Vai trò và thách thức của ASEAN

daibentre123456

New member
Xu
0
Sự trỗi dậy của châu Á như là một châu lục ngày càng có ảnh hưởng quan trọng trong nền chính trị toàn cầu – cùng với vai trò đầu tàu của Trung Quốc, Ấn Độ đã làm nên nhiều chuyện trong thập kỷ qua. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hồi cuối tháng 11/2011 rằng thế kỷ 21 sẽ là "Thế kỷ Thái Bình Dương" của Mỹ hẳn đang củng cố niềm tin tâm điểm tương lai của chính trị toàn cầu sẽ là tại châu Á.Trong bối cảnh năm nay đang diễn ra sự thay đổi quyền lực tại nhiều nước lớn, người ta có thể mong lãnh đạo các nước đó sẽ đề cập đáng kể đến các điều kiện ở châu Á trong những bài thuyết trình của mình.

Vậy vai trò ngày càng nổi bật của châu Á có ý nghĩa gì đối với ASEAN?

Mỹ đã bắt tay triển khai chiến lược "ngoại giao hướng về khu vực", thể hiện qua sự tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) năm ngoái và chuyến thăm bước ngoặt tới Mianma vào tháng 12/2011 của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Những cuộc gặp gỡ cấp cao riêng biệt gần đây của Mỹ với Philípin và Xinhgapo với nội dung bàn thảo là các vấn đề quốc phòng và an ninh cho thấy ASEAN sẽ là một khu vực chiến lược đối với Oasinhtơn. Tương tự như vậy, Bắc Kinh cũng bắt tay vào việc sử dụng sức quyến rũ riêng của mình bằng cách vung tiền tới những nơi Bắc Kinh có lợi ích. Với việc kết hợp nghệ thuật hùng biện chính trị với các nguồn nguyên liệu vật chất, Trung Quốc đang ngày càng củng cố danh tiếng như là một bên liên quan đáng tin cậy lâu dài trong khu vực. Cùng với khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, Bắc Kinh đã tham gia các sáng kiến mới như hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế Nam Ninh – Xinhgapo, cũng như các hành lang kinh tế Đông-Tây trên bán đảo Đông Dương. Khả năng duy trì tình hình kinh tế xuất sắc của Bắc Kinh bất chấp suy thoái kinh tế toàn cầu cũng khiến các nhà phân tích nhận định Trung Quốc có thể nổi lên như là một nguồn phát triển độc lập với nhu cầu (từ bên ngoài). Sự cần thiết giữ vị trí trung gian giữa lợi ích của Oasinhtơn và Bắc Kinh không phải là điều bất lợi đối với ASEAN như ghi nhận của Ngoại trưởng Xinhgapo K.Shanmugam. Trong chuyến thăm Oasinhtơn đầu tháng 2/2012, ông Shanmugam đã đề nghị Mỹ cần tránh những bài phát biểu chống Trung Quốc tại cuộc tranh luận trong nước. Giáo sư Tommy Koh, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, giải thích chiến lược của ASEAN "đưa các cường quốc lớn - đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc - lại với nhau và gắn họ vào trong một khuôn khổ hợp tác... do đó giảm thiểu việc thiếu hụt niềm tin”. Trước những cải tiến tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) thu hút sự quan tâm của dư luận khu vực hồi cuối năm 2011, một số học giả đã nói đến sự cần thiết để ASEAN đóng vai trò lãnh đạo EAS với cách như vậy, nhằm làm cho ASEAN "chấp nhận được đối với cả Trung Quốc và Mỹ".

