Vài nét Ngô Đình Diệm
PHẦN 1
Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới Chống Cộng Cực Đoan [CCCĐ] hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], viết theo cảm tính thù hận Quốc Gia chống Cộng, hay Công Giáo chống Cộng, trong khi thực sự không hiểu, không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng v..v.. nhằm “ám sát tư cách cá nhân” (character assassination), bằng những từ tục tĩu, hạ cấp v..v.. cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và không cần đến liêm sỉ. Thảm thay, hiện tượng này chúng ta thường thấy xảy ra trong vài khu rừng diễn đàn truyền thông hải ngoại, nơi đây một thiểu số người Việt có vẻ như không có mấy trình độ văn hóa, giáo dục thường lên tiếng. Nhưng viết cho đúng với nhân cách, khả năng, tư tưởng và con người của Hồ Chí Minh thì quả thật là khó, vì điều này đòi hỏi trước hết là một sự lương thiện trí thức, một sự hiểu biết đứng đắn về cuộc đời của ông Hồ, và nhất là, về ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam.
Riêng đối với tôi, viết về ông Hồ lại càng khó hơn, vì xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã cầm súng chống Cộng trong thời gian 8 năm rưỡi, khoảng thời gian tôi ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã đi Mỹ học, và đã về phục vụ trong ngành giáo dục ở miền Nam cho đến ngày chót, đương nhiên tôi đã ở phía Quốc Gia rồi. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã chấm dứt hơn 30 năm rồi, bây giờ còn nói đến chuyện Quốc – Cộng có phải là ngớ ngẩn không? Thời gian chỉ trôi có một chiều, một thế hệ già nua như chúng tôi đang lần lượt rủ nhau đi vào dĩ vãng để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ hơn, đầy nhiệt huyết, với những kiến thức thời đại, biết thế nào là con đường quốc gia, dân tộc, và dứt khoát từ chối, không để cho đầu óc bị ô nhiễm bởi những thù hận của lớp trước, dù các bậc cha anh vô trí có muốn truyền lại. Với tâm cảnh như trên, vậy tôi phải viết về ông Hồ ra sao? Viết theo sự hiểu biết giới hạn của mình thì rất có thể “sai đường lối của một số người đang tham gia cuộc “thánh chiến chống Cộng”” và phải đội thêm vài cái nón cối nữa. Nhưng chẳng sao, tôi ở xứ lạnh, mùa Đông sắp đến, càng ấm đầu.
Được đào tạo trong ngành Khoa Học Vật Lý, đối với tôi, sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm thiên kiến lôi cuốn, tuy tôi tự biết, vì không có cái mặc cảm của Thượng đế (God complex), nên tôi không thể tránh khỏi có đôi chút thiên kiến khi viết về lịch sử. Một người nào đó đã chẳng từng nói: “Người nào viết sử mà không có đôi chút thiên kiến chắc phải có cái mặc cảm mình là Thượng đế (hay mặc cảm của Thượng đế) [Those who write about history without bias must have a God complex]. Để giảm thiểu thiên kiến, phương pháp khảo cứu của tôi là đọc nhiều sách về cùng một vấn đề, rồi từ đó kiếm ra một mẫu số chung. Điều này chưa hẳn là tuyệt đối đúng, nhưng ít ra cũng không xa sự thực là bao nhiêu.
Riêng về ông Hồ, đọc những tài liệu của giới CCCĐ hay CCCC ở hải ngoại thì cũng như không đọc, vì không biết thêm được điều gì mới lạ, ngoài những cường điệu chứng tỏ trình độ thấp kém về lịch sử của người viết. Còn dùng những tài liệu trong nước, phải gội đầu sẵn để đội thêm vài cái mũ của những kẻ không hề biết lý luận, không có khả năng thảo luận trí thức. Không phải là trong những tài liệu thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” này không có những chi tiết đúng, nhưng những chi tiết này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kho tàng tài liệu ngày nay trên thế giới, từ tác phẩm của những nhà nghiên cứu trong môi trường đại học, các chính khách, cựu tướng lãnh v..v…, và từ các tài liệu có trong các văn khố của một số quốc gia. Vậy thì tốt hơn hết là đi tìm tài liệu không thuộc hai phe Quốc, Cộng.
Bài viết này không có mục đích viết tất cả về ông Hồ Chí Minh, tôi không có khả năng như vậy. Nhân đọc loạt bài ông Minh Võ phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker cùng đọc bài khảo cứu, có thể nói là một bài giáo khoa của giáo sư Sử học Nguyễn Mạnh Quang, về những vị lãnh đạo Việt Nam trong thời cận đại như Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, đăng trên giaodiemonline.com tháng 11, 2006, tôi chỉ muốn bổ túc và thu hẹp trên một vài khía cạnh về ông Hồ Chí Minh: vị thế của ông Hồ Chí Minh trên chính trường quốc tế, trong lòng dân tộc Việt Nam, và nhất là, phải chăng ông là người Cộng sản cực đoan, tay sai của Nga Sô và Trung Cộng như một số người chống Cộng cực đoan ở hải ngoại, điển hình là ông Minh Võ, thường rêu rao.
Còn những con cờ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu của Pháp và Mỹ thì có lẽ không cần phải nhắc tới. Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã viết quá đủ về những nhân vật này rồi, nhất là về ông “Phán Quan Tây Ban Nha” Ngô Đình Diệm.(Link:
Trước khi đi vào những vấn đề này, tôi có một nhận xét tổng quát về những luận điệu xuyên tạc, đả kích ông Hồ Chí Minh của một số người có vẻ như không có mấy trình độ. Không có gì ngu xuẩn hơn là so sánh ông Hồ với Hitler. Những người này hầu như không hề biết gì đến dư luận thế giới, nhất là trong các nước tiến bộ Âu Mỹ, đã nhận định về ông Hồ Chí Minh như thế nào. Hãy vào Internet đánh tên Ho Chi Minh thì sẽ thấy Thế giới đánh giá Hồ Chí Minh như thế nào. Hay hãy đọc những cuốn sách về chiến tranh Việt Nam của các học giả, tướng lãnh Mỹ, và ngay cả hai cuốn In Retrospect và Argument Without End của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Phần nhận định tích cực về Hồ Chí Minh tràn ngập so với phần tiêu cực thưa thớt của một số người Việt hải ngoại mà tên tuổi không đáng kể, và chỉ như những con đom đóm lập lòe trên vài diễn đàn điện tử ít có giá trị trí thức của đám người Việt còn mang nặng lòng hận thù Quốc-Cộng, chống Cộng cuối mùa, chống Cộng khi đã không còn Cộng..
Và những người muốn hạ bệ Hồ Chí Minh để vinh danh “chí sĩ” Ngô Đình Diệm của họ nhân dịp 1/11 thì hãy kiếm đọc cuốn “Những Bạo Chúa, 100 Tên Chuyên Quyền và Độc Tài Ác Nhất Trong Lịch Sử” (Tyrants, History’s 100 Most Evil Despots and Dictators) của Nigel Cawthorne, Barnes & Noble, NY,2004, trong đó chúng ta có thể thấy những tên quen thuộc như Tần Thủy Hoàng, Võ Hậu, Từ Hi, Richard III, Mary I, Ceasar Borgia v..v.. và trong thời cận đại: Hitler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pol Pot, Sadam Hussein, Kim Jung II, và, lạ lùng thay, có cả tên Ngô Đình Diệm (President of South Vietnam) mà lại không có tên Hồ Chí Minh trong danh sách này. Mỗi tên trong danh sách đều có kèm theo một tiểu sử ngắn và sơ lược những hành động chuyên quyền và độc tài của nhân vật đó. Thế này là thế nào, chẳng có lẽ Nigel Cawthorne cũng như nhiều trí thức Tây phương đều là tay sai của CSVN, hay là những người ngu cả hay sao?
