Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Trong QTDH thầy không giới thiệu toàn bộ tri thức ngay lập tức, mà thường chỉ giới thiệu những vấn đề cơ bản để học sinh nắm vững. Sau đó củng cố và bổ sung mở rộng khối lượng tri thức. QTDH diễn ra “sự tương tác” trên lớp giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Như vậy việc dạy và học mới mang lại kết quả, bổ ích, đáp ứng yêu cầu xã hội[3].
TÓM TẮT
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta. Đây cũng là vấn đề cấp bách mà toàn ngành giáo dục xem là phương châm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Hiện nay, trong việc đổi mới giáo dục đại học thì việc đổi mới PPDH có ý nghĩa thực tiễn, thiết thực. Trong hoạt động dạy học, vấn đề đặt ra về lí luận cũng như thực tiễn là cần xem xét mối quan hệ thầy trò, dạy-học; đây là hai nhân tố quan trọng trong quá trình dạy học (QTDH) làm nên chất lượng, hiệu quả của dạy học.
ABSTRACT
The innovation in teaching methods is an indispensable requirement for the cause of educational reform and training of our country. This is also an urgent problem which is considered as a guideline by our education as a whole to enhance the quality of education and training.
With the educational reform in higher education, the innovation in teaching method at present is practical and down-to-earth. In teaching activities, the problem raised here concerning theory as well as practice is to consider the relationship between the teacher and students and between teaching and learning, the two important elements that bring about the quality and effectiveness of teaching in the teaching process.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng đào tạo là vấn đề không chỉ ngành giáo dục (GD) mà cả xã hội đang quan tâm. Chất lượng đào tạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố của giáo dục, xã hội, kinh tế, quản lí. Riêng về bình diện sư phạm học, phương pháp (PP) dạy, PP học đang là tiêu điểm chú ý bàn luận, nghiên cứu được mọi người quan tâm; đặc biệt quan hệ tương tác giữa người dạy và người học trong quá trình dạy học (QTDH) trong xu hướng đổi mới PP ở các trường cao đẳng, đại học. Bài viết đề cập đến mối quan hệ thầy trò trong QTDH.
Theo Davydov: “các hoạt động dạy và học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” có thề diễn tả QTDH một cách giản lược theo sơ đồ sau:
Thầy: người tổ chức hướng dẫn QTDH (xác định mục đích, lựa chọn nội dung, kích thích hứng thú), động cơ của người học, tổ chức việc học, sử dụng PP, phương tiện một cách thích hợp.
Trò: xác định mục tiêu, chủ động tích cực lĩnh hội bài giảng, lựa chọn cách học thích hợp để tìm kiếm kiến thức, cấu trúc lại vốn kiến thức của mình, vận dụng, kiểm tra đánh giá điều chỉnh việc học.
Tuy nhiên, hai mặt hoạt động trên đây chưa đồng bộ đang là nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả QTDH. Việc dạy học chỉ quan tâm chủ yếu đến cách dạy học của thầy, còn cách học của trò ít được chú ý, thậm chí bị bỏ qua, không phải bao giờ hễ cứ có dạy là có học.
2. NỘI DUNG
Ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay trong xu hướng dạy học theo học chế tín chỉ thì vấn đề cách học của trò đặc biệt quan trọng, nó có ý nghĩa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội[2].
2.1. Quá trình dạy học là một hệ thống bao gồm nhiều nhân tố với vị trí và chức năng khác nhau. Trong đó giáo viên với hoạt động dạy và học sinh với hoạt động học là hai nhân tố trung tâm. Trong quá trình vận động phát triển mỗi nhân tố đều phát huy tác dụng của mình. Các nhân tố khác như mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học có hoàn thiện đến mức độ nào đi nữa nếu không thông qua thầy và trò với hoạt động dạy và học của họ thì cũng không phát huy tác dụng thực tế. Hoặc ngược lại, nếu thầy, trò và hoạt động dạy học của họ không quán triệt được mục đích và nhiệm vụ dạy học, không nắm được nội dung dạy học, không sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học ở mức độ cần thiết thì hiệu quả tác dụng của các nhân tố này sẽ hạn chế rất nhiều, thậm chí có thể mất tác dụng. Vì vậy người ta quan niệm QTDH là quá trình có tính hai mặt: mặt hoạt động dạy và mặt hoạt động học, hai mặt hoạt động này hợp thành một thể thống nhất, tồn tại trong mối quan hệ qua lại đối với nhau. Nếu không có mối quan hệ này thì không có sự tác động qua lại giữa thầy và trò, dạy với học, do đó cũng không có lý do tồn tại bản thân quá trình dạy học[5].
2.2. Vấn đề đặt ra về mặt lý luận cũng như về thực tiễn là xem xét mối quan hệ thầy-trò, dạy-học là như thế nào. Như đã trình bày ở phần đặt vấn đề, sự tác động qua lại giữa các nhân tố của QTDH, giữa QTDH với môi trường của nó tạo nên những nét đặc trưng của mối quan hệ thầy-trò trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và nhà trường.
Trong cuốn “Phương pháp giáo dục” tác giả Nguyễn Kỳ [4] đã giới thiệu lịch sử tiến hóa của các phương pháp sư phạm qua 4 giai đoạn với những nét đặc trưng khác nhau của quan hệ thầy- trò, phương pháp giáo điều, giáo viên có vai trò chi phối tuyệt đối, phương pháp này thầy áp đặt mụ tiêu, phương pháp, chỉ đạo trò thụ động. Phương pháp cổ truyền có chú ý hơn vai trò học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy, tuy nhiên thầy vẫn có vai trò chỉ đạo tuyệt đối. Phương pháp tích cực: thầy là người thiết kế cho học sinh hành động và phương pháp giáo dục không chỉ đóng vai trò quan trọng, học sinh đảm nhận trách nhiệm tự giáo dục. Gần đây một số tác giả trong và ngoài nước đã đưa ra lý thuyết dạy học mới: lí luận dạy học cộng tác chẳng hạn, thuyết dạy học cộng tác do Nguyễn Ngọc Quang tổng kết (1983) hay lý luận dạy học hợp đồng (contract didactique) do S. Zohsua đề xuất (1993) [7]. Theo thuyết dạy học cộng tác, dạy học là một hệ toàn vẹn, tích hợp, cân bằng gồm các thành tố cơ bản: khái niệm khoa học, hoạt động dạy học, hoạt dộng học. Dạy có chức năng thiết kế, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra quá trình dạy học; góp phần thi công nhưng không làm thay người học. Học là tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức của bản thân (tự thiết kế, tự tổ chức, tự thi công, tự kiểm tra việc học của mình) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên, hai hoạt động này thống nhất với nhau nhờ sự cộng tác [6].
Sự cộng tác giữa dạy và học là yếu tố duy trì, phát triển sự thống nhất, toàn vẹn của QTDH, cũng là nhân tố dẫn đến chất lượng cao của dạy học. Đỉnh cao của dạy học cộng tác là hệ dạy học tự học - cá thể hóa - có hướng dẫn. Khi xem xét các lí thuyết dạy học từ xa xưa cho đến nay, tác giả Đỗ Ngọc Đạt [2] đã chia chúng thành ba nhóm cụ thể là: tiếp cận hướng vào giáo viên. Theo lí thuyết này giáo viên nắm quyền quyết định QTDH, cả mục đích nội dung, phương pháp, không quan tâm đến ý nguyện của học sinh. Hình thức dạy theo kiểu chia lớp bài học theo kiểu giáo điều hoặc làm mẫu, bắt chước, Tiếp cận hướng vào học sinh, thuyết dạy lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh là chủ thể quyết định cả mục tiêu, nội dung và phương pháp của QTDH. Tiếp cận cộng tác là sự tích hợp của hai cách tiếp cận hướng vào giáo viên, đưa ra quan điểm thống nhất biện chứng giữa dạy và học.