Một cách tiếp cận hiện đang được theo đuổi chính là sự nhấn mạnh vai trò "trung tâm của ASEAN" - quan điểm về một cấu trúc khu vực do ASEAN lãnh đạo, trong đó quan hệ của khu vực với thế giới bên ngoài được tiến hành với sự quan tâm của cộng đồng ASEAN. Trong những năm qua, tính hữu dụng của chiến lược này đã được chứng minh tại EAS. Sự tham dự của Mỹ và Nga tại Hội nghị cấp cao Đông Á cuối năm ngoái cho thấy sự chú ý lớn hơn đã được dành cho sân khấu chính trị của ASEAN. Diễn đàn Khu vực ASEAN năm ngoái cũng đã chứng kiến việc các nước ASEAN tham gia nhiều vấn đề, từ tranh chấp lãnh hải trên Biển Đông đến chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Thật vậy, diễn đàn đã tìm thấy lực kéo đáng kể từ các nhà lãnh đạo hàng đầu trên thế giới, thể hiện qua sự tham dự của cả Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì. Tổng thư ký Surin Pitsuwan trong một cuộc trả lời phỏng vấn năm ngoái đã nói "thực tế việc thế giới quan tâm đến các diễn đàn của ASEAN và sân khấu ASEAN mà chúng tôi mang đến có nghĩa rằng chúng tôi đã phục vụ đúng mục đích của các bên tham gia và có những giá trị từ vai trò quản lý cấu trúc hợp tác đó của ASEAN” (tại Đông Á). Tuy nhiên, vẫn tồn tại nguy cơ lạm dụng tính hữu dụng và hiệu quả của cách tiếp cận như vậy, đặc biệt nếu các nước ASEAN bắt đầu áp dụng cách nhìn "hướng nội, tất cả chỉ là tâm lý ASEAN". Thực tế là sự trở nên nổi bật toàn cầu của ASEAN lại đến từ sự sẵn sàng mở cửa đối với thế giới rộng lớn bên ngoài của các nước ASEAN. Nói cách khác, vị trí trung tâm của ASEAN đã được làm cho khả dĩ bởi vì chính các nước thành viên đã xếp vận mệnh của họ cùng dòng chảy với phần còn lại của thế giới, và với cách làm như vậy, đã dẫn đến kết quả là sự thành công tập thể của cộng đồng ASEAN.

Tuy nhiên, bối cảnh những thách thức toàn cầu ngày càng phức tạp và đa diện sẽ làm nảy sinh xu thế và sức hút khiến ASEAN tự khép cửa nhìn vào trong. Lo lắng trước quan hệ giữa các nước lớn và sự không chắc chắn của việc những tương tác đó sẽ diễn ra như thế nào sẽ làm cho các nước thành viên ASEAN không can dự vào những thách thức toàn cầu, mà thay vào đó là phát triển xu hướng địa phương thiển cận và tách biệt. Hiệp ước Bali III (xác định cương lĩnh chung của ASEAN về các vấn đề toàn cầu) được các nhà lãnh đạo ASEAN ký tháng 11/2011 không thể được sử dụng để biện minh cho một cái nhìn cường điệu về ASEAN - trung tâm của thế giới. Thực sự, một kết quả (từ sự nhìn nhận cường điệu) như vậy sẽ làm tê liệt khu vực mà ở đó sự tăng trưởng được tạo lập dựa trên các mối quan hệ đa dạng và năng động giữa các quốc gia thành viên với thế giới. Hai tháng đầu năm 2012 đã chứng kiến sự xuất hiện nhiều diễn biến chính trị có thể chỉ rõ tính chất của các vấn đề toàn cầu cho phần còn lại của năm. Các sự kiện như cuộc khủng hoảng Xyri đang diễn ra, bế tắc tài chính tại Hy Lạp và sự thách thức của Iran trước các biện pháp trừng phạt của quốc tế sẽ kiểm nghiệm tài tháo vát và khả năng giải quyết của cộng đồng trong việc khớp nối một phản ứng phù hợp. Chắc chắn ASEAN sẽ đứng trước thực tế: ASEAN có thể duy trì tới mức độ nào sự can dự toàn cầu cùng lúc với giữ gìn trật tự tại chính ngôi nhà của mình sẽ là một thử nghiệm quan trọng về tính sẵn sàng và tương xứng của ASEAN – với vai trò là một khối.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Sự trỗi dậy của châu Á như là một châu lục ngày càng có ảnh hưởng quan trọng trong nền chính trị toàn cầu – cùng với vai trò đầu tàu của Trung Quốc, Ấn Độ đã làm nên nhiều chuyện trong thập kỷ qua. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton hồi cuối tháng 11/2011 rằng thế kỷ 21 sẽ là "Thế kỷ Thái Bình Dương" của Mỹ hẳn đang củng cố niềm tin tâm điểm tương lai của chính trị toàn cầu sẽ là tại châu Á.Trong bối cảnh năm nay đang diễn ra sự thay đổi quyền lực tại nhiều nước lớn, người ta có thể mong lãnh đạo các nước đó sẽ đề cập đáng kể đến các điều kiện ở châu Á trong những bài thuyết trình của mình.

