nhất trí, là sự vượt lên và chiến thắng, hai người đồng chí ấy chan hòa vào nhau, lẫn vào trong nhau trên con đường và nhiệm vụ vinh quang mà nhân dân giao phó. Cũng trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều những hình ảnh ,những bài thơ viết về người lính như Tố Hữu với bài thơ “Cá nước”, Minh Huệ với “Đêm nay Bác không ngủ”, Hồng Nguyên với bài “Nhớ”…tất cả đều ngợi ca vẻ đẹp diệu kì của người lính cách mạng giản dị, chân phương rất đỗi hiện thực nhưng vô cùng cao đẹp. CHúng ta không thể quên được những câu thơ của Hồng Nguyên:

Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ thuở một ,hai
Súng bắn chưa quen, quân sự mười bài
Lột sắt đường tàu mài thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi tìm giặc đánh

Chiến hào là nơi giáp mặt với kẻ thù, sự sống và cái chết xảy ra trong gang tấc. Đây chính là nơi thử thách cao nhất của tình đồng chí sống chết có nhau, chiến trường khắc nghiệt ấy còn có thêm những cái gian khổ khó khăn của thời tiết , khí hậu:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Bên cạnh súng đạn, bom mìn ác liệt còn có cái buốt giá tái tê của sương ngàn gió núi, đêm hôm khuya khoắt mịt mùng. Ngần ấy những khó khăn không thể làm lay chuyển được ý chí và quyết tâm của người lính. Họ đã :

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Chỉ một cụm từ bốn tiếng “đứng cạnh bên nhau” đã làm cho câu thơ và hiện thực thời gian, không gian trở nên ấm áp, vui vẻ, làm nên tư thế sẵn sàng tự chủ, đẩy lùi những khó khăn thử thách. Sự bình thản an nhiên của người lính. Tư thế chủ động tấn công của họ được khẳng định trong cụm từ “chờ giặc tới” bất chấp mọi sự nghiệt ngã gian khổ đời thường.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” hiện về lung linh , lãng mạn giữa hiện thực. “Súng” và “trăng” là hai chi tiết tạo hình độc đáo vừa hiện thực vừa lãng mạn, tiêu biểu cho một phát hiện mới lạ, độc đáo của Chính Hữu. Câu thơ còn là bút pháp đối lập, triệt để cụ thể. Súng và trăng, chiến tranh và hòa bình, chiến sĩ và thi sĩ, hiện thực và lãng mạn. Phải nói đây là những phút kì diệu, sự thăng hoa cao độ của tâm hồn tình cảm, Chính Hữu mới có được những hình ảnh thơ đẹp nhất của chiến trường và trở thành cao trào của tình cảm, nguồn mạch của cảm xúc và nhan đề của tập thơ.

Cả bài thơ 20 câu nhưng phải đến 19 câu là tập trung phản ánh hiện thực cuộc sống chiến tranh và vẻ đẹp của người lính, của tình đồng chí, đồng đội, trong cuộc chiến tranh ấy, chỉ duy nhất một câu thơ cuối cùng là đan xen hình ảnh lãng mạn nhưng chỉ một hình ảnh ấy thôi đủ cho bài thơ cất cánh bay cao và bay xa vào hiện thực sống mãi với lịch sử và thời gian. Neo đậu trong kí ức và tâm hồn mỗi người Việt Nam trong nền văn học dân tộc thời hiện đại.

Bài tho với một bút pháp đặc trưng, điển hình, đó là hiện thực nhưng không bị khô cững cũng không bị sa vào ước lệ hào hoa với tất cả những cảm xúc của người trong cuộc, Chính Hữu đã tái hiện được những hình ảnh thơ chân tình giản dị, hàm súc lắng đọng nhưng vẫn kiêu sa. “Đồng chí” mãi mãi là một nguồn cảm xúc thiêng liêng cao quý nhất của con người , là sự kết tinh và thăng hoa cao độ của tình người, tình bạn tri kỉ, tri âm và đây cũng là nguồn cảm hững cho những người cầm bút, khởi nguồn cảm xúc cho thơ ca.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Cơ sở nào đã tạo nên tình đồng chí cao đẹp trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu?

