Triết học (phương Tây) là gì?

Hide Nguyễn

Du mục số
What is Philosophy?

Đây là một câu hỏi hóc búa. Một trong những cách trả lời đơn giản nhất nói rằng triết học là cái mà các triết gia làm, rồi dẫn ra những tác phẩm của Plato, Aristotle, Descartes, Hume, Kant, Russell, Wittgenstein, Sartre và các tác giả nổi tiếng khác. Tuy nhiên, trả lời như vậy sẽ chẳng có mấy hữu ích đối với bạn nếu bạn đang bắt đầu quan tâm đến triết học, vì có nhiều khả năng là bạn chưa đọc những sách triết này.

Cho dù bạn có đọc rồi thì bạn cũng vẫn có thể gặp khó khăn trong việc lọc ra những điểm chung của những sách triết, hay xác định được những đặc tính mà tất cả các sách triết đều có. Một cách trả lời khác chỉ ra rằng triết học có gốc gác từ một từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là ’lòng đam mê sự thông thái’. Tuy nhiên, trả lời như thế cũng khá mập mờ và thậm chí chả hơn gì nói rằng triết học là cái mà các triết gia làm. Do vậy, cần phải có một số nhận xét đại cương về vấn đề triết học là gì.

Triết học là một hoạt động: nó là một cách suy nghĩ về một số vấn đề nhất định. Đặc điểm nổi bật nhất của triết học là việc nó sử dụng lập luận lô-gic. Công việc điển hình của các triết gia là làm việc với những lập luận: họ tự chế ra các lập luận, họ phê phán lập luận của những người khác, hay họ làm cả hai việc đó. Từ ’triết học’ thường được dùng theo nghĩa rộng hơn nghĩa này để nói đến cái nhìn tổng quát của một người về cuộc sống, hay nếu khác thì là để nói đến một số hình thức nào đó của chủ nghĩa huyền bí. Ở đây, xin không dùng từ này theo nghĩa rộng: mục đích ở đây là làm sáng tỏ một số lĩnh vực thảo luận then chốt trong truyền thống tư duy bắt đầu từ Hy Lạp Cổ đại và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 20, nổi bật là ở châu Âu, Bắc Mỹ, Úc, và New Zealand. Chắc chắn truyền thống này sẽ vẫn tiếp tục trong thế kỷ hiện tại.

Vậy các triết gia theo truyền thống này lập luận về những cái gì? Họ thường khảo sát những niềm tin mà phần lớn chúng ta coi là nghiễm nhiên. Họ quan tâm đến các vấn đề về những cái có thể tạm gọi là ’ý nghĩa của cuộc sống’: những vấn đề về tôn giáo, phải trái, chính trị, bản chất của thế giới bên ngoài/khách quan, tư tưởng, khoa học, nghệ thuật, và nhiều chủ đề khác. Chẳng hạn, đa số mọi người sống cả đời mà chả bao giờ suy ngẫm về những niềm tin căn bản, ví dụ như giết người là sai trái. Nhưng tại sao giết người lại sai mới được chứ? Có gì để biện hộ rằng giết người là sai không? Có phải giết người là sai trong mọi hoàn cảnh không? Và khi tôi nói ’sai’ điều đó có nghĩa là thế nào? Đây là những câu hỏi mang tính triết lý. Phần lớn niềm tin của chúng ta khi được khảo sát cho thấy chúng có những cơ sở vững chắc, một số khác thì không. Việc nghiên cứu triết học không chỉ giúp chúng ta suy nghĩ rõ ràng hơn về những định kiến của mình, mà còn giúp cho việc làm rõ chúng ta thực sự tin vào những cái gì. Thông qua quá trình đó, có thể phát triển một khả năng biện luận mạch lạc về nhiều vấn đề - một kỹ năng rất hữu ích.

Tại sao lại nghiên cứu triết học?

Đôi khi có người lập luận rằng việc nghiên cứu triết học chả có ý nghĩa gì vì tất cả những gì các triết gia xưa nay làm chỉ là ngồi quanh bàn rồi đôi co về ý nghĩa của từ ngữ/câu chữ. Dường như họ không bao giờ đi đến được kết luận gì quan trọng và đóng góp của họ cho xã hội là hầu như không có. Họ vẫn còn đang tranh cãi về những vấn đề vốn đã từng thu hút sự quan tâm của những người Hy Lạp Cổ đại kia mà. Triết học dường như chả thay đổi được gì; mọi thứ vẫn như chúng vốn có.