Vậy vai trò ngày càng nổi bật của châu Á có ý nghĩa gì đối với ASEAN?

Mỹ đã bắt tay triển khai chiến lược "ngoại giao hướng về khu vực", thể hiện qua sự tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) năm ngoái và chuyến thăm bước ngoặt tới Mianma vào tháng 12/2011 của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Những cuộc gặp gỡ cấp cao riêng biệt gần đây của Mỹ với Philípin và Xinhgapo với nội dung bàn thảo là các vấn đề quốc phòng và an ninh cho thấy ASEAN sẽ là một khu vực chiến lược đối với Oasinhtơn. Tương tự như vậy, Bắc Kinh cũng bắt tay vào việc sử dụng sức quyến rũ riêng của mình bằng cách vung tiền tới những nơi Bắc Kinh có lợi ích. Với việc kết hợp nghệ thuật hùng biện chính trị với các nguồn nguyên liệu vật chất, Trung Quốc đang ngày càng củng cố danh tiếng như là một bên liên quan đáng tin cậy lâu dài trong khu vực. Cùng với khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, Bắc Kinh đã tham gia các sáng kiến mới như hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ, hành lang kinh tế Nam Ninh – Xinhgapo, cũng như các hành lang kinh tế Đông-Tây trên bán đảo Đông Dương. Khả năng duy trì tình hình kinh tế xuất sắc của Bắc Kinh bất chấp suy thoái kinh tế toàn cầu cũng khiến các nhà phân tích nhận định Trung Quốc có thể nổi lên như là một nguồn phát triển độc lập với nhu cầu (từ bên ngoài). Sự cần thiết giữ vị trí trung gian giữa lợi ích của Oasinhtơn và Bắc Kinh không phải là điều bất lợi đối với ASEAN như ghi nhận của Ngoại trưởng Xinhgapo K.Shanmugam. Trong chuyến thăm Oasinhtơn đầu tháng 2/2012, ông Shanmugam đã đề nghị Mỹ cần tránh những bài phát biểu chống Trung Quốc tại cuộc tranh luận trong nước. Giáo sư Tommy Koh, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, giải thích chiến lược của ASEAN "đưa các cường quốc lớn - đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc - lại với nhau và gắn họ vào trong một khuôn khổ hợp tác... do đó giảm thiểu việc thiếu hụt niềm tin”. Trước những cải tiến tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) thu hút sự quan tâm của dư luận khu vực hồi cuối năm 2011, một số học giả đã nói đến sự cần thiết để ASEAN đóng vai trò lãnh đạo EAS với cách như vậy, nhằm làm cho ASEAN "chấp nhận được đối với cả Trung Quốc và Mỹ".