Cách đây sáu năm, năm 2000, sử gia William J. Duiker có xuất bản cuốn “Ho Chi Minh, A Life”. Cuốn này được giới trí thức, học giả Âu Mỹ đánh giá khá cao và cho rằng đó là một cuốn nghiên cứu sâu rộng nhất về con người và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh. Đọc Duiker và phối kiểm với những đoạn viết về ông Hồ của nhiều tác giả khác trong thế giới Tây phương, chúng ta có thể rút tỉa ra những điều không xa với sự thật là bao nhiêu.
Trước hết, quốc tế đối với ông Hồ ra sao? Tôi xin được nhắc lại một đoạn trong bài của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà giáo sư đã trích dẫn từ cuốn “Ho Chi Minh” của William J. Duiker:
“Khi tin tức về cái chết của ông Hồ Chí Minh được loan truyền thì khắp địa cầu đưa ra nhận xét về ông. Hà Nội nhận được tới hơn hai mươi hai ngàn (22000) bức điện tín từ các thủ đô lớn của 121 quốc gia trên thế giới để bày tỏ lời ca ngợi ông và chia buồn với nhân dân Việt Nam.Một số các nước theo chủ nghĩa xã hội tổ chức buổi lễ truy điệu ông và đưa ra những lời ca tụng ông. Thủ đô Mạc Tư Khoa chính thức ca tụng ông như là “người con vĩ đại của dân tộc anh hùng Việt Nam, một người lãnh đạo xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, và là người bạn vĩ đại của Liên Bang Sô Viết.” Các nước trong Thế Giới Thứ Ba (các nước trung lập) cũng nhận xét về ông với những lời ca tụng ông như là một người bảo vệ những người bị áp bức. Một bài báo phát hành ở Ấn Độ mô tả ông như là tinh túy của “dân tộc và là hiện thân của lòng khát vọng tự do, của sự tranh đấu bền bỉ.” Những bài báo khác đề cao đức tính giản dị và thẳng thắn của ông.Một bài xã luận trong một tờ báo ở Uruguay (Nam Mỹ) ghi nhận “Ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và có một tình thương vô bờ bến đối vào các trẻ em. Ông là gương mẫu về đức tính giản dị và thẳng thắn trong tất cả mọi phạm vi.”
Phản ứng từ các thủ đô Tây Phương thì không biểu lộ mạnh mẽ. Tòa Bạch Ốc lặng thinh và các viên chức cao cấp trong chính quyền của Tổng Thống Nixon cũng không bình luận gì cả. Nhưng việc chú ý đến cái chết cúa ông Hồ Chí Minh đối với giới truyền thông trong các nước Tây Phương thật là mãnh liệt. Những tờ báo ủng hộ các phong trào phản chiến có khuynh hướng mô tả ông bằng những lời lẽ ca tụng ông như là một địch thủ xứng đáng và là một người bảo vệ những kẻ yếu, những người lép vế thế cô và những người bị áp bức. Ngay cả những người vẫn thường khăng khăng chống lại chế độ Hà Nội cũng đánh giá ông bằng những lời lẽ kính trọng ông như là một người đã tận hiến cả cuộc đời cho đại cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước cho tổ quốc ông, coi ông như là người phát ngôn xuất chúng cho các dân tộc bị bóc lột ở trên thế giới.”
Nguyên văn: (“The news of Ho Chi Minh’ s death was greeted with a outpouring of comment from around the globe. Eulogies flowed in from major world capitals, and Hanoi received more than twenty-two thousand messages from 121 countries offering the Vietnamese people condolences for the death of their leader. A number of socialists states held memorial services of their own and editorial comment were predictable favorable. An official statement from Moscow lauded Ho as a “great son of the heroic Vietnamse people, the outstanding leader of the international Communist and national liberation movement, and a great friend of the Soviet Union.” From the Third World countries came praise for his role as a defender of the oppressed. An article published in India described him as the essence of “the people, the embodiment of the ardent aspiration for freedom, of their endurance and struggle.” Others referred to his simplicity of manner and high moral standing. Remarked an editorial in Uruguayan newspaper: “He had a heart as immense as the universe and in a boundless love for the children. He is a model of simplicity in all fields.”
Reaction from Western capitals was more muted. The White House refrained from comment, and senior Nixon administration officials followed suite. But attention to Ho’s death in the Western news media was intense. Newspapers that supported the antiwar cause tended to describe him in favorable terms as a worthy adversary and a defender of the weak and oppressed. Even those who had admandtly opposed the Hanoi regime accorded him a measure of respect as one who had dedicated himself first and foremost to the independence and unification of his country, as well as a prominent spokeperson for the exploited peoples of the world.”) [Đây là đoạn đầu của Chương cuối: “Epilogue: From Man To Myth” , trang 562. TCN]
Trên đây, Duiker đã viết lại một sự kiện. Sự kiện này, hơn gì hết, đã loại bỏ tất cả những gì mà một số người Việt hải ngoại hay ở trong nước viết tiêu cực theo cảm tính về ông Hồ. Cho nên bất kể những luận điệu nhằm hạ uy tín của ông Hồ đều không thể thuyết phục được ai, ít nhất là trong giới hiểu biết, nhất là những luận điệu này lại thuộc loại hạ cấp, đầy hận thù, vụn vặt, chỉ nhắm vào những tiểu tiết mà không nhìn thấy những mặt to lớn của sự việc, và chỉ có thể lấy được sự đồng tình của một số người nhỏ nhoi thu hẹp trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại..
