TRÌNH BẦY TIỀM NĂNG, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
1- VÙNG ĐÔNG BẮC BẮC BỘ
2- VÙNG TÂY BẮC
3- VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
4- VÙNG BẮC TRUNG BỘ
5- VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
6- VÙNG TÂY NGUYÊN
7- VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Trả lời:
1- VÙNG ĐÔNG BẮC BẮC BỘ
Diện tích tự nhiên 67.006 km2, chiếm 20,24% diện tích cả nước. Dân số 10.485.200 người chiếm 14,37% dân số cả nước (1995) bao gồm các tỉnh Phúc Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái.
* Tiềm năng và hiện trạng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội
Tiếm năng và hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
a- Vị trí địa lý
Vùng Đông Bắc Bắc Bộ có một phần gắn liền với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, liên kết và có quan hệ chặt chẽ với vùng đồng bằng sông Hồng, với nhiều trung tâm đô thị, hải cảng lớn như Hà nội, Hải Phòng. Đó là cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của vùng.
Biên giới phía bắc giáp Trung Quốc có 3 cửa khẩu lớn: Móng Cái, Đồng Đăng, Lào Cai là điều kiện giao lưu, hội nhập khoa học - công nghệ, trao đổi phát triển kinh tế của vùng với quốc tế trên lục địa.
Đông Bắc Bắc Bộ là vùng tập trung nhiều khoáng sản nhất ở nước ta và có nhiêu cảnh quan thiên nhiên nên hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia phát triển kinh tế xã hội của vùng.
b- Tài nguyên thiên nhiên
Nằm trên hệ thống địa hình các cánh cung, vùng Đông Bắc Bắc Bộ có thế mạnh là có nguồn năng lượng than đá với ba dải lớn là Cẩm Phả, Hòn Gai và Mạo Khê - Uông Bí, trữ lượng thăm dò khoáng sản 3,6 tỉ tấn. Ngoài ra than còn có ở một số điểm rải rác như Phấn Mễ, Làng Cẩm (Bắc Thái) trữ lượng khoảng 80 triệu tấn, than lửa dải Nà Dương (Lạng Sơn) với trữ lượng khoảng 100 triệu tấn, than Bố Hạ (Hà Bắc) nguồn năng lượng này hiện đang khai thác và sử dụng
Các khoáng sản kim loại và không kim loại cũng khá lớn, khoáng sản không kim loại có đá vôi để sản xuất vôi, xi măng trữ lượng hàng tỉ tấn, phân bố khắp các tỉnh đất sét cao lanh sản xuất gạch không nung ở Quảng Ninh (Giếng Đáy), Phú Thọ Apatít, nguyên liệu sản xuất phân bón ở Lào Cai tổng trữ lượng khoảng 1,4 tỉ tấn.
Khoáng sản kim loại rất đa dạng, phần lớn là mỏ vừa và nhỏ như sắt ở Thái Nguyên, Hà Giang, Yên Bái trữ lượng 1,5 triệu tấn, titan nằm trong quặng sắt Manhetit ở Thái Nguyên, trữ lượng 390 nghìn tấn, thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), ở Sơn Dương, Yên Bái, đồng ở Lào Cai, trữ lượng 781 nghìn tấn, bôxit ở Lạng Sơn, chì, kẽm ở Trợ Điền (Bắc Cạn) ăngtimoan ở Tuyên Quang, vàng ở Bắc Cạn, Lạng Sơn... Vì trình độ công nghệ và vốn còn hạn chế nên hiện nay mới khai thác được phần nào thiếc và sắt. Các mỏ tuy không lớn nhưng chất lượng quặng khá tốt, hàm lượng kim loại cao như thiếc, bôxit ở Cao Bằng, Lạng Sơn nên có giá trị xuất khẩu.
Còn một số khoáng sản khác tuy quy mô nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng dùng làm chất phụ trong công nghệ chế biến.
Đất là thế mạnh của sản xuất nông, lâm nghiệp của vùng.
Vùng Đông Bắc có các loại đất chủ yếu sau đây
+ Đất đỏ đá vôi, phân bố theo các cánh cung, nhiều nhất là Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai rất thích hợp với cây thuốc lá, đỗ tương, ngô
+ Đất pheralit đỏ vàng, phát triển trên sa diệp thạch. Phân bố chủ yếu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú thọ, Yên Bái, Bắc Giang thích hợp với cây chè, trầu sở
Đất phù sa cổ phân bố chủ yếu ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, miền giáp đồng bằng, thích hợp với cây công nghiệp.
Đất phù sa mới, phân bố ở đồng bằng và ven sông trong địa bàn có nước thì gieo trồng lúa, ở vùng đất cao trồng cây công nghiệp.
Rừng của vùng Đông Bắc còn rất ít, phần lớn là rừng thứ sinh, rừng xavan, cây bụi. Vùng Đông Bắc đang khôi phục rừng để bảo vệ tài nguyên, đảm bảo cân bằng sinh thái, phục vụ cho khu công nghiệp Quảng Ninh, cho nguyên liệu giấy, cho môi sinh. Ngoài ra rừng của vùng này có nhiều dược liệu như quế ở Yên Bái, Quảng Ninh, hồi ở Lạng Sơn, Cao Bằng và sa nhân, tam thất ở Lào Cai, Hà Giang, cây ăn quả á nhiệt như đào, táo, mận, lê ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
Đông Bắc có nhiều đồng cỏ liền dải trong các thung lũng, trên các đồi thấp là cơ sở để phát triển các động vật ăn cỏ.
Đông Bắc có khí hậu lạnh về mùa đông do hướng địa hình cánh cung mở ra ở biên giới đón gió lạnh từ phương Bắc. Mùa hè nóng ẩm, nhiệt độ cao.
Về tài nguyên biển có vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long với trên 3000 đảo, biển nông, trữ lượng cá không nhiều như các vùng khác, ở trong động nhiều loại sò, ốc. Đặc biệt nhân dân vùng đảo Cô Tô còn chăn nuôi ngọc trai, đảo rêu nuôi khỉ để làm dược liệu và còn là cảnh quan kỳ thú để thu hút khách du lịch.
c- Tài nguyên nhân văn
- Phong Châu (Phú Thọ) đến năm 1993 có trên 10 triệu người sống trong vùng, mật độ dân số của vùng là 95 người/km2 đông nhất là người Việt, dân tộc thiểu số người Tày, Nùng có số lượng lớn, còn lại là người Hoa, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ... mỗi dân tộc đều có nét văn hoá độc đáo riêng.
- Vùng Đông Bắc đã phản ánh bề dầy lịch sử của dân tộc với các di tích văn hoá, các di tích còn được bảo tồn, có giá trị khoa học về giáo dục truyền thống, về truyền bá kiến thức. Đó là những di tích với những kiến trúc độc đáo, nơi thờ các danh nhân, kèm theo các lễ hội truyền thống, những làn điệu dân ca như hát lượn, hát ví... Vùng này còn là vùng có những di tích cách mạng nổi tiếng như Pắcbó, Tân Trào.
Cảnh quan văn hoá này kết hợp với những cảnh quan tự nhiên như vịnh Hạ Long, động Tam Thanh, Nhị Thanh, núi SaPa, Tam Đảo, hồ Núi cốc, hồ Ba Bể, thác Bản Dốc là cơ sở để phát triển ngành du lịch dịch vụ.
d- Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
Tiềm năng tự nhiên và kinh tế của vùng được khai thác sớm do mục đích khai thác thuộc địa của Tư bản Pháp 40-52% vốn đầu tư vào Đông Dương đã tập trung vào vùng này để lấy ra 27,7 triệu tấn than; 217,3 nghìn tấn thiếc; gần 600 ngàn tấn quặng sắt và mang gan; 315,5 ngàn tấn phốt phát.
Đến năm 1992 đã có 290 xí nghiệp trên 64% là xí nghiệp công nghiệp địa phương. Cơ cấu ngành công nghiệp đã có nhiều biến đổi, số xí nghiệp công nghiệp nặng với qui mô lớn chiếm tỷ lệ lớn nhất cả nước như khai thác năng lượng, luyện kim, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng. Đông Bắc Bắc Bộ cung cấp 98% than đá, hơn 60% thép cho cả nước.
Về cơ cấu lãnh thổ công nghiệp, hình thành những trung tâm công nghiệp chuyên môn hoá như luyện kim đen Thái Nguyên, hoá chất Việt Trì, Lâm Thao, khai thác than Hòn Gia, Cẩm Phả, phân bón Bắc Giang.
Về lâm nghiệp đã có những cố gắng rất lớn, đặc biệt là việc trồng rừng, xây dựng vùng nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ, rừng dược liệu... nhưng tình trạng khai phá thiếu qui trình kỹ thuật làm cho diện tích rừng giảm nhanh, không cân đối với trồng rừng.
- Kinh tế biển phát triển chậm, chủ yếu là khai thác thuỷ sản trong lồng, chế biến thuỷ sản mang tính chất thủ công.
Trong quá trình phát triển kinh tế của vùng, một số địa phương đã không chú ý đến bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm môi sinh như khai thác than, sinh vật vẫn chưa được phục hồi, hoạt động của tàu thuyền máy, bốc dỡ than đã làm ô nhiễm nước biển cần được nghiên cứu và có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường sinh thái.
- Về nông nghiệp đã hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp như chè Thái Nguyên, Yên Bái, Lào cai, Vĩnh Phú, thuốc lá Lạng Sơn, Cao Bằng, lạc Bắc Giang, mía Vĩnh Phúc, Phú Thọ đặc biệt trong vùng có giống chè san, cây cao, chất lượng tốt, được trồng nhiều ở Hà Giang.
+ Sản xuất lương thực chủ yếu là để tự túc, sản lượng lương thực qui thóc đến năm 1995 đã đạt 2.694.900 tấn, trong đó lúa là 1.906.900 tấn chiếm 70,75% lương thực của vùng, bình quân lương thực 237 kg/người.
Về chăn nuôi chủ yếu là nuôi trâu bò, trâu được nuôi nhiều ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Yên Bái. Vùng có giống lợn Móng Cái nổi tiếng giống cung cấp cho cả nước.
Các ngành dịch vụ đã chuyển biến theo xu thế mới, thương mại phát triển khá nhất là ở biên giới, thương nghiệp, giao thông liên vùng, liên tỉnh ít. Du lịch biển, lễ hội phát triển, song du lịch miền núi còn nhỏ bé. Du lịch phát huy được tiềm năng các dịch vụ khác cũng phát triển chậm, hiệu quả thấp.
So với trước đổi mới tình hình kinh tế xã hội của vùng Đông Bắc Bắc Bộ đã khởi sắc song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Tổng GDp cả vùng chỉ bằng 7,5% so với cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1991-1995 bình quân hàng năm 5,9% trong khi đó dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người chỉ đạt 124USD/ người, thấp so với các vùng khác trong cả nước.
Cơ cấu GDP thời kỳ 1991-1995 cho thấy nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, GDP công nghiệp và xây dựng có tăng nhưng nhỏ, GDP dịch vụ không tăng mà có chiều hướng giảm.
* Định hướng phát triển kinh tế xã hội
a- Vấn đề cấp thiết nhất của vùng là khôi phục ưu thế tự nhiên bằng cách khôi phục rừng, ở những nơi đã khai thác cần phải phát triển trồng rừng làm nguyên liệu cho sản xuất giâý, cung cấp gỗ trụ mỏ.
b- Trang bị công nghệ mới, đồng bộ cho các khu công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản hiện có đồng thời hợp tác liên doanh với nước ngoài nhằm khai thác khoáng sản với hiệu quả cao để xuất khẩu.
c- Phát triển cây công nghiệp mũi nhọn, trước hết là cây chè, hồi, quế để xuất khẩu, phát triển cây ăn quả đặc thù như mận, đào, táo, lê.
d- Phát triển đàn gia súc lớn (trâu, bò) lấy thịt, sữa xuất khẩu và tự túc sức kéo.
e- Xây dựng cơ cấu hạ tầng, kinh tế và xã hội, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, các cơ sở y tế, trường học ở vùng cao, thực hiện định canh, định cư triệt để cho đồng bào các dân tộc ít người.
Về mặt lãnh thổ vùng Đông Bắc sẽ phát triển theo các tuyến và các cực sau đây
+ Việt Trì: Theo hai tuyến sông Thao, sông Chảy, sông Lô trên cơ sở khai thác thuỷ điện Thác Bà, chè Phú Thọ, Sơn Dương, khai thác Apatit, chế biến gỗ, du lịch Tân Trào, Tam Đảo, SaPa.
+ Thái Nguyên: Với hai tuyến quốc lộ 3 và liên tỉnh 13 dọc theo sông Cầu trên cơ sở khai thác quặng sắt, than, thiếc, chì, kẽm, cơ khí Gia Sàng, Sông Công, kính Đáp Cầu, chế biến chè Thái Nguyên du lịch hồ Núi Cốc, hồ Ba Bể, Pắcbó.
+ Hòn Gai: Dọc theo tuyến đường 18 và đường thuỷ nội địa Hạ Long, Bái Tử Long với các hải cảng: Cửa Ông, Hòn Gai, Cái Lân trên cơ sở khai thác than, cơ khí khai mỏ, cơ khí đóng tàu, gạch Giếng Đáy và khu du lịch nghỉ dưỡng trọng điểm của miền Bắc Hạ Long, Móng Cái, Côn Sơn, Kiếp Bạc.