Một cách tiếp cận hiện đang được theo đuổi chính là sự nhấn mạnh vai trò "trung tâm của ASEAN" - quan điểm về một cấu trúc khu vực do ASEAN lãnh đạo, trong đó quan hệ của khu vực với thế giới bên ngoài được tiến hành với sự quan tâm của cộng đồng ASEAN. Trong những năm qua, tính hữu dụng của chiến lược này đã được chứng minh tại EAS. Sự tham dự của Mỹ và Nga tại Hội nghị cấp cao Đông Á cuối năm ngoái cho thấy sự chú ý lớn hơn đã được dành cho sân khấu chính trị của ASEAN. Diễn đàn Khu vực ASEAN năm ngoái cũng đã chứng kiến việc các nước ASEAN tham gia nhiều vấn đề, từ tranh chấp lãnh hải trên Biển Đông đến chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Thật vậy, diễn đàn đã tìm thấy lực kéo đáng kể từ các nhà lãnh đạo hàng đầu trên thế giới, thể hiện qua sự tham dự của cả Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì. Tổng thư ký Surin Pitsuwan trong một cuộc trả lời phỏng vấn năm ngoái đã nói "thực tế việc thế giới quan tâm đến các diễn đàn của ASEAN và sân khấu ASEAN mà chúng tôi mang đến có nghĩa rằng chúng tôi đã phục vụ đúng mục đích của các bên tham gia và có những giá trị từ vai trò quản lý cấu trúc hợp tác đó của ASEAN” (tại Đông Á). Tuy nhiên, vẫn tồn tại nguy cơ lạm dụng tính hữu dụng và hiệu quả của cách tiếp cận như vậy, đặc biệt nếu các nước ASEAN bắt đầu áp dụng cách nhìn "hướng nội, tất cả chỉ là tâm lý ASEAN". Thực tế là sự trở nên nổi bật toàn cầu của ASEAN lại đến từ sự sẵn sàng mở cửa đối với thế giới rộng lớn bên ngoài của các nước ASEAN. Nói cách khác, vị trí trung tâm của ASEAN đã được làm cho khả dĩ bởi vì chính các nước thành viên đã xếp vận mệnh của họ cùng dòng chảy với phần còn lại của thế giới, và với cách làm như vậy, đã dẫn đến kết quả là sự thành công tập thể của cộng đồng ASEAN.

Tuy nhiên, bối cảnh những thách thức toàn cầu ngày càng phức tạp và đa diện sẽ làm nảy sinh xu thế và sức hút khiến ASEAN tự khép cửa nhìn vào trong. Lo lắng trước quan hệ giữa các nước lớn và sự không chắc chắn của việc những tương tác đó sẽ diễn ra như thế nào sẽ làm cho các nước thành viên ASEAN không can dự vào những thách thức toàn cầu, mà thay vào đó là phát triển xu hướng địa phương thiển cận và tách biệt. Hiệp ước Bali III (xác định cương lĩnh chung của ASEAN về các vấn đề toàn cầu) được các nhà lãnh đạo ASEAN ký tháng 11/2011 không thể được sử dụng để biện minh cho một cái nhìn cường điệu về ASEAN - trung tâm của thế giới. Thực sự, một kết quả (từ sự nhìn nhận cường điệu) như vậy sẽ làm tê liệt khu vực mà ở đó sự tăng trưởng được tạo lập dựa trên các mối quan hệ đa dạng và năng động giữa các quốc gia thành viên với thế giới. Hai tháng đầu năm 2012 đã chứng kiến sự xuất hiện nhiều diễn biến chính trị có thể chỉ rõ tính chất của các vấn đề toàn cầu cho phần còn lại của năm. Các sự kiện như cuộc khủng hoảng Xyri đang diễn ra, bế tắc tài chính tại Hy Lạp và sự thách thức của Iran trước các biện pháp trừng phạt của quốc tế sẽ kiểm nghiệm tài tháo vát và khả năng giải quyết của cộng đồng trong việc khớp nối một phản ứng phù hợp. Chắc chắn ASEAN sẽ đứng trước thực tế: ASEAN có thể duy trì tới mức độ nào sự can dự toàn cầu cùng lúc với giữ gìn trật tự tại chính ngôi nhà của mình sẽ là một thử nghiệm quan trọng về tính sẵn sàng và tương xứng của ASEAN – với vai trò là một khối.

Vai trò của Asean trong vấn đề Biển Đông hiện nay? Asean có làm tròn trách nhiệm của mình không ?
 