Có một bài viết về ông Hồ Chí Minh của Wilfred Burchett khá hay: Ho Chi Minh: An Appreciation (pipeline.com). Wilfred Burchett là một ký giả Úc nổi tiếng, đã từng được Ngoại Trưởng Henri Kissinger nhờ làm trung gian liên lạc giữa Mỹ và Hà Nội. Năm 1968, ông đã viết một cuốn có tính cách tiên đoán: “Việt Nam Sẽ Thắng” (Vietnam Will Win) và năm 1977 ông xuất bản cuốn “Châu Chấu Và Voi: Tại Sao [Nam] Việt Nam Sụp Đổ” (Grasshoppers and Elephants: Why Vietnam Fell). Theo tôi, Burchett viết hay, không phải vì tác giả ca tụng ông Hồ, mà tác giả đã viết về những gì đã tạo nên ông Hồ: Không phải thuần túy chỉ là Marx, là Lenin hay Mao Trạch Đông, mà chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ. Có thể nói, tác giả hiểu Việt Nam hơn rất nhiều người tự cho mình là trí thức. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Burchett:
“Chính sách của Mỹ là làm cho người Việt Nam cảm thấy mình thuộc một sắc dân thấp kém (racial inferiors), không có quyền về căn cước quốc gia (have no right for national identity). Họ thường bị gọi là “gooks”, “slopes” và “dinks”, và trên những phúc trình chính thức, làng Mỹ Lai trở thành “Thành phố hồng” (Pinkville) [có nghĩa là thành phố CS] và dân làng bị tàn sát chỉ là “những người Á đông” (oriental human beings). [với ý coi thường, miệt thị]
Sự thực là người nông dân Việt Nam nghèo khó nhất, ngay cả thất học, về phương diện văn hóa và đạo đức thường cũng cao hơn người Mỹ(Reality is that the humblest Vietnamese peasant, even illiterate, is usually culturally and morally superior to his American adversary.). Hắn ta biết nhiều hơn về lịch sử đất nước của hắn – không chỉ vì đất nước hắn có vài ngàn năm lịch sử nhiều hơn Mỹ để mà biết đến – mà vì những điều này đã thấm vào trong người hắn từ sữa mẹ (literally absorbs it with his mother’s milk). Ngay từ bé, hắn sống lên trong một môi trường tràn ngập với những câu chuyện về gia tài lịch sử, hoặc được kể ngay khi còn nằm trong lòng mẹ, hoặc qua những màn kịch diễn lại những trang sử oai hùng của 2000 năm lịch sử chống ngoại xâm của những gánh hát di động, hoặc những truyền thuyết về các “thần hoàng làng”, [thường là các anh hùng giúp nước của xóm làng, được nhà Vua sắc phong], hoặc là những câu chuyện về tổ tiên đã bảo vệ non sông như thế nào, hoặc là những chuyện đau khổ của người dân bị đàn áp bởi ngoại nhân nên đòi hỏi một sự đứng lên để chống đối v..v… Sự hiểu biết về 2000 năm tranh đấu chống kẻ xâm lăng có đầy trong dòng máu của người nông dân chân lấm tay bùn nghèo khó nhất. Chỉ một điều này cũng là một nguồn dũng cảm và sức chịu đựng vô tận, một sự tin tưởng vào tương lai và coi thường những kẻ toan tính phá vỡ những đức tính mà những chuyên viên trong cái “hồ tư duy” (think tank) [của Mỹ] không thể hiểu được (The knowledge of two thousand years' struggle against invaders is in the bloodstream of the humblest, mud-stained peasant. This alone is an inexhaustible source of courage and stoicism; of confidence in the future and contempt for those who try to wreck the present-qualities incomprehensible to the "think tank" specialists.).
Ông Hồ Chí Minh là mẫu mực thu nhỏ của tất cả những điều trên. Và đúng là, cũng như một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm (Ho Chi Minh epitomizes all this. And just as there was something of every Vietnamese in Ho Chi Minh so there is something of Ho Chi Minh in almost every present-day Vietnamese, so strong is his imprint on the Vietnamese nation.) .
Một vấn đề mà Tổng thống Nixon cũng như các vị tiền nhiệm có thể không lưu ý đến nhưng chắc chắn là dân Việt Nam không thể không biết,đó là Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ. (No line arbitrarily drawn along the 17th parallel could divorce the people of the South from Ho Chi Minh because his capital happened to be on the northern side of the line. Ho Chi Minh was the accepted leader and source of inspiration for all Vietnamese - except the handful who served Japanese, French and American masters in turn.)
Lẽ dĩ nhiên, một số người Việt “Quốc Gia” ở hải ngoại không thể đồng ý với nhận định trên, điều này có lẽ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Nhưng trên phương diện nghiên cứu trí thức, một câu hỏi cần được đặt ra: có bao nhiêu phần đúng trong nhận định của Burchett? Nếu chúng ta thuộc lịch sử Việt Nam, nếu chúng ta biết đến những truyền thống trong xã hội làng mạc Việt Nam, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu về hai cuộc chiến ở Việt Nam, với Pháp rồi với Mỹ, thì có lẽ chúng ta không cần đặt ra câu hỏi trên.
Vấn đề tiếp theo tôi muốn nói đến là: ông Hồ Chí Minh là con người Cộng Sản như thế nào? Chúng ta biết rằng, ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ phủ nhận mình là người Cộng Sản và đã từng khẳng định là Lenin đã gây cảm hứng cho ông trong công cuộc giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng muốn hiểu ông Hồ là người Cộng sản như thế nào, có lẽ chúng ta nên biết đến quan niệm của một số trí thức ngoại quốc, những người thường ở trong môi trường đại học, đặt sự tôn trọng sự lương thiện trí thức lên hàng đầu, và vì chính uy tín của họ, nên không thể viết theo cảm tính mà không nghiên cứu kỹ vấn đề, hay tự hạ mình rơi vào vòng tranh chấp Quốc-Cộng mà họ không thuộc phe nào và không có lý do gì để ủng hộ hay chống đối một phe nào..
Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong bài của Stanley I. Kutler điểm cuốn “Ho Chi Minh, A Life”, Kutler là tác giả cuốn "The Wars of Watergate" và là chủ biên của "The Encyclopedia of the Vietnam War." . Stanley Kutler cho rằng trong tác phẩm của mình, Duiker đã viết về một nhà cách mạng ái quốc gần với Thomas Jefferson hơn là với V. I. Lenin [A patriot closer to Thomas Jefferson than to V.I. Lenin]. (Điều này, không phải chỉ có mình Duiker mới nhận định như trên, mà một số tác giả Mỹ khác cũng có cùng một nhận định như vậy. TCN)
Trước hết, Kutler cho rằng chế độ thực dân đã cáo chung một thế kỷ nay rồi và vai trò của ông Hồ đã đi vào quá khứ. Ngày nay, Việt Nam là một phần của nền kinh tế toàn cầu, có nghĩa là có những liên doanh mang lại lợi nhuận cho chính phủ, cho một số viên chức được ưu đãi, và cho những công ty Tây phương. Nhưng Kutler ghi nhận là:
“Tuy nhiên, thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ, và những người như ông, những người đã lo lắng, chiến đấu và hi sinh để giải phóng quốc gia của họ thoát khỏi sự sỉ nhục và gông cùm của sự chuyên chế bạo ngược ngoại quốc.”(Nevertheless, the world is a different place because of Ho, and others like him, who agitated, fought and died to liberate their lands from the stigma and yoke of foreign tyranny.)
Sau đó Kutler viết: “Duiker đã đi quá sự tranh luận đơn giản trong thời Chiến Tranh Lạnh về vấn đề ông Hồ là người Cộng sản theo chính thống Mác-Lênin hay là một nhà ái quốc quốc gia, hiến thân cho cuộc giải phóng và thống nhất đất nước?” (Duiker has moved beyond the simplistic Cold War debate of whether Ho was a dedicated Communist, beholden to Marxist-Leninist orthodoxy, or whether he was a patriot and a nationalist, dedicated to freeing and uniting his country.) “Duiker đã nhận định đúng, Hồ Chí Minh có căn rễ sâu đậm trong phong trào Cộng sản quốc tế, nhưng ông luôn luôn là một người quốc gia đã mang lại sự lãnh đạo, viễn kiến và sự cương quyết hiến thân cho nguyên lý dân tộc tự quyết “(Duiker rightly notes that Ho had deep roots in the international Communist movement; but he was a constant nationalist who provided leadership, vision and a firm commitment to the principle of self-determination.)…
“Ông Hồ không hề nao núng khi dùng chủ nghĩa Cộng Sản cho những mục đích quốc gia. Lời tuyên bố của ông: “các dân ở Đông Dương vẫn sống và sẽ còn sống mãi” khó mà phù hợp với chủ nghĩa Mác. Duiker nhấn mạnh là, đối với ông Hồ, độc lập quốc gia bao giờ cũng là mục tiêu chủ yếu, trong khi chủ thuyết về một cộng sản không tưởng vẫn là một vấn đề mơ hồ, bất định cho tương lai” [Ho unabashedly used communism for his own nationalist ends. His statement that "the peoples of Indochina still live and will live forever" is hardly compatible with Marxism. Duiker insists that for Ho, national independence always was the primary goal, while the doctrine of a communist utopia remained a vague, indefinite matter for the future.] Duiker cũng nhắc lại cho chúng ta là rất tiếc vì những nhận định hời hợt về cuộc Chiến Tranh Lạnh mà Paris và rồi Washington đã thất bại không nắm lấy tay ông Hồ, để đưa đến những hậu quả sâu đậm cho người Việt Nam và cho thế giới (Duiker painfully reminds us that external Cold War considerations led to the failure of Paris and then Washington to grasp Ho's hand, resulting in profound consequences for the Vietnamese people and the world.)
