tranthanhson
New member
- Xu
- 0
VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC CUỐI THẾ KỈ XVIII - ĐẦU THẾ KỈ XIX
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với dòng chảy không ngừng nghĩ của thời gian, những sự kiện được xem là trọng đại trong lịch sử dân tộc cũng đã lùi vào dĩ vãng, tuy nhiên có nhiều sự kiện vẫn còn mang tính thời sự mà một khi nhắc đến những sự kiện đó thì vẫn còn nhiều điều để chúng ta cùng nhau suy ngẫm, bàn luận.
Ngược dòng thời gian để trở lại những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX để cùng đưa ra ý kiến, đánh giá về công cuộc thống nhất đất nước được xem là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng mở đầu cho việc ra đời của một đất nước thống nhất, không còn tình trạng cát cứ, chia cắt theo kiểu Đàng Trong – Đàng Ngoài đã kéo dài khá lâu.
Khi nhắc đến sự nghiệp thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các nhà sử học cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã được đưa ra để phân tích và đánh giá về công lao của hai nhân vật lịch sử là Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, trong hai nhân vật kiệt xuất này thì ai là người có công trong việc thực hiện sự nghiệp thống nhất đất nước? Đó được xem là một trong những vấn đề tốn khá nhiều bút mực của giới nghiên cứu cũng như đông đảo sự quan tâm của những người yêu sử Việt.
Trên cơ sở những ý kiến của các nhà nghiên cứu, cùng một chút kiến thức có phần hạn chế của bản thân, trong bài viết này Tôi sẽ trình bày một số ý kiến của cá nhân về vấn đề thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Bài viết bao gồm các nội dung chính như sau:
1. Một số ý kiến xung quanh vấn đề thống nhất đất nước.
2. Phân tích, đánh giá.
3. Kết luận.
Mặc dù vậy, nhưng trong bài làm chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, rất mong sự đóng góp ý kiến của của các bạn để cho bài làm được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cám ơn!
1. Một số ý kiến xung quanh vấn đề thống nhất đất nước.
Có thể nói rằng, vấn đề thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIIIđầu thế kỷ XIX đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà sử học cũng như giới nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Đã có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này.
Trước khi đi vào phân tích, đánh giá về vấn đề thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chúng ta cùng tham khảo một số ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu đã đưa ra.
F Nhóm ý kiến thứ nhất, cho rằng Gia Long (1802) là người đã thống nhất đất nước. Đây là ý kiến của các sử gia triều Nguyễn.
F Nhóm ý kiến của Nguyễn Phương cho rằng: "Nguyễn Ánh là cha đẻ của nước Việt Nam", là "người tiêu biểu cho tinh thần ái quốc", "là một anh hùng dân tộc". Và tác giả khẳng định: "Nếu Nguyễn Ánh không còn có công nào khác - mà thực sự còn nhiều - ngoài công cuộc thống nhất Việt Nam, thống nhất lãnh thổ và tinh thần ái quốc, thì với bấy nhiêu thiết tưởng ông đã đủ đáng được mọi người dân Việt Nam biết ơn rồi vậy". So sánh với Nguyễn Huệ, tác giả viết: "Chẳng những Nguyễn Huệ chưa phục vụ gì cho việc thống nhất, mà trái lại đã giúp đắc lực vào việc chia cắt đất nước ra một cách sâu xa hơn thời Trịnh Nguyễn". Còn Nguyễn Ánh "chẳng những đã thống nhất Việt Nam về địa lý mà còn thống nhất về tinh thần ái quốc" (Tạp chí Bách Khoa," số 149).
F Nhóm ý kiến của Tạ Chí Đại Trường: Vận dụng luận điểm "sức mạnh Nam hà kết hợp với sức mạnh Tây phương", tác giả giải thích: "Trong lịch sử của họ, Tây Sơn đã xô đổ được Nam hà, rồi không tìm được đồng minh bên ngoài, bên trong lại hãnh diện về sức mạnh quân lực, họ không tìm được cách tổ chức khai thác những khả năng địa phương để tâm phục lâu dài dân chúng. Quay ra Bắc hà, họ lại chui đầu và trong cái rối rắm mà người trước đã gỡ không ra vì sự cằn cỗi của đất đai, vì không khí bảo thủ lâu đời khó tẩy xóa của sinh hoạt vua,quan, dân chúng". Cho nên, theo tác giả, cái ngày Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, chiếm được Bắc hà cũng là ngày "đóng hết một giai đoạn rối rắm, tàn bạo". Và tác giả gói ghém ý tưởng của mình như sau: "Ngày 20 tháng 7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hóa, Phú Xuân, Gia Định, rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh, nay đã tìm được đường thoát trong sự thống nhất..." (Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 đến 1802 - Sài Gòn, 1971).