Vai trò của Asean trong vấn đề Biển Đông hiện nay? Asean có làm tròn trách nhiệm của mình không ?
Cả Philippines và Việt Nam đều không thể dựa vào ASEAN như một chỗ dựa về an ninh truyền thống được. Tổ chức này không thể đưa ra những hỗ trợ nào đối với những hoạt động quân sự trên biển Đông. ASEAN không có bất kỳ các thỏa thuận quân sự nào cũng như không có khả năng để xây dựng các lực lượng quân sự liên kết, vì vậy các thành viên ASEAN đành chấp nhận đối đầu với một mối đe dọa thường trực. Tất cả các thành viên ASEAN đều lo ngại về ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc, nhưng giữa họ với Trung Quốc có nhiều mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau từ chủng tộc, kinh tế và cả các quan hệ đối ngoại. Thêm nữa, các nước ASEAN cảm thấy họ không có lợi ích gì khi đối đầu về mặt quân sự trên biển Đông với Trung Quốc. Như vậy “ASEAN không có khả năng triển khai các hoạt động quân sự bởi vì không có đội quân thường trực nào của khối, cũng như không có thành viên nào sẵn sàng liên kết thành một liên minh quân sự”
 
Do lợi ích khác nhau giữa các quốc gia thành viên cũng như mối quan hệ khác nhau của mỗi nước ASEAN với Trung Quốc nên quan điểm của các quốc gia này đối với tranh chấp Biển Đông cũng khác nhau.

Trong khi tranh chấp Biển Đông là vấn đề nổi cộm, mối quan tâm lớn của Philippines và Việt Nam thì dường như Malaysia và Brueni, hai nước có tuyên bố chủ quyền với 1 phần quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam ) có phần giảm nhẹ hơn.

Indonesia và Singapore đã kêu gọi Trung Quốc cung cấp các luận cứ pháp lý cho các tuyên bố chủ quyền của họ. Tuy nhiên, Thái Lan, Lào, Myanma và Campuchia không có liên quan trực tiếp tới tranh chấp chủ quyền Biển Đông và những nước này cũng không muốn quan hệ của họ với Bắc Kinh bị sứt mẻ vì chỉ vì dám nêu lên vấn đề Biển Đông trước cộng đồng ASEAN.

Vì vậy, có thể thấy rằng một "mẫu số chung nhỏ nhất" - sự đồng thuận tại ASEAN chỉ đóng vai trò cần thiết cho hòa bình và ổn định ở Biển Đông, khó hy vọng tổ chức này có thể đóng vai trò nào đó mạnh mẽ hơn trong giải quyết tranh chấp, Storey nhận định.




 
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào ngày 8/8/1967 thông qua Tuyên bố ASEAN, hay còn gọi là Tuyên bố Bangkok, được ký bởi ngoại trưởng 5 nước thành viên sáng lập là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan.

ASEAN không phải tổ chức khu vực đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á. Năm 1961, Hiệp hội Đông Nam Á (Association of Southeast Asia: ASA) ra đời, nối kết Liên bang Malaya (bây giờ là Malaysia và Xingapo), Philippin, và Thái Lan. Năm 1963, Indonesia, Liên bang Malaya, và Philippin còn thành lập tổ chức Maphilindo, trong một nỗ lực thúc đẩy hợp tác giữa 3 quốc gia này.

Nhưng hợp tác bên trong ASA và Maphilindo bị tổn hại nghiêm trọng bởi các cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các nước thành viên cũng như bất đồng đối với việc thành lập Liên bang Malaysia. Kết quả, Maphilindo chỉ tồn tại từ năm 1963 cho đến khi ASEAN thay thế nó vào năm 1967. ASA cũng chỉ tồn tại chính thức từ năm 1961 đến năm 1967, đóng cửa một thời gian ngắn sau khi ASEAN được thành lập.

Mặc dù mục tiêu công khai của ASEAN khi được tuyên bố thành lập là hợp tác kinh tế và văn hoá-xã hội, nhưng thực chất đây là một tập hợp chính trị giữa các nước thành viên nhằm ngăn chặn nguy cơ chủ nghĩa cộng sản (cả từ bên ngoài và bên trong), đặc biệt trong bối cảnh cuộc chiến tranh ở Việt Nam khi đó đang gây nên những tác động lớn đến tình hình khu vực.

