Chia Sẻ Triết học nhân bản của L.Phoiơbắc

Trang Dimple

New member
Xu
38
Lútvích Phoiơbắc sinh năm 1804, mất năm 1872. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà duy vật tiêu biểu cho nền triết học cổ điển Đức nói riêng, chủ nghĩa duy vật nói chung này gắn liền với một giai đoạn, một cột mốc hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển xã hội, cũng như lịch sử phát triển của khoa học và triết học phương Tây. Đó là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản Tây Âu, đánh dấu giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa tư bản; thời kỳ của những phát minh vạch thời đại trong khoa học tự nhiên cận đại và cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện với “sự cáo chung” của triết học cổ điển Đức và sự ra đời của triết học mácxít.

Triết học L.Phoiơbắc, một mặt, phản ánh những đặc trưng của thời đại ông; mặt khác, đó cũng chính là cuộc đời ông, cuộc đời của một con người giàu lòng trắc ẩn, vị tha và luôn khát khao tình người, nhưng ngay từ khi mới bước vào sự nghiệp đã bị bạc đãi, phải sống khổ hạnh và cô đơn trong cái biển sục sôi của các cuộc cách mạng xã hội và cách mạng khoa học lúc bấy giờ. Chính những điều kiện lịch sử - xã hội và bản thân đó đã tạo nên mặt mạnh, mặt tích cực và cũng là nét đặc thù nhất của triết học L.Phoiơbắc - tính nhân bản sâu sắc, đồng thời cũng là nguyên nhân đưa đến những hạn chế, khiếm khuyết trong triết học của ông, như vứt bỏ phép biện chứng, tuyệt đối hoá tình yêu, duy tâm và siêu hình về con người và xã hội. Đúng như Ph.Ăngghen đã viết: "Đó là lỗi tại những điều kiện thảm hại ở nước Đức hồi đó, những điều kiện đã khiến cho những ghế giáo sư triết học đều do bọn chiết trung chủ nghĩa chuyên giết rệp chiếm đoạt hết, còn L.Phoiơbắc, người vượt tất cả những bọn đó một trời một vực, lại buộc phải nông dân hoá và rầu rĩ trong một làng nhỏ. Nếu như Phoiơbắc vẫn không tiếp thu được quan điểm lịch sử về tự nhiên... và trút bỏ được tất cả cái gì là phiến diện trong chủ nghĩa duy vật Pháp, thì đó không phải là lỗi tại ông"(1).

L.Phoiơbắc là một nhà duy vật nhân bản. Triết học nhân bản của ông được thể hiện sâu sắc trong học thuyết về tôn giáo và đạo đức học. Ông phê phán triết học duy tâm nói chung và triết học duy tâm của Hêgen nói riêng; ông vạch ra bản chất của tôn giáo và mối quan hệ họ hàng giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ngoài ra, L.Phoiơbắc còn là một nhà hoạt động văn hoá nổi tiếng của nước Đức. Ông đặc biệt coi trọng việc truyền bá học vấn đến dân chúng. Một yêu sách có tính chất cương lĩnh của ông là "Đừng làm cho con người trở thành ngoan đạo, mà phải giáo dục họ. Hãy phổ biến học vấn đến mọi giai cấp, mọi tầng lớp. Đó là nhiệm vụ của thời đại"(2). Ông coi học vấn không chỉ là phương tiện đấu tranh chống lại những mê tín tôn giáo, mà còn là chiếc chìa khoá mở mang sự hiểu biết, dẫn đến tự do và hạnh phúc cho con người. Trên cơ sở học vấn, L.Phoiơbắc tin tưởng rằng, có thể phát triển văn hoá hoà bình đến mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Về điều này, C.Mác đã nhận xét rằng, L.Phoiơbắc đã thay thế “cái tư biện say rượu” bằng “triết học tỉnh táo”.

L.Phoiơbắc còn là người đại diện cho dòng tư tưởng không tưởng, hoà bình, cải lương, có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Đức lúc bấy giờ. Ông chủ trương cải cách nước Đức bằng con đường hoà bình cải lương và nhân đạo. Tuy nhiên, trong thực tế, điều đó đã không mang lại hiệu quả. Bản thân L.Phoiơbắc không trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị và cũng không chấp nhận chủ nghĩa Mác, mặc dù về cuối đời, ông có chú ý đến sách báo xã hội chủ nghĩa. L.Phoiơbắc đã gia nhập Đảng xã hội dân chủ Đức và còn đọc cả Tư bản của C.Mác, nhưng trước sau ông vẫn là một nhà triết học và nhà văn hoá của dân tộc Đức, không tham gia vào chính trường. Thậm chí, ngay cả khi cuộc cách mạng tư sản Đức nổ ra (1848), ông vẫn đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị. L.Phoiơbắc còn từ chối cả việc tham gia vào tổ chức của bộ máy nhà nước ở địa phương nơi ông sinh sống.

Với tư cách một nhà triết học, L.Phoiơbắc đã có công lao to lớn và quan trọng trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật theo chiều hướng tiến bộ, “đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua" như Ph.Ăngghen đã nhận xét, đồng thời giải phóng các nhà triết học đương thời khỏi chủ nghĩa duy tâm của Hêgen, trong đó có cả C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuy nhiên, để đạt đến điều này, sự nhận thức, tư tưởng triết học của L.Phoiơbắc đã phải trải qua một quá trình tiến hoá đầy khó khăn, phức tạp. Khi học thần học, tư tưởng triết học đầu tiên của ông là Thượng đế sáng tạo ra tất cả thế giới, sáng tạo ra muôn loài, trong đó có cả con người, nhưng ông đã nhanh chóng nhận ra sự nhầm lẫn của mình. Tư tưởng triết học thứ hai của ông là Lý tríhay "Ý niệm tuyệt đối" trong triết học của Hêgen khi ông là học trò của Hêgen. Tuy lúc đầu, L.Phoiơbắc rất say mê triết học Hêgen, nhưng sau đó, vì không thể nào chấp nhận được tính chất quá trừu tượng của hệ thống triết học nổi tiếng này, ông đã phê phán gay gắt và đoạn tuyệt luôn với nó. Sự say mê nghiên cứu khoa học tự nhiên, tìm hiểu bản chất của thế giới hiện thực đã giúp L.Phoiơbắc có đủ cơ sở khoa học và bản lĩnh để từ bỏ triết học duy tâm của người thầy vĩ đại Hêgen, khám phá ra một con đường đi mới cho riêng mình - đó là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Con người là tư tưởng triết học thứ ba và cũng là cuối cùng còn sống mãi trong triết học L.Phoiơbắc, làm nên nét đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt nhà triết học duy vật L.Phoiơbắc với tất cả những nhà duy vật trước đó. Trong chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc, không chỉ có giới tự nhiên tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, ý chí của con người mà lần đầu tiên, còn có cả con người với tư cách một bộ phận, một sản phẩm của quá trình tiến hoá của giới tự nhiên. L.Phoiơbắc đòi hỏi phải cải cách triết học đương thời. Theo ông, triết học mới phải thay thế cho triết học cũ. Sự khác nhau cơ bản, có tính bản chất giữa triết học mới và triết học cũ là ở tính nhân bản - tức là triết học phải lấy Con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Ông viết: "Triết học mới biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách nền tảng của con người thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học và do vậy, nó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học, thành khoa học phổ biến"(3).