FNhóm ý kiến của Tân Việt Điểu: Tác giả có thừa nhận chút ít đóng góp của Tây Sơn khi cho rằng: "Tây Sơn là những tay thợ đã dọn quang đãng những chướng ngại vật để sau này Gia Long thênh thang đi đến thống nhất", nhưng lại khẳng định: "Nguyễn Ánh mới là người đem tất cả tâm huyết, tất cả tài đức ra dể thống nhất nước Việt... Sở dĩ Nguyễn Ánh thắng được Cảnh Thịnh, một phần lớn là nhờ vào cái địa thế "phụng chử lân chầu và "long bàn hổ cứ" của miền Nam rất thuận lợi để làm bàn đạp cho cuộc Bắc tiến, nhằm mục đích thống nhất lãnh thổ" (Văn Hóa nguyệt san, số 64).
F Nhóm ý kiến của Giáo sư người Pháp Jean Chesneaux: "Sự kiện lớn nhất dường như việc khôi phục thống nhất đất nước, việc xóa bỏ sự chia cắt đất nước thành hai vương quốc đối địch. Chính là Tây Sơn chứ không phải là nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX, như người ta thường gán cho họ, đã có công trong việc xây dựng một nước Việt Nam thống nhất; dù chia ra các miền khác nhau nhưng vẫn cùng một mục đích... Niềm kiêu hãnh khôi phục lại uy danh của nước Việt Nam thể hiện rõ trong bài hịch Hịch Tây Sơn" . Ở Việt Nam, Giáo sư Văn Tân cũng đồng ý với ý kiến này.
F Nhóm ý kiến của Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng: Nguyễn Huệ là người có công lớn, đã thống nhất đất nước về cơ bản. Đến Gia Long 1802 chỉ là sự tiếp nối, hoàn thành trọn vẹn công việc thống nhất về mặt chính quyền
F Nhóm ý kiến của Đặng Thành Nam cho rằng: "Việc đất nước chia đôi là do Trịnh Nguyễn phân tranh suốt trong hai thế kỷ. Khi nhà Tây Sơn nổi lên...; Nguyễn Ánh phải chạy qua Xiêm lưu vong và cầu cứu ngoại bang. Cuối cùng ai là người diệt được nhà Trịnh mà suốt 200 năm nhà Nguyễn không những không làm gì được mà còn bị mất kinh đô về tay nhà Trịnh nữa. Chính Nguyễn Huệ đã diệt Trịnh, đuổi Thanh chấm dứt việc hai trăm năm đất nước bị chia đôi, đưa đến việc thống nhất đất nước về cơ bản. Việc Gia Long rước hàng vạn quận Xiêm về giết dân, tàn phá đất Nam Bộ, bị Quang Trung đánh chạy thục mạng ở Rạch Gầm kia đâu phải là chuyện tuyên truyền chính trị. Việc Gia Long nhờ vũ khí, nhờ đại bác của Pháp, nhờ chính bọn đánh thuê, bọn cha cố phương Tây để chiếm lấy đất nước đâu phải là chuyện bịa đặt!"