Dàn ý tham khảo


a.
Mở bài

- Chính Hữu là nhà thơ chiến sĩ. Ông làm thơ không nhiều và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông bình dị, cảm xúc vừa dồn nén vừa thiết tha.

- Bài thơ Đồng chí là một trong những bài thơ đặc sắc viết về anh bộ đội Cụ Hồ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.

- Đoạn thơ đầu tác giả tập trung làm nổi bật cở sở của tình đồng chí cao đẹp.

b.
Thân bài

- Mở đầu bài thơ ta bắt gặp lời giới thiệu mộc mạc như những lời chào hỏi, hỏi thăm nhau, làm quen nhau ở buổi đầu gặp gỡ: “Quê hương anh… sỏi đá”.

- Chính những từ ngữ như: “quê hương, làng” cho ta biết họ xuất thân đều từ nông thôn, lại thêm thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi một vùng quê ven biển, liên tiếp phải chịu cảnh ngập úng còn làng của tôi: “đất cày lên sỏi đá”, là vùng trung du cằn cỗi, xác xơ.

- Tuy họ ở những vùng quê khác nhau nhưng đều là những vùng nông thôn nghèo, khó khăn, đều sống một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, đều là những người dân nghèo.

- Họ ở những vùng quê khác nhau nên lúc đầu họ là những người “xa lạ” nhưng cách mạng vốn là ngày hội của quần chúng nên họ đã tập hợp dưới ngọ cờ của Đảng: “Chẳng hẹn quen nhau”, và để rồi cùng chung một lí tưởng.

- Những người nông dân mặc áo lính, có nhiều điểm tương đồng: chung khó khăn gian khổ của cuộc đời quân ngũ.

- Đồng chí được tạo nên bằng cả quá trình từ xa lạ - quen nhau- tri kỉ. Từ Đồng chí: có chức năng như một bản lề để nối hai đoạn thơ, nó khép lại 7 dòng đầu nhưng lại mở ra biểu hiện của tình đồng chí sau đấy. Có lẽ vì vai trò quan trọng như vậy nên tác giả lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm.

c.
Kết bài

- Cơ sở của tình đồng chí là xuất phát từ những điểm tương đồng: chung giai cấp xuất thân, chung chí hướng và mục đích sống cao cả, biết chung những khó khăn gian khổ của cuộc đời gian khổ của cuộc đời quân ngũ để trở thành tri ân của nhau, từ đó mà tình đồng chí được hình thành.

- Hai tiếng Đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
 
“Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác năm 1948 trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt.Bài thơ giúp người đọc hiểu hơn về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ và tình đồng chí,đồng đội gắn bó keo sơn của họ .
Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm tình của hai người bạn ,những câu thơ mộc mạc ,tự nhiên , mặn mà như một lời thăm hỏi quê quán cửa nhà:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá .


Hai dòng thơ đủ giới thiệu với người đọc về hoàn cảnh xuất thân của hai người lính.Người thì ở vùng đồng bằng chiêm trũng
“nước mặn đồng chua”,người ở vùng trung du bạc màu “đất cày lên sỏi đá”.Như vậy cả “quê anh” và “làng tôi” đều là những miền quê lam lũ,vất vả,đói nghèo.Từ những phương trời xa lạ,họ“chẳng hẹn” mà “quen nhau” bởi họ có cùng chung mục đích đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương .Vào bộ đội họ kề vai sát cánh bên nhau ,cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ :

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ .


Cùng là những người nông dân nghèo mặc áo lính ,chung lý tưởng đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương . Họ vào bộ đội , chung nhiệm vụ ,chung một chiến hào,cùng đắp chung một tấm chăn khi trời giá lạnh.Điều kỳ lạ là khi chiếc chăn chung đắp lại đó là lúc dòng tâm sự mở ra .Có lẽ vì vậy mà họ hiểu nhau, thân nhau và trở thành tri kỉ.Lúc đó “Đồng chí ”mới vang lên ,như tình yêu thương được hình thành từ thử thách và gian khó ,bị dồn nén tận đáy lòng đến giờ bật dậy, đủ sức đứng riêng thành một câu thơ.Nhịp thơ thắt lại,chắc khoẻ ,mộc mạc ,giản dị mà thiêng liêng,cảm động.Ta chợt nhận ra ,lấp lánh đằng sau những câu thơ nói về gió, về rét, lặng lẽ cháy một ngọn lửa ấm nồng tình đồng đội … Và như vậy “đồng chí” vừa là cao trào cảm xúc được dồn tụ trong sáu câu thơ trước ,vừa mở ra những gì chứa đựng ở suy nghĩ tiếp sau :

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.