Sự khẳng định của L.Phoiơbắc về con người và tự nhiên đều là đối tượng chân chính của triết học duy vật là một bước đột phá mới trong triết học. Con người từ chỗ là sản phẩm siêu nhiên, sản phẩm của Thượng đế đã trở thành sản phẩm của tự nhiên, của thế giới hiện thực; nó hiện hữu trong cuộc sống đời thường. Ông viết: "Hãy quan sát tự nhiên đi! Hãy quan sát con người đi! Anh sẽ thấy ở đấy, trước mắt anh những bí mật của triết học"(4). Với quan niệm như vậy về đối tượng của triết học, L.Phoiơbắc đã hướng thẳng vào việc chống lại chủ nghĩa duy tâm của Hêgen, vào cái "Ý niệm tuyệt đối", siêu tự nhiên, siêu nhân loại của nó, đồng thời ông cũng khẳng định tư tưởng nhân bản trong triết học của mình. Thực chất, triết học của L.Phoiơbắc mang đậm tính nhân bản, được coi là chủ nghĩa duy vật nhân bản, nhưng bản thân ông chỉ nhận đó là "Nhân loại học" hay "Học thuyết về con người".

Triết học duy vật của L.Phoiơbắc là sự kế tục và phát triển tư tưởng triết học của các nhà duy vật thế kỷ XVII - XVIII ở Tây Âu. Song, sự khác nhau giữa ông và các bậc tiền bối là ở chỗ, ông đã nhìn thấy được tính chất sinh động, muôn màu, muôn vẻ, đa dạng của thế giới vật chất - giới tự nhiên, đồng thời, ông cũng thừa nhận rằng, con người bằng các giác quan đã nhận thức được thế giới đó.

Tính nhân bản trong triết học L.Phoiơbắc trước hết được thể hiện ở những nguyên lý nhân bản và toàn bộ triết học của ông đã dựa trên những nguyên lý này.

Nguyên lý nhân bản thứ nhất mà ông đưa ra cho triết học của mình là triết học trước hết phải gắn kết bền chặt với khoa học tự nhiên, đặc biệt là các bộ môn của sinh vật học, như cổ sinh học, sinh lý học; các môn địa lý học, địa chất học, v.v., vì đó là những khoa học cho ta cơ sở để hiểu biết đúng đắn về tự nhiên, về con người. Theo L.Phoiơbắc, sự kết hợp giữa triết học và khoa học tự nhiên là sự kết hợp bền vững hơn, sâu sắc hơn và có lợi hơn là sự kết hợp gượng ép đang tồn tại giữa triết học và thần học. Bằng sự kết hợp này, triết học nhân bản mới có thể bảo đảm được tính khoa học, tính chân thật, giản dị và trong sáng của mình.

Nguyên lý nhân bản thứ hai nói về nguồn gốc tự nhiên của con người. L.Phoiơbắc khẳng định, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm của một quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất - điều mà các nhà triết học duy vật trước ông chưa mấy ai nói đến. Với nguyên lý nhân bản này, ông đã chốt lại quan điểm duy vật của mình về con người, chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ, sự gắn bó hữu cơ giữa con người với phần thế giới còn lại. L.Phoiơbắc đã vạch ra sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa duy tâm cũng như của tôn giáo bằng sự khẳng định "tư duy chỉ có thể xuất hiện từ cõi tự nhiên". Sai lầm của quan điểm duy tâm và tôn giáo là sai lầm mang tính chất ý thức hệ, bởi theo ông, tư duy vốn là thuộc tính cơ bản của con người đã bị chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo tách ra khỏi con người để rồi lại biến nó thành một sức mạnh siêu việt, linh thiêng, sáng tạo ra thế giới vật chất, sáng tạo ra thế giới con người, thống trị cả tự nhiên lẫn con người.

Nguyên lý nhân bản thứ ba và cũng là nguyên lý quan trọng nhất của triết học Phoiơbắc: con người là trung tâmcùng với giới tự nhiên, con người cũng là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chủ nghĩa duy vật. Theo ông, con người là một sinh vật có hình thể vật chất ở trong không - thời gian và chỉ có như vậy, con người mới có năng lực quan sát và suy nghĩ, nghĩa là có khả năng nhận thức thế giới. Con người có đầy đủ các giác quan để nhận thức thế giới xung quanh mình.

Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, L.Phoiơbắc đã đứng hẳn trên lập trường của chủ nghĩa duy vật. Ông khẳng định rằng, quan hệ thật sự của tư duy đối với tồn tại là: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính(5). Sự thừa nhận tư duy là thuộc tính cơ bản của con người của L.Phoiơbắc, một mặt, đã chống lại quan niệm coi tư duy như một thực thể độc lập và đối lập với con người của chủ nghĩa duy tâm và nhị nguyên luận; mặt khác, là tiền đề để ông đưa ra nguyên lý nhân bản thứ tư - con người là một chỉnh thể và thống nhất, là sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác hay giữa tinh thần và thể chất. Tính chỉnh thể và sự thống nhất giữa tinh thần và thể chất của con người đã được ông quan niệm như là bản chất tự nhiên vốn có ở mỗi con người. Từ đó, L.Phoiơbắc đi đến khẳng định, bản chất con người là thống nhất, giống nhau và không thay đổi. Ông còn chỉ rõ, chỉ có về mặt lý luận mới có thể hình dung ra sự tách biệt giữa tinh thần và thể chất, còn trong cuộc sống hiện thực, tinh thần và thể chất luôn gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.

