Chia Sẻ Tư liệu về nhà thơ Hồ Xuân Hương

Ngọc Suka

Cộng tác viên
411509991396146510_small.jpg

Tư liệu về nhà thơ Hồ Xuân Hương

Cuộc đời Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ kỳ tài, điều đó có lẽ không cần phải bàn cãi gì nhiều. Nhưng xét đến tiểu sử của bà thì thật là mờ mịt. Xung quanh vấn đề này còn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Người ta biến những câu chuyện kể về bà thành những huyền thoại, mỗi người nói một cách khác nhau khiến cho giới nghiên cứu đau đầu, lúng túng bởi đứng trước tình cảnh không thể biết đích xác về cuộc đời của một nữ sĩ như Hồ Xuân Hương, nghi vấn cả một số bài thơ không biết có phải là của Hồ Xuân Hương hay không nữa. Đi tìm dấu tích văn tài này, chúng ta chỉ có thể dõi theo dòng lịch sử, dõi theo những dấu ấn được khắc hoạ trong chính thơ ca của bà.

Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không biết đích xác nữ sĩ Hồ Xuân Hương sinh và mất vào đúng năm nào. Trước nhiều giả thuyết khác nhau, thì đã có nhiều tác giả đã đi đến cùng một kết luận. Nguyễn Hữu Tiến trong cuốn Giai nhân di mặc (in năm 1915), Song An trong bài Thân thế và văn chương cô Hồ Xuân Hương (in trên báo Đông Tây số 12/1929), Dương Quảng Hàm trong Việt văn giáo khoa thư (in năm 1940) đều thống nhất ở một số điểm sau: Hồ Xuân Hương là con gái của Hồ Phi Diễn, một thầy đồ xứ nghệ, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Dạy học ở Hải Dương rồi kết bạn với một cô gái xứ Đông, sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình này sau lên Thăng Long, khi thì ở vùng Khán Xuân bên Hồ Tây, khi thì ở phường Tiên Thị bên bờ Hoàn Kiếm. Hồ Xuân Hương đã từng lấy lẽ một cai tổng (Tổng Cóc) và một tri phủ (Vĩnh Tường). Bà còn là bạn thơ của Chiêu Hổ tức Phạm Đình Hổ (1768 – 1839). Như vậy Hồ Xuân Hương sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Nhưng đến năm 1957, trên Tạp chí văn học, Hồ Tuấn Niêm căn cứ vào sáu bộ gia phả của các chi họ Hồ ở Nghệ An rút ra một thông tin cực kỳ hấp dẫn: Xuân Hương là cùng một họ và bằng vai với Quang Trung – Nguyễn Huệ. Với việc công bố tài liệu này, gốc gác Xuân Hương xem ra sáng tỏ hơn. Rồi đến năm 1963, tình hình có khác. Trên Tạp chí Văn học số 4 – 1963, Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ chữ Hán với nhan đề Lưu hương ký mà tên tác giả lại cũng là Hồ Xuân Hương. Tập thơ này còn cho biết Hồ Xuân Hương còn lại bạn tình của tác giả Truyện Kiều. Nhưng sách này lại cho hay rằng Hồ Xuân Hương là em gái ruột của Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 – 1785 ) tức con gái Hồ Sĩ Danh. Vấn đề thành ra rắc rối!

Càng rắc rối thêm là tới năm 1974, một tài liệu mới được công bố nêu thêm một nghi vấn về lai lịch của bậc tài tử này: Trên Tạp chí Văn học số 3/1974 có đăng bản dịch Xuân Hương đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San (1840 – 1878 ) một danh nhân của Nam Định. Bài này cho biết vào năm Tự Đức 22 (1870) một nhóm văn nhân họp bạn cuối năm. Một người đến chậm, cáo lỗi vì phải đi dự đám tang của “ tài nữ quê Nghệ An, hiệu là Cổ Nguyệt Đường, nàng ở Từ Sơn, mộ mai táng bên núi Nguyệt Hằng”.

Như vậy, có một Hồ Xuân Hương mất vào năm 1870 và mộ bên núi Nguyệt Hằng tức núi Chè, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà cũng là người Nghệ An, cũng là tài nữ có kiếp sống long đong. Lại cũng nhắc đến một bài thơ của hoàng tử Tùng Thiện Vương: theo bài thơ này thì có một Hồ Xuân Hương mà phần mộ ngay ở Hà Nội và nàng mất trước 1842 là năm Tùng Thiện Vương ra thăm Hà Nội.

Vậy ai là Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm? Vấn đề đang treo ở đấy thì đến năm 1985, ông Hoàng Xuân Hãn Trên tạp chí Khoa học xã hội in ở Pháp, với nhiều thư tịch, tư liệu mới tìm ra đã chứng minh rằng Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm và Hồ Xuân Hương – tác giả Lưu hương ký (bạn tình của Nguyễn Du) cùng với Hồ Xuân Hương có phần mộ ở Hà Nội chỉ là một người. Và ông Hoàng còn cho biết rằng khoảng năm 1818 Hồ Xuân Hương đang làm vợ lẽ của viên quan tham hiệp trấn Yên Quảng (nay tỉnh Quảng Ninh), tên là Trần Phúc Hiển. Năm 1819, Phúc Hiển bị triều đình khép án tử hình.

Như vậy tiểu sử của Xuân Hương vẫn còn phải nghiên cứu thêm. Nhưng một vấn đề có thể khẳng định rằng bậc tài nữ này đã cất cao tiếng nói đòi nữ quyền bằng thơ ca rất sắc sảo và một số bài đã lấy đề tài là cảnh và người Hà Nội: Chùa Quán Sứ, núi Khán Sứ, mấy ông đồ ở phường Tiên Thị…

Hồ Xuân Hương là con của Hồ Phi Diễn nhưng lại là con của một người thiếp. Như thế ta thấy nàng không hề có một địa vị may mắn nào. Cái cảnh vợ lớn, vợ bé xưa nay chắc ai cũng có thể hình dung là nó kinh khủng đến mức nào! Tránh sự thù ghen tuông thù ghét, người cha dù thương con đến mấy cũng không dám bênh vực, chỉ biết yên lặng cho “trong ấm ngoài êm”. Nhưng một khi cái sợi dây liên lạc đó mất đi, người cha mất đi thì ôi thôi! cảnh địa ngục trần gian diễn ra như một tất yếu vậy! Hồ Xuân Hương đã sống trong cảnh ngộ đó. Khi cha nàng mất đi, hẳn nàng đã phải sống những tháng ngày đen tối, tủi nhục nhất. Cái đen tối ấy theo đuổi nàng mãi: Sinh làm con một người thiếp, sống cuộc đời làm kiếp vợ lẽ. Cả cuộc đời nàng không có lấy một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy nàng cười, nàng có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót cho thân phận của mình. Như thế đời nàng vui sao được, như thế bảo nàng không hận đời sao được.

Đã thế nàng lại sinh ra vào cái thời xã hội rối loạn, nhố nhăng ấy nữa. Con người Hồ Xuân Hương bị ném vào cái xã hội đó và rồi ta thấy đời nàng đã phải giãy giụa trong truỵ lạc lụt ngập của xã hội. Người ta nói: tất cả các yếu đuối của xã hội đương thời đã kết tinh lại ở nàng, nhào nặn với cá tính nàng mà làm nên một thi sĩ độc đáo. Xã hội Việt Nam thời ấy không hề chờ đợi có một người như Hồ Xuân Hương đến, nhưng nàng đã đến trong cái xã hội ấy ngay giữa lúc bọn đồ gàn ít chờ đợi nhất. Nàng đã đến với một trái tim và một đầu óc trọn vẹn nhất, với tất cả mọi giác quan còn tinh khôi, và đặc biệt là với đôi mắt tinh đời ấy, ta cứ tưởng tượng như chỉ cần một cái nhìn nàng đã thấy được tận gan ruột. Nữ sĩ đã vạch rõ cái chân tướng của cả những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc trượng phu, anh hùng và đã đặt họ lại những chỗ ngồi đúng với giá trị thực của họ giữa lúc cả bọn đang múa máy quay cuồng, tâng bốc bợ đỡ nhau.
 
Thơ Hồ Xuân Hương
1. Sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương

Tác phẩm của Hồ Xuân Hương không có di cảo, những tác phẩm được coi là của bà đều do người sau ghi chép lại bởi thế tình trạng dị bản rất phổ biến. Về thơ, có khoảng một trăm bài được sáng tác chủ yếu bằng thể tứ tuyệt và thất ngôn bát cú trong đó bốn mươi bài có sự thống nhất về phong cách nghệ thuật. Ngoài ra còn có tập Lưu hương kí, tập thơ gồm hai mươi bốn bài thơ chữ Hán và hai tám bài thơ chữ Nôm.

Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Bởi những sáng tác của bà đã nêu bật được những vấn đề riêng tư, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ nữ. Thơ Hồ Xuân Hương có một số bài viết về cảnh ngộ riêng tư. Đó là nỗi niềm của một người phụ nữ giàu sức sống và hết sức tài hoa nhưng cuộc đời đầy bất hạnh. Những đề tài trong cuộc sống bình thường giản dị hàng ngày nhưng khi đi vào thơ Hồ Xuân Hương lại rất mới mẻ, sinh động, có tính chất úp mở hai nghĩa, một nghĩa đen phô ra, nói trực tiếp về đối tượng nhà thơ miêu tả, và một nghĩa ngầm nói về chuyện thầm kín trai gái. Song không phải như thế mà thơ của bà nhả nhớp, khêu gợi những dục vọng kín đáo của con người. Một mặt thông cảm, bênh vực và đề cao người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn lớn tiếng đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến, bà vạch trần lối sống đạo đức giả, trái đạo đức của chúng. Hồ Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tiếu lâm dân gian thường dùng cái tục làm phương tiện đả kích. Được sáng tác theo thể đường luật nhưng thơ Hồ Xuân Hương được dân tộc hóa cao độ. Bà đã gặt hái được không ít thành công trong việc đưa cuộc sống trần tục hàng ngày vào một thể thơ vốn đài các, quí phái. Hồ Xuân Hương lợi dụng triệt để kết cấu chặt chẽ của bài thơ đường luật với những câu đối nhau để tạo những mâu thuẫn có tính chất trào phúng trong những bài thơ châm biếm, đả kích. Về phương diện ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương cũng có những sáng tạo và thành công đáng kể trong việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, trong việc học tập ca dao, tục ngữ, thành ngữ để sáng tác thơ. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữ dân tộc và đã mài sắc ngôn ngữ dân tộc của thời đại mình.

2. Chất liệu trong thơ Hồ Xuân Hương

“Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm sắc thái của dân gian” [11, tr. 98]. Ở đây không chỉ bó hẹp ở phạm vi văn học dân gian mà còn mở rộng sang cả nghệ thuật dân gian, sinh hoạt văn hóa dân gian, lời ăn tiếng nói trong thơ Hồ Xuân Hương cũng rất dân gian. Vậy ta cần tìm hiểu thế nào là chất liệu. Theo như Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì chất liệu là cái dùng làm vật liệu, tư liệu để sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật.

Trên đây là cách hiểu của chúng tôi về chất liệu trong tác phẩm nghệ thuật, song điều mà chúng tôi muốn đề cập sâu hơn ở đây là chất liệu dân gian trong văn học. Từ xưa, mặc dầu sống trong một trạng thái văn hóa thấp kém, con người luôn có khát vọng thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật tất cả những tư tưởng, sinh hoạt, tình cảm của mình, đồng thời phản ánh tất cả những phong tục, tập quán, quan niệm hình thành dân tộc, những cuộc chiến đấu với thiên nhiên hay cả những ước mơ của mình. Dù bị áp bức bóc lột thế nào đi nữa thì quần chúng lao động vẫn sản sinh được một nền văn hóa trong đó có dòng văn học dân gian. Bắt nguồn từ quá trình lâu đời trong sản xuất và chiến đấu. Từ khi xã hội chưa có giai cấp cho đến khi xã hội có giai cấp, dòng văn học dân gian được khơi gợi, lan truyền và phát triển để phục vụ sản xuất và chiến đấu, sinh hoạt hàng ngày của người dân lao động. Trong văn học dân gian, ngôn ngữ được sử dụng là lời ăn tiếng nói trong cách sinh hoạt hàng ngày của người dân. Sản phẩm dân gian được đưa vào tác phẩm dân gian rất phong phú. Có khi là những món ăn dân dã như: bánh chưng, bánh giày, bánh trôi nước. Có khi là những phong tục tập quán: tục ăn trầu, tục thờ cúng thần linh cầu cho mùa màng bội thu, có khi nó là những trò chơi dân gian đã có rất lâu đời: Đấu vật, đánh đu, bịt mắt bắt dê, nặn tò he… Tổng hợp lại là phong cách dân gian, cái hồn dân gian. Nó chân chất mộc mạc, chân tình, thực tế nhưng giàu hình tượng. Nó tạo thành một giọng điệu riêng khác hẳn với văn học viết. Tất cả đều là sản phẩm của dân gian, đều thông qua con đường ngôn ngữ và chuyển tải đến người nghe, người đọc bao thế hệ. Đến với thơ Hồ Xuân Hương một lần nữa ta lại bắt gặp những hình ảnh đó trong thơ của bà nhưng dưới góc độ khác. “Đó là bà tiếp thu văn học dân gian chứ không lặp lại dân gian, bà chắt lọc những cái hay, cái đúng, cái đẹp của dân gian…xuất phát từ cội nguồn dân gian” [11,tr.111]. Khi đã tạo cho mình một truyền thống riêng, Hồ Xuân Hương nói riêng và văn học viết nói chung đều kế thừa, vận dụng, phát huy kho tàng văn học dân gian, làm cho tác phẩm càng thêm phong phú và mang đậm chiều sâu nhân văn nhân bản hơn. Tìm hiểu nét tương đồng và khác biệt giữa văn học dân gian với thơ Hồ Xuân Hương nói riêng trong cách sử dụng từ ngữ, ta càng có cơ hội đi sâu về với cội nguồn dân tộc, với những truyền thống đạo lý, tập tục tốt đẹp của ông cha để qua đó có thái độ đúng đắn, phát huy những tinh hoa văn hóa nghìn năm văn hiến của dân tộc mình.

Có một câu chuyện kể rằng, một lần nhà thơ Tế Hanh về làng Tiên Điền quê hương của Nguyễn Du. Ông hỏi thăm một bà cụ có biết Nguyễn Du tác giả của Truyện Kiều là ai không, bà cụ trả lời rằng không biết ông Nguyễn Du là ai mà chỉ biết cô Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thôi. Tế Hanh đã kết luận một câu rằng: “Thơ văn trở thành của quần chúng đến mức quần chúng quên cả người làm ra nó. Đó mới là loại thơ văn chân chính”. Qua câu chuyện trên bài học để lại cho chúng ta, theo chúng tôi dù thời gian có bào mòn đi tất cả cùng với những biến cố, thăng trầm của cuộc đời thì các tác phẩm văn học có giá trị và tác giả của nó sẽ sống mãi với nhân loại. Tâm hồn và lòng người vẫn sẽ là nơi cô đọng và lưu giữ lại được những sản phẩm chân chính, giàu giá trị nhân văn. Thơ Hồ Xuân Hương đã làm được điều đó. Nó đi vào quần chúng và lưu truyền như một tác phẩm dân gian theo quy luật của sáng tác dân gian. Những sáng tác đó đáp ứng được nỗi mong mỏi của quần chúng nhân dân, nói được tiếng nói của nhân dân và mang phong cách sáng tác của nhân dân thì được nhân dân xem như sản phẩm của họ. Thơ Hồ Xuân Hương cũng hòa chung vào mạch nguồn đó. Dân gian có kiểu nói tục, nói lái (Truyện Trạng), các trò chơi truyền thống dân gian thì trong thơ Hồ Xuân Hương cũng có. Hay những ngôn ngữ bình dân, những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân:

- Này của Xuân Hương đã quyệt rồi
- Lại đây cho chị dạy làm thơ.
- Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
- Này chị em ơi chớ vội cười

Tất cả đều là mạch nguồn của dân gian mà ra cả, điều đó chứng tỏ rằng Hồ Xuân Hương đã tiếp nhận một cách sâu sắc nguồn mạch dân gian. Thơ Hồ Xuân Hương đã hòa chung vào dòng chảy của văn hóa dân gian. Có người nhận định thơ Hồ Xuân Hương dâm và tục, có người cho rằng thơ bà chỉ có tục thôi không có dâm, có người nhận xét nặng nề hơn một chút là thơ Hồ Xuân Hương bị “khủng hoảng về tình dục”… Chúng tôi không nghĩ như vậy, thiết nghĩ rằng đó là cái tục trần thế, rất đỗi đời thường. Vả chăng chính vì sống trong một xã hội bị bóp nghẹt mọi quyền sống của người phụ nữ nên Hồ Xuân Hương đã dám đứng lên phản kháng lại. Thơ bà viết ra những lời nói tục mà thanh, cười mà đau đớn giàn giụa trong nước mắt và tủi nhục cho số phận nổi trôi của mình.Trong dân gian có nhiều truyện cười mang yếu tố tục như “Trời sinh ra thế”, “Trạng dâng chúa cây cải”…Còn nói về nghệ thuật dân gian thì những bức tranh như “Hứng dừa”, “Đánh ghen” hoặc các biểu tượng được khắc trên đá, trên gỗ ở chùa chiền, những nơi rất thiêng liêng cũng mạnh dạn phô bày nét tinh tế của người phụ nữ. Vậy ta có sự lý giải thế nào về điều này? Theo chúng tôi, những truyện như tiếu lâm, truyện cười, truyện trạng đến những bức tranh dân gian bên cạnh những yếu tố gây cười còn có một ý nghĩa cao hơn là phê phán, đả kích những thói hư tật xấu, những bất công của xã hội đương thời. Đến với thơ Hồ Xuân Hương cũng thế, có thể bà thấy được phần nào nỗi bất hạnh, thân phận bạc bẽo bởi tâm địa xảo trá “xanh như lá bạc như vôi” của các đấng mày râu, quân tử khiến bà có một thái độ gay gắt mà thốt ra những lời “tục” như vậy chăng?

Vào dịp lễ hội, các trò chơi dân gian là nét sinh hoạt phổ biến của nhân dân ta từ rất xưa và là một nét văn hóa dân gian truyền thống của nhân dân ta. Người ta tổ chức các lễ hội một mặt với tinh thần là giải trí, lấy tiếng cười để biểu hiện cho niềm vui, quên đi những lo toan, bon chen trong chuyện cơm áo đời thường, mặt khác nó là cách chống lại mọi thứ ràng buộc của xã hội đối với con người. Người ta đã mạnh dạn tìm đến với cuộc sống phàm tục để lôi tất cả những cái gì mà nho giáo gọi là “thiêng liêng” không một chút ngại ngần. Thơ Hồ Xuân Hương phần nào thể hiện được điều đó.​
 
Thanh và tục trong thơ Hồ Xuân Hương

Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..
Giấc mộng con của Tản Đà


Từ thời dựng nước dân tộc Việt Nam luôn luôn có truyền thống chiến đấu chống ngoaị xâm dành độc lập bảo vệ quê hương, trong quá trình đó người phụ nữ cũng đã đóng góp rất đáng kể, tiêu biểu là cuộc khởi nghiã của Hai Bà Trưng (40-30 trước CN) và Bà Triệu (năm 248) với những chiến tích oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Những thế hệ kế tiếp các bậc nữ lưu cũng giúp việc nước, lo việc nhà và đã đóng góp cho lâu đài văn hóa dân tộc như các các nhà thơ nổi tiếng: Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công chúa với Ai Tư vãn. Lưu thị Hiền (bà Phủ Ba) Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh…, trong đó nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở thế kỷ thứ 18 nổi tiếng là Bà Chúa Thơ Nôm

Xuân Hương: Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới
Tổng Cóc đối lại: Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào

Được cụ Đồ Xứ khen hay, có thể Xuân Hương mến mộ chàng có khiếu văn chương? Tổng Cóc đã lập gia đình nhưng là người có tiếng ăn chơi, tính tình nghệ sĩ thích văn thơ cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Tổng Cóc yêu thương vợ làm cái nhà thủy tạ cho bà trông coi ao cá và bảo nàng làm thơ viết vào gỗ, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương, Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Nhà ông Bùi Văn Thắng còn đôi bình và hai ống quyển ghi bút tích 4 câu thơ trang nghiêm của Hồ Xuân Hương, nói đến tấm gương trong trắng (như người con gái trong trắng) khi xuân hết thì thợ trời cũng chịu. Chỉ còn biết dựa vào phúc đức …. khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi.

Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương

nghĩa
Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm


Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng, không thể vượt đời sống của làng quêtrọng nam khinh nữ, bởi vậy vợ chồng không tránh được việc va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến “Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu”. Xuân Hương bị vợ lớn ghen tương, gia đình chồng đè nén vì thân phận làm thứ thiếp. Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi.

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong


Giáo sư John Balaban dạy đại học North Carolina ở Raleigh, cũng là nhà thơ dịch“ bài lấy chồng chung“ của Hồ Xuân Hương „Spring Essence“ the Poetry of HXH (nhà xuất bản Copper Canyon Press, 2000)

On Sharing a Husband
Screw the fate that makes you share a man.
One cuddles under cotton blankets; the other’s cold.
Every now and then, well, maybe or maybe not.
Once or twice a month, oh, it’s like nothing.
You try to stick to it like a fly on rice
but the rice is rotten. You slave like the maid,
but without pay. If I had known how it would go
I think I would have lived alone.


Chẳng riêng gì Xuân Hương, thân phận của người vợ thứ trong dân gian cũng là một nỗi buồn truyền kiếp:

Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…

Hồ Xuân Hương mở quán làm kế sinh nhai, khách hâm mộ văn tài bà đến cùng xướng họa, có nhiều chuyện tình trở thành giai thoại. Xuân Hương lãng mạn, phóng khoáng bà muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương gặp ông phủ Vĩnh Tường và làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.

Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.


Bài “Khóc Tổng Cóc” gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở làng Gáp cho rằng bài thơ đó khóc cho mối tình đầu của bà, từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi, để giễu Tổng Cóc (thơ gởi Tổng Cóc lúc còn sống chứ không phải khóc người chết). Một lần nửa Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng làm thứ thiếp, không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư:

Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều của Nguyễn Du


Thời gian sống với ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú) ông Phủ xem nàng là bạn văn chương. Nhưng số phận của Xuân Hương không được may mắn, cuộc tình ngắn ngủi hơn 2 năm sau phải khóc chồng, chồng chết là nỗi khổ đau nhất của người thiếu phụ, thương cho thân phận kẻ ở người đi. Xuân Hương buồn khổ trước cảnh nhà lạnh lẽo đơn côi, bà trang trải nỗi bi thương của mình trên những dòng thơ buồn não nuột, là tiếng nấc nghẹn ngào của người góa phụ vĩnh viễn xa chồng:

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!


Thơ và bạn đời

Các tác phẩm của bà bị thất lạc, đến nay còn lưu truyền những bài thơ chữ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập, năm 1964 ông Trần Thanh Mại phát hiện thêm tập thơ chữ Hán Lưu Hương Ký 瑠香記 viết năm Giáp Tuất (1814). Hồ Xuân Hương là nhà thơ sử dụng chữ nôm một cách điêu luyện và sắc xảo, ít người sánh kịp. Bà thường chọn những âm khó đọc để hạ vần nói lái, nghiã bóng thành những bài thơ rất tài tình và đầy thú vị trong đó ý thơ và tình thơ bao gồm: đạo đức, tiếu lâm, hay châm biếm, độc đáo có một không hai trong văn chương bác học. Phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương. Cổ Nguyệt Hương Đình do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Thơ tả chân táo bạo diễn tả ý tưởng lả lơi bỡn cợt, vừa thanh vừa tục mà không kém phần lãng mạn. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương có rất nhiều nghi vấn, khó xác định cảnh đời từng trải của Xuân Hương. Các tài liệu dẫn chứng Xuân Hương giao du rộng rãi với những danh sĩ như Phạm Quí Thích (khắc và in thơ của Nguyễn Du), Nguyễn Huy Tự (Tác giả Hoa Tiên), Nguyễn Du, Mai Sơn Phủ, Tốn Phong, Cư Ðình, Trần Quang Tĩnh, và Trần Phúc Hiển, v.v. Học giả Hoàng Xuân Hãn dẫn chứng bà có 3 đời chồng, người cuối cùng là Tham hiệp trấn Trần Phúc Hiến? Trong vấn đề xướng họa thơ văn, một đối thủ của Xuân Hương được lưu lại là Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839), là tác giả Vũ Trung Tuỳ Bút, bút hiệu Chiêu Hổ, lần ông đến thăm Xuân Hương có ý sổ sàng bị Xuân Hương chê suồng sã

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..


Hùm có nghiã là hổ, Chiêu Hổ bị Xuân Hương chơi chữ, ông không chịu thua cợt nhả đối lại:

Này ông đồ tỉnh, nầy ông đồ say,
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con ẵm chốc tay?


Năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương “Long Biên Trúc Chi Từ” bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn

Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay!


Ngày nay không thể tìm mộ của bà, tuy nhiên người ta dựng bia để tưởng niệm nữ sĩ Xuân Hương

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học, ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí khi bà bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn:

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài


Hồ Xuân Hương thông minh, có tài nhưng tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ"! Đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi Xuân Hương đi qua miếu Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn, là tên Thái thú quân nhà Thanh thua trận thắt cổ chết trên cây đa ở gò Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đề mấy câu thơ:

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?


Xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ thật là bất công! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng. Xuân Hương muốn phá cái phong tục thời đó, nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người góa phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :

Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.


Tuy nhiên có tài liệu cho giai thoại nầy là của bà Huyện Thanh Quang, nhưng theo nhận xét chung lối hành văn nầy không thể nào của bà Huyện Thanh Quang? Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điển tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng.

Bài “Ngủ quên hay ngủ ngày” Thiếu nữ nằm nghỉ buổi trưa hè trời nóng, cơn gió nồm mát rười rượi làm nàng ngủ quên, giấc ngủ say sưa vô tình bày ra thân hình trẻ trung, mơn mởn da thịt với những đường nét tuyệt vời sống động…

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.


Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục thấy hoa đẹp ai không muốn nhìn? Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, Lạch Đào Nguyên suối hoa đào đều là cái đẹp của sự sống. Từ xưa và nay nhiều nhà phê bình bàn cãi tranh luận về thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục, sinh lý bị đè nén “Libido”.Ngược laị người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng, xem những sáng tác của Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác, âm điệu kỳ tài. Cái đặc điểm trong thơ Xuân Hương là tả cái tục nhưng dùng toàn chữ thanh, nếu đọc bốn 4 câu thơ sau người ta hiểu tả một ông quan võ nhưng không phải vậy.

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
tựa là “dương vật”


Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng? Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình vẽ, tượng điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu lại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động nét văn hóa và sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau. Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói bình thường trong sinh hoạt của con người.

So sánh Thơ Xuân Hương với thi ca bình dân tục và thanh

Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian:

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

- Ca dao -

Đời sống con người được diễn tả qua thi ca trào lộng, vui cười vốn có trong thực tế không nói xa gần, hằng ngày người ta dùng cái điếu cày hút thuốc Lào, mồi đóm lửa, kéo một hơi dài, nghe tiếng róc rách của nước…. Họ nhả những sợi khói từ từ và cảm thấy người bồng bềnh lướt nhẹ trên mây? tay mân mê xoa xoa thân điếu như người bạn thân:

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê

- Ca dao -

Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh:

Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay


Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác biệt, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ đèo Ngang và đèo Ba Đội sau để so sánh hai nữ sĩ:

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

- Huyện Thanh Quan -

Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng, trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán

Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia

Nghĩa là:
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia


Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ nhưng sống động:

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo


Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“ từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì, lún phún, lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động từ âm thanh đến màu sắc. Nữ sĩ Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc thông thường ít nghe điệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn .. trong bài vịnh hang Cắc Cớ:

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm


Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Hàng năm có Hội Chùa Thầy du khách không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết Chùa Thầy.

