Triết học Mac-Lenin, ví dụ về tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Mọi người trong nhóm giúp em với ạ em muốn tìm ví dụ về sự tác động của kiến trúc thượng tầng tới cơ sở hạ tầng ở nước ta ạ
 
Mọi người trong nhóm giúp em với ạ em muốn tìm ví dụ về sự tác động của kiến trúc thượng tầng tới cơ sở hạ tầng ở nước ta ạ
Ok bạn. Khi về nhà bật máy tính sẽ giúp bạn.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).

Các ví dụ điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.

Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv
 
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).

Các ví dụ điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.

Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv
 
Kiến trúc thượng tầng là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầngkiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầngkiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầngkiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầngcơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).
Đây là lí luận.

Các ví dụ điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.

Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv
Đây là các ví dụ minh hoạ em nhé.
 
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).

Các ví dụ điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.

Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv
Đây là lí luận.


Đây là các ví dụ minh hoạ em nhé.
em cảm ơn tài liệu bổ ích của anh ạ
 
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Kiến trúc thượng tầng là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu.

Kiến trúc thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.

Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ sản xuất thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước khác nhau.

Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó tác động ngược chiều với quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.

Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

Đảng chủ trương tập chung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: ”Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên truyền giáo dục và công cụ khác” ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7).

Các ví dụ điều hành của Đảng, nhà nước Việt Nam là ví dụ minh hoạ rõ nét cho sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.

Cụ thể hơn, trong phòng chống dịch CoVid19, Nhà nước đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội để phòng ngừa.

Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv
này là anh tóm tắt lại ạ, vậy em xin phép để đưa vào bài thuyết trinh của em nha, em xin cảm ơn ạ
 
Phân tích ví dụ thực tiễn để thấy được sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
 
1.Vì sao sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
2.Tha hóa ở con người theo quan điểm của triết học Mác – Lenin là gì? Làm gì để khác phục tha hóa ở con người?
giúp em với mn
 
1.Vì sao sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã chỉ ra rằng: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên."

Vậy tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được thể hiện thông qua các khía cạnh nào?

Mục lục bài viết

1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là gì?
2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?

1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là gì?

Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.

Theo đó, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để xhỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Cụ thể các mặt cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội được hiểu như sau:

+ Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.

+ Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội với nhau.

+ Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ xã hội đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.

Như vậy, các mặt của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.


2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?

Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên."

Theo đó, tính chất lịch sử, tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.

Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.

Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.

Dưới sự tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Có thể nói, sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung nhất của nhân loại.

Song tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế,... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Tổng hợp
 
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Mục lục bài viết

1. Hình thái kinh tế – xã hội là gì ?
2. Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
3. Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội
4. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
5. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội


1. Hình thái kinh tế – xã hội là gì ?

Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh tế – xã hội. Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Hình thái kinh tế – xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.

Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.

Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.


2. Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên

Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với quá trình đó là lịch sử của các hình thái kinh tế – xã hội theo những quy luật, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Mác khẳng định rằng “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.

Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ tác động qua lại của các nhân tố này thể hiện sự tác động của các quy luật chung vào trong các giai đoạn của sự phát triển của lịch sử làm cho các hình thái kinh tế – xã hội phát triển như một tiến trình lịch sử tự nhiên.

Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất. Do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.

Trong hệ thống các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Mặt khác, sự tác động đến quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên còn thể hiện sự tác động trực tiếp, quan trọng của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, v.v…

Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến quá trình thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau trong sự phát triển của lịch sử. Trong đó điều kiện của môi trường địa lý, tính độc đáo của các nền văn hóa, của truyền thống, tư tưởng, tâm lý xã hội và vấn đề dân tộc v.v… đều có ý nghĩa quan trọng nhất định. Tính chất của tác động lẫn nhau giữa các dân tộc tồn tại ở các giai đoạn khác nhau đều phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội. Để xác định tính đặc trưng và phân biệt sự khác nhau giữa các giai đoạn, phù hợp với khuynh hướng chủ đạo đó, người ta dùng khái niệm thời đại.


3. Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội

Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một cách khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.

Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào nước ta có lúc đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ những thành phần kinh tế tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp v.v…

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới và từ đó đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực và đạt được nhiều kết quả to lớn nhất định.

+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhưng có sự quản lý của nhà nước và kinh tế quốc doanh luôn giữ vai trò chủ đạo.