Lẽ dĩ nhiên, cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của Duiker không làm những người mang nặng lòng hận thù Cộng Sản hài lòng, và họ đã lên tiếng chê sử gia Duiker cũng như tất cả các tác giả Âu Mỹ viết về ông Hồ mà không đúng ý họ là ngu dốt, là những người ngoại quốc, đâu có biết gì về ông Hồ bằng người Việt Nam. Chỉ có những người vô tên tuổi, vô văn hóa, và chẳng biết gì mấy về Việt Nam như họ mới có thể biết rõ về ông Hồ, dù rất có thể họ chưa bao giờ thấy mặt ông Hồ, và chỉ biết ông Hồ qua những luận điệu tuyên truyền chống Cộng ở hải ngoại và qua vài chi tiết lặt vặt trong những tác phẩm của những người sau này chống Đảng như Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần v..v.... Điển hình cho loại người này trên Internet là Minh Võ, một người rất năng nổ trong chiến dịch “No Hồ” ở hải ngoại, viết trên diễn đàn điện tử Đàn Chim Việt, một diễn đàn có vẻ như là nơi để cho một số người nhân danh tự do ngôn luận vào đó chửi lộn. Minh Võ đang cố gắng phá đổ cái mà ông ta gọi là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù rằng chẳng có ai coi ông Hồ là thần tượng, vì hầu như mọi người dân trong nước đều coi ông Hồ đơn giản là “Bác Hồ”. Nhưng trình độ hiểu biết, khả năng lý luận, và thủ đoạn bịa đặt sự kiện của ông Minh Võ không cho phép ông ta đạt được mục đích, cho nên những điều ông ta phê bình Duiker cũng như những điều ông ấy viết về ông Hồ không có mấy giá trị trí thức, để lộ rõ một kiến thức kém cỏi và viết với một tâm trạng thù hận và thiếu sự lương thiện trí thức trong đó. Điều này chúng ta có thể chứng minh rất dễ dàng, nhưng tôi để cho phần sau.
Trước hết chúng ta hãy đọc thêm vài tài liệu về ông Hồ:
Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số 23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation, Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh” [L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:
Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện, không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc. Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.”
(Pour Quoc, le marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)
Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions) của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những luận đề này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.
Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:
“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã nắm chắc quyền lực, và những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.”
(En 1934, il est de retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité. Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)
“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924.. Được huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu là gì? Không phải là tất cả nhân loại.”
(À ce sujet, il a expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “ La lutte de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire? Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute l’humanité).
“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ, như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N. Roy, người Ấn Độ, đã nói? Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“
(Ho Chi Minh était-il vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite đêtre posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)
“Năm 1963, người Cộng Sản Lưu Thiếu Kỳ đã phác họa một hình ảnh chính trị của ông Hồ, nếu đúng, cho thấy một vị thế không thoải mái[của ông Hồ] đưa đến một sự gắn bó đôi đàng với lòng yêu nước chấp nhận thỏa hiệp, và chủ nghĩa xã hội độc quyền: “Hồ luôn luôn là người hữu khuynh.. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, ông ta không thể quyết định là thiết lập một chế độ tư bản hay một chế độ theo xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đã quyết định cho ông ta.””
(Le communist Chinois Liu Shaoqi esquisse en 1963 un portrait politique de Ho qui, s’il est exact, indique la position inconfortable qui résulte d’une double adhésion au patriotisme consensuel et au socialisme exclusif: “Ho a toujours été un droitiste.. Lorsque la guerre d’Indochine prit fin, il ne put se décider à choisir d’instaurer soit un régime capitaliste soit un régime socialiste. Ce fut nous qui décidâmes pour lui.”)
“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng .”
(Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux contre-révolutionnaires capitalistes.)
Trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor: John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:
“Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of Vietnam.)
Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981, Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:
“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cho rằng có.”
(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose “philosophy and political organization emanated from and was controlled by the Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists..)
Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990, HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:
“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”
(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their “nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate on the relationship between national and social revolution was resolved, along the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)
Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu khác có những nhận định tương tự rải rác trong những cuốn sách mà tôi đã đọc. Lẽ dĩ nhiên, tôi không thể nào trích dẫn tất cả những nhận định ấy trong phạm vi một bài viết như thế này. Điều này đòi hỏi nhiều thời gian và thích hợp trong một cuốn sách viết ông Hồ hơn. Nhưng qua những tài liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng ông Hồ không phải là tay sai của Nga và Tàu như một số người có đầu mà không có óc cố tình lên án ông ta là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, hay tệ hơn nữa là “điệp viên của Cộng Sản Quốc tế” [Minh Võ]. Họ không hề biết chính trị của ông Hồ giữa Nga và Tàu, đã khôn khéo từ chối không nhận đề nghị của Nga cũng như Tàu gửi quân tình nguyện vào đánh giúp. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn Ho Chi Minhcủa Jules Archer, Chương 9: “Giữa Con Gấu Nga Và Con Rồng Tàu” (Between Russian Bear and Chinese Dragon), trang 109:
“Đến Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách Mạng Trung Quốc, ông Hồ cẩn thận đứng giữa Mao Trạch Đông và đại diện của Nga Sô, Miklai Suslov. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông Hồ đã thành công lấy được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moscou để tăng gia giúp thêm vũ khí và viện trợ dân sự, nhưng khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam. Ông Hồ biết rõ là nếu để cho con gấu Nga hay con rồng Trung Hoa được đặt chân vào cửa ngõ Hà Nội thì dần dần cửa ngõ này sẽ bị cưỡng bách mở rộng ra cho đến khi Bắc Việt mất đi nền độc lập và trở thành một quốc gia bị chiếm.”
(Visiting Peking in 1959 for the 10[SUP]th[/SUP] anniversary of the Chinese Revolution, Ho was careful to stand between Mao Tse-Tung and Chief Soviet Delegate Mikhail Suslov. In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers. Ho knew that if either the Russian bear or the Chinese dragon were allowed to trust a foot inside Hanoi’s door, that door would gradually be forced open until North Vietnam lost its independence and became a captive nation.)
Đọc về ông Hồ chúng ta thấy rõ Mỹ và Pháp, vì những nhận định chính trị sai lầm, đã càng ngày càng đẩy ông ta về phía Cộng Sản, và ông ta không có con đường nào khác, vì để thực hiện mục đích không hề thay đổi của ông là thực hiện nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, nên ông ta cần đến các đồng minh. [Hãy nghĩ đến chuyện ông viết 8 bức thư cho Tổng Thống Truman, đến chuyện Mỹ giúp 80% quân phí cho Pháp trở lại tái lập nền đô hộ ở Đông Dương, và rồi dựng lên chế độ Ngô Đình Diệm, vi phạm hiệp định Genève, ngăn chận cuộc bầu cử vào năm 1956 để thống nhất đất nước.]