Phoiơbắc đã vận dụng những nguyên lý nhân bản đó để xây dựng nên đạo đức học và học thuyết về tôn giáo với những nét đặc trưng sâu sắc và độc đáo, thể hiện rõ ràng lập trường triết học nhân bản của ông.

Về đạo đức học, Phoiơbắc đã chỉ rõ, nguồn gốc hay điều kiện đầu tiên của đạo đức là cảm giác: "Tiếng nói của cảm giác là mệnh lệnh tuyệt đối đầu tiên"(6). Lòng khát khao hạnh phúc là cơ sở cho mọi hành vi của con người, nhưng hành vi đó như thế nào thì lại phụ thuộc vào cảm giác của họ. Nhờ có cảm giác, con người nhận biết được tốt, xấu, hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và đau khổ, vinh và nhục, v.v., từ đó mà quyết định hành vi của mình. Hơn nữa, L.Phoiơbắc còn khẳng định, ở đâu không có cảm giác, thì ở đó không có đạo đức.
L.Phoiơbắc đã xây dựng đạo đức học của mình dựa trên hai quy tắc cơ bản: một là, để đạt đến hạnh phúc, con người phải biết hạn chế những nhu cầu của mình một cách hợp lý; và hai là, phải có tình yêu trong mối quan hệ giữa người và người.

Về quy tắc thứ nhất, theo L.Phoiơbắc, con người luôn có khát vọng vươn tới hạnh phúc, song lòng khát khao hạnh phúc của mỗi người không phải lúc nào cũng có thể thực hiện một cách vô điều kiện, mà luôn phải chịu hai sự uốn nắn. Sự uốn nắn thứ nhất là do hậu quả tự nhiên của hành vi của người đó. Bởi lẽ, ở mỗi con người đều có những giới hạn nhất định về mặt sức lực, về tài năng và trí tuệ, và như L.Phoiơbắc đã viết, "sau trác táng thì đến chán chường, sau thói quen chơi bời quá độ thì đến bệnh tật". Như vậy, sự uốn nắn thứ nhất này hoàn toàn là do những yếu tố thuần tuý tự nhiên, sinh học quy định; nó có thể không giống nhau ở những người khác nhau. Sự uốn nắn thứ hai là do hậu quả xã hội của những hành vi của người đó. Sống trong xã hội, con người có nhiều mối quan hệ với những người khác, mà tất cả mọi người ai cũng có lòng khát khao đạt đến hạnh phúc. Bởi vậy, nếu một người vì để đạt đến hạnh phúc cho riêng mình đã không tôn trọng hay làm xúc phạm đến hạnh phúc của người khác, thì lập tức họ sẽ bị người khác trả thù, nghĩa là, họ sẽ bị người khác phản kháng lại, thậm chí, hạnh phúc của họ còn bị phá hoại. Từ đó, L.Phoiơbắc đã rút ra kết luận hết sức sâu sắc rằng, nếu chúng ta muốn thoả mãn lòng mong muốn hạnh phúc của bản thân thì cần phải biết đánh giá đúng hậu quả của hành vi mà mình làm, nghĩa là, phải biết tự hạn chế nhu cầu của mình một cách hợp lý, phải tuân theo hai uốn nắn tự nhiên và xã hội; đồng thời phải biết tôn trọng những người khác cũng có quyền bình đẳng với chúng ta trong việc mưu cầu hạnh phúc. Đó mới là con người có đạo đức.

Quy tắc thứ hai trong đạo đức học của ông là đạo đức phải dựa trên cơ sở tình yêu giữa người và người. L.Phoiơbắc coi tình yêu như bản chất của con người, như mục đích của cuộc sống, thậm chí ông còn quy tình yêu thành lực lượng quyết định sự tiến bộ của xã hội nói chung, của đạo đức nói riêng. Ông đã tuyên truyền cho một "tình yêu phổ biến" mà nhờ nó, có thể giải quyết được mọi mối bất hoà giữa người và người và do đó, cũng có thể giải quyết được mọi mâu thuẫn, dù là mâu thuẫn đối kháng trong xã hội.

L.Phoiơbắc không thừa nhận có đạo đức cá nhân. Theo ông, đạo đức cá nhân, thứ đạo đức chỉ thực hiện riêng cho một người, là hoàn toàn bịa đặt. Ở đâu mà ngoài cái "Tôi" ra không có cái "Anh", không có người khác, thì ở đấy không thể nói đến đạo đức. Đạo đức chân chính không hề chỉ biết đến hạnh phúc của mình mà không đếm xỉa đến hạnh phúc của người khác, không biết và không muốn có hạnh phúc riêng biệt nào tách rời và không phụ thuộc vào hạnh phúc của người khác... Đạo đức chân chính chỉ biết thứ hạnh phúc chung, có tính chất tập thể(7).

Xuất phát từ đạo đức "nhân loại học", L.Phoiơbắc coi sự bất công, bất bình đẳng xã hội chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên đi chệch khỏi bản chất chân thật của con người. Điều này, theo ông, có thể khắc phục được bằng cách giáo dục hay bằng cách thấm nhuần "tôn giáo mới" - Tình yêu giữa "Tôi" với "Anh". Ông hy vọng rằng, nhờ thứ "đạo đức tình yêu" đó mà con người có thể giải quyết được những sự bất hoà và bất công trong xã hội.

Đạo đức học của L.Phoiơbắc rất trừu tượng. Nó hoàn toàn tách khỏi đời sống xã hội, khỏi quá trình lịch sử. Bởi lẽ, con người chỉ là một sinh vật, nó có bản chất tự nhiên giống nhau và không thay đổi trước những biến cố của lịch sử xã hội. Đúng như Ph.Ăngghen đã nhận xét, đạo đức học của L.Phoiơbắc “được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể áp dụng được ở đâu cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó cũng bất lực như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Cantơ vậy"(8).

Tính nhân bản trong triết học L.Phoiơbắc còn được thể hiện sâu sắc ở học thuyết về tôn giáo. Để xây dựng học thuyết về tôn giáo, trước hết, L.Phoiơbắc đã tiến hành phê phán tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm của Hêgen nói riêng, chủ nghĩa duy tâm nói chung. Ông vạch ra mối quan hệ thân thiết và đồng hành giữa chủ nghĩa duy tâm của Hêgen với tôn giáo (Thiên Chúa giáo). L.Phoiơbắc phủ nhận sự tồn tại bẩm sinh của những tình cảm tôn giáo trong con người; ông vạch rõ nguồn gốc, bản chất của tôn giáo, sự phát triển của tôn giáo đi từ những biểu tượng vật chất tự nhiên - (Ngẫu tượng giáo) có tính chất khu vực đến những biểu tượng tinh thần, phổ biến trong phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới. Nhìn chung, sự phê phán tôn giáo của L.Phoiơbắc đã vượt hẳn lên so với tất cả những nhà triết học trước ông ở chỗ, ông đã bám sát lấy con người, coi con người là trung tâm, là chủ thể sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo làm ra con người. Chính vì vậy mà L.Phoiơbắc chủ trương thủ tiêu hết mọi tôn giáo có thần, có Thượng đế, thiết lập nên một thứ tôn giáo mới - tôn giáo không có Thượng đế, mà "Người là Thần đối với người". Về điều này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Bản thân triết học cũng phải hoà vào tôn giáo"(9).

Trong học thuyết về tôn giáo của mình, L.Phoiơbắc cũng nói nhiều về tình yêu giữa người và người. Mối quan hệ thân thiết, tình yêu thương giữa người và người đã được L.Phoiơbắc tôn phong thành một tôn giáo, thậm chí cả khi đó chỉ là mối quan hệ giữa hai người với nhau. Đối với ông, tôn giáo là sự thể hiện căn bản nhất cái bản chất tình cảm yêu thương chân thực của con người. L.Phoiơbắc đặc biệt đề cao tình yêu nam - nữ, coi đó là một trong những hình thức cao nhất trong việc thực hiện tôn giáo mới của ông. "Theo học thuyết của Phoiơbắc, tôn giáo là mối quan hệ thương yêu giữa người với người; mối quan hệ này, cho đến nay, vẫn đi tìm chân lý của nó ở sự phản ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự trung gian của một ông thần hay nhiều ông thần, tức là những hình ảnh huyền ảo của các thuộc tính của con người - nhưng ngày nay đã tìm thấy chân lý ấy, một cách trực tiếp không cần có trung gian, trong tình thương yêu giữa "Tôi" và "Anh". Chính vì thế mà theo Phoiơbắc thì cuối cùng tình yêu nam nữ là một trong những hình thức cao nhất, nếu không phải là hình thức cao nhất, của việc thực hành tôn giáo mới của ông”(10).

Đạo đức và tôn giáo trong triết học duy vật của L.Phoiơbắc là đạo đức và tôn giáo trần gian, biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa người và người đang sống trong hiện thực. Con người với cái tinh tuý nhất và cũng là đặc trưng cơ bản nhất là tình cảm, là tình yêu thương, là cái trục xuyên suốt toàn bộ triết học của ông; nó tạo nên cái bản sắc nhân bản đặc thù phân biệt ông với các bậc tiền bối. Tình yêu của con người đối với con người là đặc trưng, là điểm mạnh của triết học Phoiơbắc. Tuy nhiên, sự tuyệt đối hoá tình yêu đến mức thần thánh hoá nó, coi nó như một phương thuốc bách bệnh, có thể chữa lành tất cả mọi bệnh tật trong xã hội, dù đó là xã hội nào, thì lại là một điểm yếu, một hạn chế của ông. Ph.Ăngghen đã nhận xét và đánh giá: "Nhưng tình yêu! Vâng, đối với Phoiơbắc, thì tình yêu, ở đâu và bao giờ cũng là một ông thần có lắm phép lạ có thể giúp người ta vượt qua mọi khó khăn của đời sống thực tiễn và điều đó đã diễn ra trong một xã hội chia thành những giai cấp có lợi ích đối lập hẳn với nhau! Do đó, những vết tích cuối cùng có tính chất cách mạng trong triết học của ông đều biến mất hết, và chỉ còn lại cái điệp khúc cũ kỹ: Hãy yêu nhau đi, hãy ôm nhau đi, không cần phân biệt nam nữ và đẳng cấp - Thật là giấc mơ thiên hạ thuận hoà"(11).

Tính nhân bản - hạt nhân hợp lý và quý giá nhất mãi mãi là một đặc điểm lớn nhất, quan trọng nhất của triết học nhân bản Phoiơbắc, nó đã đưa lại cho L.Phoiơbắc một vị trí đặc biệt trong hàng ngũ các nhà triết học duy vật trước Mác. Và, chính nó cũng là một trong những tiền đề quan trọng để C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người và con đường giải phóng con người.


(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.412.
(2) L.Phoiơbắc. Tuyển tập các tác phẩm triết học, gồm 2 tập, t.II. Mátxcơva, 1955, tr.730.
(3) L.Phoiơbắc. Sđd., t.I, tr.202.
(4) L.Phoiơbắc. Sđd., t.I, tr.129.
(5) Xem: L.Phoiơbắc. Sđd., tr.128.
(6) L.Phoiơbắc. Sđd., tr.636.
(7) Xem: L.Phoiơbắc. Sđd., tr.621.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.425.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.416.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.416.
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.425.

Nguồn Phạm Thị Ngọc Trầm Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học trong khoa học tự nhiên và môi trường, Viện Triết học.
 
Quan điểm của L.Phoiơbắc về văn hóa và con người

L.Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Theo ông, ý chí, tư duy và cảm xúc là những năng lực cơ bản được chế định bởi chính bản chất của con người. Nguyên lý nhân bản được L.Phoiơbắc vận dụng vào học thuyết luân lý của mình. L.Phoiơbắc đã mở cửa cho tình yêu, cho cái thiện đi vào suy tư của ông về văn hoá và con người. Mặc dù còn có một số hạn chế, song khi xem xét con người và văn hoá dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp thực sự cho việc phát triển triết học văn hoá.

