Chia Sẻ Triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam- Nhà Ngô

Trang Dimple

New member
Xu
38
Nhà Ngô (chữ Hán:吳朝 (Ngô Triều)) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài từ năm 939 đến năm 965. Khoảng thời gian xen giữa từ 944 đến 950 còn có Dương Bình Vương tức Dương Tam Kha.

NGO.jpg

Tiền Ngô Vương (938-944)
- Họ, tên: Ngô Quyền.
- Sinh năm Mậu Thân (898) tại Phong Châu (nay thuộc Hà Tây). Cha là Ngô Mân, nguyên hào trưởng của vùng này.
- Lí lịch chính trị trước khi xưng vương: Năm 931, hưởng ứng lời hiệu triệu của Dương Đình Nghệ, ông vào Thanh Hoá, được Dương Đình Nghệ giữ làm nha tướng và gả con gái cho. Khi Dương Đình Nghệ cầm quyền, ông được phong làm thứ sử Ái Châu. Năm 937, khi Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đình Nghệ, ông đem quân ra giết chết Kiều Công Tiễn và sau đó đánh tan quân Nam Hán xâm lăng ở trận Bạch Đằng lịch sử (năm 938). Sau chiến thắng, ông lên ngôi.
- Năm Kỉ Hợi (939), Ngô Quyền xưng vương, (sử gọi là Tiền Ngô Vương) đóng đô ở Cổ Loa. Con gái của Dương Đình Nghệ là Dương Thị Như Ngọc được phong làm hoàng hậu.
- Thời gian ở ngôi: 6 năm (938 - 944).
- Ngô Quyền mất năm Giáp Thìn (944) thọ 46 tuổi.
Dương Bình Vương (945-950)
- Ho, tên: Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ và là anh vợ của Ngỏ Quyền). Sinh và mất năm nào không rõ.
- Lên ngôi năm 945. Bấy giờ, Dương Tam Kha nhận di chiếu lo giúp rập con của Ngô Quyền, nhưng đã cướp ngôi và xưng là Dương Bình Vương. Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập hoảng sợ chạy trốn về Nam Sách (nay thuộc Hải Dương). Dương Tam Kha nhận con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi. còn các con khác của Ngô Quyền như: Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng thì còn bé nên giao cho bà Dương Thị Như Ngọc nuôi.
- Năm Canh Tuất (950): Dương Tam Kha bị Ngô Xương Văn lật đổ và bị giáng làm Chương Dương Công, cho được hưởng thực ấp ở Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, Hà Tây).
- Dương Bình Vương ở ngôi 5 năm, sau mất năm nào. thọ bao nhiêu tuổi không rõ.
Hậu Ngô Vương (951-965)
- Họ, tên: Ngô Xương Văn (con thứ của Tiền Ngô Vương; mẹ là Dương thái hậu, tức bà Dương Thị Như Ngọc), sinh năm nào không rõ.
- Lên ngôi năm Tân Hợi (951), xưng là Nam Tấn Vương.
- Cũng trong năm 951, Nam Tấn Vương cho người đi đón anh ruột là Ngô Xương Ngập (trước đó đi lánh nạn Dương Tam Kha) về cùng trông coi việc nước. Ngô Xương Ngập về, xưng là Thiên Sách Vương. Vì lẽ đó, thời Hậu Ngô Vương đồng thời có hai vua.
- Năm Ất Sửu (965), Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị tử trận khi đem quân đi đánh ở Thái Bình. Trước đó (năm Giáp Dần, 954), Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập cũng đã mất vì bệnh. Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương thọ bao nhiêu tuổi không rõ.
- Từ khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất, đất nước lâm vào một thời kì hỗn chiến loạn lạc, sử gọi là loạn mười hai sứ quân. Con của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập lên nối ngôi, rốt cuộc cũng chỉ thực sự là một trong số 12 sứ quân mà thôi.
Chính quyền họ Ngô tồn tại trước sau 27 năm, gồm 4 đời vua, trong đó có một vua khác họ (Dương Bình Vương) và hai vua cùng đồng thời ở ngôi là Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương.
Thời Ngô Vương, vì muốn có một khu vực địa lí khép kín, thuận lợi cho công cuộc phòng thủ, Ngô Quyền đã cắt Thang Châu, Chi Châu, Vũ An Châu và Vũ Nga Châu trả về cho Trung Quốc, bởi thế, lãnh thổ của nước ta có phần hẹp hơn đất đai của An

I. Chống ngoại xâm

Vua Ngô Quyền (898-944) người Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội), là người sáng lập ra nhà Ngô.

Năm 930, vua Nam Hán đánh chiếm Tĩnh Hải quân bắt Khúc Thừa Mỹ. 931, tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ mưu đồ khôi phục, đem quân đánh chiếm quyền Lý Khắc Chính là tiết độ sứ Giao Châu. Quân Hán do Trần Bảo sang cứu bị đánh bại, Bảo thua chết.

Năm 937, Nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để thay chức.

Năm 938, con rể của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền tập hợp lực lượng ra đánh Kiều Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang nước Nam Hán xin quân cứu viện. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm cho con là Vạn vương Hoằng Tháo đem quân sang cứu, tự mình đóng quân làm thanh viện. Ngô Quyền hạ thành Đại La, giết Công Tiễn rồi bày trận trên sông Bạch Đằng đón quân Nam Hán.

Tháng 11 năm 938, quân Hoằng Tháo bị Ngô Quyền đánh tan trong trận Bạch Đằng. Hoằng Tháo bị giết chết.

Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, tức là Tiền Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa.



II. Tranh chấp trong cung đình

Năm 944, Tiền Ngô Vương mất, sai Dương Tam Kha giúp lập thái tử. Dương Tam Kha là anh (có sách nói là em) Dương Thái hậu cướp ngôi, tự xưng Dương Bình Vương.

Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền, làm con nuôi. Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không thực hiện được mệnh lệnh vì hào trưởng Nam Sách là Phạm Lệnh Công che chở cho Xương Ngập.

Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô Xương Văn thuyết phục được 2 tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Xương Văn không giết Dương Tam Kha, giáng làm Chương Dương công.

Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách trở về.

Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951-954). Lúc đó cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Lên ngôi vương, Ngô Xương Ngập lấn át quyền hành của Ngô Xương Văn khiến Xương Văn bất bình rút lui việc chính sự[1].

Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh chết, chỉ còn một vua Nam Tấn vương Ngô Xương Văn làm vua.



III. Loạn lạc

Lúc nhà Ngô suy yếu, một số thủ lĩnh địa phương nổi dậy cát cứ không thần phục triều đình.

Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư - con thứ sử châu Hoan đã mất là Đinh Công Trứ - dựa vào vùng núi khe hiểm yếu, không chịu tuân lệnh triều đình. Hai vua Ngô muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Đinh Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Hai vua Ngô vương trách Bộ Lĩnh không tự mình đến chầu, rồi bắt giữ Đinh Liễn đem theo quân đi đánh Hoa Lư.

Quân Ngô tấn công hơn một tháng, không đánh nổi. Hai vua Ngô bèn treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Nhưng Bộ Lĩnh không vẫn thần phục, lại sai hơn mười tay nỏ nhắm con mình mà bắn[2]. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn kinh sợ nói rằng:

"Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì".
Vì vậy hai anh em vua Ngô không giết Đinh Liễn mà đem quân về.

Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được Chu Thái. Từ trận thắng ấy, Nam Tấn vương sinh kiêu[1]. Năm 965, ông đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình, bị phục binh bắn nỏ chết.

Ngô Xương Văn chết, con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhưng thế lực ngày càng yếu kém. Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, trong triều đình Cổ Loa, các đại thần họ Kiều, họ Dương làm loạn (có sách lại nói các đại thần làm loạn là Lã Xử Bình và Kiều Tri Hựu)[1]. Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều (có sách nói Bình Kiều ở Hưng Yên, lại có thuyết cho rằng ở Thanh Hoá[3]).

Từ 966 hình thành 12 sứ quân cát cứ, sử sách gọi là loạn 12 sứ quân, trong đó có người trong hoàng tộc nhà Ngô (Ngô Xương Văn, Ngô Nhật Khánh), các tướng nhà Ngô (Phạm Bạch Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn) và số lớn là các thủ lĩnh địa phương tự nổi dậy (Kiều Thuận, Trần Lãm, Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Lý Khuê, Lã Đường). Thời kỳ này kéo dài đến năm 968 thì bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong và lập ra nhà Đinh.



IV. Hành chính

Thời Tự chủ, lãnh thổ Tĩnh Hải quân do họ Khúc, họ Dương cai quản chính là vùng đất từ thời thuộc Đường, gồm có 12 châu[4].

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Thang
  • Trường
  • Chi
  • Võ Nga
  • Võ An
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn
Tuy nhiên sang thời Ngô, lãnh thổ chỉ còn 8 châu là[5]:

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Trường
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn
Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo ý kiến của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời: 4 châu này bị Nam Hán chiếm[6], nhưng không rõ vào thời điểm nào: Khi Kiều Công Tiễn cầu viện đã để quân Hán tiến vào (937) và Ngô Quyền chưa kịp tập hợp lực lượng tiến ra Đại La (938) hay sau thời điểm trận Đại La, trước trận Bạch Đằng... (cuối năm 938). Theo Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, Ngô Quyền bàn giao 4 châu này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ"[5], thì việc này có thể xảy ra sau trận Bạch Đằng hoặc Nam Hán đã chiếm được trước đó mà Ngô Quyền chỉ làm việc công nhận vùng bị mất này thuộc về Nam Hán.



V. Ngoại giao

Ngô Quyền tự xưng là Ngô vương, sử sách không xác nhận việc ông quan hệ ngoại giao với các vương triều nào trong số các nước ở phương bắc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc.

Năm 942, Lưu Nghiễm chết. Sau cuộc biến loạn năm 943, Lưu Thịnh lên nối ngôi, tức là Nam Hán Trung Tông.

Năm 954, Xương Ngập chết. Cùng năm, Ngô Xương Văn sai sứ sang giao hảo với Nam Hán và xin tiết việt. Vua Nam Hán là Lưu Thịnh nhận giao hảo của Xương Văn. Sau đó Lưu Thịnh cho Lý Dư làm sứ cầm cờ “tinh” sang chiêu dụ nhận Tĩnh Hải quân là phiên thần, lại phong chức Tiết độ sứ, kiêm Đô hộ cho Ngô Xương Văn[1].

Được tin Lý Dư sắp vào, Ngô Xương Văn cho ngay người đi sang biên giới ngăn lại. Hai bên gặp nhau ở Bạch châu. Sứ của Xương Văn nói với Lý Dư rằng:

Giặc biển đương làm loạn, đường xá đi lại rất khó.
Lý Dư bèn quay về nước.

Đó là lần ngoại giao duy nhất giữa nhà Ngô và Nam Hán trong 21 năm tồn tại.



Chú thích

  1. ^ a b c d Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên quyển 5
  2. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển 5
  3. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 112-113
  4. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 93, 103. Nếu kể cả các châu Kimi là 13
  5. ^ a b Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr 41
  6. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 111
(Theo Wikipedia)
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top