Trải qua hơn 40 năm tồn tại, cho tới nay ASEAN đã mở rộng bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam Á, trong đó Brunei gia nhập năm 1984, Việt Nam năm 1995, Lào và Myanmar năm 1997 và Campuchia năm 1999. Hiện ASEAN có trụ sở ban thư ký đặt tại Jakarta, Indonesia. Chức Tổng thư ký được luân phiên nắm giữ giữa các quốc gia thành viên theo thứ tự tên chữ cái tiếng Anh. Kể từ cuối năm 2008 khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực, mỗi năm ASEAN tổ chức hai cuộc họp thượng đỉnh cấp nguyên thủ quốc gia để bàn thảo các vấn đề quan trọng đối với khu vực. Ngoài ra hàng năm ASEAN còn tổ chức hàng trăm cuộc họp ở các cấp khác nhau nhằm tăng cường hợp tác ở các lĩnh vực khác nhau giữa các quốc gia thành viên.

Cho tới nay, ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng sau hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển. Thành tựu đáng chú ý nhất là Hiệp hội đã hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, giúp chấm dứt sự chia rẽ và đối đầu giữa các nước Đông Nam Á; tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác toàn diện và ngày càng chặt chẽ dựa trên những nguyên tắc của “Phương thức ASEAN,” trong đó chú trọng đối thoại, đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. ASEAN-10 cũng giúp biến Hiệp hội trở thành một tổ chức hợp tác khu vực thực sự, là nhân tố quan trọng bảo đảm hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương.

Trên lĩnh vực chính trị-an ninh, ASEAN đã đưa ra nhiều sáng kiến và cơ chế bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực, như : Tuyên bố Đông Nam Á là Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN) năm 1971 ; Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) ký năm 1976; Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) năm 1995 ; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002… Kể từ năm 1994, ASEAN cũng khởi xướng và chủ trì Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), là nơi ASEAN và các đối tác bên ngoài tiến hành đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị-an ninh ở Châu Á-Thái Bình Dương. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, ARF vẫn được coi là cơ chế trụ cột giúp đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực.

Về kinh tế, đến nay ASEAN đã cơ bản hoàn tất các cam kết về hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA), với hầu hết các dòng thuế đã được giảm xuống mức 0-5%. Kim ngạch thương mại nội khối hiện đạt khoảng 300 tỷ USD và chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN. Ngoài ra hiện ASEAN cũng thúc đẩy hợp tác kinh tế trên nhiều lĩnh vực khác như đầu tư (thông qua thỏa thuận về Khu vực đầu tư ASEAN -AIA), công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, giao thông vận tải, hải quan, thông tin viễn thông… ASEAN cũng coi trọng đẩy mạnh thực hiện mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN, nhất là thông qua việc triển khai Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về hỗ trợ các nước thành viên mới (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam). Mặt khác, ASEAN cũng đã tích cực tăng cường hợp tác kinh tế-thương mại với các đối tác bên ngoài thông qua việc đàm phán thiết lập các khu vực mậu dịch tự do (FTA) với hầu hết các nước đối thoại của ASEAN, như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand.

Như vậy sau hơn 40 năm tồn tại, ASEAN đã chuyển hóa căn bản về mọi mặt, trở thành nơi tập hợp lực lượng không thể thiếu của các nước nhỏ và vừa, nhằm duy trì hòa bình và an ninh khu vực, tạo điều kiện để các nước thành viên mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Ở cuộc họp thượng đỉnh ASEAN ở Bali vào ngày 07/10/2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (ASEAN Concord II) nhằm xây dựng một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, bao gồm ba trụ cột chính: Cộng đồng chính trị – an ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN, và Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN.

Tháng 11/2007, Hiến chương ASEAN cũng đã được thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 15/12/2008 sau khi đã được tất cả 10 quốc gia thành viên phê chuẩn. Bản Hiến chương này giúp tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho ASEAN tăng cường liên kết khu vực, trước hết là phục vụ mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Ngoài ra bản Hiến chương phản ánh sự trưởng thành của ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ hơn và vững mạnh hơn, hỗ trợ cho mục tiêu hòa bình và phát triển của cả khu vực cũng như từng nước thành viên.