2- VÙNG TÂY BẮC
Diện tích tự nhiên 35.955 km2, chiếm 10,86% diện tích cả nước. Dân số 2.051.700 người, chiếm 2,82% dân số cả nước (1994) bao gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La và Hoà Bình.
* Tiềm năng phát triển
+ Vị trí địa lý:
Toạ độ địa lý từ 20048' đến 230 Bắc và 102009' đến 102052' phía Đông. Phía Bắc giáp Trung Quốc có cửa khẩu Lai Vân, phía Tây và Tây Nam giáp Lào có cửa khẩu Điện Biên, Sông Mã, Mai Sơn là điều kiện giao lưu kinh tế với các nước láng giềng.
Phía Đông và phía Nam giáp các vùng kinh tế Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ đó là điều kiện để phát triển thế mạnh kinh tế của Tây Bắc.
+ Tài nguyên thiên nhiên
- Nguồn năng lượng và khoáng sản
Khác với vùng Đông Bắc, vùng này có địa hình núi cao, hiểm trở, cắt xẻ nhiều, nhiều sông suối, thung lũng sâu. Độ cao trung bình trên 1000m, nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông là khối núi Hoàng Liên Sơn cao sừng sững.
Khoáng sản của vùng đa dạng phong phú, nhưng quy mô vừa và nhỏ. nguồn tài nguyên vùng phần lớn còn ở dạng tiềm năng. Nếu tổ chức tốt về khai thác và chế biến sẽ tạo ra các sản phẩm trao đổi liên vùng và xuất khẩu.
- Đất: Đất của vùng chủ yếu là đất lâm, nông nghiệp. Có hai loại đất chủ yếu là đất Pharalit đỏ vàng, phong hoá từ đá vôi và các loại sa diệp thạch, đất bồi tụ trong các thung lũng ven sông.
- Rừng có diện tích là 423,9 nghìn ha, chiếm 4,50% diện tích rừng cả nước. Rừng gỗ, tre nứa phần lớn tập trung ở Hoà Bình. Trong rừng ít có gỗ quý hiếm, chỉ có một số giá trị như Pơmu, lát hoa, thông ba lá... trong rừng có nhiều dược liệu quý như sa nhân, tam thất ở Lai Châu, đặc biệt rừng Tây Bắc có nhiều cánh kiến động vật có nhưng ít hơn so với rừng các tỉnh miền Trung và ngày càng suy giảm nhanh.
Cao nguyên và thung lũng còn là địa bàn phát triển chăn nuôi trâu bò quy mô lớn của vùng.
- Khí hậu
Gió Đông Bắc lạnh đến muộn cho phép địa phương có thể sản xuất được cây ưa lạnh quanh năm, các giống rau ôn đới, các loại dược liệu như tam thất, khí hậu của vùng tây Bắc cũng gây ra những khó khăn lớn. Về mùa khô trên các cao nguyên rất hiếm nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Tài nguyên nhân văn
Tây Bắc là vùng có mật độ dân số thưa chỉ có 58 người/km2 (1995) có các nền văn hoá độc đáo và đa dạng.
* Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
Tây Bắc là vùng có giàu tiềm năng, có lịch sử khai thác sớm, song có nhiều tồn tại nhiều vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế cho xã hội. Về lâm sản khai thác đã nhiều nhưng do không hợp lý nên đến nay rừng đã cạn kiệt. Độ che phủ của rừng chiếm tới 10% rừng nguyên sinh đã hết rừng đầu nguồn nhiều nơi đã trụi gây nhiều tác hại cho môi trường của vùng là đồng bằng Bắc Bộ vậy vấn đề tu bổ và trồng rừng phải đặt ra hết sức cấp bách, diện tích trồng rừng có khoảng 90.000 ha cần tiếp tục mở rộng, cần đầu tư và để phát triển rừng đặc biệt là rừng quanh lòng sông Đà.
Cánh kiến là một trong những mặt chủ lực của vùng cần phát triển thêm để thành hàng hoá chủ lực của vùng.
Về nông, lâm nghiệp chủ yếu là chè diện tích sản lượng không bằng chè Đông Bắc, chè cần được tổ chức và chế biến để xuất khẩu có giá trị và ngoài ra vùng có thêm bông (Tô Hiệu) và đậu tương (Sơn La) ở hai vùng những năm gần đây đang có xu hướng để phát triển trồng cà phê ở Tây Bắc trong điều kiện chống được sương muối.
Đến năm 1995 có đàn trâu bò chiếm tới 10,19% đàn trâu bò của cả nước, đàn trâu bò của vùng đang có xu hướng tăng ở đây có điều kiện sinh thái rất hợp với việc chăn nuôi bò sưã Mộc Châu, Sơn La là cơ sở chăn nuôi và chế biến sữa lớn của nước ta.
Sản xuất lương thực chủ yếu là tự túc sản lượng thóc thực thu 521.600 tấn trong đó lúa chỉ có 328.900 tấn, chiếm 63,05% lương thực của vùng hoa màu chủ yếu là ngô sắn bình quân 245 kg/người thuộc loại thấp trong nước đòi hỏi phải tăng năng suất lương thực bảo đảm ổn định lương thực của vùng.
Về công nghiệp phát triển tiềm năng lớn là ngành thuỷ điện Hoà Bình 1.920MW cung cấp điện cho cả nước, chế biến nông sản đáng kể nhất là sữa và đường ngoài ra còn có nghệ nông nghiệp cơ khí thủ công nhìn chung nền công nghiệp còn nhỏ bé chưa phát triển.
Về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chủ yếu là ô tô hệ thống trục đường số 6 và đường liên tỉnh phần lớn là đường mòn hoặc vận tải đường thuỷ trên hồ Hoà Bình đang phát triển.
3- VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Đồng bằng sông Hồng có diện tích tự nhiên 12.510 km2, chiếm 3,7% diện tích toàn quốc với một vùng biển bao quanh ở phía Đông và Đông Nam. Số dân của đồng bằng là 14.284.000 người (1995) chiếm 19,58% số dân của cả nước. Gồm các tỉnh và thành phố Hà nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Hà Tây.
Hiện tại cũng như trong tương lai đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Tiềm năng, hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
Đồng bằng sông Hồng có thủ đô Hà nội, cảng Hải Phòng, sân bay quốc tế Nội Bài là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học công nghệ của Bắc Bộ và cả nước. Đồng bằng sông Hồng giáp với vùng kinh tế Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ là những vùng có nhiều tài nguyên khoáng sản, tài nguyên lâm nghiệp phía Đông của vùng giáp biển, là cửa ngõ của Vịnh Bắc Bộ nên có nhiều điều kiện phát triển kinh tế và khai thác bể trầm tích dầu mỏ phân bố trong phạm vi đồng bằng sông Hồng.