+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, v.v…

+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới của văn minh nhân loại. Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo của mọi con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh


4. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.

Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.

Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.

Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”1.

Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử.

Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.


5. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.

Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.

Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Sưu tầm, tổng hợp
 
2.Tha hóa ở con người theo quan điểm của triết học Mác – Lenin là gì? Làm gì để khác phục tha hóa ở con người?
Từ cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa đến các hiện tượng tha hóa ở Việt Nam hiện nay

C.Mác đã đưa ra cách tiếp cận duy vật lịch sử về bản chất của tha hóa: tha hóa là một hiện tượng xã hội, xuất phát từ con người, từ xã hội loài người; là lao động bị tha hóa; dẫn đến hệ quả - con người mất dần tính loài; con người đã trở thành không phải chính mình, quay trở lại chi phối, nô dịch con người và xã hội loài người.

Từ cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa, tác giả cho rằng, ở Việt Nam hiện nay, tha hóa là một hiện tượng xã hội khá phổ biến, đang tồn tại ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể: tha hóa về hành vi sản xuất (tức hình thái lao động) và sản phẩm lao động; tha hóa về các quan hệ xã hội; tha hóa các hệ giá trị xã hội; quyền lực bị tha hóa; tha hóa về hành vi tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo. 1. Khi bắt đầu sự nghiệp triết học của mình, C.Mác đã chịu ảnh hưởng rất lớn của triết học Hêghen. Cũng giống như các môn đệ khác của phái Hêghen trẻ, C.Mác bắt đầu nghiên cứu về phạm trù tha hóa - một phạm trù triết học nổi bật nhất, trung tâm nhất của triết học Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, C.Mác phát hiện ra rằng, xuất phát điểm của phạm trù tha hóa của Hêghen có cái gì đó không ổn, không hợp lý. Đó chính là việc xuất phát điểm ấy được xây dựng và vận động trên nền tảng ý thức.“Sự tha hóa của tự ý thức là cái sinh ra tính vật thể...,- C.Mác viết, - trong sự tha hóa ấy, tự ý thức giả định mình là vật thểhoặc giả định vật thể là chính mình. Mặt khác, quá trình đó đồng thời còn bao gồm một nhân tố khác, tức là tự ý thức đồng thời lại tước bỏ sự tha hóa và tính vật thể đó của mình và thu hút chúng trở về với bản thân... Đấy là vận động của ý thức”(1).

C.Mác cho rằng: tha hóa là một hiện thực có thật, một hiện trạng thực tế trong xã hội và có cơ sở kinh tế của nó. “Chúng tôi đã xuất phát từ một sự kiện kinh tế - sự tha hóa của công nhân và của sản phẩm của công nhân. Chúng tôi đã nêu lên khái niệm của cái thực tế này: lao động bị tha hóa. Chúng tôi đã phân tích khái niệm đó. Như thế là đã phân tích một sự kiện của kinh tế”(2). Và cũng theo C.Mác, để giải thích, nghiên cứu về tha hóa thì: “Không thể lại dùng những khái niệm khác, không thể lại dùng “tự ý thức”, hoặc những cái nhảm nhí tương tự như thế được, mà phải xuất phát từ toàn bộ phương thức sản xuất và giao tiếp hiện đang tồn tại, phương thức sản xuất và giao tiếp này không phụ thuộc vào khái niệm thuần túy, cũng như việc phát minh ra máy dệt tự động và việc sử dụng đường sắt không phụ thuộc vào triết học Hêghen”(3).

Như vậy, cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa được dựa trên nền tảng hiện thực, nói cách khác quan niệm duy vật lịch sử về tha hóađã được tuân thủ và áp dụng triệt để.

Vậy, cách tiếp cận để nghiên cứu tha hóa hiện thực haythực chất của sự tha hóađược C.Mác trình bày như thế nào? Có thể chỉ ra thực chất của sự tha hóa theo quan niệm của C.Mác như sau:

Một là, tha hóa là quá trình con người đã trở thành không phải chính mình.