Vậy chả lẽ việc nghiên cứu triết học lại không có chút giá trị gì sao? Việc bắt đầu nghi ngờ những tiền đề căn bản của cuộc sống thậm chí có thể trở nên nguy hiểm: kết cục chúng ta có thể đi đến là cảm thấy không thể làm được gì, trở nên tê liệt vì nghi ngờ quá nhiều. Quả thực, bức tranh biếm họa về một triết gia là bức tranh một người ngồi trên chiếc ghế xalông êm ái ở một căn phòng ở Oxford hay Cambridge rất giỏi tư duy trừu tượng nhưng lại vô vọng trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn của cuộc sống: một người có thể giải thích những đoạn phức tạp nhất trong triết lý của Hegel nhưng lại không biết phải làm gì để luộc chín được một quả trứng.

Soi xét cuộc sống

Một lý do quan trọng để nghiên cứu triết học là nó giải quyết những vấn đề căn bản về ý nghĩa của sự tồn tại của chúng ta. Đa số chúng ta một lúc nào đó trong trong cuộc đời đều tự vấn về các vấn đề triết học. Tại sao chúng ta lại tồn tại trên đời này? Có bằng chứng nào cho thấy Thượng Đế thực tồn tại không? Cuộc sống của chúng ta có mục đích gì không? Cái gì quyết định một điều là đúng hay sai trái? Liệu có bao giờ biện hộ được sự vi phạm pháp luật? Phải chăng cuộc sống của chúng ta chỉ là một giấc mơ? Tinh thần có khác với thể xác không, hay chúng ta chỉ đơn giản là những thực thể hữu hình? Khoa học tiến lên bằng cách nào? Nghệ thuật là gì? Vân vân và vân vân.

Phần lớn những người nghiên cứu triết học đều tin là mỗi chúng ta cần xem xét những câu hỏi như vậy. Một số thậm chí còn cho rằng một cuộc sống không kiểm nghiệm là một cuộc sống không đáng sống. Tiếp tục sự tồn tại thường nhật mà không bao giờ xem xét những nguyên tắc nền tảng của nó có lẽ cũng giống như lái một chiếc xe hơi chưa bao giờ được bảo dưỡng. Bạn có thể có lý khi đặt niềm tin vào bộ phanh, tay lái, động cơ, vì từ trước đến nay tất cả đều luôn vận hành tốt; nhưng bạn cũng có thể hoàn toàn không có lý khi tin như vậy: má phanh có thể có vấn đề và làm bạn thất vọng đúng khi bạn cần chúng nhất. Tương tự, những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống cũng có thể hoàn toàn hợp lý, nhưng chừng nào bạn chưa xem xét chúng thì bạn không thể chắc chắn về điều đó được.

Tuy nhiên, kể cả khi bạn không thật sự nghi ngờ tính đúng đắn của những nền tảng của cuộc sống thì bạn cũng vẫn có thể làm cuộc sống của mình trở nên nghèo nàn nếu bạn không chịu sử dụng khả năng suy nghĩ của mình. Nhiều ngưồi thấy việc tự vấn những vấn đề triết học là một việc quá khó khăn hay gây ra quá nhiều khó chịu: có lẽ họ cảm thấy hài lòng và thoải mái với những định kiến của mình. Nhưng với những người khác thì việc tìm ra câu trả lời cho những vấn đề triết học hóc búa lại luôn là một khát khao mãnh liệt.

Học cách suy nghĩ

Một lý do nghiên cứu triết học nữa là nó cho phép chúng ta học cách suy nghĩ trong sáng hơn về nhiều vấn đề khác nhau. Những phương pháp tư duy triết học có thể có ích trong nhiều trường hợp vì qua việc phân tích những lập luận ủng hộ hay phản bác một quan điểm nào đó, chúng ta học được những kỹ năng có thể dễ dàng chuyển sang áp dụng ở những lĩnh vực khác của cuộc sống. Nhiều người nghiên cứu triết học vẫn tiếp tục áp dụng những kỹ năng triết lý của mình vào những công việc đa dạng như luật pháp, lập trình máy tính, tư vấn quản lý, dịch vụ dân sự, báo chí - tất cả những lĩnh vực mà việc có được sự mạch lạc rõ ràng trong tư duy sẽ là một lợi thế lớn. Các nhà triết học cũng sử dụng những hiểu biết mà họ có được từ bản chất của sự tồn tại của con người khi họ chuyển sang các bộ môn nghệ thuật: một số triết gia cũng đồng thời là những tiểu thuyết gia, những nhà phê bình, nhà thơ, nhà làm phim, nhà viết kịch rất thành công.