F Nhóm ý kiến của GS. Trần Văn Giàu: "Phần đóng góp của Nguyễn Huệ vào hệ thống tư tưởng yêu nước Việt Nam là ý thức về sự nghiệp thống nhất nước nhà. Từ năm 1527, Đại Việt bị phân liệt. Tình trạng phân liệt kéo dài đến gần cuối thế kỷ l8, hơn 200 năm. Lê, Trịnh, Nguyễn, không ai có tư tưởng thống nhất, tất cả họ chỉ có ý đồ xâm chiếm lẫn nhau. Cứ như thế ấy thì cái họa xâm lăng ắt khó tránh. Nội chiến chỉ chấm dứt khi khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi, lần lượt đánh đổ cả hai chúa Nguyễn, chúa Trịnh, đánh đổ luôn vua Lê, trong Nam thì đuổi quân Xiêm, ngoài Bắc thì đuổi quân Thanh, lãnh tụ Tây Sơn đường đường chánh chánh lên ngôi hoàng đế, vua Càn Long nhà Thanh dù mới đại bại (hay là vì đại bại) mà phải công nhận Quang Trung là vua nước Việt Nam (...). Trong việc lập lại sự thống nhất sau thời gian phân liệt kéo dài thời Lê mạt, thì người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là vĩ nhân đã khởi xướng và bắt đầu thực hiện sự nghiệp ấy". Giáo sư Trần Văn Giàu còn cho rằng: "Ngày xưa không phải là không có ý thức thống nhất, nhưng phải hiểu rằng ý thức thống nhất lúc bấy giờ là thôn tính theo lối phong kiến" (Sự hình thành về cơ bản của hệ thống tư tưởng yêu nước Việt Nam – Tham luận tại Hội thảo Việt Nam học tại Hà Nội, tháng 7-1998)
F Nhóm Ý kiến của Phan Thuận An: "Nguyễn Huệ, người anh hùng kiệt xuất của thời đại ấy đã lần lượt phá tan từng mảng xã hội mâu thuẫn, bất công, nhiễu nhưng từ Nam ra Bắc để bước đầu đưa đất nước đến chỗ thống nhất" (Kỷ yếu HTKH "Phú Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn" - Huế, tháng 12-2001).
Như vậy, qua các nhóm ý kiến ở trên, chúng ta có thể thấy hiện tại có bốn luồng ý kiến khác nhau về vấn đề thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX:
1. Khẳng định công thống nhất đất nước thuộc về Nguyễn Ánh.
2. Khẳng định công thống nhất đất nước thuộc về Nguyễn Huệ.
3. Công mở đầu công cuộc thống nhất là của Nguyễn Huệ nhưng hoàn thành thống nhất là do Nguyễn Ánh.
4. Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh không ai là người thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước mà chỉ có thôn tính lẫn nhau theo kiểu phong kiến.
2. Phân tích, đánh giá
Dựa vào những ý kiến của các nhà nghiên cứu đã đưa ra, chúng ta cùng đi vào phân tích, mổ xẻ những luồng ý kiến nói trên để thấy được ai là người đã có công trong việc thống nhất đất nước cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Trước hết, có một số ý kiến cho rằng: Nguyễn Huệ với sự kiện năm 1786, sau khi giải phóng Phú Xuân rồi cho quân vượt sông Gianh ra Thăng Long, xóa bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, lật đổ chế độ cát cứ của chúa Trịnh, sau khi tiêu diệt được chúa Nguyễn là đã hoàn thành thống nhất đất nước. Tức là họ cho rằng Nguyễn Huệ là người có công trong việc thống nhất đất nước, điều này có lẽ là chưa đúng vì sau sự kiện 1786 thì Nguyễn Huệ cũng mới chỉ thống nhất một phần nào đó về mặt lãnh thổ của đất nước, còn về mặt chính quyền thì vẫn chưa có sự thống nhất (còn tồn tại nhà Lê, Nguyễn, hai anh em nhà Tây Sơn), trong nước vẫn đang xảy ra chiến tranh. Từ đó chúng ta khẳng định rằng nhóm ý kiến cho rằng Quang Trung – Nguyễn Huệ là người đã thống nhất đất nước là chưa đúng.
Trái ngược với nhóm ý kiến nói trên thì lại có một số người cho rằng Gia Long với sự kiện 1802, từ Huế ra Thăng Long mới là người thống nhất đất nước. Điều này cũng chưa chính xác vì từ sau sự kiện 1876 thì Nguyễn Huệ đã thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ rồi, còn Nguyễn Ánh sau sự kiện 1802 chỉ là sự tiếp nối của Nguyến Huệ để thống nhất tiếp về mặt chính quyền mà thôi.
Có thể nói rằng vấn đề thống nhất đất nước là cả một quá trình đấu tranh cam go, gian khổ, lâu dài của cả dân tộc chứ không phải chỉ tiến hành trong một thời điểm lịch sử và chỉ có một người làm nên. Qua đó chúng ta một lần nữa khẳng định rằng tất cả các nhóm ý kiến cho rằng Nguyễn Huệ là người đã thống nhất đất nước và ngược lại là nhóm ý kiến tán thành việc cho rằng Nguyễn Ánh mới là người thống nhất đất nước là hoàn toàn không đúng.