Đi dọc bài thơ là sự sóng đôi của hai hình tượng “anh” và “tôi”.Tình tri kỉ, tình đồng chí đựơc bắc qua sự sóng đôi có ý nghĩa bổ sung ấy .Vì vậy đến đây, khi tác giả chỉ nói một cảnh ngộ ,người đọc vẫn có ấn tượng chung cho cả hai.Mấy câu thơ nói về gia cảnh của người này hoá ra lại diễn đạt sâu sắc tình yêu thương lặng lẽ của người kia .Là nông dân ,với họ ruộng đất quí hơn vàng , vào bộ đội ,họ để lại đằng sau xóm làng ,đất đai,nhà cửa.“Mặc kệ ”đấy mà sao lưu luyến thế ,đến cả giếng nước gốc đa cũng chợt có hồn,biết nhớ ,biết thương người nơi tiền tuyến . “Giếng nước gốc đa” hay chính là đôi mắt hẹn ngày về của người bạn gái, làm ấm lòng người lính phương xa ?Tất cả đều có thể ,bởi một chút nhung nhớ ấy cùng với ngôi nhà ,ruộng nương và xóm làng thân thuộc là động lực để vì nó mà anh chấp nhận bao nhiêu gian khổ :

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi .
Áo anh rách vai ,
Quần tôi có vài mảnh vá ,
Miệng cười buốt giá ,
Chân không giày .


Không một chút tô vẽ điểm trang ,Chính Hữu tái hiện cuộc sống thiểu thốn của cuộc đời quân ngũ bằng những chi tiết thành thực đến thương lòng : áo rách,quần vá,chân không giày, sao chống nổi những cơn sốt rét giữa rừng sâu ?! Trong hoàn cảnh ấy, người lính sẻ chia cho nhau tình yêu thương ở mức tột cùng “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”. Một câu thơ thôi song nói được bao điều. Bàn tay tìm đến nhau như san sẻ cho nhau ,truyền cho nhau hơi ấm ,niềm tin và sức mạnh . “Anh - tôi ”nhoà đi sau "miệng cười buốt giá" để niềm tin , niềm lạc quan ,sự bất chấp khó khăn gian khổ của người lính hiện lên .Chính Hữu đã rất tinh khi phát hiện ra nội lực tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính .Chính nó đã góp phần tạo nên chiều sâu cho tình đồng chí thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này .

Những câu thơ cuối bài hoàn thiện một cách xuất sắc chân dung người lính mộc mạc mà khoẻ khoắn, can trường :

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.


“Rừng hoang sương muối”. Lại là cái giá ,cái rét run người của thiên nhiên khắc nghiệt ,song thiên nhiên không thể nào can thiệp tới ý chí và tình cảm của người chiến sĩ .Bởi các anh đứng cạnh bên nhau, chở che, nương tựa vào nhau trong tư thế chủ động chờ giặc tới .Và hình ảnh thơ cuối cùng mới đẹp làm sao!ở một góc nhìn nghiêng,vầng trăng như treo trên đầu nòng súng giơ cao của người chiến sĩ . Hình ảnh súng và trăng trở thành biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa thực và mộng,giữa chất chiến đấu và chất trữ tình ,giữa tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn thi sĩ. Giữa rừng đêm hoang lạnh ,hình ảnh ấy tạc vào đêm tạo thành bức tượng đài chiến sĩ vững vàng mà thơ mộng .

Bài thơ dừng lại khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh những người nông dân mặc áo lính chân thật mà ấm nồng tình đồng đội .Bởi thế bài thơ không chỉ là tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu mà còn là thi phẩm xuất sắc nhất về người lính Cụ Hồ của thơ ca kháng chiến chống Pháp .



Nguồn:văn9
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top