Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Nhà Đinh (chữ Hán: 丁朝 (Đinh Triều)) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn.
I. Lịch sử
1. Thống nhất giang sơn
Năm 944, Ngô Quyền mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.
Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.
Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết [1], Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
2. Đinh Tiên Hoàng
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.
3. Đinh Phế Đế
Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế.
Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế năm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).
Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.
II. Nội trị
1. Bộ máy chính quyền
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân[2]. Vua Đinh phong cho các quan văn võ:
2. Quân đội
Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần[5]; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[6].
3. Pháp luật
Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm[3].
Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên"[6].
III. Đối ngoại
Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.
Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ[3].
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống[3].
Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
IV. Nhận định
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế vào thế kỷ 6, 400 năm sau người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập. Trong hoạt động ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng.
Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương Nam.
Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nề nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.
V. Di tích thời nhà Đinh
Ở Hải Dương[7] có rất nhiều di tích thời Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên Hoàng như: Đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh Tráng Trần ở Bình Giang; Đình Chanh Trong, xã Thúc Kháng thờ Khanh Công; Đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An Tể; Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh Miện có Đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; Đền Từ Ô, xã Tân Trào; Đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng. Ở Thanh Hòa có Chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí, Trịnh Thị Khang, Đặng Công Trân; Miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí. Ngoài ra có Đình Kim Đôi, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hoàng; Đình Đông Quan, xã Tân Hưng (Gia Lộc); Miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ tướng giúp vua Đinh; Đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (tp Hải Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; Đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm Công Hòa; Đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh Công.
Nam Định có những di tích tiêu biểu sau: Đình Xám: thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Công tức Trần Lãm. Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý Yên thờ vua Đinh Tiên Hoàng, Đền Gin: thông Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, một trong 12 sứ quân; Đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); Đền Hưng Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng thời Đinh.
Ninh Bình là vùng đất có kinh đô Hoa Lư, ở đây có khá nhiều di tích liên quan đến triều đại nhà Đinh như: Cố đô Hoa Lư với Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, Đền thờ Công chúa Phất Kim, sông Sào Khê, Động Thiên Tôn, Tràng An... Các di tích quê hương nhà Đinh với đền thờ Đinh Bộ Lĩnh, động Hoa Lư, các đền thờ Đinh Điền và Nguyễn Bặc...
Hưng Yên có Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yênthờ Đinh Điền.
Chú thích
I. Lịch sử
1. Thống nhất giang sơn
Năm 944, Ngô Quyền mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.
Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.
Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết [1], Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
2. Đinh Tiên Hoàng
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.
3. Đinh Phế Đế
Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế.
Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế năm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).
Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.
II. Nội trị
1. Bộ máy chính quyền
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân[2]. Vua Đinh phong cho các quan văn võ:
- Nguyễn Bặc làm Định quốc công
- Đinh Điền làm ngoại giáp
- Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)
- Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân,
- Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
- Trương Ma Ni làm Tăng lục
- Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.
2. Quân đội
Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần[5]; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người[6].
3. Pháp luật
Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm[3].
Trần Trọng Kim cho rằng "hình uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên"[6].
III. Đối ngoại
Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.
Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ[3].
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống[3].
Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
IV. Nhận định
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế vào thế kỷ 6, 400 năm sau người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập. Trong hoạt động ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng.
Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương Nam.
Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nề nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.
V. Di tích thời nhà Đinh
Ở Hải Dương[7] có rất nhiều di tích thời Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên Hoàng như: Đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh Tráng Trần ở Bình Giang; Đình Chanh Trong, xã Thúc Kháng thờ Khanh Công; Đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An Tể; Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh Miện có Đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; Đền Từ Ô, xã Tân Trào; Đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng. Ở Thanh Hòa có Chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí, Trịnh Thị Khang, Đặng Công Trân; Miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí. Ngoài ra có Đình Kim Đôi, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hoàng; Đình Đông Quan, xã Tân Hưng (Gia Lộc); Miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ tướng giúp vua Đinh; Đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (tp Hải Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; Đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm Công Hòa; Đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh Công.
Nam Định có những di tích tiêu biểu sau: Đình Xám: thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Công tức Trần Lãm. Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý Yên thờ vua Đinh Tiên Hoàng, Đền Gin: thông Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, một trong 12 sứ quân; Đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); Đền Hưng Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng thời Đinh.
Ninh Bình là vùng đất có kinh đô Hoa Lư, ở đây có khá nhiều di tích liên quan đến triều đại nhà Đinh như: Cố đô Hoa Lư với Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, Đền thờ Công chúa Phất Kim, sông Sào Khê, Động Thiên Tôn, Tràng An... Các di tích quê hương nhà Đinh với đền thờ Đinh Bộ Lĩnh, động Hoa Lư, các đền thờ Đinh Điền và Nguyễn Bặc...
Hưng Yên có Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yênthờ Đinh Điền.
Chú thích
- ^ Có tài liệu ghi là Trần Lãm già yếu trao lại quyền cho Bộ Lĩnh
- ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr 52
- ^ a b c d Đại Việt sử ký toàn thư, quyển V
- ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr 57
- ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr 55
- ^ a b Việt Nam sử lược, bản điện tử, tr 36
- ^ Hải Dương thời Đinh - Tiền Lê