Phoiơbắc (1804 – 1872) - đại biểu cuối cùng của một trào lưu triết học đặc sắc, người đã viết chương cuối hùng tráng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao hưởng “triết học cổ điển Đức”. Chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc là chủ nghĩa nhân bản. Với một tên gọi như thế, vấn đề văn hoá và con người nằm trong trường suy ngẫm của ông là một điều dĩ nhiên.
Cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mô hình cổ điển về văn hoá dựa trên ba nguyên lý cơ bản: nhân văn, duy lý và lịch sử đã được hình thành trong triết học cổ điển phương Tây. Mô hình này đã phát triển theo hai đường hướng lý giải chủ yếu: cách lý giải theo chủ nghĩa tự nhiên thông qua các nhà Khai sáng Pháp và cách lý giải theo chủ nghĩa duy tâm thông qua hai đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức - I.Cantơ và G.V.Ph.Hêghen. Để mô hình cổ điển về văn hoá tiếp tục phát triển, nó cần phải được lý giải trên mảnh đất của chủ nghĩa duy vật và người thực hiện trọng trách đó chính là L.Phoiơbắc.

L.Phoiơbắc bắt đầu học tập và nghiên cứu triết học với tư cách là học trò của Hêghen. Trong hai năm, ông đã nghe những bài giảng của Hêghen ở Béclin với lòng nhiệt thành và sự chăm chú. Được đào luyện trong hệ thống triết học tư biện của Hêghen, những năm đầu trong sự nghiệp của mình, L.Phoiơbắc trở thành nhà triết học duy tâm là một điều dĩ nhiên. Nhưng chính nhờ được tôi luyện trong cái “lò bát quái” tư biện ấy, L.Phoiơbắc đã nhìn thấy những mâu thuẫn, những nghịch lý trong hệ thống triết học của Hêghen. Tuy nhiên, việc đoạn tuyệt với triết học duy tâm ấy cũng là một quá trình. Ông viết: “Hêghen đã chuyển những định nghĩa, mà những định nghĩa này trong chính bản thân mình chẳng có chút gì hiện thực cả, thành một cái gì đó độc lập. Sự việc cũng lại như thế với tồn tại ở phần mở đầu của “Khoa học lôgíc”. Có thể hiểu tồn tại theo cách nào khác như tồn tại không hiện thực, tồn tại không có thật? Vậy thì khái niệm tồn tại là gì trong sự khác biệt với khái niệm tồn tại hiện tồn, hiện thực, thật sự? Dĩ nhiên, đó chính là hư vô...”(1). Vấn đề là ở chỗ, với L.Phoiơbắc, tồn tại thống nhất với cái mang sự tồn tại, không thể có khả năng cái này tách biệt khỏi cái kia. Sêlinh cũng đã đưa ra những luận chứng tương tự để chống lại Hêghen, nhưng rồi chính ông lại bị vướng mắc và lúng túng trong vấn đề này. Kết cục, cả hai đường hướng của chủ nghĩa duy tâm Đức - Sêlinh và Hêghen đều cùng phạm một sai lầm: không thừa nhận tồn tại và không biết đến tồn tại thực sự. Vượt ra khỏi những cái bóng của cả Sêlinh lẫn Hêghen, L.Phoiơbắc đã xây dựng một chủ nghĩa duy vật mới – chủ nghĩa duy vật nhân bản.

Trong Những trích đoạn đặc trưng cho tiểu sử triết học của tôi, L.Phoiơbắc tuyên bố rằng, “Phương pháp của tôi nằm ở chỗ (…) đưa tất cả những cái siêu tự nhiên về với tự nhiên nhờ có con người và đưa tất cả những cái siêu nhân về với con người nhờ có tự nhiên, nhưng thường xuyên chỉ dựa vào những sự kiện lịch sử, kinh nghiệm, trực quan và những ví dụ”(2). Trecnưsepxki cũng đã từng trình bày phương pháp duy vật nhất nguyên của mình một cách tương tự như vậy khi cho rằng, nguyên tắc nhân bản chính là việc nhìn nhận con người như một thực thể thống nhất, chỉ có một bản tính chứ không phải phân chia cuộc sống con người thành hai nửa thuộc về những bản tính khác nhau. Theo sự giải thích của L.Phoiơbắc, con người là một sinh vật có hình thể, vật chất, ở trong không gian và thời gian và chỉ như vậy, nó mới có năng lực quan sát và suy nghĩ. Chủ nghĩa duy tâm đem tách cái sinh vật nguyên vẹn ấy ra làm đôi, tạo nên sự xung đột giữa linh hồn với thể xác hoặc đem đồng nhất bản chất con người với tư duy, với ý thức. Triết học nhân bản khẳng định bản chất con người là một cái gì thống nhất. Vậy, theo L.Phoiơbắc, bản chất con người là gì?

Trong chương mở đầu cuốn Bản chất đạo Thiên Chúa giáo – tác phẩm chủ yếu của L.Phoiơbắc, ông đã bàn về bản chất chung của con người. Trước những câu hỏi: bản chất con người là gì? Đâu là những dấu hiệu người thực sự trong mỗi con người?… L.Phoiơbắc đã trả lời rằng, đó chính là lý trí, ý chí và trái tim. Ông khẳng định: “Con người hoàn thiện có sức mạnh của tư duy, sức mạnh của ý chí và sức mạnh của tình cảm. Sức mạnh của tư duy là ánh sáng của sự nhận thức, sức mạnh của ý chí – năng lực của tính cách, sức mạnh của tình cảm – tình yêu. Lý trí, tình yêu và sức mạnh của ý chí - đó là những hoàn thiện. Bản chất tuyệt đối và cao quý của con người như nó vốn có và là mục đích cho sự tồn tại của nó nằm ở trong ý chí, tư duy và cảm xúc. Con người tồn tại để nhận thức, yêu thương và ham muốn. Nhưng mục đích của lý trí là như thế nào? – Lý trí. Của tình yêu? – Tình yêu. Của ý chí? – Tự do ý chí. Chúng ta nhận thức để nhận thức, yêu thương để yêu thương, mong muốn để ham muốn, nghĩa là tự do. Thực thể chân chính là thực thể biết tư duy, biết yêu thương và biết hy vọng nhờ ý chí. Cái hoàn thiện thực sự, thần thánh thực sự chỉ là cái tồn tại vì chính bản thân mình. Tình yêu, lý trí và ý chí là những cái như thế. “Ba ngôi” thần thánh được biểu hiện trong con người và thậm chí ở trên những con người cá nhân trong sự thống nhất của lý trí, tình yêu và ý chí”(3).