Niềm vui

Đối với nhiều người việc nghiên cứu triết học còn là một hoạt động đem lại rất nhiều niềm vui. Cần phải nói thêm về sự biện hộ này. Sự nguy hiểm của nó là nó có thể bị coi là quy hoạt động triết lý tương đương với hoạt động giải ô chữ. Đôi khi cách tiếp cận vấn đề của một số triết gia có vẻ rất giống thế: một số triết gia chuyên nghiệp trở nên bị ám ảnh với việc giải quyết các bài toán lô-gíc mập mờ, coi bản thân hoạt động đó là cái đích cuối cùng, rồi đăng những giải pháp của mình lên những tập san chuyên sâu. Ở một thái cực khác, một số triết gia làm việc ở các trường đại học lại coi mình là một bộ phận của một ’doanh nghiệp’, và xuất bản những công trình khá xoàng xĩnh đơn giản chỉ vì chúng cho phép họ tiếp tục sống và thăng tiến (số lượng những công trình công bố là một nhân tố quyết định ai là người được thăng chức). Họ có được niềm vui từ việc thấy tên mình được in lên các ẩn phẩm, từ việc tăng lương cộng với uy tín mà sự thăng chức kéo theo. Tuy nhiên, thật may mắn là phần lớn triết học đều vượt trên mức này.

Triết học có khó không?

Triết học thường được coi là một bộ môn khó nhằn. Có nhiều loại khó khăn gắn liền với bộ môn này, một số có thể tránh được.

Trước hết phải thừa nhận rằng rất nhiều vấn đề các triết gia chuyên nghiệp giải quyết đòi hỏi một trình độ rất cao về tư duy trừu tượng. Tuy nhiên, điều đó cũng đúng với hầu như mọi đam mê trí tuệ khác: xét theo khía cạnh này triết học không khác vật lý học, phê bình văn học, lập trình máy tính, địa lý, toán học, hay sử học. Đối với những bộ môn này và những bộ môn khác, không nên coi khó khăn trong việc có được đóng góp thật sự vào ngành đó như là cái cớ để chối bỏ những người bình thường có được những kiến thức về những thành tựu trong đó hay cản trở họ học được những phương pháp căn bản.

Tuy nhiên, còn có một loại khó khăn thứ hai liên quan đến triết học và đây là khó khăn có thể tránh được. Các triết gia không phải luôn là những người viết giỏi. Nhiều người trong số họ là những người kém cỏi về khả năng truyền đạt tư tưởng. Điều này cũng có khi vì họ chỉ luôn chú trọng đến một lượng nhỏ những độc giả có kiến thức chuyên sâu; cũng có khi vì họ sử dụng các biệt ngữ phức tạp một cách không cần thiết làm những người không quen chúng không hiểu. Các thuật ngữ chuyên ngành có thể rất có ích để tránh luôn phải giải thích những khái niệm nhất định mỗi khi chúng được dùng đến. Tuy nhiên, trong nội bộ những triết gia chuyên nghiệp có một xu hướng đáng tiếc rằng họ hay sử dụng thuật ngữ chuyên ngành mà chả vì mục đích gì khác, nhiều người lại còn đi dùng những cụm từ tiếng Latin mặc dù tiếng Anh cũng có những từ hoàn toàn tương đương. Một đoạn văn loang lổ những từ lạ hoắc và những từ quen thuộc nhưng được dùng theo những cách xa lạ có thể làm người đọc sợ hãi lắm chứ. Một số triết gia khác thì dường như chỉ nói và viết được bằng cái thứ ngôn ngữ mà họ tự chế ra. Có thể điều này đã góp phần làm cho triết học trở thành một bộ môn có vẻ khó hơn nhiều so với thực sự.

Nên đọc thế nào?

Ở trên tôi đã nhấn mạnh rằng triết học là một hoạt động. Do vậy không nên đọc cuốn sách này một cách thụ động. Có thể dễ dàng học thuộc những lập luận được trình bày ở đây, nhưng chỉ điều đó thôi thì chưa phải là học để biết cách triết lý cho dù làm như vậy cũng đem lại cho ta một số hiểu biết về những lý lẽ cơ bản mà các triết gia sử dụng. Lý tưởng là bạn đọc phải đọc cuốn sách này một cách có phê phán, phải luôn nghi ngờ những lập luận được đưa ra và tìm cách đưa ra những lập luận có thể phản bác chúng. Mục đích của cuốn sách này là kích thích tư duy, chứ không phải là một cái gì đó có thể thay cho tư duy được. Nếu bạn đọc nó với cái đầu phê phán thì nhất định bạn sẽ tìm thấy nhiều điều bạn không thể nhất trí và qua quá trình đó bạn mài dũa những niềm tin của mình.

(ND: Chantrauthoisao)
 
Minh triết phương Đông và triết học phương Tây

Đạo là con đường. Con đường của triết học bao giờ cũng dẫn tới đâu đó... tới chân lý, tới cõi chí thiện, tới cõi toàn mỹ tới miền đất hứa , tới thiên đường... tới Thượng đế, Đạo của minh triết không dẫn tới đâu cả... đạo là con đường ở đó... sự sống có thể sống được (viable), mọi sự rồi thì qua được... chỗ đi tới của đạo là ở sự đổi mới của bản thân nó.