Vậy đến đây chúng ta có thể loại bỏ luồng ý kiến thứ nhất cho rằng công thống nhất thuộc về Nguyễn Huệ và luồng ý kiến thứ hai cho rằng công thống nhất thuộc về Nguyễn Ánh, chúng ta cùng phân tích hai luồng ý kiến còn lại, một luồng ý kiến cho rằng cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh không ai là người thực hiện sứ mệnh thống nhất mà chỉ có thôn tín lẫn nhau và một luồng ý kiến cho rằng Nguyễn Huệ là người mở đầu và đã thống nhất được về mặt lãnh thổ còn Nguyễn Ánh là người tiếp tục hoàn thành công việc thống nhất đất nước, đã thống nhất về cả lãnh thổ lẫn chính quyền.
Với luồng ý kiến cho rằng dưới thời phong kiến thì cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh không ai là người thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước mà chỉ có sự thôn tín lẫn nhau. Nhóm ý kiến này cho rằng người nông dân và chế độ phong kiến thì sẽ không có tư tưởng thống nhất đất nước mà chỉ có mục tiêu thôn tín lẫn nhau, thống trị nhau, còn thống nhất đất nước chỉ được đặt ra từ khi có giai cấp tư sản.
Xem ra điều này chỉ có thể có lý khi xét về mặt lý luận chung còn nếu áp dụng vào đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam thì điều đó hoàn toàn không đúng, vì ở Việt Nam thì xu thế thống nhất đất nước đã được đặt ra từ đầu khi xây dựng chế độ quân chủ. Từ thế kỷ thứ X, với công cuộc thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh; tiếp theo đó là quá trình cũng cố nền thống nhất của các triều đại Lê, Lý, Trần, Lê sơ và quá trình mở nước về phương Nam đến thời các chúa Nguyễn mà bất cứ một bộ phận lãnh thổ và dân cư cùng sống trên đất nước ta vào thế kỷ XVIII đều có quan hệ mật thiết với nhau, đều có chung tình cảm và ý chí thống nhất trong một cộng đồng dân tộc, được hình thành từ cùng một bào thai của bà mẹ Âu Cơ trong truyền thuyết.
Có thể thấy, khát vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam đã được các tác giả Ngô gia văn phái thể hiện trong sách “Hoàng Lê nhất thống chí” khi viết về các sự kiện dồn dập của đất nước cuối triều Lê, trước và sau thời điểm Nguyễn Huệ đưa quân ra Thăng Long vào năm 1786.
Nhân dân Thuận Hóa từng lên án sự chia cắt đât nước thời Trịnh – Nguyễn qua câu ca dao:
“Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu”.
Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu”.
Lại có không ít người cho rằng vào các năm 1831 – 1832, khi vua Minh Mạng xóa bỏ Bắc thành và Gia Định thành, triều đình Huế trực tiếp cai quản 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên trong cả nước mới được gọi là đất nước thống nhất. Tuy nhiên, điều này cũng hoàn toàn không đúng bởi vì đây chỉ là sự kiện cải cách hành chính dưới thời Minh Mạng chứ không phải là sự kiện thống nhất đất nước. Nếu như nói rằng thống nhất đất nước chỉ giới hạn trong việc thống nhất lãnh thổ và thống nhất chính quyền thì điều này đã được thực hiện qua các sự kiện Phú Xuân năm 1786 dưới thời Tây Sơn và Huế 1802 dưới thời Gia Long chứ không cần phải đợi đến thời vua Minh Mạng.
Như vậy, chỉ còn lại luồng ý kiến cuối cùng cho rằng Nguyễn Huệ là người đã mở đầu công cuộc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ và Nguyễn Ánh là người tiếp tục hoàn thành công cuộc thống nhất đó về các mặt chính quyền và lãnh thổ. Chúng ta sẽ cùng đi sâu vào phân tích nhóm ý kiến này để làm sáng tỏ vấn đề nói trên qua hai sự kiện Phú Xuân năm 1786 dưới thời Tây Sơn và Huế 1802 dưới thời Gia Long.
Với sự kiện Phú Xuân năm 1786 dưới thời Tây Sơn, đây được xem là lần đầu tiên sau hàng trăm năm đất nước bị chia cắt và nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài nay mới được tái thống nhất, quyền lực của nhà Tây Sơn đã được thực thi trên phạm vi cả nước cho dù nó chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn từ 1786 – 1787.
Ngày 21-7-1786 Nguyễn Huệ và đại quân tiến vào Thǎng Long. Cuộc tiến công Bắc Hà đã kết thúc thắng lợi rất vẻ vang. Ngày 31-7-1786 Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ Tây Sơn và các quan vǎn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng vua Lê Hiển Tông. Sau đó vua Lê Hiển Tông đã sắc phong Nguyễn Huệ làm Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Binh quyền Bắc Hà hoàn toàn trong tay Nguyễn Huệ người lãnh tụ kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Nguyễn Huệ nhà chiến lược và là nhà quân sự thiên tài vǎn võ kiêm toàn đã có công lao lớn trong việc đặt cơ sở lập lại nền thống nhất nước nhà ở cuối thế kỷ 18. Nước nhà được thống nhất trên một phạm vi rộng. Để có được sự kiện thống nhất vào năm 1786 là cả một quá trình đấu tranh gian khổ của nhân dân ta chống lại các thế lực phong kiến áp bức bóc lột và chống quân Xiên xâm lược 1785.
Sau khi theo Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, đóng tại Thuận Hóa, được phong làm Bắc Bình Vương. Nguyễn Huệ rút đi, miền Bắc lại trở nên loạn. Vua Lê Chiêu Thống nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp tay chân của họ Trịnh, thì đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lại có ý chuyên quyền. Từ Huế, Nguyễn Huệ sai Vũ Vǎn Nhậm ra diệt được Chỉnh, rồi thấy Nhậm có ý khác, ông lại giết Vũ Vǎn Nhậm, giao cho Ngô Vǎn Sở quản lĩnh Thǎng Long. Trước tình hình đó bọn vua quan nhà Lê, chạy sang Tàu cầu cứu rước mấy chục vạn quân Thanh, do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, vào chiếm Thǎng Long, lấy danh nghĩa là giúp nhà Lê, nhưng sự thực là mưu toan thôn tính nước ta. Nhận được tin cấp báo, ngày 22-12-1788 (tức 25 tháng 11 năm Mậu Thân) Nguyễn Huệ sai người lập đàn tế cáo trời đất ở phía nam núi Ngự Bình (Huế), rồi lên ngôi hoàng đế, đặt hiệu là Quang Trung, đem quân ra Bắc. Ông tuyên bố: Chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân xâm lược và hẹn trước sẽ cùng quân sĩ ǎn tết với nhân dân Thǎng Long vào ngày mồng 7 tháng giêng.
Nhưng mới đến ngày 5, ông đã thu được hoàn toàn thắng lợi, đánh trận Ngọc Hồi, giết Hứa Thể Hanh, đánh thắng Đống Đa, bắt Sầm Nghi Đống phải tự tử, đuổi Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ cả ấn tín chạy về nước. Bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống cũng phải chạy theo lũ tàn binh, sang đất Trung Hoa nương náu làm khách ngụ cư vong quốc. Sau chiến thắng, Quang Trung Nguyễn Huệ thực hiện những biện pháp ngoại giao tích cực, để giữ gìn hòa bình, được vua Càn Long nhà Thanh chấp nhận. Vua Thanh phải phong vương cho ông và mời ông sang thǎm Yên Kinh, và hoàn toàn chấm dứt ý đồ xâm lược. Việc giao hảo với nhà Thanh trong giai đoạn này cũng là những trang sử đẹp, làm vẻ vang cho triều đại Quang Trung và cho nước ta.
Sau sự kiện thống nhất năm 1786, Nguyễn Huệ tiếp tục cũng cố nền thống nhất và đã giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược vào năm 1789. Có thể nói rằng thống nhất đất nước, độc lập dân tộc và đấu tranh dân chủ có quan hệ khăng khít trong sự nghiệp của nhà Tây Sơn.
Việc tiêu diệt các thế lực phong kiến cát cứ câu kết với giặc ngoại xâm để thống trị nhân dân ta là một thành quả lớn trong quá trình đấu tranh thống nhất đất nước của phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo. Phong trào Tây Sơn mà đại diện là Nguyễn Huệ là người tiêu biểu cho khát vọng thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Dẹp yên Bắc hà, Quang Trung lo lắng việc nội trị. Đất nước do ông cai quản lần này trải rộng từ Thuận Hóa trở ra, chấm dứt nạn phân tranh từ thời kỳ Lê – Mạc và Trịnh – Nguyễn. Vùng miền Nam Trung Bộ do Nguyễn Nhạc thống lĩnh, vùng Nam Bộ ở dưới quyền của Nguyễn Lữ. Song những vị cầm đầu ở đây đều không có khả nǎng giữ vững chính quyền. Nhất là ở miền Nam, Nguyễn Lữ không chống nổi Nguyễn Ánh. Do đó, Quang Trung đã sắp đặt một kế hoạch tiến quân vào Nam để giúp việc bình định vùng này, diệt hẳn thế lực của họ Nguyễn. ở phía Bắc ông cũng có ý phải khôi phục lại những vùng đất mà trước đây bị các triều đình Minh, Thanh chiếm cứ... Nhưng các dự định ấy chưa thực hiện được, thì ông bị bệnh qua đời vào đêm 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tí (1792). Cuộc đời hoạt động của ông đều gắn liền với tuổi trẻ. Quang Trung mất vào nǎm 40 tuổi, cơ đồ nhà Tây Sơn cũng suy thoái luôn từ đó. Con trai nối ngôi ông là Nguyễn Quang Toản còn quá bé (mới có 9 tuổi). Tướng tá không có người cầm đầu.
Không đầy mười nǎm sau, nhà Tây Sơn đã buộc phải chấm dứt vai trò lịch sử của mình để Nguyễn Ánh, lập nên đế nghiệp nhà Nguyễn. Có lẽ, có một bình diện lâu nay thường ít được chú ý, nên cũng không giúp cho ta thấy được đầy đủ nét đẹp của Quang Trung. Đó là ở chỗ, ông thực sự là một nhà vua trẻ, đã phát huy cao độ bản lĩnh trẻ trung của mình. Làm tướng - chủ yếu là tướng chỉ huy, trong khoảng tuổi hai mươi. Làm vương rồi làm vua trong khoảng tuổi ba mươi. Ông đã hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cho dân tộc. Đây là sự tình cờ của quy luật sống nơi ông, hay đó chính là cái đẹp dành riêng để ông phục vụ đất nước.
Nguyễn Ánh, một thế lực phong kiến có nhiều uy thế và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là kể từ sau ngày vua Quang Trung qua đời. Nguyễn Ánh đã cho quân ra đánh chiếm Quy Nhơn, năm 1801 chiếm Phú Xuân và năm 1802 tiến ra Thăng Long tiêu diệt vương triều Tây Sơn, thống nhất đất nước. Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và chọn Huế làm kinh đô để xây dựng chính quyền trung ương, cai quản trên tất cả các vùng miền khắp cả nước. Công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước lâu dài, cam go nay mới được hoàn tất.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là kết quả song hành của cuộc đấu tranh giành quyền thống trị hơn là ý nghĩa của cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Bởi vì, cuộc đấu tranh chống cát cứ, chia cắt đất nước Đàng Trong – Đàng Ngoài đã được Nguyễn Huệ cơ bản thực hiện vào tháng 6-1786, sau khi ra Phú Xuân và tiếp theo là vào tháng 7-1786 ra Thăng Long. Với khoảng thời gian diễn ra một cách nhanh chóng, dồn dập này đã nói lên khát khao mong muốn thống nhất đất nước của nhân dân ta lúc bấy giờ. Nguyễn Huệ đã vượt ra khỏi cái bóng của người anh Nguyễn Nhạc để giương cao ngọn cờ thống nhất, một yêu cầu cấp bách của đất nước lúc bấy giờ.
Trong khi đó Gia Long sau khi chiếm được Phú Xuân (1801) và lên ngôi vua vào năm 1802 mới thực hiện cuộc tấn công ra Bắc để tiêu diệt vương triều Tây Sơn thống nhất đất nước.
