Từ Đồng chí của Chính Hữu đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến DuậtTừ Đồng chí của Ch

Thandieu2

Thần Điêu
Từ "Đồng chí" của Chính Hữu đến "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật


BÀI LÀM

Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu 1948, bài thơ Đồng chí ra đời, khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường sơn Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969.

Hai ông thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh chống ngoại xâm của dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập là hai trong những tác phẩm tiêu biểu của mỗi thời kì văn học chống Pháp và chống Mĩ thể hiện hình tượng Anh bộ đội cụ Hồ. Cùng với Cá nước của Tố Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, Năm anh em trên một chiếc xe tăng của Hữu Thỉnh, Bầu trời vuông của Nguyễn Duy ..., người lính trong Đồng chíBài thơ về tiểu đội xe không kính là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt Nam 1945 - 1975, sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là : người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu dựng lên chân thực, giản dị, cao đẹp. Khác khuynh hướng cảm hứng lãng mạn anh hùng với những hình ảnh thơ mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái bình dị, bình thường của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là đẹp trong tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
.....
Súng bên súng đầu gối bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí !

Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí ! Một sự lí giải tình đồng chí của người lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó. Là cùng chung mục đích, lí tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu gối bên đầu ; Đêm rét chung chăn ...). Một chữ chung khiến những người vốn xa lạ thành đôi tri kỉ và cao hơn thành Đồng chí.

Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tình tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở Anh bộ đội cụ Hồ một thứ tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - Tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ vì cái chung lớn lao, mà là sự cảm thông sâu xa tâm tư, nỗi lòng của nhau. Là những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời chiến đấu ... Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ. Bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở thành sáo rỗng, không chuyên trở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính, người đồng đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai, có mười dòng vẫn theo từng cặp tương ứng để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Tình Đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Hồng Nguyên, người cùng thời :

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến ...

Hay nói như Chính Hữu :

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày ...

cũng là tình của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của những “dân ấp, dân lân”, “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn làm quen ; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó” ( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu ). Những con người ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng cuộc chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn.

Bức tượng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ Tình đồng chí.

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Đó là cuộc đời thực của những người lính nông dân nghèo khổ nơi “đất mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày” được tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành dáng hình mới - Dáng đứng Việt Nam ở thế kỉ XX.

Nếu Đồng chí là hình ảnh Anh bộ đội cụ Hồ nông dân chưa biết chữ, “Gian nhà không mặc kệ nó lung lay”, thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hoá thân khác . Hình ảnh người lính của Phạm Tiến Duật có thể xuất thân từ nông dân, công nhân hay tiểu tư sản... nhưng họ không phải là những người chiến sĩ như của Chính Hữu hay Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng trước đây. Không “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”, cũng không “người ra đi đầu không ngoảnh lại ; Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” hay “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm - Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” hoặc “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”.

Họ là những người thanh niên học sinh đã qua hai chục năm dưới mái trường miền Bắc xã hội chủ nghĩa đi chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một cuộc chiến tiếp nối kháng chiến chống Pháp nhưng dài lâu, ác liệt hơn, phải đương đầu với một đế quốc giàu có bậc nhất thế giới - Đế quốc Mĩ.

Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính mang đặc điểm như đã nói trên nên tuy vẫn cùng bốn phương tụ hội nhưng không có chất tráng sĩ hào hoa xưa, cũng không có chất nông dân thuần phác xa cũ. Hình ảnh chiến sĩ trong bài thơ là hình ảnh hồn nhiên, trong sáng, vô tư của thế hệ thanh niên trí thức mới trong cả đoàn quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).

Họ - người chiến sĩ lái xe. “Những chiếc xe từ trong bom rơi ; Đã về đây họp thành tiểu đội”. “Không có kính rồi xe không có đèn ; Không có mui xe ...” vì “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Nên phải chịu bao nhiêu gian khổ : gió tự do, bụi tự do, mưa xối xả tự do hành hạ. Song :

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Những người chiến sĩ này, không phải là những số ít như trong bài thơ Đồng chí. Một hình ảnh đẹp nhưng cho ta cảm giác nhỏ nhoi, đơn lẻ, thương mến bên nhau trong tình đồng chí giữa “anh với tôi” trong cảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. (Quê hương anh ... Làng tôi ; Anh với tôi đôi người xa lạ, Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh ; Áo anh rách vai, Quần tôi có vài mảnh vá ... ).

Tình đồng đội, đồng chí ở bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là : ta - chúng ta. Tất cả đều là đồng chí, trẻ, khoẻ, dũng cảm, bất chấp nguy hiểm. Hiên ngang một cách ung dung, đến ngang tàng.

Bởi vì thế hệ cha anh họ thành đồng đội, thành đồng chí nhưng đằng sau là hệ lụy của những lí lịch giai cấp vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ. Còn hình ảnh người chiến sĩ chống Mĩ đã cắt đứt vô tư với lí lịch đau buồn kia. Là chủ nhân ông của một đất nước, một dân tộc kiêu hãnh sánh vai với các cường quốc năm châu.

Anh hùng là hành vi; hào sảng là giọng điệu của những người chiến sĩ - đồng chí, đồng đội trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

Nhưng :

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
- Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa,phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
- Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Họ không cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, đồng tâm tư, tình cảm riêng như cha anh mới thành đồng chí trên chiến hào. Với họ “từ trong bom rơi” “họp thành tiểu đội”. Và “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời, Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Rồi có thể chia tay : “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.

Nếu hình ảnh Người chiến sĩ trong Đồng chí là một bức tượng đài :

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

Thì hình tượng Người chiến sĩ ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một phù điêu tổ hợp của những khuôn mặt trai trẻ hồn nhiên đến ngang tàng trong đoàn quân trảy hội chiến trường.

Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) là hai tiêu điểm trong các tiêu điểm của Hình tượng người lính - Anh bộ đội cụ Hồ mà thơ ca dựng nên trong 30 năm chiến đấu gian khổ hi sinh cho đến ngày toàn thắng - 1975. Mỗi một hình ảnh thơ là một điểm sáng thẩm mĩ lấy chất liệu, tiếng nói đời thường làm nguồn cảm hứng và ngôn ngữ nghệ thuật.

Nếu ví nền thơ Việt Nam đương đại như một bầu trời sao thì mỗi khi nhìn bầu trời ấy, ta không thể không thấy hai vì sao lấp lánh Đồng chíBài thơ về tiểu đội xe không kính.


Sưu tầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top