Cuối cùng, vị thế của ông Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam ra sao? Chúng ta đã biết, Wilfred Burchett đã nhận định ở trên:
Hồ Chí Minh là của toàn thể quốc gia Việt Nam (that Ho Chi Minh belongs to the whole Vietnamese nation.) Không có một lằn danh giới nào ở vĩ tuyến 17 có thể làm cho người dân miền Nam xa lìa Hồ Chí Minh dù rằng thủ đô được đặt ở miền Bắc. Hồ Chí Minh đã được chấp nhận là lãnh tụ và là nguồn cảm hứng cho mọi người Việt Nam – trừ số người đã lần lượt phục vụ những quan thầy Nhật, Pháp, rồi Mỹ.
Nhận định này đúng hay sai? Có lẽ câu trả lời thiết thực nhất là của Hoàng Xuân Ba trong bài “Hai Câu Chuyện Hoàn Toàn Trung Thực”, mới đây đăng trên Đàn Chim Việt:
Chuyện thứ nhất : lá cờ đỏ sao vàng trên mạng:
Trưa 2/9/2006, ngày quốc khánh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đang nói chuyện với một người bạn Việt Kiều trên Yahoo Messenger (YM) tôi bất ngờ nhận được thông điệp của một người bạn trẻ Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, kèm theo đó là lời kêu gọi hãy thay đổi avatar (hình ảnh đại diện) trên YM bằng lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ biểu trưng cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn lại danh sách nickname của mình trên YM, tôi thấy rất đông các bạn trẻ thay đổi avatar bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng.
Sáng nay, 4/9/2006, báo Tuổi Trẻ đăng bài: “Mừng Quốc khánh trên mạng”. Trong bài viết này, tác giả mô tả lại hình ảnh nhà nhà treo cờ, người người treo cờ trên mạng: “Lần đầu tiên, cư dân trên mạng đón lễ Quốc khánh hoành tráng bằng cách đưa hình ảnh lá cờ Tổ quốc lên mạn trang trọng trên các blog (nhật ký cá nhân trên mạng) và trên avatar trong công cụ chat YM của mình trong ngày 2-9. Và ngày 3-9, tất cả đều đồng loạt thay vào đó là chân dung của Bác Hồ”.
Chuyện thứ hai : lăng ông Hồ Chí Minh :
Tôi đã có dịp gặp gỡ trên mạng với bạn đọc của DCVOnline gần đây qua bài Tản mạn vể xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội, đăng ngày 31/08/2006 (với hàng chục ý kiến khác nhau). Cũng dịp công tác này, tôi tranh thủ được một thời gian ngắn để ghé thăm lăng ông Hồ với mục đích tìm hiểu xem thái độ, tình cảm của người dân Việt Nam và nhất là người dân Hà Nội đối với ông Hồ ra sao. Điều làm tôi thật bất ngờ là có rất nhiều cá nhân đến viếng thăm lăng ông, các đoàn viếng lăng vào ra tấp nập. Để vào thăm lăng của ông tôi được một anh bảo vệ cầm loa phóng thanh bắt phải đứng xếp vào hai hàng dọc, một đặc trưng của xã hội chủ nghĩa, rồi theo đó vào lăng. Quả thật tôi cảm nhận được sự trang nghiêm của lăng mộ ông Hồ và cả sự sùng bái của những người dân bình thường viếng thăm lăng. Một cách tự động, tất cả mọi người đều kính cẩn, nghiêm trang khi đi ngang qua xác ông được đặt trong một cái hòm rất rộng, bốn bên là kính trong suốt. Trông ông không giống như những bức hình chụp mà tôi từng thấy, khuôn mặt trông vẫn còn rất tươi tắn hồng hào nhưng trông giả chứ không thật, có lẽ bị đánh sáp.
Báo chí Việt Nam sáng 4/9/2006 đều đồng loạt đăng tin về việc có hàng vạn người đến viếng thăm lăng ông Hồ. Báo Tuổi Trẻ viết: “Sáng 2/9, đoàn người vào lăng viếng Bác dài ra tận hai phía trên phố Ngọc Hà và Hùng Vương. Đông nhất là các đoàn học sinh và người già từ các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây. Còn có rất nhiều đoàn đến từ tỉnh xa như Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Trị, Bình Phước... Có nhiều người nước ngoài cũng đứng trong đoàn người từng bước vào lăng. Khu vực quảng trường trước lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nào cũng đông kín người”.
Một thông tin đáng chú ý đó là thiếu tướng Đào Hữu Nghĩa, trưởng Ban quản lý lăng kiêm tư lệnh Bộ tư lệnh bảo vệ lăng ông Hồ cho biết đến hết buổi viếng ngày 2/9 chỉ khoảng 25.000 lượt người được vào viếng lăng ông, số còn lại đành phải chờ đến hôm sau. Tôi tin rằng con số trên rất thật bởi vì tôi đã được tận mắt chứng kiến dòng người xếp hàng dài vào viếng lăng ông Hồ, không nhất thiết phải do cơ quan hay các hội đoàn tổ chức.
Duiker cũng viết, trang 566: “Mỗi tuần có hơn 15000 người đến viếng thăm Lăng ông Hồ” (More than 15000 visit the mausoleum each week)
Tại sao ngày nay người dân Việt Nam vẫn còn kính ngưỡng ông Hồ Chí Minh, tuy rằng trên diễn đàn truyền thông hải ngoại có cả một chiến dịch để xóa bỏ “thần tượng Hồ Chí Minh”? Lý do rất dễ hiểu là phần lớn những điều viết về ông Hồ của giới chống Cộng là sai lầm, là vô căn cứ, bắt nguồn từ lòng thù hận một chiều của những người gọi là Quốc Gia, chứ không đặt trên những sự thật và sự kiện lịch sử. Thật vậy, những người chống Cộng cực đoan như Minh Võ chỉ nhìn thấy những điều lặt vặt như chúng ta thấy trong bài ông ta phê bình cuốn “Ho Chi Minh, A Life” của William J. Duiker. Để có thể thêm vài chi tiết về ông Hồ Chí Minh, có lẽ tôi cũng nên điểm qua bài phê bình Duiker của Minh V anh của Cụ Diệm: Giám Mục Ngô Đình Thục
"...Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...." ( GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC)
Phần I
Không viết về “Cụ Diệm” thì quả là một điều thiếu sót, vì dù sao ông Diệm cũng đã là Tổng Thống của miền Nam trong 9 năm . Nhưng bài này tuyệt đối không phải để đối chiếu so sánh “Cụ Diệm” với “Cụ Hồ” vì không ai có đôi chút hiểu biết lại đi làm công việc vô trí này. Tại sao? Vì một đằng suốt đời sống gian khổ, tổ chức, tập họp những người yêu nước chống Pháp, mong giành lại độc lập và thống nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một đằng làm quan cho Pháp, bắt người yêu nước chống Pháp tra khảo, rồi nằm yên vị trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ, Bỉ trong khi nước nhà sôi bỏng vì chiến tranh, kháng chiến chống Pháp trở lại Đông Dương, rồi phút cuối trở về làm “chí sĩ cứu tinh dân tộc” [Cụ Diệm]. Đã có nhiều sách viết về biến cố ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh ở miền Nam. Và không ai có thể phủ nhận là chính cựu Hoàng Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Diệm về làm Thủ Tướng. Nhưng những chi tiết từ đâu mà cựu Hoàng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm thay vì không phải ai khác thì rất ít được viết đến. Có chăng chỉ là sơ sài như ông Diệm được Hồng Y Spellman ủng hộ hay được chính giới Mỹ ủng hộ, tuy rằng dân Việt không có ủng hộ, vì khi đó chẳng có mấy người biết đến ông Diệm .