* Vấn đề dân số
Đồng bằng sông Hồng là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước. Việc dân cư quá tập trung ở đồng bằng làm cho mật độ dân số trung bình đã lên tới 784 người/km2 mật độ này cao hơn 4 lần mật độ trung bình của toàn quốc vượt quá 2,2 lần so với đồng bằng sông Cửu Long, 7,6 lần so với khu vực miền núi và trung du phía Bắc, 17,4 lần so với Tây Nguyên.
Sự phân bố dân cư quá đông ở đồng bằng sông Hồng liên quan tới nhiều nhân tố nền nông nghiệp thâm canh cao với nghề trồng lúa nước chủ yếu đòi hỏi phải có nhiều lao động trong vùng còn có nhiều trung tâm công nghiệp quan trọng và một mạng lươí các đô thị khá dầy đặc. Ngoài ra đồng bằng sông Hồng đã được khai thác từ lâu đời và có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người.
Ở đồng bằng sông Hồng dân số gia tăng vẫn còn nhanh vì vậy tốc độ tăng dân số chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế xã hội của đồng bằng. Diện tích canh tác tính theo đầu người của đồng bằng sông Hồng rất thấp so với sức ép quá nặng của dân số ở đây, bình quân mỗi đầu người chỉ đạt 591 m2 đất canh tác (1989) hoặc 2397m2 cho mỗi lao động nông nghiệp (1988). Đất canh tác ít, dân đông nên phải đẩy mạnh thâm canh. Song nếu việc thâm canh không đi đôi với việc hoàn lại đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ làm cho đất đai ở một số nơi bị giảm độ phì nhiêu.
Vấn đề dân số và sự gia tăng dân số đã để lại những dấu ấn đậm nét về kinh tế - xã hội sản xuất nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cho ticvhs luỹ và cải thiện đời sống nhân dân hàng loạt vấn đề cấp thiết như việc làm, nhà ở, y tế, văn hoá, giáo dục chưa phải đã được giải quyết một cách có kết quả.
Đối với đồng bằng sông Hồng, việc phân bố lại dân cư và lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngoài ra giải pháp ở đồng bằng sông Hồng là việc triển khai có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỷ lệ sinh. Đồng thời, trên cơ sở lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý, từng bước giải quyết việc tại chỗ cho lực lượng lao động thường xuyên tăng lên, tiến tới nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong vùng.
* Vấn đề lương thực thực phẩm
Đồng bằng sông Hồng là nơi có nhiều khả năng để sản xuất lương thực, thực phẩm trên thực tế đây là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, sau đồng bằng sông Cửu Long.
Số đất đai đã được sử dụng vào hoạt động nông nghiệp ở đây chiếm khoảng 50% tổng diện tích tự nhiên của đồng bằng sông Hồng. Ngoài số đất đai phục vụ nông nghiệp và các mục đích khác, số diện tích đất chưa được sử dụng vẫn còn hơn 45 vạn ha, trong đó có trên 1 vạn ha diện tích mặt nước.
Nhìn chung đất đai của đồng bằng sông Hồng được phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp tương đối mãu mỡ, tuy vậy độ phì của các loại đất không giống nhau ở khắp mọi nơi đất được bồi đắp hàng năm màu mỡ hơn đất không được bồi đắp hàng năm (đất trong đê). Loại đất này chiếm phần lớn diện tích châu thổ, đã bị biến đổi nhiều do trồng lúa.
Ở đồng bằng đất và nước là hai yếu tố đan quyện vào nhau. Hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình cùng các nhánh của chúng là nguồn cung cấp nước thường xuyên cho hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên cần thấy được cả mặt trở ngại của nó là sự quá thừa nước trong mùa mưa và sự thiếu nước trong mùa khô.
Bên cạnh khả năng tự nhiên, những nguồn lực về kinh tế, xã hội cũng đóng vai trò đáng kể trong việc phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm. Từ bao đời nay người dân đồng bằng sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, đó là vốn quý để đẩy mạnh sản xuất, ngoài ra sự phát triển của nền kinh tế cùng với hàng loạt chính sách mới cũng góp phần quan trọng cho việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng.
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta, với diện tích gần 4 triệu ha, chiếm khoảng 10% diện tích toàn quốc. Tại đây có 14,2 triệu người đang sinh sống chiếm khoảng 22% dân số cả nước.
* Vấn đề sử dụng và cải tạo tự nhiên
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi (thương và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng phù sa)
Vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước, quá trình giải quyết vấn đề này liên quan tới hàng loạt các biện pháp kinh tế kỹ thuật.
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý (trong đó cơ cấu nông nghiệp hợp lý) của đồng bằng được coi là biện pháp quan trọng. Sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng hoá được phát triển theo hướng thâm canh đa dạng hoá gắn liền với sự nghiệp công nghiệp.
Việc đẩy mạnh chăn nuôi (nhất là lợn, gia cầm) tận dụng mọi khả năng để nuôi cá nước ngọt, tôm nước lợ, đánh bắt cá biển và chế biến các sản phẩm nông nghiệp sẽ tạo điều kiện tốt để giải quyết nhu cầu thực phẩm và tăng sản phẩm xuất khẩu của đồng bằng này.
* Định hướng phát triển kinh tế xã hội
- Giảm tỷ lệ gia tăng dân số xuống dưới 2% để cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế, có biện pháp hữu hiệu để phân bố lại dân cư, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế hộ gia đình...
- Xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhằm khai thác đầy đủ tiềm năng và nguồn lực của vùng, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng, cần chú ý đến việc bảo vệ môi trường, duy trì và phát triển các hệ sinh thái đồng bằng, ven biển, đảm bảo khai thác tài nguyên nông nghiệp hợp lý không làm cho đất nghèo kiệt, không sử dụng hoá chất độc hại.
4- VÙNG BẮC TRUNG BỘ
Diện tích tự nhiên 51.174 km2, chiếm 15,5% diện tích cả nước, dân số 9.726.600 người chiếm tỷ lệ 13,4% dân số cả nước. Bao gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế.
* Tiềm năng và hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
Vị trí địa lý
Bắc Trung Bộ là lãnh thổ có tính chuyển tiếp giữa các vùng kinh tế phía Nam trải dài từ vĩ tuyến 19 đến vĩ tuyến 16 có các trục giao thông Bắc Nam, đường số 1, đường số 15, tuyến Trường Sơn, đường sắt tạo ra mối liên hệ nhiều về mặt kinh tế - xã hội với các vùng trong cả nước.
Về phía Tây giáp Lào tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các tỉnh trong nước và quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên
Đất nông nghiệp chiếm 91% diện tích tự nhiên của vùng hiện mới sử dụng 54,4% đất nông nghiệp chiếm 13,5%, lâm nghiệp 36,5%, đất chuyên dùng 4,4%.
Về cấu tạo, đất miền núi và trung du có 3 loại chủ yếu, một số dienẹ tích bazan ở Nghệ An, Quảng Trị là thế mạnh cho rừng phát triển.
Đất lâm nghiệp của vùng là 3.436.860 ha chiếm 18,6% diện tích tự nhiên và diện tích đất lâm nghiệp.
Rừng của Bắc Trung Bộ đứng thứ hai sau Tây Nguyên, cung cấp nguyên vật liệu cho đồng bằng Bắc Bộ và xuất khẩu. Xét về cơ cấu rừng sản xuất có 1583,6 nghìn ha trong đó hiện có 2136 nghìn ha có rừng.
Đất ở đây là đất phù sa sông biển bồi đắp, quy mô hẹp, có nhiều bậc thang đây là địa bàn thích hợp cây công nghiệp ngắn ngày, hoa màu, lương thực.
- Biển rộng là thế mạnh để phát triển kinh tế biển
Bắc trung Bộ là nơi có nhiều bãi cá có giá trị như bãi Hòn Mê, Hòn Né, Hòn Ngư (Nghệ An)...
Ven bờ có nhiều vũng, đầm, phá là cơ sở nuôi trồng thuỷ sản và xây dựng cảng biển tốt. Thềm lục địa còn được báo hiệu có trầm tích dầu mỏ. Vùng còn có nhiều đầm, là cơ sở để sản xuất, nuôi trồng hải sản...
* Định hướng phát triển kinh tế
Về cơ cấu lãnh thổ cần kết hợp 3 tuyến ven biển, đồng bằng và trung du miền núi để khai thác thế mạnh của từng tiểu vùng. Cần chú ý đến cây công nghiệp hàng năm như lạc, cói, dâu, mía, đồng thời phát triển cây công nghiệp lâu năm ở các địa phương có điều kiện sinh thái thích hợp như hồ tiêu, chè, cao su, cà phê và cây ăn quả như cam, dưa. Đẩy mạnh chăn nuôi trâu bò, hươu, dê, phát triển đàn vịt lấy trứng và thịt xuất khẩu.
Xây dựng các vùng nông nghiệp tập trung mang tính tổng hợp
Đối với lâm nghiệp cần kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, nuôi trồng và chế biến.
Về kinh tế biển, tổ chức quy mô ra khơi đánh bắt cá với quy mô lớn, kết hợp giữa đánh bắt và nuôi trồng ở ven bờ với tổ chức chế biến kịp thời thuỷ hải sản có giá trị để xuất khẩu.
Công nghiệp cần đi vào phát triển các ngành mũi nhọn như vật liệu xây dựng, xi măng, gạch công nghiệp.
Về kết cấu hạ tầng cần hoàn thiện hệ thống giao thông liên huyện, liên xã. Nâng cấp và mở rộng hệ thống quốc lộ phát triển thông tin liên lạc.
Phát huy thế mạnh ngành dịch vụ du lịch, mở rộng trung tâm du lịch Huế, xây dựng các điểm và các tuyến du lịch ven biển...
Định hướng chủ đạo là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhằm đưa vùng Bắc Trung Bộ ra khỏi tình trạng nghèo và lạc hậu, đưa nền kinh tế vùng tiến kịp mức trung bình toàn quốc và tạo điều kiện đi xa hơn nữa vào những năm tiếp theo.
5- VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
Diện tích tự nhiên 33.773 km2, chiếm gần 19,2% diện tích cả nước. Dân số 6.305.100 người (1995) chiếm hơn 8,64% dân số cả nước, bao gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
* Tiềm năng phát triển
Vị trí địa lý
Duyên hải Nam Trung Bộ có một bộ phận lớn lãnh thổ thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đó là điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Phía Bắc là đèo Hải Vân, điểm cuối cùng của dãy Trường Sơn Bắc. Phía Tây là dãy Trường Sơn Nam với hệ thống cao nguyên đất đỏ bazan giàu có của vùng Tây Nguyên, là vùng có quan hệ chặt chẽ với vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Phía Nam là vùng Đông Nam Bộ, cơ sở trao đổi vật chất khoa học và công nghệ để phát triển kinh tế của vùng. Phía Đông là Biển Đông với các cảng nước sâu, những quần đảo lớn như Hoàng Sa, Trường Sa với nhiều đảo ven bờ tạo điều kiện phát triển kinh tế biển, giao lưu với nước ngoài.
Tài nguyên thiên nhiên
Biển là tiềm năng lớn nhất của vùng với bờ biển dài khoảng 800 km từ Hải Vân đến cực Nam Trung Bộ. Dọc bờ biển có nhiều cửa sông, eo biển, vũng, vịnh... trong đó có những vịnh rộng và đẹp như Cam Ranh, Van Phong, Đại Lãnh. Đó là địa bàn tập trung động vật ven bờ, nơi cư trú của các ghe, thuyền... đồng thời là nơi xây dựng hải cảng tốt như Đà Nẵng, Hội An, Dung Quất, Sa Huỳnh, Qui Nhơn, Nha Trang...
Vùng có nhiều bãi biển đẹp, nước trong, khí hậu ấm áp thích hợp để phát triển an dưỡng, du lịch như Sơn Trà, Non Nước, Nha Trang, có nhiều đồng muối rộng trên biển, có nhiều đảo Trường Sa và quần sa đó là nơi trú ngụ của nhiều tàu thuyền khai thác tiềm năng đảo còn chứa những tài nguyên khoáng sản, đất trồng trọt là nơi cư trú của các loài chim, đảo còn là nơi nuôi các loài thú quý hiếm đồng thời có những cảnh quan thu hút khách du lịch.
Biển Nam Trung Bộ có nhiều ngư trường tốt như cù lao Thu, Nha Trang, hải sản gồm nhiều loại trong lồng có tôm, cá... khai thác được quanh năm ngoài khơi có nhiều loại cá có giá trị theo đánh giá của Viện Thuỷ sản Nha Trang trong động vật biển này có 177 loài thuộc 81 họ trong đó có sản lượng cao nhất là cá xâm, cá hồ, tổng sản lượng cá khoảng 42 vạn tấn
Đất nông lâm nghiệp là tiềm năng thứ hai của vùng, diện tích khoảng 3,3 triệu ha. Dãy Trường Sơn Nam nằm sát biển, núi xen kẽ đồng bằng vì vậy từ xưa đến nay đã phát triển đất nông nghiệp chủ yếu là phù sa sông biển tạo nên.
Rừng và đất rừng thuộc sườn Đông của dãy Trường Sơn. Độ che phủ của rừng chỉ còn là 28,6%. Diện tích rừng năm 1994 hiện có 969.300 ha. Trong đó rừng tự nhiên 897.600 ha, rừng trồng 71.700 ha chiếm 11.3% của cả nước. Trữ lượng rừng tự nhiên còn khoảng 94,6 triệu m3 gỗ, 525 triệu cây tre, nứa. Rừng gỗ phần lớn ở sườn cao nguyên, hơi khó khai thác. Rừng còn có một số đặc sản quý như quế ở Trà My, Trà Bổng, trầm hương, sâm quy, kỳ nam là những dược liệu quý. Động vật rừng còn có một số chim quý, thú quý mang đặc trưng khu hệ động vật Ấn Độ, Mã Lai.
Khí hậu và nguồn nước của vùng mang đặc trưng khí hậu á xích đạo, bức xạ lớn, tổng nhiệt lượng cao, biên độ dao động nhiệt thấp.
Vùng trên có 15 con sông song phần lớn là ngắn và dốc chảy trong nội tỉnh chỉ có hai con sông tương đối dài là sông Ba và sông La Ngà chảy trên phạm vi nhiều tỉnh. Mật độ sông suối là 0,3 - 1km/km2. Tổng lượng dòng chảy toàn vùng 5000km3. Nguồn nước ngầm có trữ lượng không lớn.
Tài nguyên khoáng sản chủ yếu là cát cao lanh, sét, cát xây dựng... Ngoài ra còn có một số khoáng sản như vàng, than đá, các mỏ khoáng sản phần lớn qui mô nhỏ, chưa được khai thác hoặc mới chỉ khai thác thủ công.
* Tài nguyên nhân văn
Dân cư của vùng thưa hơn các vùng ven biển khác. Mật độ trung bình năm là 188 người/km2. Phần lớn tập trung ở đồng bằng, đô thị, bến cảng. Có 3 thành phố, 4 thị xã, 37 thị trấn dân cư đô thị chiếm 23%.
Dân tộc ít người chỉ chiếm 5% dân số của vùng.
Trình độ tay nghề của người lao động khá cao, và ít nhiều có ý thức sản xuất hàng hoá, nhất là trong các ngành ngư nghiệp, cơ khí, thủ công mỹ nghệ. Vùng có nhiều di tích văn hoá, lịch sử nổi tiếng như Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang. Số di tích hiện có khoảng 750 điểm. Đây là tiềm năng lớn để phát triển ngành kinh tế du lịch.
* Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội
Quá trình đổi mới toàn diện đất nước, vùng duyên hải Nam Trung Bộ phát huy thế mạnh lao động kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, đưa giá trị tổng sản lượng công nghiệp lên ngang tầm và vượt giá trị tổng sản lượng nông nghiệp.
Năm 1995, giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp chiếm 5,05% so với công nghiệp cả nước.
Cơ cấu nông nghiệp giai đoạn 1991-1994 bước đầu đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp và chăn nuôi. Đã hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày.
Ngư nghiệp chủ yếu là khai thác và chế biến hải sản. Các cơ sở chế biến ngày càng được mở rộng và hiện đại hoá.
Biển là thế mạnh lớn nhất của vùng, nhưng việc đầu tư, khai thác và tổ chức sản xuất còn chưa tương xứng với tiềm năng.
Dịch vụ du lịch mới được phát triển chủ yếu ở Nha Trang, Đà Nẵng, còn các khu vực khác vẫn còn là tiềm năng. Khách du lịch hàng năm tăng. Năm 1994 đã có 138 nghìn khách quốc tế, 468 nghìn lượt khách nội địa, doanh thu đạt 173 tỷ đồng.
Về kết cấu hạ tầng giao thông và thông tin liên lạc đã có các tuyến đường sắt và đường bộ liên hệ Bắc - Nam, các tuyến liên hệ vùng Tây Nguyên.
Cảng hàng không có 4 sân bay đang hoạt động, cảng biển có 9 cảng
Tuy vậy, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng. trong những năm đổi mới, kinh tế - xã hội của vùng đã có những chuyển biến rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP hàng năm thời kỳ 1991-1994 đạt 7,48% (Cả nước đạt 8%). Trong đó nông lâm nghiệp tăng 1,48%, GDP bình quân đầu người năm 1994 đạt 137,6 USD.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến độ giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
* Định hướng phát triển kinh tế xã hội
+ Xây dựng cơ cấu ngành: Hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn sau đây
- Kinh tế biển: Để phát triển mạnh ngành kinh tế biển cần phải đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, thiết bị đánh bắt và chế biến hải sản. Kết hợp với kinh tế ven bờ và lưọi dụng các cảnh quan tự nhiên và văn hoá biển để phát triển ngành du lịch dịch vụ...
- Về công nghiệp: Cần hướng mạnh vào sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu như dệt, may mặc, cơ khí, chế biến thực phẩm...
- Về nông nghiệp: Cần phát huy thế mạnh nông sản xuất khẩu như lạc, tơ tằm... Đồng thời coi trọng thâm canh, mở rộng diện tích cây lương thực, đẩy mạnh chăn nuôi
- Về lâm nghiệp: Ra sức phát triển diện tích rừng đặc sản như quế, sâm quy và vùng nguyên liệu cho sản xuất giấy, chú trọng trồng rừng và bảo vệ rừng...
- Về kết cấu hạ tầng: Cần củng cố nâng cấp và phát triển các hệ thống giao thông, bến cảng, phát triển các công trình thuỷ điện vừa và nhỏ.
+ Hình thành cơ cấu lãnh thổ:
Kết hợp khai thác cả 3 vùng miền núi, đồng bằng và biển trong một cơ cấu cân đối, hợp lý nhằm phát huy tối đa tiềm năng của mỗi vùng, đồng thời bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả, phát huy lợi thế và nguồn lực của mỗi tỉnh để phát triển ngành sản xuất chuyên môn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá xuất khẩu và cung cấp cho thị trường trong nước. Bên cạnh đó cần chú ý tập trung vào xây dựng trọng điểm các hạt nhân tạo vùng như Đà Nẵng, Dung Quất, Nha Trang, Quy Nhơn, tạo ra các hành lang công nghiệp, các dải thành phố dọc theo quốc lộ đường 1A và các tuyến ngang.
6- VÙNG TÂY NGUYÊN
- Diện tích tự nhiên 45.982 km2, chiếm 13,89% so với cả nước. Dân số 2.333.600 người chiếm 3,20% dân số cả nước (1995). Bao gồm các tỉnh KonTum, Gia Lai, Đắc Lắc.
* Vị trí địa lý:
Cùng nằm trên các vĩ tuyến với vùng duyên hải Nam trung Bộ, Tây Nguyên là địa bàn núi cao, cấu tạo chủ yếu bởi hệ thống đất đỏ bazan của dãy Trường Sơn Nam. Bởi vậy Tây Nguyên có tiềm năng phát triển kinh tế nông lâm nghiệp phong phú và có mối quan hệ chặt chẽ nhiều mặt với vùng duyên hải Nam Trung Bộ cũng như Đông Nam Bộ.
Tây Nguyên là vùng duy nhất của nước ta không giáp biển, khối các cao nguyên xếp tầng đồ sộ này nằm sát dải duyên hải Nam Trung Bộ dài mà hẹp, lại giáp với miền hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. Chính vì thế Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và xây dựng kinh tế.
* Tài nguyên thiên nhiên
Đất đai mãu mỡ cộng với sự đa dạng của tài nguyên, khí hậu đem lại cho Tây Nguyên những tiềm năng to lớn về nông nghiệp, lâm nghiệp mà đến nay chúng ta vẫn chưa hiểu biết cặn kẽ.
Tây Nguyên không giàu về tài nguyên khoáng sản, chỉ có boxit với trữ lượng hàng tỷ tấn là đáng kể. Trữ năng thủy điện khá, do sức nước ở các sông đổ từ sườn cao nguyên xướng đồng bằng.
Tây Nguyên là vùng thưa dân nhất nước ta, đây là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người (Xu đăng, Ba na, Gia rai, Ê Đê, Cờ Ho, Mơ Nông) với truyền thống văn hoá độc đáo.
1- Vấn đè phát triển cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên
điều kiện tự hiên ở Tây Nguyên thích hợp cho phát triển cây công nghiệp lâu năm, ở đây có các cao nguyên đất đỏ bazan.
Đất bazan ở đây có tầng phong hoá sâu, giầu chất dinh dưỡng, lại phân bố tập trung với những mặt bằng rộng lớn thuận lợi cho việc thành lập các nông trường, các đồn điền và vùng chuyên canh quy mô lớn.
Khí hậu Tây Nguyên có tính chất cận xích đạo với một mùa mưa và một mùa khô kéo dài (có khi tới 4-5 tháng) về mùa khô mực nước ngầm hạ thấp, vì thế việc làm thuỷ lợi gặp khó khăn, tốn kém và trở ngại lớn cho sản xuất và sinh hoạt.Nhưng mùa khô kéo dài lại là điều kiện thuận lợi để phơi sấy, bảo quản sản phẩm. Do ảnh hưởng của độ cao, nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500m khí hậu khô nóng thì ở các cao nguyên 1000m khí hậu lại mát mẻ. Vì thế, ở Tây Nguyên có thể trồng các cây công nghiệp nhiệt đới (cà phê, cao su, hồ tiêu...) và các cây có nguồn gốc cận nhiệt (chè) khá thuận lợi.
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số 1 của Tây Nguyên, diện tích cà phên của Tây Nguyên hiện nay có 85 ngàn ha chiếm 3/4 diện tích cà phê cả nước. Cà phê Buôn Ma Thuật nổi tiếng là thơm và ngon và Đắc Lắc là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất cả nước (55 ngàn ha)
Chè được trồng chủ yếu trên các cao nguyên cao hơn Lâm Đồng và một phần ở Gia Lai, KonTum. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai (sau Đông Nam Bộ). Cao su được trồng chủ yếu ở phía Nam Tây Nguyên, tại những vùng tránh được gió mạnh.
Việc phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên đã thu hút về đây hàng vạn lao động từ các vùng khác nhau của đất nước và cùng tạo ra tập quán sản xuất mới cho đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên.
Bên cạnh các nông trường quốc doanh, việc phát triển rộng rãi các mô hình kinh tế vườn trồng cà phê, hồ tiêu... đã góp phần sử dụng tốt hơn sức lao động, nâng cao hiệu quả của việc đầu tư, hiệu quả sản xuất, góp phần tăng tốc độ, mở rộng diện tích và nâng cao sản lượng các cây công nghiệp xuất khẩu nêu trên. Việc đảm bảo tốt hơn về lương thực, thực phẩm cho nhân dân trong vùng để tạo điều kiện ổn định diện tích cây công nghiệp lâu năm, nhất là diện tích cây mới trồng.
Sự phát triển các cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên trong những năm tới đòi hỏi phải nâng cấp mạng lưới đường giao thông, đặc biệt là đường 14 xuyên Tây Nguyên, các tuyến đường ngang nối các tỉnh Tây Nguyên với đồng bằng duyên hải (đường 19,21) vì hầu hết các vùng kinh tế mới, các nông trường, các vùng chuyên canh nằm dọc theo các tuyến đường này. Việc đẩy mạnh khâu chế biến sản phẩm cây công nghiệp, cùng với việc thu hút đầu tư, hợp tác của nước ngoài vào Tây Nguyên là yêu cầu cấp bách
.
* Vấn đề phát triển lâm nghiệp ở Tây Nguyên
Lâm nghiệp là một thế mạnh nổi bật của Tây Nguyên. Trong khi rừng ở nhiều vùng của nước ta đang ở tình trạng cạn kiệt thì ở Tây Nguyên còn nhiều rừng gỗ quý (như cẩm lai, gụ, mật, nghiến, trắc, sến) nhiều chim thú quý (voi, bò tót, gấu...) rừng Tây Nguyên chiếm tới 36% diện tích đất rừng và 52% sản lượng gỗ có thể khai thác trong cả nước. Hiện nay hàng năm ở đây khai thác khoảng 700 ngàn m3 gỗ các loại (chiếm 20% sản lượng khai thác gỗ cả nước), 3 triệu m3 củi ở Tây Nguyên có các liên hiệp lâm - công nghiệp lớn nhất cả nước, ở Con hà Nực tỉnh (KonTum), Easup, Gia Nghĩa (Đắc Lắc) rừng tây Nguyên cònkhá giàu, vì thế càng cần phải khai thác có kế hoạch, hợp lý, đi đôi với tu bổ và trồng rừng mới. Cần phải ngăn chặn việc tàn phá rừng vì hậu quả trước hết của việc phá rừng là sự mất cân bằng nước về mùa khô ở Tây Nguyên, làm tiếp tục hạ thấp mực nước ngầm và xói mòn đất ở Tây Nguyên rất nguy hiểm cho cây trồng và sinh hoạt của nhân dân trong vùng.
* Định hướng phát triển của vùng
- Hình thành cơ cấu hợp lý, đẩy mạnh chuyên canh các cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu, chè, cao su, thử nghiệm để phát triển một số cây công nghiệp khác như bông, mía, dâu tằm. Mở rộng quy mô đàn bò, khuyến khích chăn nuôi. Thực hiện triệt để định canh, định cư cho các dân tộc ít người.
- Quy hoạch khai thác, tu bổ rừng hợp lý. Phát triển các cơ sở khai thác chế biến lâm sản tại cửa rừng nhằm tận dụng triệt để các loại gỗ.- Nghiên cứu dự án khai thác bôxit và xây dựng cơ sở luyện nhôm.
- Xây dựng cơ sở chế biến nông lâm sản với kỹ thuật chế biến hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị cao.