Xuân Hương cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động với cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên chùa phải trèo các bậc thang thì đúng hơn là đi, chen chân trong động với hương khói pha mờ mù sương.

Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm…


Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động tả cảnh vui xuân rộn rã, Xuân Hương khen trò chơi đánh du hấp dẫn gợi lên niềm say mê của ngày hội, Hiện nay các làng ngoài Bắc còn duy trì trò chơi nầy. Nhưng ngày xuân trôi qua cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không, chỉ còn lại cảnh trống không hiu quạnh!
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!


Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy

Nhổ cột đem về để lỗ không.

Chơi đánh đu, khi chàng trai nhấn đu cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng cho dễ bay bổng. Khi độ cao giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài gối hạc, lưng ong, ngửa ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương khéo dùng điệp khúc. Trong ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức không khi nào gặp cách dùng chữ như trong văn chương Việt Nam. Chúng ta thử đọc các bài dịch đối chiếu thi sĩ Balaban có thể dịch cảnh thu, nhưng khó chuyển dịch được hơi thu!

Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chắp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cảnh cũng ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.


Qua ca dao có nhiều bài truyền tụng nghe rất là “tục” như vịnh cái quạt:

Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..


Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn, có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan, mỗi nan quạt có một cái lỗ, cây kim xâu các nan quạt vào. Sau đó bồi bằng giấy có thể xếp lại và xòe ra quạt cho mát, mưa sa nhẹ hạt có thể che đầu, lúc xếp quạt lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa. Xuân Hương tả cái quạt chỉ tám câu thơ bút pháp thật sinh động:

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa …


Thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm, ươm tơ, làm lụa tự dệt vải may áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc, con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả cô gái dệt vải vào đêm; muốn vải phẩm chất tốt phải ngâm lâu, ba mùa thu cũng không bị phai màu.

Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu


Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17, nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội. Dân tộc Việt Nam ảnh hưởng Phật giáo dưới thời nhà Lý rất hưng thịnh, Phật, Pháp màu nhiệm không thay đổi, nhưng trong cõi đời nầy không thiếu những kẻ “mạt tăng” lợi dụng cửa Chùa rộng mở, cạo đầu núp dưới lớp áo cà sa để buôn thần, bán thánh…làm những việc trái với giáo lý nhà Phật. Xuân Hương không chống phá đạo Phật, dùng thơ văn để dỡn mặt với tăng giả, hay sư hổ mang như trong ca dao:

Ba cô đội gạo lên Chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn, ốm lóc nên sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo, cho bầu đứt dây!


Cảnh chùa Quán Sứ thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ người đã xuất gia, tu lâu năm lên làm “Sư Cụ” như “phiến đá vĩ đại “ bao che đệ tử gây nên nghiệp chướng, không lo làm tròn phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng teo.

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình,(1) tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít (2)
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
hay sư hổ mang
……………………………
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà


(1) chày tạc hình con cá kình bằng gỗ, thay cho cái dùi đánh chuông. (2) Tang trống làm bằng gỗ mít

Nói chung người Phật tử chân chính phải bực mình khi đến Chùa không có thầy trụ trì hướng dẫn về phần tâm linh, Sư đi gây phiền não cho bá tánh, dù ở bất cứ thời đại nào cũng không thể chấp nhận việc làm vô ý thức đó.

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau, khối tình nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động, se thắc lòng người:

Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
( Đá ông chồng, đá bà chồng)


hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.


Xuân Hương vịnh bánh trôi nước, thức ăn quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận, nhiều long đong? nhưng tấm lòng nàng vẫn giữ sắt son:

Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son


Thơ Hồ Xuân Hương có phong cách riêng, tiêu biểu cho thái độ tự nhiên, tình cảm tràn đầy trong sáng, thơ bà rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương ta cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời và phong phú, nhưng bài viết giới hạn, tôi không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top