Tóm lại, trong lịch sử giáo dục học và thực tiễn dạy học, người ta phải giải quyết các vấn đề quan hệ giữa thầy và trò. Trong QTDH, thầy thực hiện chức năng truyền đat, điều khiển tri thức. Cấu trúc lại vốn kiến thức của mình, vận dụng, điều chỉnh việc lĩnh hội tri thức [7].
Như vậy, có thể nói rằng về bản chất, quan hệ thầy-trò được hình dung là quan hệ giữa người thông báo và người tiếp thu thông báo, hoặc giữa ngưòi tổ chức, điều khiển chỉ đạo và người tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức.
Người thầy giáo với hoạt động dạy phải thiết kế được yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung dạy học và các hoạt động trên lớp, lựa chọn phương pháp dạy học…
Trước hết, người thầy phải dựa vào mục đích, nhiệm vụ chung, xác định những yêu cầu, nhiệm vụ dạy học cụ thể cho từng môn học mình phụ trách. Từ đây xác định yêu cầu, nhiệm vụ cho từng phần, từng chương, thậm chí từng đề mục [6].
Để đạt hiệu quả dạy học tối ưu, người thầy cần cụ thể hóa các yêu cầu, nhiệm vụ học tập trên cơ sở tính đến trình độ học vấn, trình độ tư duy, đạo đức của học sinh từng lớp; cần xem xét tới việc khắc phục những lỗ hổng trong tri thức và ôn tập, củng cố tri thức nhất định. Chú ý đến từng đối tượng học sinh yếu, học sinh khá, và học sinh cá biệt. Về nội dung thông tin khoa học, giáo viên cần tách ra từng nội dung đó những cái cơ bản, chủ yếu, lựa chọn logic hợp nhất cho cấu trúc nội dung đề mục sẽ sử dụng; bổ sung sách giáo khoa bằng những nội dung mới, những sự kiện, có ví dụ, bài tập, nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ nắm tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo kể cả yêu cầu lấp chỗ hổng trong tri thức của học sinh.
Sau đó giáo viên lựa chọn các hình thức học tập tối ưu chẳng hạn nếu chỉ cung cấp cho học sinh khái niệm xác định thì dùng hình thức thông báo, nếu cần hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh thì chọn hình thức thực hành, hoặc cần phối hợp các hình thức dạy học khác nhau để hỗ trợ giúp học sinh học tập đạt kết quả tối ưu.
Trong QTDH không phải chỉ có tác động một chiều từ thầy đến trò mà còn có sự tác động trở lại từ trò đến thầy, thường có những biểu hiện sau:
- Tạo điều kiện để thầy hoàn thiện hoạt động dạy.
- Mang lại cho thầy kinh nghiệm thực tiễn trong dạy học.
Chính sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học là một trong những quy luật của QTDH. Nó phản ánh mối quan hệ gắn kết (trong QTDH), mối quan hệ giữa thầy với tư cách người tự tổ chức tự điều khiển, lãnh đạo và trò với tư cách người tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức, ta có thể biểu diễn mối quan hệ thầy - trò trong QTDH theo sơ đồ sau:
Hiện nay, với sự ra đời và ngày càng phát triển các kiểu dạy học nêu vấn đề, quan hệ thầy trò trong QTDH đã mang bản chất mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Ngọc Đạt (1994), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Trường ĐHSPHN.
2. Đặng Vũ Hùng - Hà Thị Đức (1994), Lý luận dạy học, Trường ĐHSPHN.
3. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại, NXB. ĐHQGHN.
4. Nguyễn Kỳ (1994), Phương pháp giáo dục tích cực, NXB. GDHN.
5. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học hiện đại, NXB. GDHN.
6. Thái Duy Tuyên (2004), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, NXB.GDHN.
7. V.Okon (2000), Dạy học nêu vấn đề, NXB. GDHN.
([1])Tiến sĩ, Khoa Quản lý giáo dục, Trường Đại học Sài Gòn.
Tác giả: NGUYỄN TRỌNG THUYẾT
Nguồn: Bài đăng được trích từ Tạp chí Đại học Sài Gòn, Quyển số 1 - Tháng 9/2009.
TÓM TẮT
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước ta. Đây cũng là vấn đề cấp bách mà toàn ngành giáo dục xem là phương châm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Hiện nay, trong việc đổi mới giáo dục đại học thì việc đổi mới PPDH có ý nghĩa thực tiễn, thiết thực. Trong hoạt động dạy học, vấn đề đặt ra về lí luận cũng như thực tiễn là cần xem xét mối quan hệ thầy trò, dạy-học; đây là hai nhân tố quan trọng trong quá trình dạy học (QTDH) làm nên chất lượng, hiệu quả của dạy học.
ABSTRACT
The innovation in teaching methods is an indispensable requirement for the cause of educational reform and training of our country. This is also an urgent problem which is considered as a guideline by our education as a whole to enhance the quality of education and training.
With the educational reform in higher education, the innovation in teaching method at present is practical and down-to-earth. In teaching activities, the problem raised here concerning theory as well as practice is to consider the relationship between the teacher and students and between teaching and learning, the two important elements that bring about the quality and effectiveness of teaching in the teaching process.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng đào tạo là vấn đề không chỉ ngành giáo dục (GD) mà cả xã hội đang quan tâm. Chất lượng đào tạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố của giáo dục, xã hội, kinh tế, quản lí. Riêng về bình diện sư phạm học, phương pháp (PP) dạy, PP học đang là tiêu điểm chú ý bàn luận, nghiên cứu được mọi người quan tâm; đặc biệt quan hệ tương tác giữa người dạy và người học trong quá trình dạy học (QTDH) trong xu hướng đổi mới PP ở các trường cao đẳng, đại học. Bài viết đề cập đến mối quan hệ thầy trò trong QTDH.
Theo Davydov: “các hoạt động dạy và học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” có thề diễn tả QTDH một cách giản lược theo sơ đồ sau:
Thầy: người tổ chức hướng dẫn QTDH (xác định mục đích, lựa chọn nội dung, kích thích hứng thú), động cơ của người học, tổ chức việc học, sử dụng PP, phương tiện một cách thích hợp.
Trò: xác định mục tiêu, chủ động tích cực lĩnh hội bài giảng, lựa chọn cách học thích hợp để tìm kiếm kiến thức, cấu trúc lại vốn kiến thức của mình, vận dụng, kiểm tra đánh giá điều chỉnh việc học.
Tuy nhiên, hai mặt hoạt động trên đây chưa đồng bộ đang là nguyên nhân làm suy giảm hiệu quả QTDH. Việc dạy học chỉ quan tâm chủ yếu đến cách dạy học của thầy, còn cách học của trò ít được chú ý, thậm chí bị bỏ qua, không phải bao giờ hễ cứ có dạy là có học.
2. NỘI DUNG
Ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay trong xu hướng dạy học theo học chế tín chỉ thì vấn đề cách học của trò đặc biệt quan trọng, nó có ý nghĩa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội[2].
2.1. Quá trình dạy học là một hệ thống bao gồm nhiều nhân tố với vị trí và chức năng khác nhau. Trong đó giáo viên với hoạt động dạy và học sinh với hoạt động học là hai nhân tố trung tâm. Trong quá trình vận động phát triển mỗi nhân tố đều phát huy tác dụng của mình. Các nhân tố khác như mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học có hoàn thiện đến mức độ nào đi nữa nếu không thông qua thầy và trò với hoạt động dạy và học của họ thì cũng không phát huy tác dụng thực tế. Hoặc ngược lại, nếu thầy, trò và hoạt động dạy học của họ không quán triệt được mục đích và nhiệm vụ dạy học, không nắm được nội dung dạy học, không sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học ở mức độ cần thiết thì hiệu quả tác dụng của các nhân tố này sẽ hạn chế rất nhiều, thậm chí có thể mất tác dụng. Vì vậy người ta quan niệm QTDH là quá trình có tính hai mặt: mặt hoạt động dạy và mặt hoạt động học, hai mặt hoạt động này hợp thành một thể thống nhất, tồn tại trong mối quan hệ qua lại đối với nhau. Nếu không có mối quan hệ này thì không có sự tác động qua lại giữa thầy và trò, dạy với học, do đó cũng không có lý do tồn tại bản thân quá trình dạy học[5].
2.2. Vấn đề đặt ra về mặt lý luận cũng như về thực tiễn là xem xét mối quan hệ thầy-trò, dạy-học là như thế nào. Như đã trình bày ở phần đặt vấn đề, sự tác động qua lại giữa các nhân tố của QTDH, giữa QTDH với môi trường của nó tạo nên những nét đặc trưng của mối quan hệ thầy-trò trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội và nhà trường.
Trong cuốn “Phương pháp giáo dục” tác giả Nguyễn Kỳ [4] đã giới thiệu lịch sử tiến hóa của các phương pháp sư phạm qua 4 giai đoạn với những nét đặc trưng khác nhau của quan hệ thầy- trò, phương pháp giáo điều, giáo viên có vai trò chi phối tuyệt đối, phương pháp này thầy áp đặt mụ tiêu, phương pháp, chỉ đạo trò thụ động. Phương pháp cổ truyền có chú ý hơn vai trò học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy, tuy nhiên thầy vẫn có vai trò chỉ đạo tuyệt đối. Phương pháp tích cực: thầy là người thiết kế cho học sinh hành động và phương pháp giáo dục không chỉ đóng vai trò quan trọng, học sinh đảm nhận trách nhiệm tự giáo dục. Gần đây một số tác giả trong và ngoài nước đã đưa ra lý thuyết dạy học mới: lí luận dạy học cộng tác chẳng hạn, thuyết dạy học cộng tác do Nguyễn Ngọc Quang tổng kết (1983) hay lý luận dạy học hợp đồng (contract didactique) do S. Zohsua đề xuất (1993) [7]. Theo thuyết dạy học cộng tác, dạy học là một hệ toàn vẹn, tích hợp, cân bằng gồm các thành tố cơ bản: khái niệm khoa học, hoạt động dạy học, hoạt dộng học. Dạy có chức năng thiết kế, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra quá trình dạy học; góp phần thi công nhưng không làm thay người học. Học là tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức của bản thân (tự thiết kế, tự tổ chức, tự thi công, tự kiểm tra việc học của mình) dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên, hai hoạt động này thống nhất với nhau nhờ sự cộng tác [6].
Sự cộng tác giữa dạy và học là yếu tố duy trì, phát triển sự thống nhất, toàn vẹn của QTDH, cũng là nhân tố dẫn đến chất lượng cao của dạy học. Đỉnh cao của dạy học cộng tác là hệ dạy học tự học - cá thể hóa - có hướng dẫn. Khi xem xét các lí thuyết dạy học từ xa xưa cho đến nay, tác giả Đỗ Ngọc Đạt [2] đã chia chúng thành ba nhóm cụ thể là: tiếp cận hướng vào giáo viên. Theo lí thuyết này giáo viên nắm quyền quyết định QTDH, cả mục đích nội dung, phương pháp, không quan tâm đến ý nguyện của học sinh. Hình thức dạy theo kiểu chia lớp bài học theo kiểu giáo điều hoặc làm mẫu, bắt chước, Tiếp cận hướng vào học sinh, thuyết dạy lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh là chủ thể quyết định cả mục tiêu, nội dung và phương pháp của QTDH. Tiếp cận cộng tác là sự tích hợp của hai cách tiếp cận hướng vào giáo viên, đưa ra quan điểm thống nhất biện chứng giữa dạy và học.