Thực ra, mong muốn xem xét và nhìn nhận những nét đặc trưng cơ bản của con người hay các năng lực chủ yếu của nó trong sự thống nhất và hài hòa cũng không phải là vấn đề mới trong lịch sử triết học và văn hoá. Các nhà triết học thời đại Phục hưng đã có ý định xây dựng một học thuyết nhất nguyên về con người và cho rằng, các giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong hoạt động của con người không tách rời nhau và về thực chất, chúng chỉ là một. Tuy nhiên, ngay sau đó, các nhà triết học tư sản đã xa rời lý tưởng Phục hưng về con người. Trong các học thuyết của họ, con người được hình dung và xem xét chỉ ở những nét đặc trưng riêng biệt này hay nét đặc trưng riêng biệt khác. Không phải ngẫu nhiên mà từ hướng tiếp cận đó đã xuất hiện một loạt các chủ nghĩa khác nhau, như chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, ý chí luận, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa phi lý...

Vượt ra khỏi sự hạn chế của tư duy siêu hình, mong muốn dung hoà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý trong một học thuyết, I.Cantơ đã xây dựng một hệ thống triết học độc đáo. Con người cùng với những năng lực của nó, hay nói rộng hơn là cùng với trường văn hoá của nó, trở thành đối tượng suy ngẫm của I.Cantơ. Trong triết học tiên nghiệm của ông, ba năng lực cơ bản của con người có sự liên kết hữu cơ với nhau. Bộ ba tác phẩm phê phán của ông chính là sự phản tư văn hoá của nhân loại theo ba véctơ định hướng Chân, Thiện, Mỹ. Chính vì thế mà hiện nay, không ít nhà triết học đã cho rằng, I.Cantơ là người đầu tiên đặt nền móng cho triết học văn hoá.

L.Phoiơbắc không chỉ muốn học hỏi cách tiếp cận độc đáo của I.Cantơ, mà còn muốn phát triển đường hướng đó. Quan điểm của L.Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu của triết học trước Mác. Nhận xét về công lao của L.Phoiơbắc trong việc nghiên cứu vấn đề con người, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, L.Phoiơbắc đã làm cho chủ nghĩa duy vật được đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Nhà triết học duy vật Đức vĩ đại này đã xây dựng quan điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Hơn ai hết, ông hiểu rõ tính phiến diện, tính hạn chế của hàng loạt các chủ nghĩa khác nhau, như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý. Những công trình về lịch sử triết học được ông viết từ năm 1833 tới năm 1838 đã minh chứng điều đó. L.Phoiơbắc đã phê phán triết học phi lý của Sôphenhaoơ - người đã tuyên bố rằng ý chí “là khởi nguyên tuyệt đối của mọi tồn tại”.

Trong việc xác định và làm sáng tỏ mối quan hệ tương hỗ giữa các năng lực bản chất của con người, L.Phoiơbắc đã sử dụng phép biện chứng với tư cách là công cụ nhận thức và khám phá bản chất của hiện tượng. Đối với L.Phoiơbắc, ý chí, tư duy và cảm xúc không chỉ là những năng lực cơ bản của con người, mà còn là những sức mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con người, là mục tiêu và phương tiện tồn tại của con người: “Chúng là những thành tố cơ bản luận chứng cho bản chất của con người... Đó là những sức mạnh sống động, quyết định và thống trị, đó là những sức mạnh thần thánh, tuyệt đối mà con người không thể nào phản kháng được”(4). Việc nhìn nhận bản chất con người trong sự thống nhất biện chứng của ý chí, tư duy và cảm xúc đã cho phép L.Phoiơbắc đi sâu nghiên cứu, phân tích chi tiết từng năng lực người riêng biệt với tư cách là những thành tố cơ bản của văn hoá qua lý luận nhận thức, đạo đức học và mỹ học của ông.

Tiếp tục truyền thống của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII, L.Phoiơbắc đã có nhiều cống hiến cho lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy cảm. Theo ông, thế giới này là hiện thực được tri giác nhờ cảm giác và chỉ nhờ vào tri giác cảm tính, chúng ta mới có khả năng nhận thức thế giới. L.Phoiơbắc kiên quyết phủ nhận sự tồn tại của các khách thể mà không thể nào được tri giác cảm tính. Theo bản chất của mình, tri giác cảm tính là trực tiếp nhưng cũng có thể là gián tiếp, nghĩa là nó đem lại sự minh chứng gián tiếp về cái mà ta không thể nhìn, không thể nghe và không thể sờ mó được.

L.Phoiơbắc đã nhấn mạnh rằng, thế giới khách quan được chủ thể nhận thức thông qua các cơ quan cảm giác của con người. Theo ngôn ngữ của ông, điều đó có nghĩa là toàn bộ tự nhiên được nhận thức thông qua sự nhận thức bản tính của con người. Nguyên tắc nhân bản của L.Phoiơbắc trong lý luận nhận thức được thể hiện ở chỗ, ông đã lý giải khái niệm “khách thể” theo cách mới. Theo L.Phoiơbắc, khái niệm khách thể thoạt tiên được hình thành trong kinh nghiệm giao tiếp của con người, bởi thế khách thể đầu tiên đối với một người bất kỳ nào đó chính là một người khác. Tình yêu đối với người khác là con đường dẫn tới sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của người đó, hơn nữa đó còn là con đường dẫn tới sự tồn tại các vật ở bên ngoài nói chung. Trong một đường hướng suy tư như vậy, sẽ không có gì lạ khi L.Phoiơbắc tuyên bố rằng, hình thức cao nhất của nhận thức là hành động tình dục. Tình yêu giữa “Anh” và “Em” là sự nhận thức cảm tính mà ở đó, “những cái hoàn toàn không đến với từng người đơn độc lại có khả năng đối với cả hai ta”(5). Với những luận điểm ấy, L.Phoiơbắc đã thể hiện sự quan tâm đến cảm giác của con người. Theo ông, cảm giác của con người khác hẳn về chất so với cảm giác của các con vật. Nó vượt xa khỏi những giới hạn sinh lý trực tiếp của con người và mang ý nghĩa tinh thần, đặc biệt là ý nghĩa thẩm mỹ. Tuy một vài giác quan ở động vật nhạy bén hơn so với giác quan của con người, nhưng điều đó không mâu thuẫn với luận điểm về tính phổ quát của sự khác biệt về chất của các giác quan ở con người, bởi lẽ những giác quan ấy ở động vật đã bị chuyên môn hoá rất hẹp; trong khi đó, những giác quan của con người đã vươn tới hành vi tinh thần. Ở đây, L.Phoiơbắc đã phần nào nhìn thấy sự hình thành và phát triển của chủ thể trong chính quá trình hoạt động của nó. Nói theo ngôn ngữ của triết học văn hoá, ông đã nhìn thấy quá trình giải đối tượng hoá, quá trình văn hoá hoá các giác quan của con người. Chính vì thế mà L.Phoiơbắc thấy sẽ là không đúng và không đầy đủ khi cho rằng, nguyên nhân khác biệt của các giác quan con người so với các giác quan của động vật chỉ là ở tư duy. Không, nếu như con người không khác biệt với động vật ở trong cảm giác thì nó cũng sẽ chẳng khác biệt với động vật ở trong tư duy. “Cảm giác ở con vật là cảm giác của con vật, cảm giác ở con người là cảm giác của con người”(6). Theo L.Phoiơbắc, sự phong phú về tình cảm của những cảm xúc người, tài ăn nói hùng biện và hào hoa của nó đã trở thành thước đo tin cậy về tính đúng đắn của tri thức. Vì vậy, cảm xúc với tình yêu là những tiêu chuẩn của tồn tại. Trong nhận thức luận của L.Phoiơbắc, cảm xúc với tình yêu đã có những màu sắc mới. Cảm xúc là ý nghĩa của kinh nghiệm sống còn tình yêu là tổng thể các hành vi đảm bảo cho con người giao tiếp tích cực và thống nhất với tự nhiên(7).

L.Phoiơbắc không chỉ tuyên bố, mà còn vận dụng nguyên lý nhân bản vào học thuyết luân lý của mình. Ông cho rằng, sự khát khao hạnh phúc nằm trong cơ sở hành động của con người. Con người ai cũng đều mong muốn điều thiện và tránh cái ác. Cái thiện dấy lên trong chúng ta cảm xúc thoả mãn, vui mừng và hứng khởi, còn cái ác làm dấy lên những cảm giác đau đớn, khiếm khuyết, mất mát và tiêu vong. Do vậy, theo L.Phoiơbắc, cảm giác là điều kiện đầu tiên của luân lý. Ở đâu không có cảm giác thì ở đó không có sự khác biệt giữa hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và buồn rầu, thiện và ác, nghĩa là không có luân lý. L.Phoiơbắc cho rằng, các nhà triết học Đức, đặc biệt là I.Cantơ đã hoài công khi cố tách luân lý ra khỏi niềm khao khát hạnh phúc của con người, loại trừ ra khỏi nó những cái không thể nào tách biệt khỏi con người. L.Phoiơbắc đã đặt luân lý dựa vào sự mong muốn của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình trong việc đạt tới hạnh phúc đối lập với thứ luân lý cấm dục, khổ hạnh, giả dối của tôn giáo. Phải chăng đó là thứ luân lý “ích kỷ”? L.Phoiơbắc trả lời rằng, “dĩ nhiên, nhưng đó cũng là luân lý giản dị, chân thành, thẳng thắn và chính trực, luân lý mang tính nhân bản thâm nhập sâu vào máu thịt của con người, mà không phải thứ luân lý thần thánh, giả dối và hoang tưởng”(8).

Việc chứng minh luân lý cần phải được xây dựng trong sự mong muốn thoả mãn những nhu cầu của con người đã giúp L.Phoiơbắc thoát khỏi chủ nghĩa ích kỷ, thô tục. Ông nhấn mạnh rằng, từ “ích kỷ” được ông sử dụng không theo những ý nghĩa thông thường mà theo ý nghĩa của một nguyên lý triết học. Theo ông, luân lý chân chính không có nghĩa là sự hạnh phúc và sung sướng xa cách, biệt lập và không phụ thuộc vào những người khác. Nhưng, làm thế nào để đạt tới sự hài hoà các quyền lợi và nhu cầu của mọi người, làm thế nào để tạo sự hài hoà giữa bổn phận và hạnh phúc thì L.Phoiơbắc vẫn chưa trả lời được rõ ràng. Quả thực, ngay trong xã hội mà L.Phoiơbắc từng sống, sự phân hoá, bất bình đẳng, những điều kiện sống không có nhân tính... đã và vẫn tồn tại. Tin tưởng vào nguyên lý nhân bản của mình, L.Phoiơbắc cho rằng, tất cả những điều đó chỉ là những sai lạc ngẫu nhiên khỏi bản chất chân chính của con người, mà không phải là những hiện tượng mang tính quy luật. Nền luân lý đã được kiến tạo theo bản chất của con người, theo tình yêu của con người nhất định đúng, cần phải đúng và luôn luôn đúng. Ông tin tưởng một cách ngây thơ rằng, nhờ sự chỉ dẫn của một nền luân lý tình yêu ấy, tất cả những tội lỗi và sự độc ác trong đời sống xã hội sẽ bị hạn chế và triệt tiêu. Tình yêu - đó là phương thuốc vạn năng, kỳ diệu mà L.Phoiơbắc hy vọng có thể giải quyết mọi khó khăn trong đời sống hiện thực của con người và ông kêu gọi mọi người hãy yêu nhau đi, hãy yêu tất cả mọi người không phân biệt giới tính và danh vọng. Nhưng, trong sự ngây thơ ấy, chúng ta lại thấy có một cái gì đó tinh khiết, trong sáng của một chủ nghĩa nhân đạo cao cả. L.Phoiơbắc đã mở cửa để cho tình yêu cùng với cái thiện đi vào những suy ngẫm của ông về văn hoá và con người. Tình yêu đã trở thành một thước đo độc đáo trong trường văn hoá.