Điều này được thể hiện trong việc C.Mác vạch ra và lý giải, do nhiều nguyên nhân khác nhau và trong những điều kiện xác định, quá trình tha hóa ở con người với tư cách là những cá nhân trong xã hội đã diễn ra như một quá trình. “Việc quan hệ cá nhân chuyển biến thành mặt đối lập của nó, - C.Mác viết -, tức là thành quan hệ thuần túy khách thể, việc cá nhân tự mình phân biệt cá tính và tính ngẫu nhiên, như chúng tôi đã chỉ rõ, là một quá trình lịch sử và mang những hình thức khác nhau, ngày càng gay gắt và phổ biến ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Trong thời đại hiện nay, sự thống trị của những quan hệ khách thể đối với cá nhân, sự khống chế của tính ngẫu nhiên đối với cá tính đã mang một hình thức gay gắt nhất, phổ biến nhất, do vậy đã đặt ra trước những cá nhân đang tồn tại một nhiệm vụ hoàn toàn rõ ràng. Sự thống trị đó đã đặt ra trước họ nhiệm vụ sau đây: xác lập sự thống trị của cá nhân đối với tính ngẫu nhiên và những quan hệ để thay thế cho sự thống trị của những quan hệ và của tính ngẫu nhiên đối với cá nhân”(4). Khi phê phán Pruđông về vấn đề này, C.Mác phân tích rõ hơn: “Pruđông chưa thể diễn đạt tư tưởng ấy của mình một cách thích đáng. “Chiếm hữu bình đẳng” là quan niệm kinh tế chính trị, do đó vẫn còn là biểu hiện tha hóa của một sự thực là: vật thể, với tư cách là sự tồn tại vì con người, với tư cách là sự tồn tại vật thể của con ngườithì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người thì đồng thời cũng là sự tồn tại hiện có của con người vì người khác, là quan hệ người của anh ta đối với người khác, là quan hệ xã hội của người đối với người”(5).

Hai là, tha hóa là một hiện tượng xã hội: Hêghen cho rằng tha hóa là một thuộc tính phổ biến, một quá trình phổ biến của cả tự nhiên, xã hội vàtư duy. Vớicác nhà lý luận tôn giáo, tha hóa là một quan hệ thuần túy mang tính tư tưởng. Ở Pruđông, tha hóa chỉ đơn giản là một phạm trù thuần túy “kinh tế chính trị” (lý thuyết thuần túy). Ở Phoiơbắc, tha hóa chính là quá trình hòa tan bản chất con người vào bản chất tôn giáo (chính xác hơn là Cơ đốc hóa bản chất con người). Còn với C.Mác, tha hóa chỉ là một loại quan hệ xã hội, tha hóa chỉ tồn tại ở con người và xã hội loài người. Nói cách khác,nội dung của phạm trù tha hóa chỉ phản ánh và thể hiện những cái, những hiện tượng, những quá trình có liên quan đến con người và xã hội loài người.

Tha hóa với tư cách là quan hệ xã hội là “quan hệ kép”. Một mặt, đó là quan hệ của người lao động với chính lao động của anh ta và mặt khác, là quan hệ của hành vi lao động với sản phẩm lao động của anh ta. C.Mác lý giải: “Chúng ta đã xét một mặt, xét lao động bị tha hóatrong quan hệ của nó với bản thân người công dân, nghĩa là quan hệ của lao động bị tha hóa với bản thân nó. Chúng ta đã tìm thấy quan hệ sở hữu của con người - không - phải - công - nhân với người công nhân và với lao độngvới tính cách là sản phẩm hay kết quả tất nhiên của quan hệ đó. Sở hữu tư nhân, với tính cách là biểu hiện vật chất khái quát của lao động bị tha hóa, bao gồm hai quan hệ: quan hệ của công nhân với lao động, với sản phẩm lao động của mình và với người - không - phải - công - nhân, và quan hệ của người - không - phải - công - nhân với người công nhân và với sản phẩm lao động của người công nhân”(6).

Tư tưởng coi tha hóa là một loại quan hệ xã hội được V.I.Lênin đánh giá rất cao, cho là hết sức đặc sắc và độc đáo:“Vì nó vạch rõ C.Mác đã tiến gần như thế nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ “hệ thống” của ông, sit venia verbo, - tức là tư tưởng về những quan hệ sản xuất xã hội”(7).

Ba là, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, do nhiều nguyên nhân, đã trở thành cái khác xa lạ, đứng lên trên con người và xã hội loài người; quay trở lại chi phối, nô dịch con người và xã hội loài người.

“Sự tha hóa thể hiện ở chỗ, - C.Mác viết -, tư liệu sinh hoạt củatôi thuộc về người khác, ở chỗ đối tượng mong muốn của tôilà vật sở hữu của người khác mà tôi không với tới được, cũng như ở chỗ bản thân mỗi vật hóa ra là một cái khácvới bản thân nó, ở chỗ hoạt động của tôi hóa ra là một cái khácnào đó và cuối cùng - điều này cũng đúng cả đối với nhà tư sản, - lực lượng không phải ngườinói chung thống trị tất cả”(8).

Như vậy, tha hóa chính là cái xuất phát từ con người, từ xã hội loài người, song trong những điều kiện và hoàn cảnh bất thuận đã trở thành cái xa lạ, quay trở lại chi phối, thống trị con người và xã hội loài người. Rõ ràng, cách hiểu của C.Mác về tha hóa khác về chấtso với cách hiểu của những nhà lý luận tôn giáokhác nhưPhoiơbắc, Pruđông và kể cả Hêghen, mặc dù trong giai đoạn đầu của sự nghiệp triết học, C.Mác đã một vàilần sử dụng thuật ngữ “vật hóa” -thuật ngữ mà Hêghen thường dùng để luận giải về tha hóa.

(còn nữa)
 
Bốn là, lao động tha hóa.Đây là nội dung cơ bản nhất, xuyên suốt nhất, bao trùm nhất trong toàn bộ lý luận của C.Mác về tha hóa.

Thực ra, tha hóa lao động là hiện tượngxuất hiệntừ lâu trước khi có chủ nghĩa tư bản. Nó là hiện tượng gắn với những xã hội mà ở đó con người đã sản xuất ra những điều kiện sống chủ yếucho xã hội, song lại được hưởng quá ít từ những điều kiện sống do chính mình sản xuất rađó. “Tính tha hóa và tính độc lập, - C.Mác viết, mà trong đó mối liên hệ ấy còn tồn tại đối với các cá nhân, chỉ chứng minh rằng con người vẫn đang trong quá trình tạo ra những điều kiện cho đời sống xã hội của mình, chứ chưa sống đời sống xã hội, xuất phát từ những điều kiện ấy”(9).

Song, theo C.Mác, chỉ đến chủ nghĩa tư bản, thì tha hóa lao động ở con người và xã hội loài người mới trở nên phổ biến nhất, rõ ràng nhất và có những biểu hiện đầy đủ nhất. C.Mác đã chỉ ra: “Trong mâu thuẫn đó, khoa kinh tế chính trị chỉ nói lên cái thực chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, hay nếu ta muốn, chỉ nói lên cái thực chất của lao động làm thuê, của lao động bị tha hóa khỏi bản thân, mà của cải được sản xuất ra lại đối lập với nó như là của cải của người khác, sức sản xuất của bản thân nó lại đối lập với nó như là sức sản xuất của sản phẩm của nó, việc làm giàu của nó đối lập với nó như là việc tự làm cho mình trở nên nghèo khổ, lực lượng xã hội của nó đối lập với nó như một quyền lực xã hội thống trị nó”(10). Và trong chủ nghĩa tư bản, không chỉ sản phẩm lao động bị tha hóa là tất yếu mà chính hành vi (hình thái) lao động bị tha hóa cũng là tất yếu: “Những hình thái xã hội của lao động của bản thân người công nhân,- C.Mác viết,- hay là những hình thái của lao động xã hội của bản thân họ, - là những quan hệ được hình thành một cách hoàn toàn độc lập đối với công nhân, nếu lấy tách riêng từng người ra; những người công nhân phụ thuộc vào tư bản trở thành những yếu tố của những cơ cấu xã hội đó, những cơ cấu xã hội đó lại không thuộc về công nhân. Vì vậy, những cơ cấu ấy đối lập với công nhân như là những phương thứcdo chính tư bản sử dụng, như là những sự kết hợp cấu thành cái thuộc tính của tư bản (khác với sức lao động của mỗi người công nhân đứng tách riêng ra), phát sinh từ tư bản và được gộp vào thành phần của tư bản”(11).

Cũng theo C.Mác, sự tha hóa sản phẩm lao động và sự tha hóa hình thái lao động có mối quan hệ nhân quả: tha hóa hình thái lao động là nguyên nhân, tha hóa sản phẩm lao động là kết quả, là hệ quả tất yếu của tha hóa hành vi sản xuất. C.Mác phân tích: “Cho đến nay, chúng ta xét sự tha hóa của công nhân chỉ về một phương diện, cụ thể là phương diện quan hệ của anh ta với sản phẩm lao động của anh ta. Nhưng sự tha hóa xuất hiện không chỉ trong kết quả cuối cùng của sản xuất mà cả trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất. Người công nhân có thể đứng đối lập với sản phẩm của hoạt động của anh ta như một cái gì đó xa lạ hay không, nếu trong chính ngay hành vi sản xuất, anh ta không tha hóa khỏi bản thân anh ta? Trên thực tế, sản phẩm chỉ là kết quả của hoạt động, của sản xuất. Vậy, nếu sản phẩm của lao động là sự tha hóa thì bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành động, là sự tha hóa của hoạt động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa của đối tượng lao động chỉ là kết quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động của bản thân lao động”(12).

Năm là, hệ quả của sự tha hóa lao động - con người mất dần tính loài

Phân tích và lý giải về quá trình lao động bị tha hóa trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã rút ra kết luận:

“Vậy, sự tha hóa của lao động dẫn tới những kết quả như sau:

+ Bản chất có tính loài của con người, - giới tự nhiên (cơ thể con người) cũng như tài sản tinh thần có tính loài của con người, - bị biến thành một bản chất xa lạvới con người, thành phương tiệnduy trìsự tồn tại cá nhâncủa con người. Lao động bị tha hóa làm cho thân thể của bản thân con người, cũng như giới tự nhiên ở bên ngoài con người, cũng như bản chất tinh thần của con người, bản chất nhân loạicủa con người, trở thành xa lạ với con người.

+ Kết quả trực tiếp của việc con người bị tha hóa với sản phẩm lao động của mình, với hoạt động sống của mình, với bản chất có tính loài của mình, là sự tha hóa của con người với con người. Khi con người đối lập với bản thân mình thì con người khác đối lập với nó...

Nói chung, luận điểm cho rằng bản chất có tính loài của con người bị tha hóa với con người, có nghĩa là một người này bị tha hóa với người khác và từng người trong số họ bị tha hóa với bản chất người”(13).

C.Mác giải thích thêm, trong quá trình tồn tại và sinh sống gắn với cải biến thế giới vật chất, con người là “một sinh vật có ý thức, nghĩa là đời sống của bản thân con người là một đối tượng đối với con người, chính chỉ vì con người là một sinh vật có tính loài. Chỉ vì thế mà hoạt động của con người là hoạt động tự do. Lao động bị tha hóa đảo ngược quan hệ đó khiến cho con người chính vì là một sinh vật có ý thức, chỉ biến hoạt động sinh sống của mình, bản chất của mình thành phương tiện để duy trì sự tồn tạicủa mình mà thôi”(14).

Như vậy, con người vốn có bản chất loài (bản chất xã hội), song đã bị cá biệt hóadần trong quá trình tha hóa, dẫn đếnhệ quả tất yếu là bản chất loài mất dần di, triệt tiêu dần đi. Con người chỉ còn là những cá nhân, những cá thể riêng lẻ, đơn độc, tất yếu mất dần tính loài, tính người.

2.Từ cách tiếp cận của C.Mác về tha hóa và căn cứ vào tình hình thực tiễn củanước tahiện nay, có thể nói tha hóa ở Việt Nam là một hiện tượng xã hội khá phổ biến, xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tha hóa về hành vi sản xuất (hình thái lao động) và sản phẩm lao động

Hiệnnay, lao động được coi làmột phương tiện kiếm sống, một phương thức bảo đảm nhu cầucuộcsống hàng ngày. Con người thường có xu hướngtìm kiếm những công việc có thu nhập cao, hơn là nhữngviệc làm phù hợp với khả năngvànguyện vọng cá nhân. Do đó,đối với nhiều người, lao động chỉ thuần túy là để thỏa mãn những nhu cầu vật chất khác, chứ chưa chứa đựng nhu cầu được lao động, được cống hiến. Lao động chưa thể trở thành một hoạt động tự do, một niềm vui của con người. Trước mắt, do kinh tế phát triển chưa caonên việc bảo đảm các nhu cầu cơ bản còn gặp nhiều khó khăn, do đó cáccá nhân phải tự mình giải quyết và như vậy,việc các cá nhân phải tự nguyện lao động, mặc dù nó là gánh nặng, là sự bắt buộc để kiếm sống, nghĩa là hành vi sản xuất phải tha hóa là điều dễ hiểu(15).

Bên cạnhnhững tha hóa về hình thái lao động, ở nước ta còn xuất hiệnsự tha hóa về sản phẩm lao động. Nềnkinh tế Việt Namđang vận hành theo những quy luật của sản xuất hàng hóa,mà theo Ph.Ăngghen, sản xuất hàng hóa “cũng như mọi hình thức sản xuất khác, có những quy luật riêng, vốn có của nó và không thể tách rời với nó...Những quy luật ấy biểu hiện ra trong hình thức duy nhất còn sót lại của quan hệ xã hội, tức là trong trao đổi, và chúng tác động đến những người sản xuất riêng lẻ với tư cách là những quy luật cưỡng chế của cạnh tranh. Do đó, bản thân những người sản xuất ấy lúc đầu cũng không biết đến những quy luật ấy mà chỉ qua một kinh nghiệm lâu dài họ mới dần phát hiện ra chúng. Như vậy là những quy luật ấy được thực hiện mà không thông qua những người sản xuất và chống lại những người sản xuất, với tính cách là những quy luật tự nhiên tác động một cách mù quáng của hình thức sản xuất của họ. Sản phẩm thống trị người sản xuất”(16).

Trên thực tế, sản phẩm lao động của con người lẽ ra là niềm tự hào, vui sướngcủa họ, song, do quan hệ trao đổi, buôn bán chi phối, sản phẩm lao động lại trở thành “nỗi lo” vớingười lao động: sản phẩm có bán được không, có trao đổi được không?... Và, ở đây, tính tha hóa của sản phẩm lao động đã được “bộc lộ”.

Thứ hai, tha hóa về các quan hệ xã hội

Ởnước ta hiện nay còn tồn tại tình trạngbất công trong một số lĩnh vực xã hội: thành quả nhận được không tương xứngvới sản phẩm lao động, những người sống vì xã hội, vì công bằng xã hội không đượcđềnđáp một cách xứng đáng. “Chính vì hàng ngày phải va chạm với những hiện tượng ấy, con người (nhất là thanh niên) phải tự đi tìm cho mình thế giới riêng, những lợi ích riêng, không đồng nhất với lợi ích xã hội. Họ sống lo toan về cuộc sống cá nhân, còn xã hội bên ngoài như một cái gì đó xa lạ, chứa đựng những yếu tố bất công mà cá nhân con người bất lực trước những hiện tượng đó. Vì thế con người không còn tính tích cực xã hội, thờ ơ, xa lánh công việc xã hội, lợi ích xã hội. Tính tích cực của con người như người chủ xã hội thực sự, nhất định sẽ dần dần giảm đi bởi sự tích cực không đem lại lợi ích cho họ, và ngược lại sự thờ ơ, xa lánh công việc xã hội, tự lo toan cho bản thân lại thỏa mãn được lợi ích cá nhân. Giữa thế giới cá nhân và thế giới xã hội không còn thống nhất được nữa”(17).

Ngoài ra,chủ nghĩa quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí dần trở nên phổ biến trong xã hội. Nhiều nguyên tắc rường cột để xây dựng nên một thể chếvững mạnh, đóng vai trò điều hành xã hội bị biến dạng, khiếnsức mạnh của thể chế, tổ chức bị yếu đi. Trong một vài trường hợp, nguyên tắc tập trung dân chủ bị thay thế bởitập trung quan liêu, hệ quả là các tổ chức, thể chế đó trở thànhlực lượng xa lạ, tách rời khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân.

Nhiều quan hệ xã hội đã có sự xâm nhập và lũng đoạn của đồng tiền, bị “tiền hóa” vàđược giải quyết thông qua tiền... Thật ra, trong các quan hệ xã hội đócũng ẩn chứa một loại tiền công, thế nhưng tiền công đó “chỉ là hậu quả tất nhiên của sự tha hóa của lao động: vì trong tiền công, lao động biểu hiện ra không phải là mục đích tự nó mà là tôi tớ của tiền công”(18).

Thứ ba, sự tha hóa các hệ giá trị xã hội

Nhiềugiá trị, chuẩn mực xã hội tốt đẹp gắn liền với truyền thống văn hóadân tộc và bản chất của chế độ XHCNnhư: lòng nhân ái, thương yêu con người; tínhphục thiện, trừ ác; tinh thần đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, chống lại cái xấu; đứchy sinh, chia sẻ v.v... đang dần phai nhạt. Sự “lệch chuẩn” này đã đem lại những hệ quả xấu, khó lường; đó là sự suy đồi, tha hóa về đạo đức,lối sống hiệnđang trở thành hiện tượng nhức nhốitrong xã hội. Thực tế hiện nay,“nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(19). Đây là hiện tượng đángbáo động “cấp” trong xã hội hiện nay.

Thứ tư, quyền lực bị tha hóa

Xét về bản chất và nguồn gốc, quyền lực trong xã hội loài người là của người dân, của cộng đồng nhân dân. Trong xã hội nguyên thủy, quyền lực được chia đều và thực hiện bởitất cả mọi người. Nói cách khác, lúc này,quyền lực là tài sản chung của cộng đồng. Khixã hộiphát triển, nhất là khi chế độ tư hữu xuất hiện thì quyền lực của mỗi cá nhân có xu hướng phân ly, thậm chí đối nghịch,triệt tiêu nhau. Từ đây,xã hội có nhu cầu phải liên kết, hợp lực mọi người lại và bộ máy đã xuất hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Bộ máy vốn không có quyền lực, nhưng người dân đã gửi quyền, ủy quyền và trao quyền cho bộ máy, do đótrở thành có quyền lực. Trong quá trình hoạt động, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dần dần những người trong bộ máy đã biến quyền lực được gửi, được ủy quyền thành quyền lực của mình, còn người dân đem quyền đi gửi, đi ủy quyền đã mất dần quyền lực. Từ chỗ là cái vốn có của mình, quyền lực của người dân đã bị những người trong bộ máy tước đoạt, bị tách khỏi người dân và thậm chí còn trở lại thống trị người dân.

Ở Việt Nam, sự tha hóa quyền lực đã trở thành hiện hữu, thậm chí là nguyên nhân chính của tình trạng tham nhũng và sự xuống cấp, tha hóa đạo đức xã hội hiện nay. Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Hoàng: “Mặt trái của cơ chế thị trường có tác động xấu đối với đạo đức xã hội, nhưng nó không phải là thủ phạm chính. Vậy thủ phạm chính ở đâu? Đáng lưu ý nhất là sự tha hóa quyền lực...đó là sự tha hóa của những con người được sử dụng quyền lực, là sự lộng quyền vì lợi ích cá nhân, những người được giao quyền lực không sử dụng đúng mục đích để bảo vệ và phục vụ nhân dân, kiến tạo và quản trị quốc gia phát triển, mà ngược lại coi đó là phương tiện phục vụ mục đích cá nhân, chà đạp công lý, ức hiếp mọi người và gian lận thu vén”(20).

Thứ năm, sự tha hóa về hành vi tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo

Trong thời gian qua, ở Việt Nam, việc thực hiện các hành vi tín ngưỡng, tôn giáo biến tướng, lệch chuẩn đã bùng phát, gây nhiều bức xúc trong đời sống xã hội. Sự phát triển của các tôn giáo, tín ngưỡng diễn ra hết sức phức tạp, xuất hiện hiện tượng sùng bái mù quáng, “vượt ngưỡng” trong hoạt động tâm linh. Các nhà nghiên cứu phương Tây thậm chí phải thốt lênrằng:“Người Việt Nam dường như tắm mình trong không khí tôn giáo. Họ có thể thờ tất cả, tin tất cả, tất cả đều linh thiêng nếu điều họ cầu xin được toại nguyện, tâm linh họ được thoả mãn...”(21). Vềbản chất, tín ngưỡng, đức tin vốn là cái con người dựa vào để vươn lên và được an ủi trong cuộc sống, tuy nhiên trong một số trường hợp, đã trở thành cái chi phối và quyết định tất cả suy nghĩ, hoạt động của con người. Đâylà sự tha hóa trong hành vi tín ngưỡng, tôn giáo, đòi hỏi phải có sự xử lý,chấn chỉnh kịp thời, hợp lý.

Hiện tượng tha hóa trong xã hội Việt Namhiện nay đang là một thách thứclớn cho sự phát triển của đất nước. Đãđến lúc cần có một “cuộc chiến” chống “tha hóa”một cách nghiêm túc, triệt để với quyết tâm chính trị cao,nhằm phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2 -2018
Nguồn: lyluanchinhtri.vn
 
Tha hóa ở con người theo quan điểm của triết học Mác – Lenin là gì?
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top