Viết công trình này tác giả qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng Trung Hoa cổ đại (là cơ sở để nghiên cứu minh triết phương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây).

Francois Jullien (F.J) có quan niệm riêng trong sự định nghĩa và phân hoá hai khái niệm: minh triết (sagesse) và triết học (philosophie).

Trong các ngôn ngữ phương Tây những từ để gọi triết học (Pháp: philosophie, Anh: philosophy, Tây Ban Nha: filosofia, Nga: filosofija...) đều có gốc ở từ La Tinh philosophia. Phân tích từ nguyên từ này: Philo là yêu mến, sophia là minh triết, như vậy philosophia (triết học) là yêu mến, quý chuộng minh triết.

Ở buổi bình minh của triết học (phương Tây - những thế kỷ IV, V, VI trước công nguyên) minh triết (sagesse) được tôn vinh và triết học (philosophie) có thái độ hết sức khiêm nhường đối với minh triết. Platon (427? - 347 TCN) - vẫn được xem là triết gia cùng với Socrate (470? - 399 TCN) và Aristote (384 - 322 TCN) đã đặt ra cơ sở luận lý (logos) cho triết học đã từng thú nhận: minh triết là của thần, là bất cập đối với con người, con người nhiều lắm chỉ có thể yêu mến, quý chuộng minh triết, tức là làm triết học. Như vậy, trong quan niệm của Platon, minh triết là trên - triết học và triết gia là người không bao giờ với tới minh triết, nhiều lắm chỉ có thể bày tỏ lòng yêu mến đối với minh triết. Tương quan giữa minh triết (sophia) và triết học (philosophia) trong buổi bình minh của triết học (phương Tây) là như vậy.

Triết học (phương Tây) phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến thế kỷ XVIII, triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những thành tựu rục rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết học. Có sự thay đổi trong tương quan giữa minh triết và triết học. Nietzsche (1844 - 1900) tố cáo sự vờ vĩnh khiêm nhường của triết học để che đậy những tham vọng của mình. Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức khoa học, triết học, cũng không có sự linh diệu thần khải của tín điều tôn giáo. So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn, những lời bàn của minh triết xem ra tẻ nhạt, ỉu sìu, ngán ngẩm, cùn mòn, không có góc cạnh. "Minh triết - Wittgenstein, một triết gia Anh hiện đại viết - là cái gì đó nguội lạnh và do đó lẩn thẩn... Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đạy cuộc sống, làm cho ta không thấy được nó. (Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên than hồng)". Minh triết có khi bị xem như tư duy của những ham muốn già nua (nó có còn là tư duy nữa không?). Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học: triết học có lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết. Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triết trở thành cái gì đó dưới - triết học.

Francois Jullien không quan tâm đến trật tự trên dưới giữa minh triết và triết học, ông xem đây là hai phương thức trí năng (mode d'intelligibiltté) khác nhau, có thể bổ sung cho nhau. So sánh tư duy của minh triết phương Đông và tư duy của triết học phương Tây, tác giả không làm công việc suy tư quẩn quanh về những chỗ giống nhau và khác nhau, không dừng lại ở sự đối lập dễ dãi nữa tư duy duy lý phương Tây và tư duy huyền bí phương Đông hoặc năng lực phân tích của tư duy phương Tây và năng lực tổng hợp của tư duy phương Đông. Có một chiều sâu khác thường trong phương pháp luận so sánh văn hoá Đông Tây của tác giả có thể trình bày như sau: “Hiểu lý trí Âu Châu từ lý trí Trung Hoa và ngược lại”, "suy tư Trung Hoa bằng Âu Châu và ngược lại". Từ tư duy đối sánh chiều sâu được bộc lộ khá bất ngờ những nhược điểm cơ bản của minh triết phương Đông phải chăng tác giả muốn làm sáng tỏ ngọn nguồn trì trệ của phương thức sản xuất tinh thần?). Mặt khác, cũng nêu lên được những gì minh triết phương Đông ngộ được mà bất cập đối với triết học phương Tây. Tác giả đã nhập được vào phương thức trí năng của minh triết để ngộ và tìm cách trình bày những gì ngộ được bằng ngôn ngữ trí năng của triết học phương Tây. Mục đích của tác giả làtrình dẫn dư duy Trung Hoa... sao cho gây được những hiệu quả vang dội trong tư duy Châu Âu "mà vẫn có mạch lạc" (coherent). Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc - không lẩn thẩn chút nào - mà triết học bỏ tuột mất.