Đánh giá về ASEAN, một số nhà quan sát cho rằng ASEAN từng là điển hình cho một câu chuyện thành công cho đến giữa thập niên 1990 khi hình ảnh của nó bắt đầu bị lu mờ dần, chủ yếu do những thách thức gây ra bởi việc mở rộng số lượng thành viên, cũng như do tác động của cuộc khủng hoàng tài chính tiện tệ Châu Á 1997-1998. Một đánh giá cân bằng hơn lại cho rằng ASEAN không phải là một câu chuyện thành công cho đến giữa thập niên 1990 khi ASEAN bắt đầu mở rộng thành viên và hợp tác trong lòng ASEAN được phát triển một cách toàn diện, đồng thời vai trò của Hiệp hội trong toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được tăng cường mạnh mẽ hơn về mọi mặt.

Tuy nhiên, mọi tiến bộ của ASEAN trong tương lai đều phụ thuộc vào việc Hiệp hội có thể vượt qua được những hạn chế và thách thức còn tồn tại hay không. Có thể nói, đến nay, ASEAN vẫn là một hiệp hội khá lỏng lẻo, tính liên kết khu vực còn thấp trong khi vẫn tồn tại sự khác biệt lớn về chế độ chính trị-xã hội và trình độ phát triển giữa các nước thành viên. ASEAN còn bị chỉ trích vì có nhiều chương trình hợp tác nhưng kết quả thực hiện còn hạn chế; tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động cồng kềnh, kém hiệu quả. Việc ASEAN duy trì “Phương thức ASEAN” cũng bị chỉ trích là một cản trở đối với việc phát huy vai trò của tổ chức này. Ngoài ra, nhiều mâu thuẫn vẫn còn tồn tại trong ASEAN, tiêu biểu như tranh chấp biên giới giữa Thái Lan và Campuchia. Những mâu thuẫn này tiếp tục làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến đoàn kết, hợp tác và uy tín của ASEAN.
 
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được chính thức thành lập tại Bangkok vào ngày 08 tháng 08 năm 1967 với mục đích chính là thúc đẩy hợp tác và phát triển kinh tế, và rộng hơn là hợp tác trong tất cả các lĩnh vực có mối quan tâm chung. Sự ra đời của ASEAN cũng là mong ước chung của năm quốc gia sáng lập (Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore và Philippines) nhằm tạo ra một cơ chế ngăn chặn chiến tranh và giải quyết xung đột.

Các quốc gia thành viên ASEAN bình đẳng, có tiếng nói tương đương nhau trong các quyết định của Hiệp hội. Tuy nhiên, ASEAN cho thấy sự phức tạp trong hành vi ứng xử do sự khác biệt nhau quá lớn giữa các quốc gia thành viên về quy mô dân số và lãnh thổ, trình độ phát triển kinh tế, hệ thống chính trị hay bản sắc văn hóa dân tộc. Chính do sự đa dạng và khác biệt này, các quốc gia nhỏ hơn trong ASEAN e ngại việc bị các thành viên hùng mạnh hơn áp đặt các biện pháp cưỡng chế thông qua ASEAN. Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng dẫn đến sự hình thành những quy tắc ứng xử giữa các quốc gia thành viên thường được biết đến dưới tên gọi chung là Phương thức ASEAN.

Nguồn gốc từ “Phương thức ASEAN”Nguồn gốc của từ “Phương thức ASEAN” (ASEAN Way) vẫn còn mơ hồ. Tướng Ali Moertopo, viên chức tình báo cao cấp của Indonesia, là một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên ở ASEAN sử dụng từ này vào năm 1974 khi ông cho rằng thành công của ASEAN là do “hệ thống tham vấn trong hầu hết công việc” mà ông gọi là Phương thức ASEAN. Estrella Solidum, một học giả người Philippines được cho là người đầu tiên nghiên cứu Phương thức ASEAN một cách nghiêm túc, thì cho rằng Phương thức ASEAN bao gồm “các yếu tố văn hóa mà trong đó một số giá trị của mỗi quốc gia đều tương đồng với nhau”.