- Tập trung xây dựng các cơ sở hạ tầng, phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt các địa phương.
- Phát triển trường học nội trú, xây dựng các cơ sở y tế
- Củng cố và mở rộng vùng chuyên canh cây cà phê, chè.
7- VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta, với diện tích tự nhiên 39.568 km2, chiếm 12% diện tích toàn quốc. tại đây có16.062.000 người đang sinh sống, chiếm 22,08% dân số cả nước (1995). Bao gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp
* Vấn đề sử dụng và cải tạo tự nhiên
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng phù sa ở rìa)
Thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng với những tiềm năng và không ít trở ngại
Ở đây trên nền nhiệt đới ẩm, tính chất cận xích đạo của khí hậu, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô vuông làm cho việc giao thông bằng đường thuỷ trở nên dễ dàng.
Tuy nhiên trở ngại lớn nhất là mùa khô kéo dài, là sự xâm nhập sâu vào đất liền của nước mặn, sự tăng cường độ chua và chua mặn trong đất cũng như tai biến do thời tiết khí hậu đôi khi cũng có thể xảy ra.
Mặc dù thổ nhưỡng ở châu thổ là đất phù sa nhưng tính chất của nó rất phức tạp. Có 3 loại đất chủ yếu: Đất phù sa ngọt ven sông là loại đất tốt nhất chảy thành một dải dọc sông Tiền và sông Hậu. Đất phèn chiếm diện tích lớn nhất, phân bố thành các vùng đất tập trung (Đồng Tháp Mười, Hà Tiên, Cần Thơ). Đất mặn phân bố ở cực Nam Cà Mau và dải đất duyên hải Gò Công, Kiến Hoà. Những trở ngại chính khi canh tác là: đất thiếu dinh dưỡng nhất là thiếu các nguyên tố vi lượng, đất quá chặt, khó thoát nước. Sinh vật cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của vùng đồng bằng, thảm thực vật gồm hai thành phẩn chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm. Về động vật có ít, giá trị hơn là cá chim. Tài nguyên biển ở đây hết sức phong phú với hàng trăm bãi cá cùng với nhiều loại hải sản quý, các loại khoáng sản ở đồng bằng không có nhiều, chủ yếu là than bùn, vật liệu xây dựng, việc thăm dò và khai thác dầu khí mặc dù nằmngoài khơi nhưng chắc chắn sẽ có tác động tới nền kinh tế của vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiêu ưu thế hơn về điều kiện tự nhiên so với đồng bằng sông Hồng. Tuy vậy việc sử dụng và cải tạo tự nhiên ở đây lại trở thành một vấn đề cấp bách nhằm biến đồng bằng thành một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Nước là vấn đề hàng đầu ở đồng bằng sông Cửu Long, một hạn chế đáng kể cho việc sử dụng hợp lý đất đai trong vùng là việc đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn vì vậy cần có nước để rửa phèn, rửa mặn trong mùa khô. Để đối phó với sự khô hạn là bốc phèn và bốc mặn, nguồn nước ngọt trong các dòng sông và nước dưới đất có ý nghĩa đặc biệt vào mùa khô, có rất nhiều nước ngọt nhân dân địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để rửa phèn, rửa mặn và đạt được kết quả nhất định, cách tốt hơn cả có thể là chia những thửa ruộng ở đồng bằng thành các ô nhỏ để có đủ nước thau chua rửa mặn. Đồng thời kết hợp với việc tạo ra các giống lúa chịu được phèn hoặc mặn trong điều kiện nước tưới bình thường.
Đối với khu vực rừng ngập mặn phía Tây Nam đồng bằng có thể từng bước tiến hành những bãi nuôi tôm, trồng sú vẹt, đước, kết hợp với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Cải tạo dần diện tích đất mặn, đất phèn thành những phù sa mới để trồng cói, lúa, cây ăn quả.
Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên vùng này không tách khỏi hoạt động kinh tế của con người, vết tích của chiến tranh vẫn còn tồn tại. Tình trạng độc canh lúa còn tương đối phổ biến điều đó đòi hỏi việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh, đẩy mạnh việc trồng cây công nghiệp có giá trị cao, kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, phát triển công nghiệp chế biến đối với vùng biển, hướng chính trong tổ chức lãnh thổ kinh tế là kết hợp mặt biển với đảo, quần đảo và đất liên hoàn.
* Vấn đề lương thực thực phẩm
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất của cả nước. Việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở đây có ý nghĩa không chỉ trong vùng mà cả trong toàn quốc.
Diện tích đồng bằng chiếm khoảng 4 triệu ha, trong đó đất sử dụng vào mục đích ngnb 2,53 triệu ha, vào lâm nghiệp 26 vạn ha, vào các mục đích khác 28 vạn ha và số đất còn chưa khai thác 93 vạn ha.
Được phù sa sông Cửu Long bồi đắp, lại không bị con người can thiệp quá sớm (như đắp đê) đất đai nhìn chung khá màu mỡ đất trồng lúa nhiều gấp 3 lần mức bình quân đầu người so với đồng bằng sông Hồng.
Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng nửa triệu ha mặt nước nuôi thuỷ sản, trong đó có hơn 10 triệu ha nuôi nước lợ, nuôi tôm xuất khẩu. Riêng nguồn lợi cá biển ở đây tập trung tới 54% trữ lượng của cả nước.
Với tiềm năng sẵn có, đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra một khối lượng lương thực, thực phẩm lớn nhất cả nước.
Vấn đề lương thực, thực phẩm của đồng bằng sông Cửu Long liên quan tới nhu cầu của nhiều vùng khác và của xuất khẩu, đây là địa bàn chiến lược để giải quyết vấn đề ăn cho cả nước và cho xuất khẩu. Vì vậy, những định hướng lớn về sản xuất lương thực, thực phẩm của đồng bằng này tập trung vào việc từng bước biến nơi đây thành vùng lương thực, thực phẩm hàng hoá lớn hơn nữa trên cơ sở thâm canh, tăng vụ, khai thác những diện tích còn hoang hoá, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ hải sản.
Trên thực tế, đồng bằng sông Cửu Long nơi còn nhiều tiềm năng chưa được lôi cuốn vào hoạt động sản xuất. Hiện tại, hệ số sử dụng ruộng đất ở đây còn thấp, phần lớn diện tích canh tác là ruộng một vụ (1,5 triệu ha). Ruộng hai vụ (64,2 vạn ha) và nhất là ruộng ba vụ (2,3 vạn ha) còn ít. Nếu giải quyết tốt vấn đề thuỷ lợi diện tích lúa 2-3 vụ sẽ tăng lên.
Diện tích các bãi bồi ven sông, ven biển và diện tích mặt nước chưa được sử dụng lớn. Có thể từng bước cải tạo những diện tích này thành đất canh tác hoặc vùng nuôi thuỷ sản.