Tóm lại, trong lịch sử giáo dục học và thực tiễn dạy học, người ta phải giải quyết các vấn đề quan hệ giữa thầy và trò. Trong QTDH, thầy thực hiện chức năng truyền đat, điều khiển tri thức. Cấu trúc lại vốn kiến thức của mình, vận dụng, điều chỉnh việc lĩnh hội tri thức [7].
Như vậy, có thể nói rằng về bản chất, quan hệ thầy-trò được hình dung là quan hệ giữa người thông báo và người tiếp thu thông báo, hoặc giữa ngưòi tổ chức, điều khiển chỉ đạo và người tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức.
Người thầy giáo với hoạt động dạy phải thiết kế được yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung dạy học và các hoạt động trên lớp, lựa chọn phương pháp dạy học…
Trước hết, người thầy phải dựa vào mục đích, nhiệm vụ chung, xác định những yêu cầu, nhiệm vụ dạy học cụ thể cho từng môn học mình phụ trách. Từ đây xác định yêu cầu, nhiệm vụ cho từng phần, từng chương, thậm chí từng đề mục [6].
Để đạt hiệu quả dạy học tối ưu, người thầy cần cụ thể hóa các yêu cầu, nhiệm vụ học tập trên cơ sở tính đến trình độ học vấn, trình độ tư duy, đạo đức của học sinh từng lớp; cần xem xét tới việc khắc phục những lỗ hổng trong tri thức và ôn tập, củng cố tri thức nhất định. Chú ý đến từng đối tượng học sinh yếu, học sinh khá, và học sinh cá biệt. Về nội dung thông tin khoa học, giáo viên cần tách ra từng nội dung đó những cái cơ bản, chủ yếu, lựa chọn logic hợp nhất cho cấu trúc nội dung đề mục sẽ sử dụng; bổ sung sách giáo khoa bằng những nội dung mới, những sự kiện, có ví dụ, bài tập, nhằm đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ nắm tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo kể cả yêu cầu lấp chỗ hổng trong tri thức của học sinh.
Sau đó giáo viên lựa chọn các hình thức học tập tối ưu chẳng hạn nếu chỉ cung cấp cho học sinh khái niệm xác định thì dùng hình thức thông báo, nếu cần hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh thì chọn hình thức thực hành, hoặc cần phối hợp các hình thức dạy học khác nhau để hỗ trợ giúp học sinh học tập đạt kết quả tối ưu.
Trong QTDH không phải chỉ có tác động một chiều từ thầy đến trò mà còn có sự tác động trở lại từ trò đến thầy, thường có những biểu hiện sau:
- Tạo điều kiện để thầy hoàn thiện hoạt động dạy.
- Mang lại cho thầy kinh nghiệm thực tiễn trong dạy học.
Chính sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học là một trong những quy luật của QTDH. Nó phản ánh mối quan hệ gắn kết (trong QTDH), mối quan hệ giữa thầy với tư cách người tự tổ chức tự điều khiển, lãnh đạo và trò với tư cách người tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức, ta có thể biểu diễn mối quan hệ thầy - trò trong QTDH theo sơ đồ sau:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Ngọc Đạt (1994), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Trường ĐHSPHN.
2. Đặng Vũ Hùng - Hà Thị Đức (1994), Lý luận dạy học, Trường ĐHSPHN.
3. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại, NXB. ĐHQGHN.
4. Nguyễn Kỳ (1994), Phương pháp giáo dục tích cực, NXB. GDHN.
5. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học hiện đại, NXB. GDHN.
6. Thái Duy Tuyên (2004), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, NXB.GDHN.
7. V.Okon (2000), Dạy học nêu vấn đề, NXB. GDHN.
([1])Tiến sĩ, Khoa Quản lý giáo dục, Trường Đại học Sài Gòn.
Tác giả: NGUYỄN TRỌNG THUYẾT
Nguồn: Bài đăng được trích từ Tạp chí Đại học Sài Gòn, Quyển số 1 - Tháng 9/2009.