Tính chỉnh thể của tác phẩm văn học

Sự vận động của một nền văn học bao giờ cũng dựa trên bốn yếu tố: thời đại – nhà văn – tác phẩm – người đọc, trong đó, tác phẩm là yếu tố trọng tâm, quan trọng nhất.

Tác phẩm văn học là đơn vị sáng tạo của nhà văn, là đối tượng thưởng thức của người đọc, là kết quả của trình độ ý thức xã hội, ý thức thẩm mĩ thời đại, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học. Bởi vì, mọi quy luật, bản chất, đặc trưng, thuộc tính của văn học đều biểu hiện tập trung ở tác phẩm văn học, dù đó có thể là một thiên sử thi đồ sộ hoặc chỉ là một câu tục ngữ ngắn gọn.

Dế Mèn phiêu lưu kí - Bài học đường đời đầu tiên - Van hoc tre.png

Tồn tại như một thực thể văn hóa - xã hội, tác phẩm văn học là kết tinh của một quan hệ xã hội – thẩm mĩ nhiều mặt đối với đời sống. Tác phẩm văn học phản ánh đời sống tinh thần của con người thông qua các triết lí, các quan điểm đạo đức, chính trị, xã hội... Tác phẩm văn học còn là thước đo về tầm vóc tiếng nói nghệ thuật, chiều sâu phản ánh, trình độ nghệ thuật, tài năng sáng tạo của một tác giả, một dân tộc, một giai đoạn lịch sử. Các mối quan hệ văn học và chính trị, văn học và truyền thống văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật, chính là các bình diện bộc lộ giá trị đích thực của đời sống văn học mà chỉ có nghiên cứu tác phẩm văn học chúng ta mới có những nhận thức đó.

Khi đã ra đời, tác phẩm văn học có một sinh mệnh riêng, tồn tại độc lập, khách quan, vượt ra khỏi những dự tính ban đầu của nhà văn. Cuộc sống của nó có thể rất nhanh chóng rơi vào lãng quên song cũng có thể sống trường tồn cùng nhân loại. Nó có thể tập hợp những người cùng chí hướng, phân hóa những người khác lí tưởng. Nó có thể được tiếp nhận trong sự hồ hởi nồng nhiệt, hoặc trong sự căm phẫn lên án. Tác phẩm văn học do vậy chẳng những là một quan hệ xã hội mà còn là quá trình xã hội, nghĩa là giá trị và ý nghĩa của nó luôn luôn biến đổi trong sự tiếp nhận. Có được những giá trị tập trung như vậy, có được khả năng tác động, ảnh hưởng tới người đọc như vậy, chính vì tác phẩm văn học có một sức sống nội tại, mạnh mẽ, bền bỉ với những phẩm chất đặc biệt, những sức mạnh không ngờ. Khả năng tồn tại như một sinh mệnh sống ấy có được là do bản thân tác phẩm văn học vốn tồn tại như một chỉnh thể.

Tác phẩm văn học mang tính chỉnh thể, nghĩa là có sự thống nhất nội tại như một cơ thể sống. Đặc điểm này làm cho tác phẩm có một sức mạnh hoàn chỉnh, một sức sống độc lập tác động đến người đọc.

Chỉnh thể là một tổng thể gồm các yếu tố có mối liên hệ mật thiết, nội tại, tương đối bền vững, đảm bảo cho sự hoạt động của nó cũng như mối quan hệ với môi trường xung quanh. Chỉnh thể không phải là một tổng cộng giản đơn các yếu tố tạo nên nó. Một đống cát gồm vô số hạt cát rời rạc không phải là một chỉnh thể. Tổng cộng dây cung và cánh cung không làm thành cây cung có thể bắn được tên. Chỉnh thể là sự liên kết siêu tổng cộng để tạo ra nội dung mới, chức năng mới vốn không có trong các yếu tố khi chúng tách ra rời ra. Chẳng hạn câu tục ngữ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là một chỉnh thể, mà trong kết cấu bền vững của nó, mực và đèn, đen và sáng hàm chứa những nội dung và ý nghĩa mà khi đứng tách riêng những chữ ấy không có được. Về nguyên tắc, mọi tác phẩm văn học bất luận lớn hay nhỏ đều là những chỉnh thể .

Tính chỉnh thể sở dĩ quan trọng đối với tác phẩm văn học bởi vì, chỉ trong tính chỉnh thể thì hình thức và nội dung đích thực của tác phẩm mới có ý nghĩa. Chẳng hạn, các chữ trong câu thơ phải được kết hợp với nhau theo một cách nào đó mới tạo ra được hình thức câu thơ lục bát hay câu thơ tự do có nhịp điệu và nhạc điệu riêng, một điều mà các chữ trong dạng tách rời không thể có được . Thí dụ, câu thơ của Thế Lữ có sự ngắt nhịp đột ngột: Trời cao xanh ngắt. Ô kìa, Hai con hạc trắng bay về bồng lai là do tác giả đặt dấu chấm câu giữa dòng thơ. Và chính sự đột ngột của ngắt nhịp ấy, đã diễn tả niềm sửng sốt, sững sờ của con người trước cảnh đẹp thần tiên ấy.

Cũng như vậy, sự liên kết giữa các chi tiết tạo hình, sự kiện theo một cách nào đó mới dựng lên được phong cảnh, chân dung, nhân vật, cốt truyện. Và chính các yếu tố hình thức ấy lại góp phần thể hiện các nội dung cuộc sống và tư tưởng, tình cảm tương ứng. Chỉ có trong chính thể tác phẩm, ta mới bắt gặp một số phận, một tư tưởng, một cảm xúc, một bức tranh đời sống trọn vẹn. Số phận chìm nổi, đầy oan khiên như Thúy Kiều phải là sự tổng hợp của tất cả những gì mà cuộc đời mười lăm năm dằng dặc nàng phải trải qua. Bài ca mùa thu của P. Veclen là sự phối âm của mọi âm thanh, từ tiếng đàn vĩ cầm nức nở, tiếng gió, tiếng chuông, tiếng khóc, tiếng lá rụng... Như vậy, sự thống nhất nội dung và hình thức tác phẩm tạo thành chỉnh thể của tác phẩm.

Theo Trần Đình Sử, nhà nghiên cứu, khi xem xét sự phản ánh của hiện thực của tác phẩm, nếu thoát li tính chỉnh thể, có nguy cơ dẫn đến việc đối chiếu trực tiếp, giản đơn các yếu tố tác phẩm với nguyên mẫu ở ngoài đời xem chúng có giống hay không giống để đánh giá mức độ chân thật. Cách làm đó thường không mang lại kết quả mong muốn. Chẳng hạn, có ý kiến cho chi tiết Tiếng Người thét: Mau lên gươm lắp súng trong bài Hồ Chí Minh của Tố Hữu “không giống” thực và Bác Hồ trong bài Sáng tháng Năm viết sau đó được thể hiện giống hơn: “ Giọng của Người không phải sấm trên cao, Thấm từng tiếng, ấm vào lòng bao mong ước”. Thực ra, ở bài trên, Bác Hồ trong hình tượng người lính già chỉ huy đoàn quân thì thét là giống, còn trong trường hợp dưới, giữa khung cảnh gần gũi thân mật Bàn tay con nắm tay Cha, thì lời Bác nhỏ nhẹ là giống. Cả hai đều phù hợp trong cấu tứ của mỗi bài .

Rõ ràng chỉ có thể dựa vào tính chỉnh thể của tác phẩm mới có cơ sở để đánh giá đúng chân giá trị và phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Dĩ nhiên khi đánh giá một tác phẩm, việc đối chiếu với đời sống có ý nghĩa quan trọng nhưng vấn đề đặt ra là đối chiếu trong chỉnh thể, trong toàn bộ, chứ không phải từng yếu tố cô lập, rời rạc.

Chính vì tính chỉnh thể của tác phẩm văn học có tầm quan trọng như vậy mà từ xưa đến nay, không một trường phái lí luận mĩ học và văn học nào bỏ qua được vấn đề đó. Nhìn chung, mĩ học cổ điển thường xem tính chỉnh thể của tác phẩm văn học, nghệ thuật như là một phẩm chất tự sinh, thể hiện ở tính tổ chức cao, chặt chẽ, tác phẩm ví như cơ thể sống, tự nhiên. Đó là sự ghi nhận đúng nhưng không khỏi có phần lí tưởng hóa và thần bí hóa tính chất chỉnh thể. Arixtốt trong Nghệ thuật thơ ca đã xác định cơ sở của chỉnh thể tác phẩm là sự thống nhất hành động, là sự mô phỏng một hành động thống nhất. Trên cơ sở xem nghệ thuật là sự tự ý thức của một ý niệm tuyệt đối, mà sự tự ý thức ấy chỉ thực hiện trong những cá tính mang nhiệt tình của các lực lượng phổ biến, Hêghen đã xem tính cách là “hình thức chỉnh thể nội tại” của tác phẩm. Biêlinxki khẳng định tư tưởng là yếu tố quyết định của chỉnh thể tác phẩm: “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ, và từ mảnh đất màu mỡ ấy nó triển khai và phát triển thành một hình thức xác định, thành các hình tượng tràn đầy vẻ đẹp và sức sống, và cuối cùng nó là một thế giới hoàn toàn đặc thù, nhất quán...” .

Đề cao vai trò năng động của chủ thể nhà văn trong sáng tác, L. Tônxtôi nhấn mạnh đến thái độ đạo đức độc đáo của tác giả như là yếu tố then chốt của chỉnh thể tác phẩm, quy định sự liên kết mọi yếu tố, chi tiết để tạo thành tác phẩm: “Chất xi măng kết dính tác phẩm nghệ thuật thành một khối và vì vậy mà sản sinh ra ảo giác về sự phản ánh đời sống... là sự thống nhất của một thái độ đạo đức độc đáo của tác giả đối với đối tượng” .

Cũng có ý kiến cho rằng, phong cách và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ là nguồn gốc tạo thành tính chỉnh thể của tác phẩm .
Ngày nay, chỉnh thể tác phẩm được nhận thức qua khái niệm “thế giới nghệ thuật”. Khái niệm thế giới nghệ thuật dùng để chỉ một phạm vi đời sống có trong nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ thuật được coi là một thế giới có không gian, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức riêng, thang bậc giá trị riêng, với các quy luật nghệ thuật đặc thù chi phối. Thế giới ấy có những kiểu người, kiểu sự kiện phù hợp. Thế giới truyện cổ tích là thế giới mà con người, loài vật, cây cối, thần phật... đều nói chung một thứ tiếng người, là thế giới của những điều kì diệu, người hiền gặp lành, kẻ ác bị trừng trị. Mỗi thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm của tác giả về con người và thế giới. Thế giới nghệ thuật trong thơ lãng mạn thường phân cực thành hai thế giới đối lập: Một bên là thế giới đậm sắc hương, hình ảnh lộng lẫy, rực rỡ, còn một bên là thế giới của tối tăm, u sầu, lạnh lẽo. Một bên là thế giới mang tính lí tưởng, cao xa, chứa nhiều khát vọng, còn một bên là thế giới hiện thực tẻ nhạt, tầm thường... Khái niệm thế giới nghệ thuật hướng ta tìm kiếm những quy luật chung, ý tưởng chung chi phối tác phẩm nghệ thuật, mở ra khả năng thống nhất mọi yếu tố tác phẩm, bao quát được tác phẩm như một chỉnh thể toàn vẹn, sinh động, có linh hồn.

Như vậy tính chỉnh thể của tác phẩm cho phép tác phẩm văn học có một sức sống nội tại, đặc biệt, có sức mạnh xã hội, ý thức và văn hóa lâu bền, dù được lưu truyền và tiếp nhận rất đa phương song vẫn giữ được bản sắc và sức mạnh riêng biệt.

Cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm văn học

- Lớp văn bản ngôn từ: Văn bản ngôn từ là chuỗi lời văn thơ được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Lớp này bao gồm mọi thành phần của ngôn từ và lời văn như âm thanh, từ ngữ, câu, đoạn, chương, phần trong truyện; vần, nhịp điệu, câu thơ, khổ thơ trong thơ; màn, lớp, cảnh trong kịch. Đặc điểm của lớp này là trực tiếp chịu sự quy định của quy luật ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, phong cách học, đồng thời lại chịu sự chi phối của quy luật thơ văn, thể loại.
- Lớp hình tượng: Xuyên qua lớp ngôn từ ta bắt gặp các chi tiết tạo hình, ý tượng, biểu tượng, hình ảnh, các tình tiết, sự kiện và từ đó hiện lên các đồ vật, phong cảnh, con người, quan hệ, xã hội, thế giới... Đó là lớp tạo hình và biểu hiện được tổ chức theo nguyên tắc miêu tả, quan sát, kí ức, liên tưởng, biểu hiện. Lớp này thường có các bộ phận chính như nhân vật và hệ thống nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian. Người ta thường gọi lớp này là “bức tranh đời sống”, là “hình thức của bản thân đời sống” của tác phẩm.

- Lớp nội dung: Lớp này nằm ở tầng sâu, đằng sau văn bản và hình tượng. Nó bao gồm các thành phần như đề tài, chủ đề, sự lí giải các hiện tượng đời sống, các cảm hứng đánh giá, cảm xúc, các sắc điệu thẩm mĩ. Đây là cấp độ nội dung chỉnh thể chi phối toàn bộ tác phẩm. Cấp độ này trực tiếp bị chi phối bởi nguyên tắc tạo hình thức của tác phẩm, lập trường tư tưởng tình cảm, vốn sống và các truyền thống văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nhà văn, và trước hết, bị chi phối bởi bản thân hiện thực.

Sự phân chia cấp độ như trên phù hợp với kinh nghiệm của người đọc. Người đọc phải có trình độ văn hóa ngôn từ mới “qua” được cấp độ ngôn từ, lại phải có kinh nghiệm sống, có một mối quan hệ tư tưởng thẩm mĩ tích cực đối với đời sống mới chiếm lĩnh hết cấp độ cuối cùng. Sự phân chia ấy cũng phù hợp với cấu trúc chỉnh thể, bởi tác phẩm văn học là một chỉnh thể bao gồm nhiều cấp độ. Mỗi cấp độ này có quy luật và đặc điểm riêng của nó. Mọi yếu tố nội dung và hình thức đều tồn tại ở từng cấp độ, góp phần tham gia vào việc tạo thành hình thức và nội dung của tác phẩm.

(GT Lí luận văn học - Lê Lưu Oanh)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top