Chúng ta biết rằng Ông Ngô Đình Diệm không phải là một khuôn mặt chính trị có tầm vóc ở Việt Nam, được nhiều người biết đến trước khi được đưa về Việt Nam làm Thủ Tướng vào tháng 6, 1954. Thành tích của ông trong thời Pháp thuộc không lấy gì làm sáng sủa, chưa kể ông thuộc dòng họ ba đời làm Việt Gian. Thành tích “yêu nước” nổi bật nhất của ông là trong thời Pháp thuộc, khi làm Tri Phủ Hòa Đa, ông đã dùng đèn cầy đốt hậu môn của những người yêu nước chống Pháp để tra khảo. Chúng ta cũng biết, từ năm 1950, ông đã rời quê hương đất tổ của ông để sống trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ và ở Bỉ. Vì những thành tích này mà khi ông về cầm quyền, những người Công giáo đã tôn ông lên làm “chí sĩ”, và người dân miền đã Nam bị cưỡng bức phải ca bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô Tổng Thống; Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm”. Cuối cùng, “muôn năm” chỉ có vỏn vẹn “chín năm”, và ông đã yên nghỉ cùng Chúa và ông bạn vàng Torquemada (một Đại Phán Quan Tây Ban Nha giống như ông Diệm đã từng tự nhận), tới nay được 43 năm rồi.
Một câu hỏi được đặt ra: với một thành tích “yêu nước” và chính trị không có gì, với một khả năng rất giới hạn, tài và đức đều không có, vậy tại sao ông Diệm lại được chọn để làm Thủ Tướng ở miền Nam?
Có lẽ những chi tiết trong cuốn “The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”, A Dell Book, NY, 1985, của John Cooney, tạm gọi là đầy đủ nhất. Để viết cuốn sách này, tác giả Cooney đã xử dụng những nguồn tài liệu từ chính Nhật Ký của Spellman, những hồ sơ mật của FBI, và qua những cuộc phỏng vấn, nên tác phẩm của Cooney là một nguồn tài liệu rất có giá trị [By using Spellman’s personal diary, FBI classified files, and interviews, Cooney’s volume is an engrossing, valuable document]. Vậy sau đây, tôi xin trích dẫn vài đoạn trong phần nói về ông Diệm trong cuốn sách trên, từ trang 307 đến trang 314.
“Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng Y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ Tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công Giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng.
Spellman đã gặp Diệm ở New York vào năm 1950, khi người Việt Nam này ở trong Trường Dòng Marykoll ở Ossining, New York. Một tín đồ Công giáo trung thành, sinh ra từ một gia đình gia giáo, Diệm ở trong Trường Dòng do sự cầu xin của người Anh, Ngô Đình Thục, một Giám mục Công giáo. Là một người độc thân rất sùng tín, Diệm đã tự tách mình ra khỏi thế giới, đặc biệt là ra khỏi quốc gia tan tác bởi chiến tranh của ông ta. Và ông ta chỉ được biết đến bởi một nhóm nhỏ hoạt động chính trị ở Mỹ. Ở Việt Nam tên ông ta không gây nên một hứng thú nào. Trên chính trường Mỹ, ông ta không được ai biết đến, một tình trạng mà Spellman giúp ông sửa đổi. Lai lịch của Diệm không tránh được sự chú ý của Spellman.
Người đưa Diệm đến Spellman là Linh mục Fred McGuire. Một cựu thừa sai ở Á Châu, kiến thức về Viễn Đông của McGuire được biết rõ ở Bộ Ngoại Giao. McGuire nhớ lại, một ngày nọ ông được Dean Rusk, khi đó làm trưởng ban Á Châu vụ, nhờ dàn xếp để Giám mục Thục, sắp đến Mỹ, tới gặp các viên chức của Bộ Ngoại Giao. Rusk cũng tỏ ý muốn gặp Diệm.
McGuire tiếp xúc với người bạn lâu đời, Giám Mục Griffiths, vẩn còn là chuyên viên ngoại vụ của Spellman. Hắn ta yêu cầu sẽ để cho Thục được tiếp kiến đúng nghi thức bởi Hồng Y. Trong dịp này Diệm đã từ Trường Dòng đến nhà riêng của Spellman. Cuộc gặp gỡ giữa Spellman và Diệm có thể là một cuộc gặp gỡ lịch sử. Joseph Buttinger, một người hoạt động cho những người tị nạn Việt Nam, tin rằng Hồng Y Spellman là người Mỹ đầu tiên nghĩ đến việc đưa Diệm về lãnh đạo Nam Việt Nam.
Tháng 10 1950, hai anh em Diệm đã gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao ở khách sạn Mayflower, có cả Rusk. Diệm và Thục được tháp tùng bởi McGuire và ba giới chức chính trị của giáo hội khi đó đang hoạt động để ngăn chận Cộng Sản: Linh mục Emmanuel Jacque, Giám mục Howard Carroll, và Edmund Walsh ở đại học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ này là hỏi hai anh em Diệm Thục về đất nước của họ và xác định những niềm tin chính trị của họ. Điều rõ ràng sau đó là cả Thục và Diệm đều tin rằng Diệm sẽ cai trị đất nước của họ. Sự kiện là Việt Nam chỉ có 10% Công Giáo không đáng quan tâm đối với hai anh em Diệm.
Khi bày tỏ ý kiến trong bữa ăn tối, hai lập trường Diệm tin tưởng nhất đã rõ ràng. Hắn ta tin vào quyền năng của Giáo hội Công Giáo và hắn ta thù địch dữ dội và quyết liệt chống Cộng. Điều này chắc đã phải gây ấn tượng trên các viên chức Bộ Ngoại Giao. Quan tâm đến Việt Nam từ khi Truman bắt đầu giúp tài chánh cho Pháp ở đó (Việt Nam), những viên chức Bộ Ngoại Giao đã luôn luôn để ý đến những người lãnh đạo chống Cộng cực đoan vì ảnh hưởng của Pháp đã phai nhạt. Sau Điện Biên Phủ, Eisenhower muốn ủng hộ một chính phủ mở rộng hơn là chính phủ của ông Vua, người không được quần chúng ủng hộ mấy vì đã từ lâu bị coi như là một bù nhìn của Pháp và Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người Quốc Gia ở địa vị cao ở Nam Việt Nam để làm giảm sự hấp dẫn của Hồ Chí Minh. Kết quả là Bảo Đại đã cho Diệm một chức vụ mà Diệm mà Diệm vẫn muốn – Thủ Tướng. [[Về chuyện này Bernard Fall viết trong The Two Viet-Nams, trang 244: “Ý thức được rằng mình đang ném ngai vàng đi, Bảo Đại bắt Diệm phải thề (Theo Stanley Karnow, trang 218, Bảo Đại bắt Diệm thề trước cây Thánh Giá [before the crucifix]) trung thành với ông, và nhiều nhân chứng có thẩm quyền quả quyết là Diệm cũng còn quỳ xuống trước Hoàng Hậu Nam Phương là sẽ làm hết sức trong phạm vi quyền lực của mình để “giữ ngai vàng cho Hoàng Tử Bảo Long, con của Bảo Đại” (Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of allegiance to him, and several authorative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam-Phuong that he would do everything in his power “to preserve the throne of Viet-Nam for Crown Prince Bao-LOng”, son of Bao Dai.) Nhưng chúng ta đã biết, chỉ hơn 1 năm sau, Diệm đã dùng tiền của CIA để tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế bỏ Bảo Đại và lên làm Tổng Thống. Về vụ này Bernard Fall cũng viết, trang 257: “Trong hầu hết các nơi bỏ phiếu, có nhiều ngàn phiếu nhiều hơn là số cử tri đã bỏ cho Diệm . Thí dụ, Ở vùng Saigon-Chợ Lớn, đếm được 605,205 phiếu trên số 450,000 cử tri ghi danh”. (In nearly all electoral areas, there were thousands more “Yes” votes than voters. In the Saigon-Cholon area, for example, 605,025 votes were cast by 450,000 registered voters)]]
Diệm trở về Saigon ngày 26 tháng 6, 1954, sau Edward Lansdale vài tuần. Lansdale là trùm CIA về quân sự ở Saigon, đặc trách cuộc chiến không theo quy ước [có nghĩa là đánh phá ngầm]
Lập trường của Spellman về Việt Nam phù hợp với những mong ước của giáo hoàng. Malachi Martin, một cựu tu sĩ dòng Tên phục vụ tại Vatican trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, nói rằng giáo hoàng muốn Mỹ ủng hộ Diệm vì giáo hoàng đã bị người anh của Diệm, Tổng giám mục Thục, ảnh hưởng. “Giáo hoàng quan tâm đến sự càng ngày càng thắng lợi của Cộng sản do đó làm suy yếu giáo hội,” Malachi xác nhận rằng: “Giáo hoàng ra lệnh cho Spellman khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam.”
