Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn và sâu sắc trên đất nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn bảy mươi năm qua kể từ khi Đảng ra đời (năm 1930), cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã xoá bỏ chế độ thuộc địa, nửa phong kiến trên đất nước ta, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986 lại đây là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ở mỗi thời kỳ thực hiện những mục tiêu cụ thể, Đảng đã tổng kết những kinh nghiệm có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn cho thời kỳ tiếp theo. Tổng kết suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay có thể nêu lên một số bài học tổng quát.
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta.
Ngay từ Cương lĩnh năm 1930, khi Đảng mới ra đời đã nêu rõ mục tiêu đánh đổ đế quốc và phong kiến "làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập" để "đi tới xã hội cộng sản". Muốn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Trong những năm 1930-1945 mục tiêu hàng đầu là giành độc lập dân tộc và với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nước ta đã thành một nước tự do, độc lập. Nhưng thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam, nhân dân ta phải tiếp tục nhiệm vụ giải phóng dân tộc đến năm 1954 mới giải phóng được nửa nước và đưa miền Bắc quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trên thực tế từ năm 1930 đến năm 1954 cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm mục tiêu trước hết là giành độc lập dân tộc. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa có điều kiện đặt ra một cách trực tiếp, nhưng luôn luôn là phương hướng phải đi tới. Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng ta nhấn mạnh quyết tâm giành lại thống nhất và độc lập hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1954-1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm mục tiêu chung chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành độc lập thống nhất Tổ quốc. Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất là đặc điểm hết sức độc đáo của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và giành được những thành tựu bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sức mạnh của ý chí, tinh thần độc lập dân tộc đồng thời là sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thực hiện đồng thời, có quan hệ mật thiết, quyết định lẫn nhau và tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Sau khi miền Nam được giải phóng (ngày 30-4-1975), đất nước thống nhất, cả nước bước lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta và nhân dân ta không một phút lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc, xác định đây vẫn là nhiệm vụ chiến lược. Là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ nhiệm vụ nặng nề là củng cố nền độc lập mà dân tộc ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được; đồng thời giữ vững mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa. Đổi mới không phải là xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Từ thực tiễn và thắng lợi của công cuộc đổi mới, các Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X đều khẳng định bài học hàng đầu là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta nhận thức rằng, giữ vững độc lập dân tộc là bảo vệ chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí độc lập tự cường, phát huy nội lực xây dựng đất nước giàu mạnh theo con đường đã lựa chọn; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hội nhập quốc tế song không tự đánh mất mình; cảnh giác chống mọi âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sự lựa chọn hình thức, bước đi và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội thích hợp với những đặc điểm dân tộc.
Trong thời đại hiện nay sớm hay muộn các dân tộc đều sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền một cách tất yếu với chủ nghĩa xã hội. Đó là nội dung và xu thế của thời đại đã được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Cách mạng Việt Nam đã và đang phát triển theo xu thế phát triển đó với sự dẫn dắt của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với dân tộc ta sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng ta cho rằng, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học và công nghệ, về lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội - cái mà chúng ta thiếu nhất.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan hệ hữu cơ và quyết định lẫn nhau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta và dân tộc ta.
-Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có quan hệ mật thiết với nhau và là tiếp tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong thời đại mới.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam và trên miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trong khi hướng trọng tâm vào xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, vẫn luôn tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trong công cuộc đổi mới, cùng với nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng được đặt ra rất cao. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc luôn luôn vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong các bài học của sự nghiệp đổi mới là "nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Vì vậy phải thường xuyên đề cao cảnh giác, bảo vệ từng tấc đất biên cương, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân lao động; bảo vệ hệ thống chính trị của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo vệ nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự ổn định chính trị, xã hội và sự phát triển của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và an ninh quốc gia đòi hỏi phải chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao làm lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Cùng với xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh phải xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo vệ cơ sở.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không thể tách rời nhau mà gắn bó, quyết định lẫn nhau. Không xây dựng đất nước mạnh về mọi mặt thì không thể tự bảo vệ có hiệu quả, và nếu không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ mới thì cũng không thể xây dựng và phát triển đất nước. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc; giữa sản xuất và chiến đấu; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa sức mạnh vật chất với sức mạnh chính trị, tinh thần, lòng yêu nước, khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong thời đại mới.
- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh làm chủ đất nước của nhân dân.
Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam tạo nên sức mạnh to lớn trở thành động lực phát triển của dân tộc suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Kế thừa truyền thống của dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài; là nguồn sức mạnh và động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Để tập hợp, đoàn kết toàn dân, Đảng có cương lĩnh cách mạng với những mục tiêu cơ bản là giải phóng dân tộc, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng đất nước từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; ở mỗi thời kỳ của cách mạng Đảng lại đề ra những mục tiêu cụ thể. Những mục tiêu đó phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, của toàn dân tộc.
Ở mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, Đảng đều hết sức coi trọng công tác vận động quần chúng để giác ngộ, tổ chức các tầng lớp nhân dân vào trận tuyến đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng rộng lớn. Để tập hợp, đoàn kết toàn dân, Đảng xây dựng tổ chức các đoàn thể chính trị xã hội và Mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức và tên gọi thích hợp với mục tiêu đấu tranh của từng thời kỳ cụ thể. Hội Phản đế đồng minh (thành lập ngày 18-11-1930) là tổ chức Mặt trận đầu tiên.Mặt trận dân chủ Đông Dương đã tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong những năm 1936-1939 đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hoà bình.Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận Việt Minh) ra đời ngày 19-5-1941 đã đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.Mặt trận Liên Việt (Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam) đã động viên toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Trong những năm 1954-1975, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam vàLiên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam đã tập hợp đoàn kết nhân dân cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Ngày nay, khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, phấn đấu giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là tổ chức và đưa quần chúng nhân dân vào hành động cách mạng một cách tự giác. Khi đã giành được độc lập và có chính quyền thì đó còn là phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân để xây dựng chế độ xã hội mới, cuộc sống mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Bao nhiêu quyền lực là của dân, bao nhiêu lợi ích là vì dân. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhân dân ta làm chủ đất nước, làm chủ về chính trị, làm chủ về kinh tế, làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội. Làm chủ về chính trị là nhân dân tham gia xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo vệ nhà nước và chế độ mới; nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đóng góp trí tuệ xây dựng đường lối, cương lĩnh của Đảng, tham gia góp ý kiến phê bình, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân là điều cơ bản để phát huy quyền làm chủ của dân. Làm chủ về kinh tế là các thành phần kinh tế được phát triển và bình đẳng trước pháp luật, mọi người được làm giàu chính đáng với mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Làm chủ trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nhằm tạo dựng đời sống xã hội văn minh, lành mạnh.
Trong sự nghiệp đổi mới, một bài học thành công của Đảng ta là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta phấn đấu xây dựng có đặc trưng trước hết là do nhân dân lao động làm chủ. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc sức mạnh trong mọi thời kỳ cách mạng và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay.
-Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ngay từ đầu đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Cương lĩnh đầu tiên đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng thế giới. Đảng có mối quan hệ mật thiết với Quốc tế cộng sản, quan hệ ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau với các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Pháp...; phối hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc mà trực tiếp là với các nước Đông Dương. Dân tộc Việt Nam đã đứng về phe Đồng minh chống chủ nghĩa phátxít và Đảng đã tranh thủ được điều kiện thuận lợi khi Liên Xô và các nước Đồng minh chiến thắng phátxít Nhật để đẩy mạnh cao trào cách mạng trong nước, phát động toàn dân đứng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời xây dựng khối đoàn kết nhân dân 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung và hình thành mặt trận quốc tế rộng lớn với sự đoàn kết của các nước Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa khác và của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới trong đó có nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954-1975, với việc tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân ta đã vừa phát huy cao độ ý chí tự lực tự cường và sức mạnh của dân tộc vừa tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế trong đó có cả sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ. Sự đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Một bài học quan trọng của quá trình đổi mới được Đảng ta rút ra là tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phải củng cố vững chắc độc lập dân tộc, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lựa chọn hình thức, bước đi, mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kết hợp nguyên lý chung với những đặc điểm, đặc trưng dân tộc; phải nêu cao hơn nữa ý chí tự lực tự cường, độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực, bản sắc và truyền thống dân tộc. Sức mạnh thời đại đòi hỏi tăng cường đoàn kết hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, với các Đảng Cộng sản và công nhân, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ có hiệu quả các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, mặt tích cực trong xu thế toàn cầu hoá, tranh thủ môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Cách mạng nước ta qua các thời kỳ đã cho thấy đoàn kết quốc tế, nêu cao chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm nhất quán của Đảng ta, cũng là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế luôn luôn là một yếu tố hợp thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Để tăng cường đoàn kết quốc tế, tận dụng và phát huy được sức mạnh của thời đại trước hết phải dựa trên nguyên tác giữ vững độc lập tự chủ và sáng tạo, dựa vào sức mình là chính, không ỷ lại bên ngoài, không rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài. Phải kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, giữ vững bản sắc, truyền thống của dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa trí tuệ, những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của nhân loại. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng mặt trận ngoại giao bao gồm hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, mở rộng quan hệ quốc tế về kinh tế, văn hoá, khoa học, giáo dục v.v. làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam, đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển.
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Suốt hơn bảy mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trước hết là do Đảng nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam để đề ra Cương lĩnh, đường lối thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có lý luận "cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" hoặc giống như "người đi trong đêm tối". Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận, coi trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, coi trọng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để không ngừng phát triển, hoàn chỉnh đường lối. Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến giành độc lập thống nhất hoàn toàn.
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo trước hết bằng đường lối chính trị. Đường lối chính trị đúng đắn phản ánh trình độ trí tuệ, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng, là kết quả của tổng kết thực tiễn, phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn không ngừng phát triển và biến đổi. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, Đảng ta thường xuyên biết tự phê bình và phê bình để kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những biểu hiện chệch hướng "tả", hữu, bảo đảm cho sự thống nhất về quan điểm đường lối, về ý chí và hành động trong toàn Đảng. Bài học lớn là phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí cũng như sự xa rời nguyên tắc và mục tiêu cơ bản đều rất nguy hại cho Đảng, cho cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua vai trò và năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Qua bao kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, sau khi đã có đường lối đúng thì cán bộ quyết định tất cả, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vì vậy, ở mọi thời kỳ cách mạng, Đảng luôn chú trọng xây dựng Đảng về tổ chức, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên cả về trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, cả về đạo đức cách mạng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng. Đảng quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo từ quy trình hoạch định đường lối, chính sách, đến khâu tổ chức và cán bộ, đến quá trình tổ chức thực tiễn, cuối cùng là kiểm tra việc thực hiện đường lối và các nghị quyết của Đảng, bảo đảm cho đường lối, chủ trương được thực hiện có hiệu quả.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một vấn đề cốt tử bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được quyết định trước hết bởi hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bởi nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó. Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân. Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Vấn đề thành phần giai cấp của đảng viên không phải không quan trọng, nhưng bản chất giai cấp công nhân của Đảng được quyết định trước hết bởi hệ tư tưởng và lý tưởng đấu tranh cách mạng của Đảng.
Với bản chất giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam qua lịch sử đấu tranh lâu dài đã và đang kế thừa, phát triển những truyền thống vẻ vang của dân tộc, hình thành những truyền thống quý báu của Đảng. Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ những người cộng sản vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; truyền thống độc lập tự chủ, sáng tạo trong đường lối và phương pháp cách mạng; truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng; truyền thống gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, một lòng vì nước, vì dân; truyền thống quốc tế chủ nghĩa trong sáng v.v..
Hiểu rõ các thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam với những thắng lợi vẻ vang và những kinh nghiệm rất phong phú, sáng tạo của Đảng và nhân dân ta; nhận thức sâu sắc những bài học lớn được Đảng tổng kết từ toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng cùng những giá trị truyền thống của Đảng để vận dụng thích hợp và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới hiện nay - đó chính là yêu cầu và nội dung cơ bản của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
(Nguồn: Báo ĐT ĐCS)
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ở mỗi thời kỳ thực hiện những mục tiêu cụ thể, Đảng đã tổng kết những kinh nghiệm có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn cho thời kỳ tiếp theo. Tổng kết suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay có thể nêu lên một số bài học tổng quát.
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta.
Ngay từ Cương lĩnh năm 1930, khi Đảng mới ra đời đã nêu rõ mục tiêu đánh đổ đế quốc và phong kiến "làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập" để "đi tới xã hội cộng sản". Muốn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành được độc lập dân tộc. Trong những năm 1930-1945 mục tiêu hàng đầu là giành độc lập dân tộc và với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nước ta đã thành một nước tự do, độc lập. Nhưng thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam, nhân dân ta phải tiếp tục nhiệm vụ giải phóng dân tộc đến năm 1954 mới giải phóng được nửa nước và đưa miền Bắc quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trên thực tế từ năm 1930 đến năm 1954 cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm mục tiêu trước hết là giành độc lập dân tộc. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội chưa có điều kiện đặt ra một cách trực tiếp, nhưng luôn luôn là phương hướng phải đi tới. Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng ta nhấn mạnh quyết tâm giành lại thống nhất và độc lập hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1954-1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm mục tiêu chung chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành độc lập thống nhất Tổ quốc. Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất là đặc điểm hết sức độc đáo của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và giành được những thành tựu bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sức mạnh của ý chí, tinh thần độc lập dân tộc đồng thời là sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thực hiện đồng thời, có quan hệ mật thiết, quyết định lẫn nhau và tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Sau khi miền Nam được giải phóng (ngày 30-4-1975), đất nước thống nhất, cả nước bước lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta và nhân dân ta không một phút lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc, xác định đây vẫn là nhiệm vụ chiến lược. Là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta nhận thức rõ nhiệm vụ nặng nề là củng cố nền độc lập mà dân tộc ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được; đồng thời giữ vững mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa. Đổi mới không phải là xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Từ thực tiễn và thắng lợi của công cuộc đổi mới, các Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X đều khẳng định bài học hàng đầu là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta nhận thức rằng, giữ vững độc lập dân tộc là bảo vệ chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí độc lập tự cường, phát huy nội lực xây dựng đất nước giàu mạnh theo con đường đã lựa chọn; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hội nhập quốc tế song không tự đánh mất mình; cảnh giác chống mọi âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sự lựa chọn hình thức, bước đi và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội thích hợp với những đặc điểm dân tộc.
Trong thời đại hiện nay sớm hay muộn các dân tộc đều sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền một cách tất yếu với chủ nghĩa xã hội. Đó là nội dung và xu thế của thời đại đã được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Cách mạng Việt Nam đã và đang phát triển theo xu thế phát triển đó với sự dẫn dắt của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với dân tộc ta sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng ta cho rằng, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học và công nghệ, về lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội - cái mà chúng ta thiếu nhất.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan hệ hữu cơ và quyết định lẫn nhau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta và dân tộc ta.
-Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có quan hệ mật thiết với nhau và là tiếp tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong thời đại mới.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam và trên miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trong khi hướng trọng tâm vào xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, vẫn luôn tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trong công cuộc đổi mới, cùng với nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cũng được đặt ra rất cao. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc luôn luôn vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong các bài học của sự nghiệp đổi mới là "nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Vì vậy phải thường xuyên đề cao cảnh giác, bảo vệ từng tấc đất biên cương, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân lao động; bảo vệ hệ thống chính trị của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo vệ nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự ổn định chính trị, xã hội và sự phát triển của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và an ninh quốc gia đòi hỏi phải chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức chiến đấu cao làm lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Cùng với xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh phải xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu, xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo vệ cơ sở.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không thể tách rời nhau mà gắn bó, quyết định lẫn nhau. Không xây dựng đất nước mạnh về mọi mặt thì không thể tự bảo vệ có hiệu quả, và nếu không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ mới thì cũng không thể xây dựng và phát triển đất nước. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc; giữa sản xuất và chiến đấu; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa sức mạnh vật chất với sức mạnh chính trị, tinh thần, lòng yêu nước, khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước trong thời đại mới.
- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh làm chủ đất nước của nhân dân.
Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam tạo nên sức mạnh to lớn trở thành động lực phát triển của dân tộc suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Kế thừa truyền thống của dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài; là nguồn sức mạnh và động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Để tập hợp, đoàn kết toàn dân, Đảng có cương lĩnh cách mạng với những mục tiêu cơ bản là giải phóng dân tộc, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng đất nước từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; ở mỗi thời kỳ của cách mạng Đảng lại đề ra những mục tiêu cụ thể. Những mục tiêu đó phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, của toàn dân tộc.
Ở mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, Đảng đều hết sức coi trọng công tác vận động quần chúng để giác ngộ, tổ chức các tầng lớp nhân dân vào trận tuyến đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng rộng lớn. Để tập hợp, đoàn kết toàn dân, Đảng xây dựng tổ chức các đoàn thể chính trị xã hội và Mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức và tên gọi thích hợp với mục tiêu đấu tranh của từng thời kỳ cụ thể. Hội Phản đế đồng minh (thành lập ngày 18-11-1930) là tổ chức Mặt trận đầu tiên.Mặt trận dân chủ Đông Dương đã tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong những năm 1936-1939 đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hoà bình.Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận Việt Minh) ra đời ngày 19-5-1941 đã đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.Mặt trận Liên Việt (Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam) đã động viên toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Trong những năm 1954-1975, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam vàLiên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam đã tập hợp đoàn kết nhân dân cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Ngày nay, khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, phấn đấu giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là tổ chức và đưa quần chúng nhân dân vào hành động cách mạng một cách tự giác. Khi đã giành được độc lập và có chính quyền thì đó còn là phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân để xây dựng chế độ xã hội mới, cuộc sống mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Bao nhiêu quyền lực là của dân, bao nhiêu lợi ích là vì dân. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhân dân ta làm chủ đất nước, làm chủ về chính trị, làm chủ về kinh tế, làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội. Làm chủ về chính trị là nhân dân tham gia xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo vệ nhà nước và chế độ mới; nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đóng góp trí tuệ xây dựng đường lối, cương lĩnh của Đảng, tham gia góp ý kiến phê bình, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân và vì dân là điều cơ bản để phát huy quyền làm chủ của dân. Làm chủ về kinh tế là các thành phần kinh tế được phát triển và bình đẳng trước pháp luật, mọi người được làm giàu chính đáng với mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Làm chủ trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nhằm tạo dựng đời sống xã hội văn minh, lành mạnh.
Trong sự nghiệp đổi mới, một bài học thành công của Đảng ta là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức sáng tạo của nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta phấn đấu xây dựng có đặc trưng trước hết là do nhân dân lao động làm chủ. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc sức mạnh trong mọi thời kỳ cách mạng và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay.
-Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ngay từ đầu đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Cương lĩnh đầu tiên đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng thế giới. Đảng có mối quan hệ mật thiết với Quốc tế cộng sản, quan hệ ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau với các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Pháp...; phối hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc mà trực tiếp là với các nước Đông Dương. Dân tộc Việt Nam đã đứng về phe Đồng minh chống chủ nghĩa phátxít và Đảng đã tranh thủ được điều kiện thuận lợi khi Liên Xô và các nước Đồng minh chiến thắng phátxít Nhật để đẩy mạnh cao trào cách mạng trong nước, phát động toàn dân đứng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời xây dựng khối đoàn kết nhân dân 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung và hình thành mặt trận quốc tế rộng lớn với sự đoàn kết của các nước Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa khác và của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới trong đó có nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954-1975, với việc tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân ta đã vừa phát huy cao độ ý chí tự lực tự cường và sức mạnh của dân tộc vừa tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế trong đó có cả sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ. Sự đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Một bài học quan trọng của quá trình đổi mới được Đảng ta rút ra là tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phải củng cố vững chắc độc lập dân tộc, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lựa chọn hình thức, bước đi, mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kết hợp nguyên lý chung với những đặc điểm, đặc trưng dân tộc; phải nêu cao hơn nữa ý chí tự lực tự cường, độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực, bản sắc và truyền thống dân tộc. Sức mạnh thời đại đòi hỏi tăng cường đoàn kết hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, với các Đảng Cộng sản và công nhân, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ có hiệu quả các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, mặt tích cực trong xu thế toàn cầu hoá, tranh thủ môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Cách mạng nước ta qua các thời kỳ đã cho thấy đoàn kết quốc tế, nêu cao chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm nhất quán của Đảng ta, cũng là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế luôn luôn là một yếu tố hợp thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Để tăng cường đoàn kết quốc tế, tận dụng và phát huy được sức mạnh của thời đại trước hết phải dựa trên nguyên tác giữ vững độc lập tự chủ và sáng tạo, dựa vào sức mình là chính, không ỷ lại bên ngoài, không rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài. Phải kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, giữ vững bản sắc, truyền thống của dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa trí tuệ, những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của nhân loại. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng mặt trận ngoại giao bao gồm hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, mở rộng quan hệ quốc tế về kinh tế, văn hoá, khoa học, giáo dục v.v. làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam, đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển.
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Suốt hơn bảy mươi năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trước hết là do Đảng nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam để đề ra Cương lĩnh, đường lối thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có lý luận "cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" hoặc giống như "người đi trong đêm tối". Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận, coi trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, coi trọng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để không ngừng phát triển, hoàn chỉnh đường lối. Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn và sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến giành độc lập thống nhất hoàn toàn.
Vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra đường lối từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo trước hết bằng đường lối chính trị. Đường lối chính trị đúng đắn phản ánh trình độ trí tuệ, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng, là kết quả của tổng kết thực tiễn, phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn không ngừng phát triển và biến đổi. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, Đảng ta thường xuyên biết tự phê bình và phê bình để kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những biểu hiện chệch hướng "tả", hữu, bảo đảm cho sự thống nhất về quan điểm đường lối, về ý chí và hành động trong toàn Đảng. Bài học lớn là phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí cũng như sự xa rời nguyên tắc và mục tiêu cơ bản đều rất nguy hại cho Đảng, cho cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua vai trò và năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên. Qua bao kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, sau khi đã có đường lối đúng thì cán bộ quyết định tất cả, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vì vậy, ở mọi thời kỳ cách mạng, Đảng luôn chú trọng xây dựng Đảng về tổ chức, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên cả về trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, cả về đạo đức cách mạng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng. Đảng quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo từ quy trình hoạch định đường lối, chính sách, đến khâu tổ chức và cán bộ, đến quá trình tổ chức thực tiễn, cuối cùng là kiểm tra việc thực hiện đường lối và các nghị quyết của Đảng, bảo đảm cho đường lối, chủ trương được thực hiện có hiệu quả.
Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một vấn đề cốt tử bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được quyết định trước hết bởi hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bởi nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó. Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân. Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Vấn đề thành phần giai cấp của đảng viên không phải không quan trọng, nhưng bản chất giai cấp công nhân của Đảng được quyết định trước hết bởi hệ tư tưởng và lý tưởng đấu tranh cách mạng của Đảng.
Với bản chất giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam qua lịch sử đấu tranh lâu dài đã và đang kế thừa, phát triển những truyền thống vẻ vang của dân tộc, hình thành những truyền thống quý báu của Đảng. Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ những người cộng sản vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; truyền thống độc lập tự chủ, sáng tạo trong đường lối và phương pháp cách mạng; truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng; truyền thống gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, một lòng vì nước, vì dân; truyền thống quốc tế chủ nghĩa trong sáng v.v..
Hiểu rõ các thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam với những thắng lợi vẻ vang và những kinh nghiệm rất phong phú, sáng tạo của Đảng và nhân dân ta; nhận thức sâu sắc những bài học lớn được Đảng tổng kết từ toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng cùng những giá trị truyền thống của Đảng để vận dụng thích hợp và phát triển hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới hiện nay - đó chính là yêu cầu và nội dung cơ bản của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
(Nguồn: Báo ĐT ĐCS)