Nhan đề của tác phẩm Un sage est sans ideé có thể dịch sang tiếng Việt: Minh triết là "vô ý". Vô ý là từ của Khổng Tử được trích từ một câu nói của Khổng Tử: Đức Khổng Tử chẳng hề có bốn điều lỗi này: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã) [Luận ngữ, IX]. F.J đã hiểu như thế nào là vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã?

Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến mà có nghĩa là: không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hoá khiến cho ta không nhìn thấy những điều hợp lý, khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập.

Vô tất có nghĩa là không định trước những điều thế tất, ắt phải như thế này, ắt phải như thế kia, không áp đặt những mệnh lệnh tất phải thế này, tất phải thế kia.

Vô cố có nghĩa là không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào.

Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt. Khổng Tử không phủ định cái "tôi", chỉ phủ định cái "tôi" đặc biệt.

Có liên quan mật thiết giữa 4 cái vô.

Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui, tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Để duy trì của vị độc tôn, để đối phó với những tư tưởng khác, nó buộc phải định trước những sự tất yếu (không tránh khỏi phiến diện) và đưa ra những mệnh lệnh chủ quan (vi phạm quan điểm vô tất). Tư tưởng độc tôn dẫn đến sự cố chấp trong quan điểm, lập trường (vi phạm quan điểm vô cố). Tư tưởng độc tôn, cố chấp quan điểm, lập trường cùng với những thành kiến, định kiến cố hữu tạo ra một cái tôi (ngã) đặc biệt (moi particulier). Cái tôi đặc biệt là cái tôi khép kín trong sự phiến diện, bị định hình một cách cứng nhắc, không mở ra được đặng khai thông với những mặt khác của thực tại, của cuộc sống, của nhận thức... bao giờ cũng vô cùng sinh động và phong phú.