Do đó Spellman xếp đặt một chiến dịch hòa điệu kỹ càng để dựng lên chế độ Diệm. Qua báo chí và vận động trong hậu trường ở Washington, vấn đề đối đầu chống Cộng ở Đông Dương được phổ biến rộng rãi ở Mỹ.
Spellman và Kennedy cũng còn giúp lập lên một nhóm vận động hậu trường Washington. Chủ trương của sự đồng minh này là chống Cộng và phát huy ý hệ Công Giáo.
..Do đó, rất nhiều người Mỹ tin rằng Việt Nam là một quốc gia phần lớn là Công Giáo. Một phần của cái ấn tượng sai lầm này là kết quả của việc Diệm lên cầm quyền. Với sự giúp đỡ của CIA tổ chức cuộc bầu cử gian lận năm 1955, Diệm hủy bỏ chế độ quân chủ và Bảo Đại bị cưỡng bức phải sống trong cảnh lưu đầy. Cái màu sắc Công Giáo đậm đà trong cuộc vận động hậu trường Việt Nam cũng góp phần tạo nên quan niệm sai lầm trên. Còn một yếu tố khác là sự đặt mình vào trong đường lối trên của Spellman.
Rồi còn có vai trò hấp dẫn của một bác sĩ Công giáo trẻ hoạt động ở Việt Nam tên là Tom Dooley. Một Trung Úy hải quân hoạt động ở Hải Phòng, Dooley làm việc với các người tị nạn.
Là con cưng của Spellman, có một lúc Dooley tổ chức được 35,000 tín đố Công Giáo Việt Nam ở miền Bắc đòi di cư. Có lẽ những nỗ lực của Dooley thành công ở Mỹ hơn là ở Việt Nam. Hắn viết ra những bài trong nhật báo và tuần báo và 3 cuốn sách bán chạy nhất để tuyên truyền cho Công Giáo và chống Cộng theo những niềm tin của hắn. Hắn dựng lên những chuyện người Công Giáo bị khổ nạn trong tay của những người Cộng Sản đã đánh đập vào bộ sinh dục của các linh mục trần truồng, chọc thủng màng tai của những đứa trẻ bằng đũa để cho chúng không nghe được về Thiên Chúa, và mổ bụng phụ nữ có thai. Tốt nghiệp đại học Notre Dame ở Indiana [thực ra Dooley không tốt nghiệp bác sĩ từ đại học Notre Dame mà từ đại học St. Louis. Trường Notre Dame có tiêu chuẩn cao nên Dooley không theo được và phải bỏ Notre Dame theo học ở St. Louis. Nhưng ngay ở đây, Dooley cũng học rất kém, phải học lại năm cuối, và khi làm nội trú cũng phải làm thêm 6 tháng. Nhưng vì những công việc chống Cộng bịp bợm nên Dooley đã trở thành nổi tiếng như là một bác sĩ tận tụy giúp người di cư và chống Cộng cực đoan. Vì vậy năm 1960, trường Notre Dame trao tặng cho Dooley chức bác sĩ hàm] , Dooley đi khắp nước Mỹ để quảng cáo những cuốn sách của mình và hô hào chống Cộng, rồi chết năm 1961, khi mới có 34 tuổi. Người cuối cùng đến bên giường bệnh của Dooley là Hồng Y Spellman, người đã tôn ông bác sĩ trẻ như là nguồn cảm hứng cho mọi người – một thánh tử đạo khác. Tiếng tăm của Dooley không suy giảm cho đến khi Ủy Ban phong Thánh của Công Giáo La Mã điều tra năm 1979 và khám phá ra rằng Dooley có liên hệ với CIA. [Muốn biết sự thực về con người của Tom Dooley, xin đọc bài “Doctor Tom Dooley” của Peter Brush trong mục các bài tiếng Anh]
Dooley đã giúp CIA tạo loạn cho Bắc Việt qua những chương trình tị nạn của hắn. Những người Công Giáo đổ vào miền Nam đã mang đến cho Diệm một hậu thuẫn chính trị lờn và được hứa hẹn của Mỹ giúp đỡ để tái định cư. Quần chúng Mỹ phần lớn tin rằng hầu hết những người Việt Nam đều khiếp sợ sự độc ác và khát máu của Việt Minh và tìm đến ông Diệm sợ Chúa để được giải thoát. Nhiều người tị nạn chỉ sợ bị trả thù vì mình đã ủng hộ Pháp.
...Sự tuyên truyền của Spellman về bản chất Công Giáo của chính quyền Diệm đã làm rõ rệt thêm hình ảnh không đẹp về vị thế của giáo hội ở Việt Nam. Cái bản chất tôn giáo của chính quyền Diệm và những vấn đề chính quyền đó tạo ra đã được ghi nhận bởi Graham Greene, một tín đồ Công Giáo, trong một bài viết từ Saigon, in trong tờ London Sunday Times ngày 24 tháng 4, 1955:
“Chính cái giáo thuyết Công Giáo đã làm cho chính quyền Diệm sụp đổ, vì sự sùng tín của ông ta đã bị những cố vấn Mỹ khai thác cho đến khi giáo hội ở trong nguy cơ làm mất lòng dân như Mỹ. Một cuộc viếng thăm không thích hợp của Hồng y Spellman (Hồng Y Spellman đến Việt Nam để nâng uy tín của Diệm đồng thời bi thảm hóa của cuộc di cư lớn lao của người Công Giáo “dramatizing once more the great exodus of refugees from the North, the greater part of whom are Catholics.”) Một linh mục Việt Nam nói: Ông ta (Spellman) nói nhiều về con bò vàng [mà một số người Do Thái thờ phụng như được viết trong Cựu ước. TCN] hơn là về Mẹ Thiên Chúa] đã được tiếp nối bởi những cuộc viếng thăm của Hồng y Gillroy và Tổng Giám mục ở Canberra. Những số tiền lớn lao đã được dùng để tổ chức những cuộc biểu tình đón tiếp những vị khách này, đưa ra một ấn tượng là giáo hội Công Giáo là của Tây phương và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường hợp hiếm hoi mà ông Diệm thăm viếng những vùng của Việt Minh trước đây, bao giờ cũng có một linh mục đứng bên, và thường là một linh mục Mỹ.