Phú Xuân, gắn liền với sự kiện Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế vào tháng 12 – 1788 được xem là kinh đô đầu tiên sau khi đất nước thống nhất của nhà Tây Sơn chứ chưa thể xem đó là kinh đô thống nhất của cả nước. Bởi vì Nguyễn Huệ mới chỉ thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ chứ chưa thống nhất được về mặt chính quyền. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế đồng nghĩa với việc xác lập thêm một kinh đô, một niên hiệu, một triều đại mới và nó cùng song song tồn tại với chính quyền nhà Lê ở Thăng Long, Thái Đức ở Quy Nhơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định. Như vậy, trong cùng một lúc có sự tồn tại của ba niên hiệu (Chiêu Thống, Thái Đức, Quang Trung), ba kinh đô và bốn vùng kiểm soát thì nó chứng tỏ rằng sự nghiệp thống nhất đất nước của Nguyễn Huệ vẫn chưa trọn vẹn.
Ngay cả vào thời điểm vinh quang nhất của phong trào Tây Sơn thì nó cũng bị Nguyễn Nhạc phong kiến hóa, phân phong làm ba khu vực khác nhau: Trung ương Hoàng đế của Nguyễn Nhạc đóng tại Quy Nhơn, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng tại Phú Xuân và Đông Định Vương Nguyễn Lữ đóng tại Gia Định, mặc dầu không nghiệt ngã như thời Đàng Trong – Đàng Ngoài nhưng nó cũng đã làm cản trở đến quá trình thống nhất đất nước. Dưới thời Tây Sơn trong giai đoạn từ 1788 – 1801 thì đất nước ta chưa bao giờ có sự thống nhất trọn vẹn: Từ năm 1788 – 1793 với ba chính quyền: Phú Xuân, Quy Nhơn, Gia Định; và từ năm 1793 – 1801 thì cũng có hai chính quyền cùng song song tồn tại đó là Phú Xuân, Gia Định.
Như vậy, Huế năm 1802 mới thực sự thống nhất khi chỉ có một chính quyền, một kinh đô và một niên hiệu cai quản toàn bộ đất nước. Đó không ai khác mà chính là chính quyền của Gia Long, mở đầu cho một sự nghiệp hoàn toàn mới của nhà Nguyễn. Mặc dù là kẻ thù không đội trời chung với Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Ánh lại là người kế tục công cuộc thống nhất đất nước mà Nguyễn Huệ đang còn thực hiện dỡ dang.
Nếu không có Gia Long thì cũng sẽ có một thế lực khác sẽ đánh bại vương triều Tây Sơn vào lúc nó đang suy yếu để hoàn thành việc thống nhất đất nước, nhưng nếu không có phong trào Tây Sơn với sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ thì sẽ không có sự kiện năm 1786, tái lập lại nền thống nhất sau hàng trăm năm dài đất nước bị nội chiến, chia cắt.
3. Kết Luận
Với sự kiện Phú Xuân – Thăng Long năm 1786, Nguyễn Huệ là người đã công lao rất lớn trong việc thực hiện công cuộc thống nhất đất nước, nhưng việc thống nhất đất nước của Nguyễn Huệ mới chỉ được xem là thống nhất về mặt hình thức, mới thống nhất về mặt lãnh thổ mà thôi. Còn sự kiện Huế 1802 với sự lên ngôi của vua Gia Long và xác lập nên nhà Nguyễn thì đất nước mới thục sự được thống nhất trọn vẹn về cả mặt lãnh thổ và chính quyền.
Như vậy, có thể nói rằng trong công cuộc thống nhất đất nước vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX thì Nguyễn Huệ là người đã công trong việc khởi xướng và mở đầu cho việc thống nhất đất nước và trên thực tế thì đã thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ. Còn Nguyễn Ánh là người kế tục sự nghiệp thống nhất đất nước đang còn dang dở của Nguyễn Huệ. Và Nguyễn Ánh đã hoàn thành công việc thống nhất đất nước về cả mặt lãnh thổ cũng như về chính quyền. Mặc dù là kẻ thù không đội trời chung nhưng cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh cùng chung sứ mệnh là đấu tranh “thống nhất sơn hà”, thực hiện niềm khát vọng của nhân dân sau hơn 200 năm nội chiến chia cắt đất nước.
thieugiatranson@gmail.com
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: