vanchuong83
New member
- Xu
- 0
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐI VỀ ĐÂU?
Đỗ Ngọc Yên
Đỗ Ngọc Yên
Không biết hiện nay đã đến lúc chúng ta cần phải đoạn tuyệt một cách dứt khoát với quan niệm cho rằng truyện ngắn là một dạng thức phản ánh cái hiện thực như nó vốn có trong chức năng của văn học, nghệ thuật hay chưa, trong khi xu hướng của nhiều cây bút truyện ngắn đang viết theo phong cách hiện đại với một cảm quan mới về thế giới. Không biết các nhà truyện ngắn hiện nay đã vô tình hay cố ý thoát ly việc phản ánh cái hiện thực như nó vốn có theo kiểu truyện ngắn truyền thống của những bậc thầy như Shakespeare, Dickens, V. Hugo, Sekhov, Guy De Mopassant, Lỗ Tấn, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,… Các bậc thầy truyện ngắn truyền thống thực sự đã đạt đến sự linh diệu trong bút pháp của mình về thể loại này. Tuy nhiên, cũng tại bởi người đời đã tự vẽ ra một cái vòng “kim cô” bất biến cho họ như vậy, nên các chư vị ấy cũng khó mà thoát khỏi những định chế của lịch sử, mặc dù tài năng và những đóng góp của họ không những không ai có thể phủ nhận được mà còn rất đáng kính nể.
Nhưng cũng chính tại vì cái tài phản ánh cái hiện thực như nó vốn có của các vị mà các nhà truyện ngắn hôm nay dù ít, dù nhiều từng bước thấy cần phải đoạn tuyệt với nó. Cái nghịch lý muôn thuở là con người luôn tự đặt cho mình những cái đích để hướng tới, nhưng khi đến rồi nó lập tức chán ngay và lại loay hoay tìm cách vượt qua chính mình. Rốt cuộc, con người lại tự mình tổ chức ra các cuộc chia tay có tính lịch sử là, một phía rước các chư vị ấy lên bàn ngồi bán hoa quả, thi thoảng vào những ngày tuần tiết dâng thêm cho các vị một vài nén nhang tưởng niệm. Một phía khác, các cây bút truyện ngắn hiện đại phải tự tìm cho mình một sứ mệnh mới trong tiến trình lịch sử của chính nó bằng việc đưa vào truyện ngắn những cảm quan của thời đại mới bằng một bút pháp mới, theo quan niệm rằng thế giới này là vô cùng, vô tận và hỗn mang; hiện thực này vốn không phải lúc nào cũng có thủy, có chung như người ta thường lầm tưởng và không phải lúc nào cũng được sắp sẵn những mâm ngũ quả đầy hương vị ngọt ngào, mà nó còn có cả những vị đắng cay, chát chúa, những thứ ôi thiu, rác rưởi, những cái thụi, cú hích, những sự đập phá và những cuộc dựng xây,... Và từ nay các nhà truyện ngắn hiện đại bắt tay vào việc không phải để tô son, trát phấn, mông má lại và xức một ít nước hoa lên cái hiện thực hỗn tạp ấy cho nó thơm choang, tươi rói lên nhân danh những ước nguyện của con người để ru ngủ họ, mà là để bới đào trong đống đổ nát của lịch sử, nhặt nhạnh từng những mảnh vỡ, thậm chí là cả những cái cặn bã, thừa mứa của lịch sử tưởng chừng như đã vứt đi, rồi mầy mò, gắn kết lại thành một cái hiện thực khác trông thật dị dạng và rất đáng hồ nghi, nhưng nhất quyết đấy cũng là một hiện thực. Chỉ có điều là cái hiện thực trong truyện ngắn hiện đại không phải là cái như nó vốn có, mà là một hiện thực đầy tính chủ quan, võ đoán, thậm chí còn nhố nhăng nữa là khác. Trớ trêu là chính những điều đó đã làm nên thước đo cơ bản để phân biệt hai dòng truyện ngắn: Truyền thống và Hiện đại.
Điển hình của dòng truyện ngắn truyền thống Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám thuộc về thế hệ các nhà văn trưởng thành trong và sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và họ đã đạt được những thành tựu rất đáng kể khẳng định vị trí nòng cốt và là người đại diện cho dòng truyện ngắn truyền thống Việt Nam như: Nguyễn Tuân, Võ Huy Tâm, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Xuân Cang, Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Quang Thân, Cao Tiến Lê,… Nhưng cũng có không ít những người trong số họ và cả những người thuộc thế hệ sau đã bắt đầu cảm thấy cần thiết phải đặt lại vấn đề về cảm quan và bút pháp truyền thống, dường như nó có một cái gì đó thật sự không ổn đối với thời đại mới. Tuy ở những mức độ khác nhau, nhưng nói chung họ đều muốn ca lên bài ca đổi mới truyện ngắn. Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu,…là những cây bút tiên phong của dòng văn học thời kỳ đổi mới. Có thể nói họ là những người đầu tiên dám vặn cổ chính mình hướng lên phía trước chứ không phải chỉ biết quay về phía sau nhấm nháp, chiêm ngưỡng những hào quang của những bản anh hùng ca hào sảng một thời đã qua. Với sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu,…đã đưa tiến trình đổi mới văn học tiến thêm một bước nữa, tạo nên một một sự cựa quậy đáng kể trong đời sống văn chương nước nhà với những tiếng nói lạ lẫm so với truyền thống.
Vấn đề đặt ra ở đây là thử hỏi trong số họ được mấy người dám trực diện tuyên chiến nhằm đoạn tuyệt một cách dứt khoát với truyện ngắn truyền thống và tìm đường tiến vào lãnh địa của truyện ngắn hiện đại. Có thể nói chín mươi lăm phần trăm trong số họ chỉ là những người có những yếu tố cách tân so với truyện ngắn truyền thống. Họ cẩn trọng, rón rén từng bước, tiệm cận cái mới và cũng là xa rời cái cũ như trẻ con rình bắt chuồn chuồn nơi bờ ao. Thế nhưng, cuộc cách mạng thông tin đã đưa nhân loại quá độ từ thời đại công nghiệp sang thời đại trí tuệ, từ nền kinh tế và văn hoá công nghiệp sang nền kinh tế và văn hoá mới với nhiều tên gọi khác nhau như: nền Kinh tế tri thức (Knowledge Economy), nền Kinh tế mạng- (Networked Economy), nền Kinh tế số hoá (Digital Economy) và nền Văn hoá mạng (Networked Culture) và người ta không còn chối cãi vào đâu được, cuộc cách mạng thông tin đã tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra một cách nhanh chóng và toàn diện hơn. Vậy thì cách đi vào thế giới hiện đại rón rén như các nhà truyện ngắn hiện nay liệu có đem lại cho nền văn học nước nhà nói chung và truyện ngắn nói riêng một diện mạo mới không? Câu trả lời có lẽ nằm ở phía bản thân các nhà truyện ngắn và công chúng hôm nay.
Có thể nói con đường tiệm tiến và cách tiệm cận đời sống hiện đại của các cây bút truyện ngắn truyền thống mãi vẫn chỉ là những câu chuyện “cổ tích” được kể lại trong ngày hôm nay bằng những ngôn ngữ sáo rỗng biểu đạt sự vật hiện tồn trong cuộc sống hiện đại mà thôi, chứ tuyệt nhiên không phải bằng cảm quan về của một thời đại mới với một bút pháp hoàn toàn mới.
Vẫn biết mọi sự so sánh đều là nhảm nhí, nhưng nếu không so sánh thì hiện chúng tôi chưa có cách nào khả dĩ hơn để tìm ra cái so le giữa hai dòng truyện ngắn truyền thống và hiện đại. Thử so sánh các truyện ngắn:
1- Chàng thương gia thành Venize của Shakespeare- Anh, Chiếc lá cuối cùng của O’Henry- Mỹ, Tiếng gọi đời thườngcủa Knut Hamsun- Na Uy, Thung Lam của Hồ Thị Ngọc Hoài, Buổi sáng biến mất và Cơm chiều của Ngô Phan Lưu- Việt Nam và 2- Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Thực đơn chủ nhật của Phạm Thị Hoài- Việt Nam,.... Ở đây chúng tôi không bàn đến sự hay, dở, giá trị nghệ thuật hay tầm ảnh hưởng của các truyện ngắn đó, mà chỉ đề cập đến khía cạnh cảm quan thời đại và bút pháp của chính những người đã sản sinh ra nó. Ở tốp đầu- 1, cảm quan chủ đạo của các tác giả này là một góc nhìn thế giới hiện thực đang diễn ra trước mắt họ khá tinh tế và họ đã phản ánh nó với một bút pháp rất trung thực và tài tình về cái hiện thực như nó vốn có. Sự tráo trở, gian manh của những tay lái buôn tầm cỡ quốc tế, với mọi thủ đoạn kiếm lời, bất chấp đạo lý, luân thường, thậm chí họ có thể bán tới 99 điều răn của Chúa, miễn sao có lợi cho riêng mình- Chàng thương gia thành Vơnidơ; rồi người họa sĩ già có thể hy sinh cuộc đời của mình để cứu lấy một sinh linh bé nhỏ đang trong cơn hấp hối- Chiếc lá cuối cùng; Nàng Hellen xinh đẹp, trẻ trung sẵn sàng rượt đuổi theo những khát vọng cá nhân ẩn chứa trong chiều sâu nhân bản mà nàng không thể nào cưỡng lại được, dù người chồng của mình vừa chết chưa kịp đem chôn- Tiếng gọi đời thường; Sự nuối tiếc những kỉ niệm xưa, với những con người và mảnh đất đã từng nuôi mình khôn lớn như hôm nay- Thung Lamhay lòng vị tha, sự tận tụy và những nghĩa cử cao đẹp đối với những người mà cuộc sống chỉ còn được tính bằng giây- Buổi sáng biến mất, tất cả những điều đó là có thật và rất đáng trân trọng. Điều đáng bàn là Shakespeare và Ngô Phan Lưu, Hồ Thị Ngọc Hoài sống cách nhau chừng khoảng 5 thế kỷ và ở xa nhau nửa vòng trái đất, nhưng lại không hề cách xa nhau về cảm quan hiện thực và bút pháp mô tả nó. Tựu trung lại họ đều là những người thư ký trung thành của thời đại.
Ở tốp thứ hai- 2, Vua Quang Trung- Phẩm tiết- được mô tả một cách khác hơn. Những cử chỉ và việc làm của Quang Trung trong những lần quan hệ với Vinh Hoa không giống như những gì mà ông ta vốn có qua sự ghi chép của sử sách và sự truyền tụng của người đời, thậm chí có những chi tiết mà chỉ nhờ ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta mới được biết đến, chẳng hạn như cuộc làm tình mây mưa của Quang Trung với Vinh Hoa. Qua đó người đọc tự rút ra cho mình cái gọi là phẩm tiết thật sự là cái vô cùng nhí nhố, phi lý và rất hoang tưởng. Thế gian này làm gì có một cái phẩm tiết chung mang tính toàn cầu, phổ quát toàn nhân loại. Vậy là cái phẩm tiết nhất theo quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp chỉ là một khái niệm trừu tượng tồn tại trong đầu người này, nhưng không nhất thiết phải tồn tại trong đầu người khác. Những chi tiết mà Nguyễn Huy Thiệp mô tả ở đây không theo một trật tự đạo đức hay một lô gíc khách quan nào, mà là những mảnh vỡ, những cái vô nghĩa lý, dường như chẳng nói lên điều gì, thậm chí còn là cái phản đạo đức theo quan niệm của số đông, nhưng lại được sắp xếp theo một trật tự mới với logic hoàn toàn chủ quan của tác giả. Giá trị lớn lao của những chi tiết ấy là đã gieo vào tâm trí người đọc về sự phi lý của cái trật tự mà một số người nào đấy đã sắp đặt nên và được nhiều người a dua, hùa theo. Vậy thì Nguyễn Huy Thiệp cũng hoàn toàn có quyền sắp đặt thế giới theo một trật tự riêng của ông ta. Xét đến cùng cái trật tự của số đông người đời và cái trật tự riêng của Nguyễn Huy Thiệp đều có quyền bình đẳng, xét về dạng thức tồn tại của nó. Chắc gì cái phẩm tiết truyền thống của đám đông đã hơn cái nhí nhố cá nhân mà Nguyễn Huy Thiệp đã mô tả trong tác phẩm.
Cái thực đơn do mẹ, chị hay tôi- Thực đơn chủ nhật đưa ra cũng đều là vô nghĩa như vậy cả thôi. Mỗi người cố gắng đưa ra một cái thực đơn cho ngày chủ nhật để cả nhà cùng vui. Nhưng xem ra tất cả đều bất lực. Mẹ thích món này, chị bảo món kia, còn tôi khoái món nọ. Ai có món của người ấy. Làm gì có món chung cho tất cả mọi người. Và thế là bản thân tôi bị biến thành món nhắm trong cái thực đơn chung của cả nhà. Cuộc sống vô nghĩa đến như vậy, nhưng ai cũng thấy cần phải sống. Có lẽ người sống thực nhất và nhiều nhất chính là tôi, người luôn biết cách tự phản tư lại những cái mà người đời cho là có ý nghĩa nhất.
Thiên chức của truyện ngắn là phải sáng tạo ra một thế giới thứ hai chứ không phải chỉ là công cụ để nhận biết cái thế giới hiện thực như nó vốn có. Hơn thế, truyện ngắn hiện đại còn phải đem đến cho người đọc một sự hoài nghi về những khuôn mẫu đã định sẵn trong cái trật tự vĩnh hằng của thế giới thứ nhất nhằm gieo vào tâm trí họ sự tìm kiếm một cái gì đó mà những người bình thường thấy dường như nó chưa từng có mặt trên thế gian này. Cái mà nhà nghệ sĩ hiện đại đưa ra trong tác phẩm của mình và gợi lên trong tâm trí người đọc là những cái hoàn toàn vô lý theo logic thông thường của hệ qui chiếu hữu hình (hiện thực), nhưng chúng lại là những cái rất có lý trong một logic khác ở hệ qui chiếu vô hình (phi hiện thực). Đọc truyện ngắn hiện đại người ta bắt gặp nhan nhản những cái phi lý, vớ vẩn và nhố nhăng thậm chí là giả dối và bịa đặt nhưng người ta vẫn cứ tin rằng những cái đó là có thật hoặc ít ra người đọc cũng luôn phải tự đặt ra cho mình câu hỏi về sự tồn tại của chúng. Điều đó không hề có trong truyện ngắn truyền thống. Truyện ngắn truyền thống là một nhát cắt ngọt, gọn gàng, hàm súc về quãng lặng, nốt lửng trong tiến trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực của con người. Nhưng dù sao đấy cũng chỉ là một nhát cắt, một cách nhìn về thế giới hiện thực, không cho phép con người tiến sâu hơn vào bản chất sự vật, hiện tượng và biết thêm bất cứ điều gì về một thế giới nằm ngoài, đứng sau và treo lơ lửng bên trên hiện thực đó. Đấy là giới hạn mà truyện ngắn truyền thống không thể vượt qua. Như vậy phải chăng sứ mệnh lịch sử của nó đã hết, cần phải được thay thế bằng một cảm quan nhận thức thế giới mới theo hướng bứt phá để thoát ra, vượt lên, lùi lại, đi vòng đến một thế giới thứ hai - phi hiện thực, ngõ hầu có thể tìm kiếm được cơ hội nhận thức về thế giới thứ nhất - hiện thực, một cách sáng rõ và đầy đủ hơn. Điều này chắc chắn là quá sức đối với những nhà truyện ngắn truyền thống, ngay cả đối với những bậc thầy của nó cũng đành phải bó tay.
Qua những phân tích trên, chúng tôi cho rằng truyện ngắn Việt Nam vẫn đang trong quá trình mò mẩm, tìm đường. Ngay cả những cây bút có nhiều yếu tố hiện đại như Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài cũng chưa thể hiện rõ cảm quan về một thế giới hiện đại mang tính khái quát cao, mà vẫn là những cảm quan về thế giới hiện thực được mô tả theo một bút pháp kỳ ảo, diễn dịch ngược hoặc là phản luận đề. Bên cạnh Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài còn có một số người khác như Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Lưu Sơn Minh, Quế Hương, Phạm Hải Vân, Hòa Vang, Nguyễn Thị Ấm, Đức Ban, Hoa Ngõ Hạnh, Minh Thu, Huy Nam, Văn Như Cương,… Tuy nhiên chỉ từng ấy cánh én thôi thì chưa thể làm nên một mùa xuân, đấy là chưa kể có những cánh én chưa kịp xòe ra đã vội khép lại ngay. Theo tôi, ngoài Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo và Hồ Anh Thái, còn phần lớn các gương mặt trên hiện vẫn còn khá nhạt nhòa chưa để lại nhiều dấu ấn trên văn đàn hoặc có những người đã để lại ấn tượng, nhưng tự dưng lại thấy im hơi lặng tiếng như Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Nói đúng hơn là họ không thể tiếp tục “vượt cạn” mãi được trong khi dòng chảy chủ đạo của truyện ngắn Việt Nam thời gian qua vẫn là truyện ngắn truyền thống được làm mới lại. Thế mới biết truyền thống là một cái gì đó khá cứng đầu, cứng cổ, bảo thủ và lì lợm đến mức muốn vượt qua nó không hề dễ dàng chút nào. Có thể nói truyện ngắn Việt Nam 20 năm trở lại đây chưa tạo nên được một vùng sáng trên bầu trời văn chương nước nhà với tư cách là một dòng truyện ngắn hiện đại, mà đây đó, lúc này, lúc khác mới chỉ có những đốm lửa lóe lên rồi vụt tắt như sao băng. Không chỉ bản thân truyện ngắn chưa tạo ra cho mình được một đội ngũ hùng hậu các cây bút trẻ, khỏe, phóng khoáng mang hơi thở của thời đại toàn cầu hóa, mà hơn thế, những vấn đề mà các nhà truyện ngắn đặt ra còn lẻ tẻ, vụn vặt, vẫn mang màu sắc phê phán hay ngợi ca những khía cạnh luân lý, đạo đức và lối sống hơn là những triết lý nhân sinh và cảm quan thế giới mới. Chỉ có một cảm quan thế giới mới, ý thức một cách sáng tỏ về chính sự tồn tại của thế giới này với một bút pháp đầy ma lực của các cây bút truyện ngắn thì chúng ta mới hy vọng có một dòng truyện ngắn hiện đại. Bằng không, cùng lắm chúng ta cũng chỉ có thể trở thành một cái đỉnh đồi lầm lầm nào đấy của dòng truyện ngắn truyền thống trong thế giới hiện đại./.
Văn chương - những ranh giới mong manh
Khi một tác phẩm văn học ra đời – nó lập tức trở thành một sản phẩm đặc biệt của xã hội. Khi ấy, nhà văn đứng ngoài những đánh giá, thẩm bình của công chúng về tác phẩm đó. Và không hiếm những chuyện như: một tác phẩm được chính nhà văn đó tâm đắc nhất, muốn được nói đến nhiều nhất – có khi chỉ là một tác phẩm rất dở của anh ta. Một tác phẩm được người đọc thích thú, đánh giá cao có khi lại bị chính người viết ra nó đối xử ghẻ lạnh. Hoặc lằn ranh giữa thơ văn xuôi với văn xuôi ; giữa tản văn với truyện ngắn; giữa truyện ngắn và truyện ký… đôi khi rất đỗi mờ nhoè. Một tác phẩm dài 50 chục trang có thể là một truyện dài những cũng có thể là một cuốn tiểu thuyết tầm vóc.
Một tác phẩm văn học chân chính cần phải biết vượt qua những mặc định mang tính thủ tục về mặt “định danh thể loại” để đạt đến một điều quan trọng hơn – đó là khả năng neo giữ của tác phẩm với thời gian, với công chúng. Có những tác phẩm khi xuất hiện, được báo chí lăng xê ngất trời – nhưng theo thời gian, nó tan vụn trong trí nhớ của bạn đọc. Bởi lẽ một điều hết sức giản đơn: Những giá trị chân chính - tự nó sẽ phát sáng theo thời gian. Không ai có thể tự cầm tóc nhắc mình lên khỏi mặt đất.
Gần đây xuất hiện xu hướng truyện cực ngắn. Có thể kể ra đây như: cuộc thi truyện ngắn 1200 chữ trên báo Tuổi trẻ. Báo Thế giới mới cũng từng có cuộc thi truyện ngắn 1000 chữ. Rồi xu hướng truyện ngắn chỉ có 100 chữ. Nghĩa là với bất kì một khuôn khổ dù chật hẹp đến thế nào - truyện ngắn vẫn có thể chào đời. Vượt qua những thách đố về mặt dung lượng chữ nghĩa, nhà văn sáng tạo ra tác phẩm của mình, bằng cách thức riêng.
Có người xác định ngay từ đầu, rằng tôi sẽ viết một truyện ngắn hay một phóng sự. Song cũng có những người - họ để chính câu chữ dẫn dụ. Viết – đó là công việc đầu tiên cần phải làm. Thể loại – đó là việc xác định mang tính thứ yếu. Thậm chí đang có xu hướng xuất hiện khuynh hướng sáng tác phi thể loại. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều có những loạt tiểu luận rất hay về Những giấc mơ. Nó có thể được đọc với tư cách những truyện ngắn xâu chuỗi với nhau; lại cũng có thể thưởng ngoạn với tư cách một tuỳ bút văn chương nhiều xúc cảm. Bởi vậy – cái ranh giới mong manh của cái gọi là “thể loại văn học” - thực chất lại không có nhiều ý nghĩa bằng chính những thông điệp, những cảm xúc mà tác giả thắp lên cho bạn đọc.
Tác giả Nguyễn Văn Sâm trong bài “Vài suy nghĩ về truyện ngắn” nhận xét: “Ai đã từng đọc sách thế nào cũng biết phân biệt truyện ngắn, truyện dài. Thế nhưng bảo chính ngay nhà văn phát biểu cho biết truyện ngắn là gì, ta sẽ được những câu trả lời không rõ nét, thậm chí còn thay đổi rất khác biệt theo từng tác giả(…) Ngày nay quan niệm truyện ngắn đã khác với lúc nó mới phát sinh. Nhiều người đồng ý như cái tên của nó, đó là một sáng tác phẩm ngắn kể lại một câu chuyện, một mảnh vụn đặc biệt của đời sống, hoặc — như quan niệm mới gần đây —chỉ là một tâm trạng không cần thành truyện, không cần đầu đuôi, không nhất thiết phải theo thứ tự thời gian.Nhưng ngắn đến thế nào, chữ này thiệt là tương đối. Có nhà giáo, ông X.J. Kennedy, trong quyển Literature thường dùng ở năm đầu của văn chương Anh Mỹ ở đại học Mỹ nhắc đến một truyện ngắn của Thomas Bailey Aldrich chỉ dài độc có ba dòng:
"Một thiếu phụ đang ngồi trong căn nhà cũ kỹ, đóng kín, biết rằng chỉ có mình mình trơ trọi trên thế giới này. Tất cả đều đã bị tiêu hủy.
Chuông cửa reo".
Cách đây vài năm, một tập truyện ngắn có nhan đề là Phù phiếm truyện gây ra khá nhiều tranh cãi trong giới chuyên môn về cái gọi là “thể loại truyện ngắn”. Bởi lẽ trong tập truyện ngắn này (tập truyện đã nhận giải nhì cuộc thi Văn học tuổi 20 lần 2 do NXB Trẻ tổ chức) có dấu hiệu của một loại truyện ngắn phá cách, nó làm cho người đọc nghi ngờ tính bền vững của nhân vật, của cốt truyện, thậm chí của cả bản thân khái niệm truyện ngắn. Chẳng hạn, liệu truyện ngắn có thể dung chứa quá nhiều yếu tố của tùy bút và bút ký hay không?
Có vẻ như truyện ngắn đang có xu hướng cựa quậy để xoá bỏ mọi ranh giới vẫn mặc nhiên được xác lập cho nó lâu nay để nhằm chuyển tải những nội dung hàm chứa trong đó tới độc giả. Sẽ thật ngớ ngẩn khi đọc một tác phẩm văn học, người đọc chỉ mải soi mói xem cái văn bản trong tay mình đây là tản văn – hay bút kí hay tuỳ bút hay truyện ngắn.
Thử làm một công việc như sau: chúng ta xoá hết những định danh thể loại thường ghi trên đầu tác phẩm (như: tuỳ bút, phóng sự, ghi chép, truyện ký, truyện ngắn…) và đưa chúng cho bạn đọc xác định lại - chắc chắn sẽ thu lại một kết quả rất kì thú. Trong chủ quan của nhà văn, tác phẩm của anh ta là tản văn, song trong thẩm định của người khác nó hoàn toàn có thể đứng với tư cách một truyện ngắn, thậm chí một truyện ngắn hay. Điều này là hết sức bình thường trong tiếp nhận văn học.
Liệu có điều gì quan trong hơn với một tác phẩm văn học– ngoài chính giá trị toát ra từ tác phẩm đó? Chẳng lẽ lại là một cái nhan đề, hay một cái ghi chú đính kèm “truyện ngắn của…” ; “bút ký của” …?
Điều đáng ngạc nhiên là vẫn có những người tự xưng danh là nghệ sĩ, là người sáng tác lại tỏ ra thích thú một cách thái quá trong việc đi bắt lỗi một cách định danh thể loại - vốn hoàn toàn chỉ mang tính tương đối – hơn là việc để cho chính những cảm xúc văn chương của mình được đánh thức, và có được những tác phẩm có giá trị để cống hiến cho công chúng. Ngẫm cho cùng đó lại là bi kịch của người sáng tác khôn lanh nhưng bế tắc cảm hứng vậy.
(Sưu tầm)
Văn chương luôn tồn tại những ranh giới rất đỗi mong manh. Người viết sẽ không thể Lớn nếu suy nghĩ của anh chỉ quẩn quanh với những chuyện vạch vãnh, tầm phào.