...Nam Việt Nam, thay vì đối đầu với chế độ toàn trị của miền Bắc bằng những bằng chứng về tự do, lại rơi vào một chế độ độc tài bất hiệu lực: dẹp bỏ báo chí, kiểm duyệt chặt chẽ, lưu đầy bằng lệnh của chính quyền thay vì phải được xét xử ở tòa án. Thật là bất hạnh khi một chính quyền như vậy lại đồng nhất hóa với một đức tin. Ông Diệm rất có thể đã để lại trên đất nước đầy tinh thần khoan nhượng này một di sản chống-Công Giáo.”
Trong cuộc viếng thăm, Spellman đã trao một ngân phiếu 100,000 đô-la cho Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo, một tổ chức hoạt động tích cực trong chương trình tái định cư những người di cư và sau đó cai quản chương trình viện trợ của Mỹ, chứng tỏ Tổ Chức này sát cánh với nỗ lực chiến tranh của Mỹ và đưa tới sự nghi ngờ là Tổ Chức có liên hệ với CIA. Dùng Giáo hội để làm chức vụ như vậy đã được thi hành ở Châu Mỹ La-Tinh, ngoài nhiều nơi khác, nhưng ở Việt Nam có vẻ đúng như những lời khuyến cáo của Graham Greene là Giáo hội và Mỹ đã cùng nhau thi hành một đường lối thất nhân tâm đối với những người Việt Nam.
Khả năng tham nhũng ở Việt Nam rất cao và cũng làm hại tới uy tín của Tổ Chức Cứu Trợ. Drew Parson ước tính chỉ trong năm 1955 chính quyền Eisenhower đã bơm vào Việt Nam trên 20 triệu đô-la viện trợ giúp người tị nạn Công giáo. Không thể tránh được, có quá nhiều gắn ghép và tham nhũng trong việc phân phối thực phẩm, thuốc men, và các đồ dùng khác tới các làng mạc. Tờ National Catholic Reporter đã phúc trình những sự lạm dụng của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo trong nhiều bài mà một bài có đầu đề là: “Việt Nam 1965-1975. Vai Trò của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo: Công Trình Của Chúa – Hay Của CIA?” Những sự lạm dụng bị phanh phui gồm có: dùng viện trợ để truyền đạo, chỉ giúp những người Công Giáo tuy viện trợ là cho tất cả mọi người, đồng nhất hóa với quân lực, và đem cho binh lính Mỹ và Việt thay vì cho dân sự như mục đích của viện trợ. [Những người ở Việt Nam thời đó đều biết rõ các Linh mục Công Giáo Việt Nam và tổ chức Công Giáo được giữ độc quyền để phân phát viện trợ. Sự phanh phui trên là từ một tờ tuần báo của chính Công Giáo] [SUP]1[/SUP]
Qua tài liệu trên, và phối hợp với nhiều tài liệu khác, thí dụ như của Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo trong cuốn The Final Superstition, chúng ta thấy rõ vai trò then chốt của Vatican đã dự phần đưa tới việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Chúng ta cũng còn biết, Hồng Y Spellman đã đến Việt Nam nhiều lần, đi tới các tiền đồn để khuyến khích lính Mỹ chiến đấu cho Chúa: “Trong một bài học thuộc Giáo hội thời Trung Cổ, Spellman bảo với binh sĩ Mỹ là họ là những “thánh chiến quân” tham gia vào cuộc chiến của Chúa Ki Tô chống Việt Cộng và dân chúng Bắc Việt” (John Cooney, p.384: In a lesson from the medieval Church, Spellman told the troops they were “holy crusaders” engaged in “Christ’s war against the Viet-cong and the people of North Vietnam). Nhưng tại sao Chúa lại chống Cộng ở một nước nhỏ bé như Việt Nam, sao Chúa không chống Cộng ở Nga, ở Tàu, hay ở Ba Lan, Tiệp Khắc ngay bên Âu Châu? Vatican, thêm một lần nữa, đã mang tội với dân tộc Việt Nam và các tín đồ Công Giáo Việt Nam phải gánh cái hậu quả này. Chúng ta cũng thấy rõ, Ngô Đình Diệm chẳng qua chỉ là một con cờ của liên minh Mỹ-Vatican. Và Ngô Đình Diệm không thể ngờ được rằng về sau, vì quyền lợi của Vatican và của Mỹ, cả Vatican và Mỹ đều bỏ rơi mình, đưa đến một kết quả quá bi thảm cho chính bản thân. Thật là tội nghiệp. Dưới hình thức nào thì thực dân cũng đều như nhau. Ngày nay, những tàn dư của Cần Lao còn cố gắng “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm” mà không biết rằng họ đang phục hồi tinh thần Trần Ích Tắc.
Để cho công bình, chúng ta cũng còn phải xét thêm việc từ khi về làm Thủ Tướng và rồi tự lên làm Tổng Thống, “Cụ Diệm” đã làm gì cho đất nước?
Đã có nhiều sách viết về nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa: Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn, Hồ Sĩ Khuê, Nguyệt Đam & Thần Phong, Nguyễn Mạnh Quang, Vũ Ngự Chiêu v..v... Nhưng xin đọc Phần II để biết người Tây Phương đánh giá ông Ngô Đình Diệm như thế nào.
Phần II
Sau khi về làm Thủ Tướng và rồi Tổng Thống, ông Ngô Đình Diệm đã cai trị miền Nam như thế nào. Những tài liệu nhận định về con người Ngô Đình Diệm và chính quyền Ngô Đình Diệm của một số tác giả ngoại quốc có tên tuổi sau đây sẽ trả lời câu hỏi này.
Những tài liệu này cũng còn cho thấy ý nghĩa đích thực của phong trào tranh đấu Phật Giáo 40 năm trước đây và không còn bị lừa dối bởi những luận điệu quái gở như Phật Giáo thân Cộng, Phật Giáo làm “mất nước” (sic) v..v.. của một đoàn thể đã nổi tiếng là “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc.”
1. "Vietnam: Crisis of Conscience" by Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak, Associated Press, New York 1967, p. 30:
Ký giả người Úc Denis Warner viết “Trong nhiều năm, cái chế độ bạo ngược chuyên chế mà Tây phương đồng minh với ở Saigon (chế độ Ngô Đình Diệm) thì còn tệ hơn là cái chế độ mà Tây phương đang chiến đấu để chống (chế độ CS)”. Diệm và gia đình ông ta đã giết hoặc lưu đày tất cả những thế đối lập. “Diệm đã mất đi sự tin cậy và trung thành của dân chúng” như Bộ Trưởng McNamara đã nhận định ngày 26 tháng 3, 1964.
(The Australian writer Denis Warner wrote that "the tyranny the West allied with in Saigon was in many years worse than the tyranny it was fighting against." Diem and his family had murdered or exiled all potential opposition. Diem had "lost the confidence and loyalty of his people," as Secretary McNamara put it on March 26, 1964.)
2. "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald (Winner of the Pulitzer Prize, Winner of the National Book Award, Winner of the Bancroft Prize For History), Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139:
Cái chất công giáo của Diệm, không hề mở mắt hắn đến với những ý tưởng mới, mà chỉ thuyết phục hắn là cai trị bằng nghi lễ và huấn thị đạo đức là có thể thành công, mà nó
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: