Tính thời đại của hình tượng nghệ thuật ngôn từ

Tính thời đại

-Tính thời đại được hiểu là ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì việc sử dụng ngôn ngữ sẽ khác nhau, từ đó tạo nên đặc điểm ngôn ngữ riêng của thời kì đó.

-Giá trị đồng đại và giá trị lịch đại của ngôn ngữ. Các hệ thống tín hiệu nhân tạo chỉ có giá trị đồng đại, tức là được sáng tạo ra để phục vụ nhu cầu nào đó của con người trong một giai đoạn nhất định. Ngôn ngữ vừa có giá trị đồng đại vừa có giá trị lịch đại. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng là sản phẩm của quá khứ để lại. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người cùng thời mà còn là phương tiện giao tiếp và tư duy của những người thuộc các thời đại khác nhau, các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Ví dụ:

+Từ “khốn nạn” ở thời xưa có ý nghĩa là chỉ người khốn khổ. Còn “khốn nạn” ở thời đại bây giờ lại được hiểu là người có phẩm chất không ra gì. Chính vì vậy mà tác phẩm “Những người khốn khổ” của V. Huygo trước đây đã từng được dịch là “ Những người khốn nạn”.

+Từ “chùa chiền”: “chiền” xưa chỉ am, miếu, thờ thần, còn giờ nó chỉ là từ đi kèm, bị mờ nghĩa.

Cùng với sự phát triển của lịch sử, ngôn ngữ dân tộc qua mỗi thời đại cũng phát triển. Với chất liệu chính là ngôn từ, văn học cũng có sự thay đổi về ngôn ngữ.- Trong thời kì phong kiến, khi nước ta chịu ách thống trị của người phương Bắc, ngôn ngữ chữ Hán trở thành ngôn ngữ chính thống. Lẽ tất nhiên, trong các sáng tác văn học các tác giả cũng sử dụng chữ Hán làm chất liệu sáng tác. Bài thơ “ Nam quốc sơn hà” của Lí Thường kiệt – bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta cũng được sáng tác bằng chữ Hán:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư


- bước sang thế kỉ XIII chữ Nôm hình thành, đến thế kỉ XVIII phát triển rực rỡ, trở thành ngôn ngữ được sử dụng nhiều trong các sáng tác văn chương. Nhờ thứ ngôn ngữ này mà các nhà văn, nhà thơ đã sáng tác ra nhiều kiệt tác văn học. Với chữ Nôm, chúng ta có “ bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, và kết tinh đỉnh cao phải kể đến “ Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Phạm quỳnh đã khẳng định rằng: “ Truyện Kiều còn thì nước ta còn”, câu nói này đã khẳng định tầm quan trọng của “ Truyện Kiều”đối với văn học nước ta, đồng thời cũng khẳng định tầm quan trọng của chữ Nôm đối với ngôn ngữ dân tộc lúc bấy giờ.

- sang thế kỉ XIX, chữ cái la-tinh xuất hiện và trở thành chữ quốc ngữ của dân tộc được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay trong đời sống hàng ngày và trong văn học. Với ngôn ngữ chữ cái la-tinh, hệ thống ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ văn học nói riêng đã có được sự diễn đạt tinh tế, phong phú. Các kiệt tác văn học như “ Chí Phèo” của Nam Cao, “ Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh..v..v. đều là những tác phẩm vận dụng ngôn ngữ dân tộc qua hệ thống chữ cái la-tinh.

vnkienthuc.com
 
I. Ngôn từ là chất liệu xây dựng hình tượng văn học
Chất liệu của âm nhạc là âm thanh, chất liệu của hội hoạ là màu sắc, đường nét,…
 Chất liệu của văn học là ngôn từ.
Ngôn từ văn học có thể tồn tại ở nhiêù dạng: lời nói ,câu hát,… Đối với văn học viết, ngôn từ là chữ viết.
Các bộ môn khoa học khác cũng được hình thành từ ngôn từ. Nhưng văn bản ngôn từ chỉ là tác phẩm văn học khi văn bản ngôn từ ấy dùng lời văn với mọi phương tiện biểu hiện của lời nói như: Nghĩa ,vần, nhịp, ngữ điệu, các biện pháp tu từ, … để tạo ra những hình tượng nghệ thuật.

II. Những đặc điểm của ngôn từ văn học:

A. Tính hình tượng:

Là đặc điểm quan trọng nhất của ngôn từ văn học, là khả năng của ngôn từ trong việc tái hiện đời sống, làm cho đời sống con người hiện lên như là sự thật.
Tính hình tượng của ngôn ngữ có thể được thể hịên ở nhiều mặt : “từ hình tượng” (từ tượng hình, tượng thanh; từ miêu tả cảm giác, trạng thái ,… “Phương thức chuyển nghĩa của từ” ( ví von, ẩn dụ, hoán dụ,…)Tuy nhiên, không phải chỉ từ hình tượng mới tạo nên tính hình tượng cho ngôn từ. Có khi trong một văn bản, người viết sử dụng rất ít, thậm chí là không sử dụng từ hình tượng nhưng ngôn từ trong văn bản vẫn rất giàu tính hình tượng.Tính hình tượng của ngôn từ thể hiện chủ yếu ở cách tái hiện đời sống của lời văn.

B. Tính tổ chức:

Ngôn từ văn học mang tính tổ chức cao nhằm tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Tính tổ chức làm cho ngôn từ văn học khác biệt với ngôn từ của các phong cách khác như: ngôn ngữ sinh hoạt, ngôn ngữ đời sống,…
+ Ngôn từ văn học bao giờ cũng có đầu, có cuối , được sắp xếp , tổ chức theo trình tự lớp lang chặt chẽ.Nếu thay đổi trật tự của nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn nội dung của tác phẩm.
Tính tổ chức của ngôn từ văn học nhằm mục đích cao nhất là tạo ra hiệu quả văn học
+Lời văn lời thơ của VBVH được tổ chức bằng phương thức, phương tiện đặc biệt nhằm khắc phục kiểu diễn đạt thông thường của lời nói tự nhiên . Tính tổ chức của ngôn từ văn học có thể theo luật lệ định sẵn (thơ Đường luật ) hoặc dựa vào cá tính sáng tạo của tác giả, miễn là tạo được híệu quả nghệ thuật cao nhất .
+ Ngôn từ văn học đem đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ trước vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật. Lời nói tự nhiên trong giao tiếp hằng ngày không thể đem lại được những điều đó.
 Ngôn từ văn học được tổ chức một cách đặc biệt để cho mỗi từ, mỗi câu đều đóng vai trò khêu gợi một cái gì lớn hơn nó, tràn ra ngoài nó, nhằm tạo dựng một ý lớn ở ngoài lời và hình thành một chỉnh thể hình tượng mới .
Có những chuẩn mực riêng , chịu sự quy định của tính hình tượng và tính tổ chức :
Ngôn ngữ văn học trước hết phải trong sáng và chính xác
+ “Trong sáng” : Ngôn từ văn học phải phù hợp với chuẩn mực của ngôn ngữ toàn dân , được đông đảo nhân dân hiểu và chấp nhận .
+ “Chính xác” : Tính chính xác của ngôn từ văn học được thể hiện ở : Phải dựng lên đúng cảnh , đúng người, đúng tình, đúng ý, làm cho người đọc khống những hiểu được mà còn cảm nhận được điều mà nhà văn muốn điễn tả đôi khi rất tinh tế và mong manh .
Tính chính xác của ngôn từ văn học thể hiện sự phát hiện sâu sắc , im đậm cá tính sáng tạo của nhà văn .
- Ngôn từ văn học phải hàm súc, cô đọng: Nói được nhiều điều nhất bằng số lượng ngôn từ ít nhất. “Ý tại ngôn ngoại” (lời chất ý rộng) ,giàu sức gợi hình, gợi cảm.
C. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ và khả năng diễn tả đặc biệt phong phú của ngôn từ văn học.
- Chúng ta không thể cảm nhận được hình tượng ngôn từ bằng trực giác mà phải nhờ sự liên tưởng , tưởng tượng. Hình tượng ngôn từ có khả năng khêu gợi trí tưởng tượng , óc liên tưởng và đánh thức dậy ấn tượng sâu sắc cho người đọc.Nó không chỉ làm cho người đọc cảm nhận được những cái cụ thể mà còn giúp cảm nhận những gì mong manh nhất, mơ hồ nhất, thậm chí là vô hình.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top