L.Phoiơbắc không dành hẳn một công trình chuyên biệt nào để trình bày các quan điểm thẩm mỹ, nhưng điều đó không có nghĩa là ông không nhìn thấy ý nghĩa to lớn của lĩnh vực này. Ông khẳng định: “Con người – kẻ thuộc về thế giới thẩm mỹ hay thế giới lý luận suy tư như thế, bởi vì sự cảm nhận lý luận trước tiên là cái thẩm mỹ, mỹ học là triết học đầu tiên. Con người suy tư, đồng nhất khái niệm của thế giới với khái niệm của vũ trụ, của cái đẹp”(9). Tính độc đáo và độ sâu trong các quan điểm thẩm mỹ của L.Phoiơbắc là điều không thể nghi ngờ. Những kiến giải của ông về sáng tạo nghệ thuật dù được trình bày tản mạn trong các công trình khác nhau, nhưng chúng đều khẳng định một tư tưởng rất rõ ràng: nghệ thuật – một lĩnh vực của những cảm xúc cao cả. Ông viết: “Con người khác hẳn với động vật hoàn toàn không chỉ bởi mỗi tư duy... Con người không có khứu giác của loài chó săn, khứu giác của con quạ; nhưng chính bởi vì thế mà khứu giác của con người được mở rộng với tất cả các loại mùi, nó tự do hơn, nó dửng dưng hơn với các mùi chuyên biệt. Ở đâu cảm giác vượt được qua các giới hạn chuyên biệt nào đó, vượt được qua sự lệ thuộc của mình vào nhu cầu, ở đó cảm giác đạt tới ý nghĩa lý luận độc lập”(10). Nghệ thuật được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác phổ quát và đã được phát triển cao của con người.

Việc đánh giá như vậy về cảm giác, nhận thức cảm tính và sự chiêm nghiệm thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của L.Phoiơbắc trong việc xác định đối tượng của việc khai hoá hiện thực bằng con đường thẩm mỹ. Đó là cách tiếp cận duy vật với nghệ thuật. Nếu như tính cảm giác của con người là một mắt xích trực tiếp giữa tự nhiên và con người thì đối với L.Phoiơbắc, trong mức độ lớn, bản chất đối tượng được đồng nhất với khách thể của cảm giác người. Ánh sáng là khách thể của thị giác, nghĩa là tồn tại một sự tương quan giữa khách thể được tri giác bởi các cảm giác người và tính cảm giác để tri giác khách thể này. Chính vì thế mà chủ thể, với các cảm giác của mình, không chỉ bao trùm các hiện tượng của thế giới bên ngoài, mà còn tự phản ánh mình ở trong các đối tượng đã được bao trùm bởi chủ thể. Theo L.Phoiơbắc, điều đó hoàn toàn đúng cả trong việc khai thác hiện thực bằng con đường thẩm mỹ, khi mà các cảm giác người và lý trí được thể hiện một cách toàn bộ và bị phân hoá trong mối liên hệ tương hỗ. Việc sáng tạo nghệ thuật cũng như sự cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi một sự phát triển nhất định của chủ thể. Chỉ nhờ vào sự phát triển của cảm xúc thẩm mỹ và tri giác thẩm mỹ, người nghệ sỹ mới có thể thấu hiểu “chân lý của cái cảm tính” như là cái đẹp và thể hiện “cái Tôi bên trong”, những tư tưởng, những tình cảm của mình trong các tác phẩm nghệ thuật.
Theo bản chất tộc loại của mình, con người tự do không chỉ ở trong tư duy, khát vọng, mong muốn, mà cả ở trong cảm xúc. Nhờ vậy, con người có khả năng giữ được một vị thế thuần tuý tinh thần, độc lập với các lợi ích cụ thể hàng ngày trong mối quan hệ với các hiện tượng của thế giới vật thể. Nói cách khác, con người có thể chiêm ngưỡng cái đẹp. Tính phổ quát của con người được thể hiện chính trong sự chiêm ngưỡng ấy. Những suy ngẫm ấy của L.Phoiơbắc đã đem lại giá trị lớn lao cho sự phát triển của đường hướng mỹ học duy vật. Không phải ngẫu nhiên mà sự hình thành những tư tưởng thẩm mỹ của C.Mác thời trẻ đã gắn bó chặt chẽ với những suy ngẫm trên của L.Phoiơbắc.
Xem xét con người và văn hoá dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp thực sự trong việc phát triển triết học văn hoá. Đối với ông, văn hoá trước tiên là những năng lực, những phẩm chất phát triển bản chất con người thông qua lý trí, cảm xúc và ý chí. Tiếp bước mô hình của I.Cantơ, ông đã khảo sát những phẩm chất người ấy trong các lĩnh vực nhận thức luận, đạo đức học và mỹ học để làm sáng tỏ mối liên kết của các véctơ chân, thiện, mỹ trong trường văn hoá của tộc loại người. Tuy nhiên, L.Phoiơbắc cũng không tránh khỏi một số hạn chế nhất định; chẳng hạn, sau khi phê phán và loại bỏ quan điểm duy tâm trong việc lý giải văn hoá và con người cũng như việc thực thể hoá lý trí của Hêghen, L.Phoiơbắc lại đi thực thể hoá cảm xúc trong triết học văn hoá của ông. Những hạn chế ấy của L.Phoiơbắc sau này được C.Mác, Ph.Ăngghen khắc phục và vượt qua.


(1) L.Phoiơbắc. Tuyển tập các tác phẩm triết học, gồm 2 tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Mátxcơva, 1955, tr.70 (tiếng Nga).
(2) L.Phoiơbắc. Sđd., tr.129.
(3) L.Phoiơbắc. Sđd., t.2, tr.32.
(4) L.Phoiơbắc. Sđd., t.2, tr.32.
(5) L.Phoiơbắc. Sđd., t.1, tr.149.
(6) L.Phoiơbắc. Sđd., tr.231.
(7) L.Phoiơbắc. Sđd., t.1, tr.184.
(8) L.Phoiơbắc. Sđd., t.1, tr.624.
(9) L.Phoiơbắc. Sđd., t.2, tr.144.
(10) L.Phoiơbắc. Sđd., t.1, tr.200 – 201.

Nguyễn Huy Hoàng Tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học văn hoá, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top