Có thể nói Phương thức ASEAN có nguồn gốc từ nội dung của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia) thông qua ở Bali, Indonesia năm 1976 và được coi là qui chuẩn cho cách ứng xử giữa các nước thành viên ASEAN. Hiệp ước đề cập đến những “nguyên tắc cơ bản” của ASEAN như: (1) cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia; (2) mỗi quốc gia có quyền lãnh đạo sự tồn tại của mình mà không bị can thiệp, lật đổ và bức ép từ bên ngoài; (3) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; (4) giải quyết khác biệt và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; (5) từ bỏ đe dọa dùng vũ lực và (6) hợp tác với nhau một cách hiệu quả.

Phương thức ASEAN hoạt động giống như một bộ ứng xử được ngầm hiểu, thay vì một tập hợp các qui tắc và phương thức được pháp điển hóa một cách rõ ràng. Điều này cũng thể hiện mong muốn của các nước ASEAN tránh thể chế hóa và pháp lý hóa sự hợp tác giữa các nước thành viên vì e ngại một ASEAN được thể chế hóa mạnh mẽ cùng những ràng buộc pháp lý sẽ làm xói mòn chủ quyền quốc gia của các thành viên trong việc định đoạt phương thức hợp tác với nhau. Chính vì vậy, Phương thức ASEAN bao gồm một số đặc điểm như không can thiệp, không chính thức, thể chế hóa tối thiểu, tham vấn và đồng thuận, không sử dụng vũ lực và tránh đối đầu. Tuy nhiên, có thể nói Phương thức ASEAN cũng như nội hàm của nó dường như không có một định nghĩa chính thức.

Cho đến nay Phương thức ASEAN đã thể hiện những điểm mạnh và điểm yếu nhất định trong việc duy trì hoạt động, ảnh hưởng và tính hiệu quả của ASEAN. Ví dụ, quá trình tham vấn và đồng thuận được coi là cách tiếp cận dân chủ đối việc hoạch định chính sách, khiến các quốc gia cảm giác tự tin hơn khi tham gia hợp tác khu vực mà không e ngại chủ quyền quốc gia bị xói mòn. Ngoài ra các nguyên tắc của Phương thức ASEAN cũng đã giúp ASEAN giải quyết một cách hòa bình những khác biệt giữa các quốc gia thành viên. Một trong những thành công thường được đưa ra làm dẫn chứng cho điều này chính là bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông được thông qua tại Campuchia năm 2002.

Tuy nhiên, Phương thức ASEAN cũng thường bị chỉ trích là quá khuôn sáo và cường điệu khi thường được các quan chức ASEAN sử dụng để đánh lạc hướng những chỉ trích đối với yếu kém của Hiệp hội trong việc thúc đẩy hợp tác một cách sâu sắc hơn. Nó cũng bị chỉ trích vì tạo ra khuynh hướng loại trừ các vấn đề gây tranh cãi ra khỏi các nghị trình làm việc đa phương chính thức và hướng tới việc lảng tránh thay vì giải quyết xung đột. Ví dụ, các nhà chỉ trích cho rằng nguyên tắc đồng thuận đồng nghĩa với việc mỗi thành viên đều có quyền phủ quyết khiến cho việc thông qua các quyết định chung hết sức khó khăn và khó mang tính đột phá. Trong khi đó nhiều nhà bình luận cũng cho rằng nguyên tắc không can thiệp gây ra những hạn chế đối với vai trò của ASEAN, đặc biệt là trong các vấn đề như xử lý tình trạng vi phạm nhân quyền ở Myanmar, giải quyết tình trạng khói mù do cháy rừng ở Indonesia, hay giải quyết các tranh chấp xuyên quốc gia như vấn đề biên giới giữa Thái Lan và Campuchia. Chính vì vậy đã có những đề xuất được đưa ra liên quan đến việc sửa đổi Phương thức ASEAN nhằm làm cho Hiệp hội hoạt động hiệu quả hơn, trong đó có việc bãi bỏ những nguyên tắc như đồng thuận hay không can thiệp.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top