Vô ý, với ý nghĩa là không tuyết đối hoá một tư tưởng nào, quan tâm đúng mực mọi tư tưởng (cũng như mọi phương diện, mọi khả năng của thực tại) là một tư trong cơ bản trong minh triết của Khổng Tử Quan tâm đúng mực mọi tư tưởng giống như mở ra mọi cánh cửa, thấy được mọi ngả dường. Còn như tuyệt đối hóa một tư tưởng thì giống như có một cánh cửa được mở toang ra nhưng những cánh cửa khác thì bị khép lại, có thể nhìn xa hơn, thấy rộng hơn theo một ngả đường nhưng trả giá cho lợi thế nào có khi là sự mù trước những ngả đường khác. Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến, không có tư tưởng, quan điểm vô ý ngăn ngừa sự độc quyền hoá của một tư tưởng. Câu nói của Khổng Tử: "Quân tử chu nhi bất hỉ, tiểu nhân tỷ nhi bất chu” (Luận ngữ, II, 14) được tác giả hiểu như sau: “Người quân tử bao quát tổng thể, không thiên vị một phía nào, kẻ tiểu nhân thì ngược lại", (bản dịch của Đ.T.C: “Bực quân tử xử được với tất cả mọt người vì chăng có lòng tư vị, ke tiểu nhôn vì tư vị cho nên chẳng xử được với mọi người"). Trong Kinh Dịch về quẻ Càn có câu: “Kiến quần long vô thủ, cát". Dịch: Thấy bầy rồng không có đầu, tốt (6 vạch ngang liền nét đều ngăn ngắt trong hình tượng quẻ Càn được hình dung như một bầy rồng không đầu). Vương Phu Chi (1619 - 1692) đã bình giảng câu này theo quan điểm vô ý của K.T. Bầy rồng không đầu, có nghĩa là không có con rồng nào có đầu nhô ra, thòi ra, nổi hơn những con khác. Những con rồng được coi trọng ngang nhau, có nghĩa là những ý kiến, những tư tưởng, những phương diện khác nhau của thực tại được coi trọng ngang nhau. Như vậy cách nhìn minh triết là cách nhìn bao quát, thấy được và quan tâm mọi mặt, mọi khả năng của thực tại, không vì thiên lệch một phía mà ngoảnh lưng với những phía khác. Nhưng vô ý không có nghĩa là không dấn thân, không đứng về phía nào (trong hành động). Người minh triết quyết định dấn thân, đứng về phía nào, chọn khả năng nào là do đòi hỏi của tình thế, chứ không xuất phát từ những giáo điều có sẵn định trước phải gạt bỏ khả năng này, phải chạy theo khả năng nọ, phải ủng hộ phía nào, phải chống lại phía kia... Để làm sáng tỏ tư tưởng này tác giả dẫn câu nói của Khổng Tử: “Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỷ” (Luận ngữ, IV, 10) mà Đ.T.C dịch là: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm" (tôi tô đậm H.N.H), bình giảng câu này, F. Jullien có nêu lên một nghĩa cổ của chữ nghĩa là: đòi hỏi của tình thế và ông đã giảng hợp nghĩa là hợp với đòi hỏi của tình thế (chúng ta có thêm một cứ liệu ngôn ngữ học để hiểu chữ nghĩa của Không giáo). Như vậy, người minh triết không phải là không có chủ kiến, duy có một điều đây không phải là chủ kiến có sẵn, được định trước cho mọi khả năng, mọi tình thế, mà đây là chủ kiến được đề ra từ những đòi hỏi của tình thế (cụ thể). Có thể hiểu rõ hơn quan điểm vô ý qua lời bàn sau đây của một nho gia: “Khi cần giàu thì giàu và khi cần nghèo thì nghèo, khi cần sống thì sống và khi cần chết thì chết". Như vậy, giàu hay nghèo, sống hay chết là những khả năng được coi trọng ngang nhau, chọn khả năng nào là tuỳ theo đòi hỏi của tình thế, người minh triết không cố chấp hoặc gạt bỏ trước (a priori) bất cứ khả năng nào. Trong Luận ngữ (XVIII, 8) Khổng Tử có phân biệt ba loại thánh nhân. Họ đều bỏ công danh phú quý, đi ở ẩn nhưng họ có những phong độ ứng xử rất khác nhau. Loại thứ nhất như Bá Di, Thúc Tề "chẳng khuất chí mình,chăng nhục thân mình” [bất giáng kỳ chí , bất nhục kỳ thân], không thể chê trách vào đâu cả, loại thứ hai như Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, kém hơn, “phải khuất chí mình, phải nhục thân mình", tuy vậy, lời nói của họ “hợp luân lý" [ngôn trúng luân], việc làm của họ "hợp lòng mong nghĩ của dân” [hành trúng lự], loại thứ ba như Ngu Trọng, Di Dật "ở ẩn nơi xa vắng và ăn nót rất tự do, phóng túng" [ẩn cư, phóng ngôn] nhưng “giữ mình đúng lẽ thanh khiết và biết bỏ phế đúng lẽ quyền biến" [thân trúng thanh, phế trúng quyền] (điều đáng chú ý là ngay ở loại thứ hai và loại thứ ba, trong phong độ có những chỗ có thể chê trách, Khổng Tử vẫn nhận ra ở họ sự chân chính và những phẩm giá đáng trọng, vẫn xem họ là thánh nhân). Sau khi nêu ba loại thánh nhân và không sắp mình vào một loại nào, Khổng Tử hạ một câu: "Còn ta thì khác ở chỗ chẳng có gì là được hoặc không được" - tức là chẳng có gì là thích hợp với ta hoặc không thích hợp với ta [Ngã tắc dị ư thị vô khả, vô bất khả] (tôi tô đậm H.N.H). Trong ba loại người nói trên loại thứ nhất và loại thứ hai là hai thái cực đối lập với nhau, loại thứ ba xem như nửa này, nửa kia. Khổng Tử không thuộc về loại thứ nhất, chẳng thuộc về loại thứ hai, càng không phải là loại thứ ba. Tử có thể là loại người này cũng như có thể là loại người kia, đó là tùy theo tình thế. Tử không phải là người cố chấp, cũng chẳng phải là người không cố chấp. Vì chưng Tử có thể cố chấp như những người cố chấp nhất, khước từ mọi sự nhân nhượng mà cũng có thể thoả hiệp hoàn toàn với người đời, miễn sao có cơ giúp ích cho đời. Người minh triết là người "không định ra được phẩm chất" (sans qualification) với ý nghĩa là không có phẩm chất như là thuộc tính "cố hữu”, "bản chất", "bất biến", mà có phẩm chất này hay phẩm chất kia là do đòi hỏi của tình thế. Về đức hạnh của Khổng Tử, Mạnh Tử nói: "Lúc nên (khả dĩ) làm quan thì làm quan. Lúc nên (khả dĩ) bỏ chức thì bỏ chức. Cần (khả dĩ) làm quan lâu thì làm quan lâu. Cần (khả dĩ) ra đi gấp thì ra đi gấp. Đó là cái hạnh của đức Khổng vậy " (Khả dĩ sĩ , tắc sĩ. Khả dĩ chỉ, tắc chỉ. Khả dĩ cửu, tắc cửu. Khả dĩ tốc, tắc tốc. Khổng Tử dã.) (Mạnh Tử, II, A, 2)”. Cái khả dĩ gắn với tình thế (cụ thể) và tình thế gắn với thời điểm (moment). Cái khả dĩ (possible) đồng thời là cái chính đáng (légitime) vì phù hợp với tình thế (cụ thể) và thời điểm, tức là phù hợp với thời và thế. Tiêu chuẩn của tính chính đáng cũng như của những phẩm chất đạo đức khác gắn một cách nội tại với tình thế và hoàn cảnh cụ thể. Cái chính đáng (vốn gắn với tình thế cụ thể) được đề lên thành quy tắc khái quát chung cho mọi tình thế không tránh khỏi trở thành vũ đoán. Đã đành người minh triết không chấp nhận những tư tưởng cá biệt quá (gắn với cái ngã đặc biệt) mà những tư tưởng khát quát quá cũng không tin vì loại tư tưởng này không tính đến đặc điểm của mỗi thời, sự khác biệt giữa những thời khác nhau. Minh triết có nhiều phương diện, biểu hiện ở nhiều đức tính. Có người là bậc thánh về phương diện này, có người là bậc thánh về phương diện nọ... Như nhận định của Mạnh Tử "ông Bá Di là bậc Thánh có đức thanh khiết (Bá Di thánh chi thanh giả giã), ông Y Dõan là bậc thánh có đức trọng nhiệm (Y Doãn thánh chi nhiệm giả giã), ông Huệ xứ Liễu là bậc thánh có đức ôn hoà (Liễu hạ Huệ thánh chi hoà giả giã), Đức Khổng Tử có đức thời trung (Khổng tử thánh chi thì giả giã) (tôi tô đậm. H.N.H)" (Mạnh Tử, V, B, l). Đức thời trung (chữ của Đoàn Trung Còn) là cái đức tuỳ theo thời và thế mà thanh khiết như Bá Di hoặc trọng nhiệm như Y Doãn hoặc ôn hoà như Liễu hạ Huệ... Như vậy Khổng Tử không phải là sự hiện thân của một nét "nhất thành bất biến" nào của minh triết mà tuỳ thời, tuỳ tình thế (cụ thể) Khổng Tử thực hành phương diện này hay phương diện nọ của minh triết. Nhấn mạnh sự tập đại thành nhiều đức tính ở Khổng tử có thể che lấp đức thời trung ở Tử. Kết luận rằng Khổng tử có đủ mọi đức tính không quan trọng bằng nhận định Khổng tử đứng thời, đúng lúc (thời trung) thực hiện đức tính này hay đức tính nọ. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh.

Bản thể là một khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Minh triết phương Đông không phải không biết đến bản thể nhưng mối quan tâm chủ yếu của minh triết là quá trình. Trung dung là tâm pháp để điều tiết các quá trình. Mỗi quá trình trong sự tự tại của nó có sự tự điều tiết Trung dung là sự gia công vào sự tự điều tiết này và phải dựa vào nó. Ý kiến của Mạnh tử phê phán thái độ chấp trung, thái độ chấp nhất hết sức quan trọng để hiểu tinh thần của trung dung.

Mạnh tử nói rằng: "Dương Tư giữ lấy chủ nghĩa vị ngã, tức là chủ nghĩa của kẻ chỉ chuyên lo cho mình mà thôi. Dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ ông cũng chẳng chịu làm.

Mặc tử thi hành chủ nghĩa kiêm ái, thương tất cả mọi người như mình. Dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh đầu cho chí gót chân, mà có lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh.

Tử Mạc bao thủ chủ nghĩa chấp trung, cốt giữ cho vừa vặn phần mình và phần người. Chủ nghĩa chấp trung gần vớt đạo lý. Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chăng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời, như vậy cũng như chấp nhất, tức là khư khư câu nệ một bè vậy thôi. Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề (Mạnh Tử, VII, A, 26).

Như vậy chấp trung là đứng ở giữa hai thái cực đối nghịch (vị ngã cực đoan và kiêm ái tột độ). Hiểu như vậy, chủ nghĩa chấp trung gần với quan niệm của Aristote về đạo đức: đức hạnh là trung độ đúng mực (juste milieu) ở giữa hai tính trái ngược, giữa sự bất cập và sự thái quá, chẳng hạn như can đảm là trung độ đúng mực (Juste milieu) giữa sự nhút nhát (bất cập) và sự táo tợn (thái quá) Mạnh Tử không chê trách chủ nghĩa chấp trung ("chấp trung gần với đạo lý"). Tuy nhiên nếu như chấp trung chỉ thiên về giữ trung đỏ cho đúng mực, loại trừ bất kỳ sự thái quá nào thì như vậy là trái với tinh thần của trung dung. Bởi vì trung dung không có nghĩa là nửa vời, lưng chừng, không nóng không lạnh... Trung dung có khi đòi hỏi sự nỗ lực, sự hy sinh cao nhất, chấp nhận những nỗi đau lớn và những niềm vui tràn trề… Thông thường trung dung là mức độ trong sự nghiêm khắc nhưng cũng có khi trung dung cho phép một sự nghiêm khắc tột độ, nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn. Không chê trách thái độ chấp trung, Mạnh Tử bài bác gay gắt thái độ chấp nhất: Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo giã (Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cổ giữ ý kiến thiên lệch làm hạt đạo lý). Chấp nhất là "chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời”, là “khư khư câu nệ một bề vậy thôi". Như vậy chấp nhất là khư khư bám lấy trung điểm, không dám chênh về phía này hoặc lệch về phía kia, có nghĩa là trong xử sự chỉ tính đến một khả năng, tự trói mình vào một khả năng. Và như vậy, nói như Mạnh Tử, là "cử động theo một bề (một khả năng)" mà "bỏ hỏng cả trâm bề (trăm khả năng)". Theo đúng tinh thần của Khổng, Mạnh, trung dung là đứng giữa (chứ không phải là khư khư bám lấy một trung điểm) và tự dành cho mình quyền tính đến và lựa chọn trong cả trăm khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hay phía thái cực kia. Lựa chọn khả năng nào là tuỳ theo thời và thế. Một lần nữa lại phải nói đến đức thời trung của Khổng Tử, nó là đức hạnh của mọi đức hạnh. Trung dung của Khổng Tử có ý nghĩa phổ quát hơn trung dung của Aristote. Trung dung của triết gia Hy Lạp cổ đại dừng lại ở sự chấp trung và giới hạn trong lĩnh vực đạo đức. Trung dung của nhà hiền triết Trung Hoa cổ đại cao hơn chấp trung và được vận dụng trong nhiều lĩnh vực. Trung dung là tâm pháp để điều tiết mọi quá trình. Bản thân mỗi quá trình có sự tự điều tiết. Do đó, trung dung không bao giờ cố định ở một điểm nào, nó là một sự biến thiên liên tục.

Quan điểm "vô ý" (được phân tích ở trên) cũng như quan điểm trung dung đều không chấp nhận thái độ chấp nhất. Tinh thần nhân chấp nhất là mặt mạnh đồng thời cũng là mặt yếu của minh triết Trung Hoa cổ đại.

Từ sự đối sánh chiều sâu triết học (phương Tây) và minh triết (phương Đông) F. Jullien đưa ra những nhận định sâu sắc, lý thú.

Triết học thiên về sự biết (connaitre), minh triết quan tâm đến sự ngộ (réaliser). Người ta biết những gì chưa biết, đối tượng của ngộ là những gì đã biết (thậm chí biết quá nhiều). Ai cũng biết mình trước sau sẽ chết, mấy ai ngộ được điều này. Ai cũng biết đời mình là như thế, mấy ai ngộ được thân làm tội đời, đời làm tội thân như thế nào... Biết dễ, ngộ rất khó... Cho nên triết gia thích nói, hay nói, lắm lời. Người minh triết ít nói, thường là chăng có gì để nói…

Triết học quan tâm đến chân lý, rành rọt đúng, sai. Minh triết quan tâm đến sự thoả đáng (congruence), đúng sai không quan trọng lắm, miễn là thoả đáng.

Triết học quan tâm đến sự phát hiện (révélation) chân lý, minh triết thiên về sự điều tiết [régulation] sao cho thoả đáng.

Triết học thiên về tính khái quát. Sự khái quát hoá góp phần vào sự tiếp cận bản chất.

Khái quát hoá thường được tiến hành từ một bình diện, như vậy bản chất cũng là được tiếp cận từ một bình diện. Mà một bình diện chưa phải là tổng thể. Một tỷ bình diện cũng chưa phải là tổng thể. Minh triết quan tâm đến tổng thể. Từ cách nhìn này, minh triết nhạy cảm hơn với những sự bất trắc, những sự khôn lường trong tồn tại. Từ cách tiếp cận này, minh triết nhạt] cảm hơn trong sự nhìn thấy cái này trong cái kia, thấy hoạ trong phúc, thấy phúc trong hoạ, thấy cái lợi trong cái hại, thấy cái hại trong cái lợi, thấy vinh trong nhục, thấy nhục trong vinh, thấy cái ác trong cái thiện, thấy cái thiện trong cái ác, thấy sống trong chết, thấy chết trong sống, thấy ngày trong đêm, thấy đêm trong ngày... thấy âm trong dương, thấy dương trong âm.

Đạo là con đường. Con đường của triết học bao giờ cũng dẫn tới đâu đó... tới chân lý, tới cõi chí thiện, tới cõi toàn mỹ tới miền đất hứa, tới thiên đường... tới Thượng đế, Đạo của minh triết không dẫn tới đâu cả... đạo là con đường ở đó... sự sống có thể sống được (viable), mọi sự rồi thì qua được... chỗ đi tới của đạo là ở sự đổi mới của bản thân nó.

ST
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top